You are on page 1of 9

1- Nghị quyết Hội nghị BCHTƯ lần thứ 6 (11-1939)….

NHẬN XÉT:
2- Nghị quyết Hội nghị BCHTƯ lần thứ 7 (11-1940)…
NHẬN XÉT:
3- Nghị quyết Hội nghị BCHTƯ lần thứ 8 (5-1941)…
NHẬN XÉT:
TIỂU KẾT (1939-1945):
Khái quát về những chủ trương của Đảng 11/1939, 11/1940, 5/1941….
So với chủ trương của Đảng 1936-1939, những năm 1939-1945, có gì mới, hạn chế
của Đảng đã khắc phục chưa???
.................................................................................................................

1. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (11/1939)
1.1 Nhiệm vụ Cách mạng
Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương
lúc này. Hội nghị nhấn mạnh: “chiến lược các mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải
thay đổi ít nhiều cho phù hợp với tình thế mới”. “Đứng trên lập trường giải phóng dân
tộc, lấy quyền lợi dân tộc tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền
địa cũng phải nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết”
Con đường thực hiện cách mạng rõ ràng hơn: “Cách mệnh tư sản dân quyền còn và phải
biến chuyển qua cách mệnh vô sản. Sự biến chuyển ấy hoặc hoà bình không phải võ trang
bạo động nữa, chứ không phải không đổ máu, hoặc bằng bạo động tuỳ theo lực lượng vô
sản và sự liên minh của nó với nông dân trong xứ cùng sức ủng hộ của vô sản thế giới”.
Thành lập một tổ chức mới để đấu tranh: “Mặt trận dân chủ thích hợp với hoàn cảnh
trước kia, ngày nay không còn thích hợp nữa. Ngày nay phải thành lập Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Đông Dương để tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, đánh đổ đế
quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho
Đông Dương hoàn toàn độc lập”.
Tạm gác lại các khẩu hiệu cách mạng cũ: “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”,
thay bằng những khẩu hiệu mới: “Tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian cho dân
cày nghèo”.
Những điều trên cho thấy, Đảng đã đặt vấn đề mâu thuẫn dân tộc lên trên mâu thuẫn giai
cấp, phù hợp với Cương lĩnh Chính trị (02-1930). Việc thành lập Mặt trận dân chủ mới là
yêu cầu cấp thiết của cách mạng tại Đông Dương mà Đảng đã nhận ra trong tình thế hiểm
nghèo trong hiện tại, dự đoán đúng những gì sắp tới.
1.2 Lực lượng Cách mạng.
- Ban chấp hành Trung ương xác định, cách mạng Đông Dương vẫn là “cách mạng tư sản
dân quyền - phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xô viết,
để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Trong khi đó, yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải
thiện đời sống. Vì vậy, Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này để phát động quần chúng
đấu tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
- Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, các Đảng Cộng sản và nhân dân các nước trên thế
giới phải thống nhất hàng ngũ của mình, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và
chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hòa bình và cải thiện đời sống. Đối với các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa, Đại hội chỉ rõ: Do tình hình\ thế giới và trong nước thay đổi nên vấn
đề lập mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
1.3 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Phạm vi giải quyết vẫn là trên toàn Đông Dương.
Mặt khác, Đảng chủ trương thành lập các Đảng bộ tự trị của các dân tộc thiểu số nhằm
giúp phong trào dân tộc tại đó trưởng thành hơn, chuẩn bị cho việc chia nhỏ phạm vi giải
quyết vấn đề dân tộc sau này: Phải chú ý gây dựng cơ sở Miên, Lào và tổ chức những
Đảng bộ tự trị của các dân tộc thiểu số: “Ta đã thấy vận mạng và sự giải phóng của các
dân tộc Đông Dương có liên quan mật thiết thì ta phải đặc biệt chú ý sự vận động các dân
tộc Miên, Lào và các dân tộc thiểu số; phải nghiên cứu những phương pháp cụ thể để
thực hành nhiệm vụ ấy, đừng có nói rồi bỏ đấy như trước [...] phải tìm đủ mọi cách tìm
mối liên lạc và gây cơ sở ở Miên, Lào và các dân tộc thiểu số như Thổ, Thượng, v.v.. Dù
cho sự rút bớt cán bộ để phụ trách công tác này mà đình trệ công tác ít nhiều ở địa
phương cũng phải làm”.
Một phạm vi chính phủ mới cho nhân dân Đông Dương sau cuộc cách mạng dân chủ tư
sản: “Thành lập ‘Chính phủ Liên bang Cộng hòa Dân chủ Đông Dương’, là hình thức
chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng trong xứ và trong phong trào giải
phóng dân tộc, một bộ phận của giai cấp tư sản còn có thể đi chung với dân chúng trong
một giai đoạn nào”. Việc thành lập Chính phủ Liên bang Cộng hòa Dân chủ Đông Dương
là không phù hợp, ảnh hưởng lớn đến quyền tự quyết của các dân tộc khác và rất khác với
trong Cương lĩnh Chính trị (02-1930) khi chỉ thành lập Nhà nước riêng cho Việt Nam.
1.4 Nhận xét
a. Ưu điểm
Thứ nhất, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần VI (11-1939) đã đáp ứng
đúng hơn yêu cầu khách quan của lịch sử, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên nhiệm
vụ giải phóng giai cấp nhưng vẫn giữ cân bằng được cả hai nhiệm vụ ấy, đưa nhân dân
bước vào thời kỳ vận động giải phóng dân tộc. Mặt khác, Hội nghị đã vận dụng sáng tạo
hơn chủ nghĩa Mác Lênin, ít máy móc hơn trước hẳn khi cho rằng vấn đề về giai cấp nên
dựa theo quyền lợi của dân tộc.
Thứ hai, Hội nghị đã nhận thức rõ sự ảnh hưởng của quốc tế đối với quá trình giải phóng
dân tộc tại Đông Dương khi chủ trương tạo ra một lực lượng dự trữ gián tiếp mạnh mẽ
trong tương lai, cùng với đó là học thêm những kinh nghiệm của các cuộc cách mạng
khác trên thế giới: “với thành trì cách mệnh thế giới là Liên Xô là một sự cần thiết không
thể không có được, vì sự đồng tình và ủng hộ cuộc cách mệnh thế giới có thể quyết định
phong trào cách mệnh trong xứ trong một phạm vi không phải nhỏ (kinh nghiệm cách
mệnh Tây Ban Nha và Trung Quốc)”.
Thứ ba, về lực lượng cách mạng, theo Nghị quyết Hội nghị VI đã dựa trên tinh thần phản
đế của tất cả các giai cấp, tầng lớp khác cả trong và ngoài khu vực. Đây là một nhận thức
mới và chính xác hơn khi giai đoạn trước (1936-1939) Đảng chủ trương thâu phục tất cả
quần chúng không kể bất kỳ tầng lớp, đảng phái nào.
Thứ tư, về con đường đi đến cuộc cách mạng đã rõ hơn khi chủ trương thực hiện bằng
hòa bình hoặc ít đổ máu hơn nếu dựa vào tình hình thế trong nước và quốc tế. Điều này
chứng tỏ những Đảng ngày càng trưởng thành hơn, chính nhận thức mới này là yếu tố lớn
giúp dân tộc ta giành được thắng lợi cao nhất với thiệt hại nhỏ nhất trong cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 sau này.
Thứ năm, Hội nghị đã nhìn thấy phong trào dân tộc tại các dân tộc khác sẽ phát triển
mạnh mẽ, sẽ trưởng thành hơn, nhu cầu quyền tự quyết dân tộc sẽ dâng cao nên đã yêu
cầu bắt buộc phải cử cán bộ tới từng nơi để gây dựng cơ sở Đảng, chuẩn bị cho việc chia
nhỏ phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc sau này. Tư duy mới này tạo đưa mối quan hệ giữa
ba nước Đông Dương sang một giai đoạn mới.
b. Hạn chế
Thứ nhất, việc thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thì phạm vi
giải quyết vấn đề dân tộc vẫn còn quá lớn, các dân tộc khác trên Đông Dương vẫn chưa
thể có quyền tự quyết dân tộc.
Thứ hai, việc thành lập Chính phủ Liên bang Cộng hòa Dân chủ Đông Dương cũng
không phù hợp với lịch sử của ba dân tộc trong Đông Dương.
2. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (11/1940)
2.1 Nhiệm vụ Cách mạng
Hội nghị cán bộ Trung ương lập lại Ban chấp hành Trung ương cho rằng: “Cách mạng
phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước, cái làm sau”.
“Mặc dù lúc này khẩu hiệu cách mạng phản đế - cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn
và thiết dụng hơn song nếu không làm được cách mạng thổ địa thì cách mạng phản đế
khó thành công. Xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc Pháp -
Nhật; quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn để xây dựng thành lực lượng vũ trang cách
mạng; tiến tới thành lập căn cứ du kích; quyết định đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam
Kì vì thời cơ chưa chín muồi. Tính chất cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền
Đông Dương không thay đổi; Trung ương Đảng vẫn còn trăn trở, chưa dứt khoát với chủ
trương đặt nhiệm vụ giải phóng lên hàng đầu đã được đề ra tại Hội nghị tháng 11-1939 và
cho rằng sự chuyển hướng là đúng đắn.
2.2 Lực lượng Cách mạng.
Hội nghị đã chủ trương đi liền với việc mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dương, phải tổ chức các đội tự vệ, trực tiếp vũ trang cho quần chúng, tổ chức nhân
dân cách mạng quân, tiến lên vũ trang bạo động; chắp mối liên lạc với Quốc tế Cộng sản
và bộ phận Đảng ở nước ngoài. Phương pháp cách mạng được hội nghị đề ra đó là
phương pháp khởi nghĩa vũ trang. Thành phần cách mạng lực lượng cách mạng dựa trên
cơ sở hai lực lượng công, nông là hai lực lượng chính của cách mạng
2.3 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Giống nghị quyết hội nghị ban chấp hành trung ương lần VI(11-1939), phạm vi giải
quyết vấn đề dân tộc là các dân tộc Đông Dương và chưa khắc phục phục hạn chế
2.4 Nhận xét
Ta thấy rõ Trung ương Đảng vẫn còn trăn trở, chưa thật dứt khoát với chủ trương đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra tại hội nghị thứ VI 11/1939. Đây là
một bước lùi trong nhận thức xung quanh vấn đề chống đế quốc phong kiến.
3, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941)
3.1 Nhiệm vụ cách mạng
Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc
khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường
cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ và tăng thêm
thành phần vô sản trong Đảng.
3.2 Lực lượng cách mạng
Với nhận thức “quyền lợi của tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy
vong không lúc nào bằng”, Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương “tập trung cho được lực
lượng cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông.
Địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận,
thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đánh tan giặc Pháp
- Nhật xâm chiếm nước ta”
Thành lập tổ chức Việt Nam độc lập đồng minh (nói tắt là Mặt trận Việt Minh) với chủ
trương “liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc bị
áp bức đoàn kết lại, chiến đấu đánh đổ chủ nghĩa đế quốc phát xít Nhật, giành quyền độc
lập cho nước Việt Nam".
Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới và
cử đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Hội nghị bầu Ban Chấp hành
Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang,
Phùng Chí Kiên, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Ban Thường vụ
Trung ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang.
3.3 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc
Hội nghị đã thống nhất đưa ra quyết định giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng
nước ở Đông Dương, thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp –
Nhật, các dân tộc trên cõi Đông Dương sẽ “tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay
đứng riêng thành lập quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa
nhận và coi trọng”. Từ quan điểm đó, Hội nghị đã quyết định thành lập ở mỗi nước một
mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ
thù chung
3.4 Nhận xét.
Hội nghị Trung ương 8 tháng 5/1941 đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược đề ra từ hội
nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng
10/1930, khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái
Quốc.
Hội nghị xác định rõ được đối tượng cách mạng, cũng như chỉ ra được những mâu thuẫn
giữa phát xít Nhật và thực dân Pháp, từ đó đề ra đường lối cách mạng đúng đắn cho dân
tộc.
Hội nghị đã chỉ ra được phương pháp vận động cách mạng là khởi nghĩa vũ trang đi từ
khởi nghĩa từng phần tiến lên cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước.
Hội nghị có ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng đối với cách mạng nước ta, trực tiếp góp
phần vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
4.Tiểu kết.
Hội nghị : Ban chấp hành Trung ương 6 (11/1939) :
Hội nghị nhận định : trong điều kiện lịch sử mới, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương và xác định kẻ thù cụ thể, nguy hiểm nhất
của cách mạng Đông Dương là chủ nghĩa đế quốc và tay sai phản bội dân tộc.
Đây là sự chuyển hướng quan trọng nhất về chỉ đạo chiến lược. Hội nghị chủ trương tạm
gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” và đề ra khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của đế quốc
và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, chống lãi nặng”.
Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “lập chính quyền Xô viết công-nông-binh", thay
bằng khẩu hiệu “lập chính quyền cộng hoà dân chủ”, hình thức nhà nước chung cho tất cả
các tầng lớp dân chúng và phong trào giải phóng dân tộc.
Hội nghị : Ban chấp hành Trung ương 7 (11/1940) :
Hội nghị khẳng định : chủ trương chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị Trung ương
Đảng năm 1939 là đúng.
Hội nghị nhận định, kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương lúc bấy giờ là phát xít
Pháp-Nhật. Mặt trận dân tộc thống nhất phản để Đông Dương là Mặt trận dân tộc thống
nhất chống phát xít Pháp-Nhật ở Đông Dương.
Hội nghị : Ban chấp hành Trung ương 8 (5/1941)
Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng
đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruông đất của bọn đế quốc và Việt gian
chia cho dân cày nghèo"
Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam,
Lào, Campuchia. Ở Việt Nam, Hội nghị chủ trương thành lập mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.
Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia, theo đề nghị của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất
riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Ở Việt Nam, Hội nghị chủ trương thành
lập mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.
So với chủ trương của Đảng 1936-1939, những năm 1939-1945
-, Chủ trương chỉ đạo xuyên suốt giai đoạn.
Giai đoạn 1936-1939: Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông
Dương là chống đế quốc và phong kiến. Nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống
chế độ phản động thuộc địa, phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân
chủ, cơm áo, hòa bình.Phương pháp đấu tranh kết hợp các hình thức công khai và bí
mật,hợp pháp và bất hợp pháp.
Giai đoạn 1939-1945: Phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Nhiệm vụ chống phong kiến và các nhiệm vụ dân chủ khác phải rải ra, thực hiện từng
bước có kế hoạch, phục tùng và phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc.Phải đặt quyền lợi của
dân tộc lên trên quyền lợi của bộ phận, của giai cấp. Trong điều kiện lịch sử mới, nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không giành được độc lập, tự do thì
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Vấn đề dân tộc
phải được giải quyết riêng trong phạm vi từng nước dựa trên nguyên tắc dân tộc tự
quyết.Để thực hiện nhiệm vụ trung tâm ấy, phải tập hợp mọi lực lượng chống đế quốc và
bè lũ tay sai vào mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi.
-, Xác định kẻ thù chính của Cách Mạng
Giai đoạn 1936-1939: Thực dân Pháp phản động và tay sai.
Giai đoạn 1939-1945 : Kẻ thù trực tiếp trước mắt và nguy hiểm nhất là đế quốc-phát xít
Pháp-Nhật
-,Hình thức tổ chức
Giai đoạn 1936-1939 :Thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông
Dương.Tháng 3/1938, đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi tắt là Mặt
trận dân chủ Đông Dương.
Giai đoạn 1939-1945: Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, đổi tên các Hội
phản đế thành cứu quốc, Đoàn kết bên nhau đặng cứu tổ quốc. Quyết định thành lập mặt
trận Việt – Minh để đoàn kết và tập hợp lực lượng cách mạng nhằm mục tiêu giải phóng
dân tộc
-,Hình thức đấu tranh
Giai đoạn 1936-1939:Chủ yếu là tổ chức đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp
và nửa hợp pháp, mở rộng quan hệ giữa Đảng và quần chúng, nêu lên khẩu hiệu thích
hợp.
Giai đoạn 1939-1945: Xây dựng và chuẩn bị tổ chức tổ chức lực lượng vũ trang tiến tới
khởi nghĩa giành chính quyền.

You might also like