You are on page 1of 3

2.

So sánh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc qua các hội nghi trung
ương
2.2.Về xác định các nhiệm vụ cách mạng
*Hội nghị trung ương tháng 11 năm 1939
Tháng 11/1939, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia
Định), do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
Sau khi phân tích rõ mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất ở Đông Dương lúc này là
mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương, Hội nghị xác định mục tiêu
chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai,
giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
"Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào
khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận
da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập".

Nhằm tập trung mọi lực lượng phục vụ nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến tranh đế
quốc, giành độc lập dân tộc, Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất, thay bằng khẩu hiệu "tịch ký ruộng đất của những địa chủ phản bội
quyền lợi dân tộc".

Lần đầu tiên, Hội nghị làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và
phản phong, xác định rõ nhiệm vụ phản đế là quan trọng, làm rõ thêm tính chất
khăng khít nhưng không tiến hành nhất loạt ngang nhau giữa hai nhiệm vụ đó.

Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công,
nông binh được thay thế bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hoà.

Về phương pháp cách mạng, Hội nghị quyết định chuyển từ đấu tranh đòi quyền
dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay
sai, từ hoạt động hợp pháp nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp
“bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc".

Hội nghị đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, đề ra những nguyên
tắc và biện pháp cụ thể nhằm củng cố Đảng về mọi mặt. Phải thống nhất ý chí và
hành động, phải mật thiết liên lạc với quần chúng, phải có vũ trang lý luận cách
mạng phải lập tức khôi phục hệ thống tổ chức Đảng Trung - Nam - Bắc, phải
khuếch trương và củng cố cơ sở Đảng ở các thành thị, các trung tâm điểm kỹ nghệ
và các hầm mỏ, đồn điền, thực hiện tự phê bình và đấu tranh trên hai mặt trận
chống “tả" khuynh và "hữu” khuynh, đặc biệt chú trọng sự thống nhất ý chí và
hành động trong toàn Đảng.
*Hội nghị trung ương tháng 11 năm 1940

Tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy của Đảng đã họp tại làng Đình
Bảng (Bắc Ninh)

Hội nghị khẳng định: "Tình thế hiện tại không thay đổi gì tính chất cơ bản của
cuộc cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương”, chủ trương chuyển hướng về chỉ
đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 là đúng.
Hội nghị xác định tính chất của cách mạng Đông Dương là cách mạng giải
phóng dân tộc với hai nhiệm vụ phản đế và thổ địa. Cách mạng phản đế và cách
mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau.
Hội nghị chỉ rõ, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là đế quốc Pháp
- Nhật. Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp thiết trước mắt:
 Vấn đề thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những
đội du kích, dùng hình thức vũ trang công tác, xây dựng cơ sở cách
mạng, khi cần thiết thì chiến đấu chống địch khủng bố, tiến tới thành lập
căn cứ du kích, lấy vùng Bắc Sơn, Võ Nhai làm trung tâm, do Trung
ương trực tiếp chỉ đạo. Đồng chí Hoàng Văn Thụ chịu trách nhiệm thực
hiện Nghị quyết này.
 Vấn đề thứ hai, sau khi nghe báo cáo về tình hình Nam Bộ, Hội nghị chỉ
thị cho Xứ uỷ Nam Kỳ đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam Bộ vì chưa
có đủ điều kiện chủ quan và khách quan bảo đảm giành thắng lợi. Đồng
chí Phan Đăng Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng được giao nhiệm vụ
truyền đạt chủ trương này của Trung ương đến Đảng bộ Nam Kỳ.
! [Phương pháp cách mạng được hội nghị đề ra đó là phương pháp khởi nghĩa vũ
trang. Chủ trương đi liền với việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế,
phải tổ chức các đội tự vệ trực tiếp, vũ trang cho quần chúng, tiến lên vũ trang bạo
động]
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời được thành lập gồm các đồng chí Trường
Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu, do đồng chí Trường Chinh làm quyền
Tổng Bí thư. Hội nghị cũng quyết định chắp mối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và
bộ phận của Đảng ở nước ngoài.
*Hội nghị trung ương tháng 5 năm 1941
Hội nghị đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng
của vấn đề dân tộc, nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân, nếu muốn tập hợp
lực lượng toàn dân thì phải giương cao ngọn cờ dân tộc, phải đoàn kết hết sức rộng
rãi “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp, phải đặt dưới sự sinh tử,
tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn
đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập
Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần
chúng yêu nước chống đế quốc trong Mặt trận đều lấy tên là Hội Cứu quốc như
Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội
Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Hội Nhi đồng Cứu vong, Hội Quân
nhân Cứu quốc... Với các dân tộc Lào, Cao Miên, Đảng chủ trương thành lập Mặt
trận ở mỗi nước, tiến tới thành lập một Mặt trận chung Đông Dương.
Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ,
Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia
ruộng đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và
Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức.
Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương
kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến
công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có
thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể
giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt
Nam, Lào, Khơ me, thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ
mật thiết, giúp đỡ nhau giành thắng lợi...
Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo
sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ
và tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng.

2.3.Về xác định lực lượng cách mạng

*Hội nghị trung ương tháng 11 năm 1939

Dựa trên cơ sở liên minh công nông là "hai lực lượng chính của cách mạng" để
đoàn kết tất cả các giai cấp các đảng phái, các dân tộc các phần tử phản đế chĩa
mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu là đế quốc và tay sai của chúng.

*Hội nghị trung ương tháng 11 năm 1940

Chủ lực cách mạng là vô sản giai cấp gồm có vô sản thành thị và thôn quê (trong
đó thợ thuyền kỹ nghệ là lực lượng kiên quyết nhất).

*Hội nghị trung ương tháng 5 năm 1941

  Lực lượng chính là Toàn dân, tập hợp dưới ngọn cờ, đường lối của Ðảng và Mặt
trận Việt Minh; là sức chiến đấu của Ðảng tiền phong trí tuệ, bản lĩnh, trách nhiệm
và giàu kinh nghiệm đấu tranh; là lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang rộng khắp
trong toàn dân, vũ trang toàn dân

You might also like