You are on page 1of 20

I.

Chủ trương của Đảng trong những năm (1930-1935)

I.1 Luận cương chính trị (10-1930)

I.1.1 Về nhiệm vụ cách mạng

Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng

Luận cương nêu rõ tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách
mạng tư sản dân quyền”, “có tính chất thổ địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục phát triển,
bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ cụ thể của cách mạng

Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải đấu tranh để đánh đổ
phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và thực hành cách mạng ruộng
đất cho triệt để và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc
lập”. Hai nhiệm vụ này có quan hệ khăng khít với nhau, vì “có đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa mới phá được giai cấp địa chủ, để tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi, và có thể
phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Trong hai
nhiệm vụ này, luận cương nhấn mạnh: “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản
dân quyền” và là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.

I.1.2 Về lực lượng cách mạng

Luận cương chỉ rõ, giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân
quyền vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động
lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ
chống lại cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi
cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ
công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng;
tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia
chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị mới đi theo cách
mạng mà thôi. Như vậy, lực lượng được xác định ở đây chỉ có nông dân và các phần tử
lao khổ, điều này càng bộc lộ rõ hạn chế khi loại bỏ hoàn toàn các lực lượng có khả năng
ủng hộ và đồng hành cùng cách mạng.

I.1.3 Về phạm vi giải quyết vấn đề của dân tộc

Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định đổi tên Đảng
Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương (gồm An Nam, Cao Miên và
Lào) do Quốc tế Cộng sản chỉ công nhận khi Đông Dương có một chính Đảng duy nhất.
Chính vì lẽ đó, Luận cương chính trị đã được thảo luận, thông qua tại Hội nghị xác định
phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc là trên toàn Đông Dương, nghĩa là cả ba dân tộc phải
cùng giải phóng dân tộc cùng một lúc.

I.1.4 Nhận xét:

Ưu điểm

- Luận cương đã khẳng định nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng mà
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã nêu ra như nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng, tầm
quan trọng trong quan hệ với cách mạng vô sản thế giới và lực lượng cách mạng chủ yếu
là công nhân và nông dân. Ngoài ra, luận cương đã phát triển và hoàn chỉnh hóa “Chính
cương và sách lược vắn tắt” của Nguyễn Ái Quốc.

- Luận cương là kết quả của sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối quốc tế cộng sản với thực tiễn cách mạng Việt Nam và
cách mạng Đông Dương.

Hạn chế

- Do nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp
trong cách mạng thuộc địa, cộng thêm việc chưa tìm hiểu kĩ về tình hình đặc điểm của xã
hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp của tư tưởng
tả khuynh của Quốc tế Cộng sản và một số Đảng Cộng sản trong thời gian đó, nên Ban
Chấp hành Trung ương đã không vạch rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc
địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam bị nô dịch với đế quốc thực dân Pháp xâm lược
và tay sai của chúng. Do đó, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về
đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất, không đề ra được một chiến lược liên minh
dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay sai.

- Luận cương chưa đánh giá đúng mức vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ
nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, cường điệu mặt hạn chế của họ, chưa thấy được khả
năng phân hóa và lôi kéo một số bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng
dân tộc. Luận cương chính trị nhận rõ vai trò của liên minh công nông, nhưng lại chưa đề
cập vấn đề Mặt trận dân tộc thống nhất.

- Đồng thời, Luận cương đưa ra phạm vi giải quyết vấn đề của dân tộc trên toàn Đông
Dương. Điều này không phát huy được quyền tự quyết, tự giải phóng của mỗi dân tộc, sự
khác nhau về văn hóa ngôn ngữ, làm hạn chế sự tập hợp lực lượng ở các dân tộc. Làm
cho các dân tộc bị động, phụ thuộc vào nhau, không tranh thủ được thời cơ chín muồi để
tự giải phóng cho dân tộc mình mà phải chờ các dân tộc còn lại để cùng nhau giải phóng.

I.2. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3-1935)

I.2.1 Về nhiệm vụ cách mạng:

Đại hội đề ra ba nhiệm vụ chính của Đảng là củng cố và phát triển Đảng; đẩy mạnh
cuộc vận động thu phục quần chúng; mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến
tranh, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng Trung Quốc.

Với nhiệm vụ củng cố và phát triển Đảng, Đại hội đã đề nghị tăng cường phát triển
Đảng vào các xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, biến mỗi xí
nghiệp thành một thành lũy của Đảng. Đảng đảm bảo cho hàng ngũ Đảng được thống
nhất về tư tưởng và hành động, các đảng bộ cần tăng cường phê bình và tự phê bình. Phải
tăng cường quan tâm, phát hiện và đưa các đảng viên xuất sắc xuất thân từ công nhân vào
các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Đồng thời phải đưa nông dân lao động và trí thức cách
mạng đã trải qua thử thách vào Đảng.

Với nhiệm vụ đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng, Đại hội đã xác định
Đảng mạnh là căn cứ vào ảnh hưởng và thể lực của Đảng trong quần chúng. Nếu Đảng
không được quần chúng tán thành và ủng hộ những khẩu hiệu của mình, không liên lạc
mật thiết với quần chúng thì những nghị quyết cách mạng đưa ra vẫn không có ý nghĩa
gì. Đại hội nêu rõ muốn thu phục đông đảo quần chúng thì nhiệm vụ trung tâm, căn bản
trước mắt của Đảng là: Bênh vực quyền lợi của quần chúng, củng cố và phát triển các tổ
chức quần chúng.

Đối với nhiệm vụ đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc, phải tuyên truyền cho quần
chúng hiểu rõ chiến tranh đế quốc đã bắt đầu, vạch trần lí lẽ hòa bình giả dối của bọn đế
quốc. Đại hội xem nhiệm vụ chống chiến tranh đế quốc bảo vệ Liên bang Xô Viết là
nhiệm vụ của Đảng và của toàn thể cách mạng. Cần phổ biến những sự thắng lợi vĩ đại
của sự kiến thiết xã hội chủ nghĩa của Liên bang Xô Viết, cho lao động hiểu công tác của
Xô Viết và Hồng quân Trung Quốc.

I.2.2 Về lực lượng cách mạng:

Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương tín nhiệm vào năng lực đấu
tranh của giai cấp tư sản và giai cấp vô sản - chính là quần chúng nhân dân lao động trên
toàn Đông Dương, gồm nhiều thành phần như công nhân, nông nhân, binh lính, phụ nữ ,
thanh niên,... Đại hội đã thông qua nghị quyết chính trị của Đảng để vận động các lực
lượng này tham gia cách mạng về mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc ít người.
Đồng thời Đảng chỉ đạo cho quần chúng những phương pháp chống chiến tranh đế quốc
như bãi công, thị oai, biểu tình, lan rộng các cuộc vận động ấy cho đến vũ trang bạo
động.

I.2.3 Về phạm vị giải quyết vấn đề của dân tộc:

Đại hội xác định nhiệm vụ cách mạng trên toàn Đông Dương. Tôn chỉ của Đảng Cộng
sản Đông Dương là tranh đấu để thu phục đa số quần chúng lao động khác, chỉ huy họ
làm cách mạng phản đế và điền địa, mục đích là để cho Đông Dương được hoàn toàn độc
lập, dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng. Thành lập nhiều tổ
chức hoạt động trên toàn Đông Dương như: Thanh niên Cộng sản Đoàn Đông Dương,
Đông Dương Phản đế liên minh,...

I.2.4 Nhận xét


Ưu điểm

- Nội dung của Nghị quyết phù hợp với tình hình của Việt Nam và thế giới lúc bấy
giờ, bởi Đảng khi vừa khôi phục tổ chức còn yếu, cần phải được củng cố, phát triển, vận
động quần chúng và đẩy mạnh chống chiến tranh đế quốc.

- Thống nhất được phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các
tầng lớp nhân dân khác dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, tạo thành sức
mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến mới. So với Luận cương chính trị, Nghị quyết
đã quan tâm hơn đến thanh niên, phụ nữ, dân tộc thiểu số và người lao động ngoại quốc.
Đặc biệt, Đảng đã nhìn thấy khả năng cách mạng của binh lính Việt Nam dựa trên bối
cảnh lúc bấy giờ mà ra sức vận động binh lính. Ngoài ra, Đảng còn ra các Nghị quyết chi
tiết về việc vận động các thành phần lực lượng, xác định được các nhiệm vụ cần thiết
trong việc tập hợp các thành phần đó.

Hạn chế

Đại hội vẫn thừa nhận Luận cương chính trị (10/1930) nên chưa nhận ra và khắc phục
được những hạn chế của Luận cương. Đại hội vẫn còn chưa đề ra được chủ trương cách
mạng Việt Nam, chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và tập hợp lực lượng
toàn dân tộc. Đồng thời, Đại hội vẫn duy trì thực hiện cách mạng trên toàn Đông Dương
do chịu ảnh hưởng từ Quốc tế Cộng sản mà không dồn toàn bộ lực lượng thực hiện cách
mạng giải phóng trong nước.

I.3. Tiểu kết

Về Luận cương chính trị (10/1930), đã nêu được những vấn đề chiến lược và sách
lược của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó Luận cương cũng còn một số hạn chế như
chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông Dương, không nhấn mạnh nhiệm vụ
giải phóng dân tộc mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất. Đánh giá chưa
đúng khả năng cách mạng của các giai cấp phong kiến, tư sản, tiểu tư sản. Đồng thời,
Luận cương đưa ra phạm vi giải quyết vấn đề của dân tộc trên toàn Đông Dương. Điều
này không phát huy được quyền tự quyết, tự giải phóng của mỗi dân tộc.
Về Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất (3/1935), đề ra nhiệm vụ
trước mắt phù hợp với tình hình của Việt Nam và trên thế giới với ba nhiệm vụ cần phải
thực hiện: Củng cố và phát triển Đảng; Đẩy mạnh cuộc vận động thu phục quần chúng;
Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách
mạng Trung Quốc. Tuy nhiên, Nghị quyết vẫn còn một vài hạn chế như chưa đề ra được
chủ trương cách mạng Việt Nam, chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và
tập hợp lực lượng toàn dân tộc; vẫn duy trì thực hiện cách mạng trên toàn Đông Dương
mà không dồn toàn bộ lực lượng thực hiện cách mạng giải phóng trong nước.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ Nhất (3/1935) so với Luận cương
chính trị (10/1930), đã giải quyết được khá nhiều hạn chế còn tồn đọng như việc đánh
giá đúng hơn về vai trò cách mạng của các tầng lớp tiểu tư sản, bênh vực quyền lợi của
quần chúng nhân dân nhiều hơn, cùng với đó đã xác định được nhiệm vụ chống chiến
tranh đế quốc bảo vệ Liên bang Xô Viết là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng. Tuy nhiên, quan
điểm của Đảng vẫn đứng trên quan điểm sai lầm của Luận cương chính trị (10/1930) vì
thế mà cả hai văn kiện vẫn chưa đặt nhiệm vụ giải phóng của dân tộc lên hàng đầu; vẫn
nặng về giai cấp, chưa tập hợp toàn thể dân tộc vẫn chỉ là dân nghèo đã mở rộng thêm
phụ nữ, dân tộc thiểu số; vẫn giữ phạm vị giải quyết của dân tộc trên toàn Đông Dương
nên chưa phát huy được quyền tự quyết, tự giải phóng của mỗi dân tộc.1

II. Chủ trương của Đảng trong những năm (1936-1939)

II.1 Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7/1936)

Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương do
Lê Hồng Phong chủ trì, đã họp tại Thượng Hải để định ra đường lối và phương pháp đấu
tranh mới, đưa phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển. “Hội nghị đã xác định
mục tiêu chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là đấu tranh chống chế độ thuộc địa,
chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình.” Để tập hợp rộng
rãi quần chúng nhân dân nhằm thực hiện được mục tiêu đó, Đảng chủ trương thành lập
Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (từ tháng 3-1938 được đổi thành Mặt
trận Dân chủ Đông Dương). Từ đó chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh ra
đời dưới các hình thức đấu tranh công khai và bán công khai.2

II.1.1 Nhiệm vụ cách mạng (xung quanh việc giải quyết 2 nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến)

Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là chống đế quốc và phong kiến. Nhiệm vụ trực
tiếp trước mắt, xác định mục tiêu là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống
phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Lập
Mặt trận dân chủ Đông Dương. (mặt trận nhân dân rộng rãi)

 Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời
sống. Vì vậy, Đảng phải nắm lấy những yêu cầu này để phát động quần chúng đấu tranh,
tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.

 Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, các đảng cộng sản và nhân dân các nước trên
thế giới phải thống nhất hàng ngũ của mình, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít
và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hòa bình và cải thiện đời sống.

II.1.2 Lực lượng cách mạng

Bao gồm các đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên và các giai cấp
nhân dân, dân tộc gồm lực lượng chính là công dân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản
thành thị và nông thôn, đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản bản xứ,
trung và tiểu địa chủ, các Đảng quốc gia cách mạng.

II.1.3 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Trên toàn Đông Dương, sôi nổi nhất là ở thành thị với mục tiêu đòi tự do, dân sinh,
dân chủ.

II.1.4 Nhận xét

Ưu điểm:

- Nhận định nhiệm vụ trước mắt và phải đòi tự do dân sinh, đòi quyền tự do dân chủ
nhưng vẫn không quên mục tiêu chiến lược là chống tay sai và đế quốc.
- Phương pháp đấu tranh uyển chuyển đa dạng kết hợp các hình thức công khai và bí
mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Chuyển từ đấu tranh bí mật, bất hợp pháp sang đấu tranh
công khai, hợp pháp. Kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh bí mật, bất hợp pháp với đấu tranh
công khai nhằm đạt được mục tiêu đề ra và che dấu những lực lượng cách mạng cần được
bảo vệ.

- Lực lượng tham gia từ chỉ công nhân, nông dân sang tất cả các giai cấp, các tầng lớp
(công nhân, nông dân, trí thức, dân nghèo thành thị, đồng minh hoặc trung lập tạm thời
với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ, các Đảng quốc gia cách mạng) được tập
hợp trong Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

Hạn chế:

- Tuyên truyền và cổ động dùng những lý luận quá cao, dài nên khó tiếp cận tầng lớp
nông dân và công nhân.

- Chưa giải quyết những hạn chế của Đại hội Đảng lần thứ nhất. Đó là lựa chọn vấn
đề nào quan trọng hơn, giữa cuộc đấu tranh chia đất và cuộc đấu tranh phản đế.

- Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương mà Hội nghị thành lập chưa
thích ứng với hoàn cảnh cụ thể của Đông Dương thời kỳ này. “Bởi vì, yêu cầu lịch sử đặt
ra lúc này là cần có một hình thức Mặt trận rộng rãi hơn để tập hợp quần chúng đấu tranh
đòi quyền dân chủ, chống chiến tranh, chống phát xít, bảo vệ hoà bình.”

II.2. Chung quanh vấn đề chiến sách mới (10/1936)

II.2.1 Nhiệm vụ cách mạng (xung quanh việc giải quyết 2 nhiệm vụ chống đế
quốc và phong kiến)

Ngày 30/10/1936, Đảng đã công bố văn kiện "Chung quanh vấn đề chiến sách mới".
Tại văn kiện này Đảng cũng đã chỉ rõ hai nhiệm vụ của cuộc cách mạng ruộng đất không
thể thực hiện song hành và kết hợp một cách máy móc, gây bất lợi cho cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc. Đảng đã khẳng định: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định
phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế
quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải
đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng." "Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc
đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan
trọng hơn mà giải quyết trước." Đồng thời văn kiện còn xác định rõ: "Nhiệm vụ cuộc
cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương là đuổi đế quốc Pháp ra khỏi xứ, tẩy sạch tàn
tích phong kiến, Đông Dương hoàn toàn độc lập."

II.2.2 Lực lượng cách mạng

Trong Chiến sách lập mặt trận nhân dân phản đế "chiến sách của Đảng là nhận rõ ai là
kẻ địch nhân nguy hiểm nhất trong lúc hiện thời nhất định sẽ tập trung ngọn lửa vào đó
mà đánh." Đồng nghĩa với việc lực lượng cách mạng rộng rãi bao gồm các giai cấp, các
đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ
Đông Dương để cùng nhau tranh đấu đòi những điều dân chủ đơn sơ. Đảng đã tập hợp
những lực lượng có cùng chung kẻ thù để phát huy tối đa sức mạnh. Việc tập hợp tối đa
nguồn lực là mục tiêu lớn nhất để quyết định thắng lợi thành công.

II.2.3 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc với quy mô rộng rãi ở nhiều nơi, chủ yếu ở thành
thị với hình thức đấu tranh đa dạng và lôi kéo được đông đảo quần chúng tham gia, với
nhiệm vụ mục tiêu được đề ra phù hợp với tình hình mới đối với cả chống phong kiến và
đế quốc trên toàn mặt trận Đông Dương. Với nhiệm vụ trước mắt là chống lại chế độ
phản động thuộc địa, phát xít và chiến tranh sau đó là xóa bỏ tàn tích phong kiến và trả
lại tự do, dân chủ cho nhân dân cả nước.

II.2.4 Nhận xét

Ưu điểm:

- Đây là nhận thức mới của Ban chấp hành Trung ương, phù hợp với tinh thần trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế của Luận
cương chính trị tháng 10/1930.
- Đảng nhận định rõ ràng giữa đồng minh và kẻ thù, không tuyên chiến kịch liệt để tập
trung nguồn lực đánh vào kẻ địch nguy hiểm nhất tại một thời điểm nhất định. Tranh đấu
quần chúng và lực lượng cách mạng đã được nâng lên trình độ cao hơn.

Hạn chế:

- Xét về tranh đấu quần chúng và lực lượng cách mạng đã nâng lên trình độ cao hơn,
tuy nhiên về chính trị và tổ chức chưa tới trình độ để đánh đổ trực tiếp Pháp.

II.3 TIỂU KẾT

Về chủ trương của Đảng 7/1936:

Cách mạng ở Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản dân quyền, tạm gác nhiệm vụ
chống chống đế quốc và xóa bỏ chế độ phong kiến chuyển sang đấu tranh chống chế độ
phản động thuộc địa, chống phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân
chủ, cơm áo, hòa bình.

Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế bao gồm: các giai cấp, dân tộc như công dân,
nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh hoặc trung lập tạm
thời với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ, các Đảng quốc gia cách mạng.

Chủ trương của Đảng 10/1936: Cách mạng ở Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản
dân quyền, đấu tranh chống lại chế độ phản động thuộc địa, phát xít và chiến tranh sau đó
là xóa bỏ tàn tích phong kiến và trả lại tự do, dân chủ cho nhân dân cả nước. Nhưng trong
chiến sách mới này, Đảng đã vận dụng linh hoạt chủ nghĩa Mác-Lê nin vào trong hoàn
cảnh cụ thể ở Việt Nam.

So với chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh 7/1936, Chung quanh vấn đề
chiến sách mới 10/1936 về nội dung, lực lượng, phạm vi và đường lối không thay đổi.
Tuy nhiên, Đảng đã có thêm nhận thức mới "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định
phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế
quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải
đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng." Nhận định này đã dần khắc phục
được hạn chế của Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930,
và tương đồng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tháng 2/1930.

So với chủ trương của Đảng 1930-1935, những năm 1936-1939, có gì mới, hạn chế
của Đảng đã khắc phục chưa?

Từ bảng sau cho thấy sự khác nhau giữa phong trào 1930 - 1931 và phong trào dân
chủ 1936 - 1939 cho thấy do hoàn cảnh thế giới và trong nước khác nhau, nên chủ trương
sách lược, hình thức tập hợp lực lượng và hình thức đấu tranh phải khác nhau mới phù
hợp với tình hình thực tế.

Chủ trương của Đảng trong thời kỳ 1936 - 1939 chỉ có tính chất sách lược nhưng rất
kịp thời và phù hợp với tình hình mới, tạo ra cao trào đấu tranh sôi nổi. Qua đó chứng tỏ
Đảng ta đã trưởng thành, có khả năng đối phó với mọi tình huống, đưa cách mạng tiến
lên không ngừng. Qua đó đã khắc phục được chủ trương của Đảng 1930 - 1936 là lựa
chọn vấn đề chống đế quốc, chống thực dân để giải quyết trước.

III.Chủ trương của Đảng trong những năm (1939-1945)

III.1 Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (11-1939)

III.1.1 Nhiệm vụ cách mạng

Hội nghị nhận định : trong điều kiện lịch sử mới, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương và xác định kẻ thù cụ thể, nguy hiểm nhất
của cách mạng Đông Dương là chủ nghĩa đế quốc và tay sai phản bội dân tộc.

III.1.2 Lực lượng cách mạng

Lực lượng chính của Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương là công nhân,
nông dân đoàn kết với các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nông thôn do giai cấp công
nhân lãnh đạo.

III.1.3 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

Sự đoàn kết dân tộc: Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nghị quyết nêu rõ tầm
quan trọng của sự đoàn kết dân tộc và việc đẩy mạnh phong trào dân tộc chống thực dân.
Tôn trọng quyền tự quyết dân tộc: Đảng cam kết tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc
thiểu số tại Việt Nam và thúc đẩy sự đồng lòng giữa các dân tộc trong cuộc chiến tranh.

III.1.4 . Nhận xét

Ưu điểm :

- Tập trung giải phóng dân tộc: Chủ trương tập trung vào mục tiêu hàng đầu và cấp
bách của cách mạng: giải phóng dân tộc khỏi sự áp bức và xâm lược của chủ nghĩa đế
quốc. Điều này giúp tạo ra mục tiêu rõ ràng và động lực mạnh mẽ cho cuộc chiến đấu.

- Nhận diện được kẻ thù cụ thể : Xác định chủ nghĩa đế quốc và tay sai phản bội dân
tộc là kẻ thù nguy hiểm nhất, đây là sự nhìn nhận chính xác vấn đề và giúp tập trung nỗ
lực đấu tranh.
- Kêu gọi đoàn kết và phong trào dân tộc: Khuyến khích sự đoàn kết dân tộc và đẩy
mạnh phong trào dân tộc chống thực dân. Điều này giúp xây dựng sức mạnh đồng lòng
và đồng lòng của các tầng lớp nhân dân.

- Tôn trọng quyền tự quyết dân tộc:Cam kết tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc
thiểu số tại Việt Nam, thể hiện tư tưởng về sự công bằng và sự đồng lòng giữa các dân
tộc trong cuộc chiến tranh.

Nhược điểm:

- Thiếu sự cụ thể về chiến lược: Nghị quyết cung cấp mục tiêu chung nhưng thiếu sự
cụ thể về chiến lược cụ thể để đạt được mục tiêu này. Điều này có thể tạo khó khăn trong
việc triển khai và đánh giá hiệu quả của kế hoạch cụ thể.

- Khó khăn trong thực hiện tôn trọng quyền tự quyết dân tộc: Tôn trọng quyền tự
quyết dân tộc là một mục tiêu quan trọng, nhưng có thể gặp khó khăn trong việc thực
hiện đồng đều và linh hoạt tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng dân tộc.

III.2 Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (11-1940)

III.2.1 Nhiệm vụ cách mạng

Hội nghị nhận định, kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương lúc bấy giờ là phát xít
Pháp-Nhật. Đảng phải chuẩn bị để giành lấy cái sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo cho các
dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập.

III.2.2 Lực lượng cách mạng

Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương là Mặt trận dân tộc thống nhất
chống phát xít Pháp-Nhật ở Đông Dương.

III.2.3 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

 Duy trì, phát triển lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, dùng
hình thức vũ trang công tác, khi cần thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ sinh mạng tài
sản của nhân dân.
 Hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì ở miền Nam chưa có đủ điều kiện bảo đảm cho
khởi nghĩa thắng lợi. Đặt vấn đề khởi nghĩa nam Kỳ vào chương trình nghị sự.

III. 2.4. Nhận xét

Ưu điểm:

- Nhận diện chính xác kẻ thù chính: Xác định rõ kẻ thù chính là phát xít Pháp-Nhật,
đây là điểm mạnh khi quyết định nguồn gốc và mục tiêu chính xác của cuộc chiến tranh.

- Tập trung vào mục tiêu giành quyền tự do độc lập: Tập trung vào mục tiêu thiêng
liêng giành quyền tự do và độc lập cho các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương, tạo sự rõ
ràng và động lực mạnh mẽ cho cuộc chiến đấu.

Nhược điểm:

- Hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ: Quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ có thể
gây mất đồng lòng và sự đồng thuận trong động viên tinh thần chiến đấu trong các khu
vực khác. Điều này có thể tạo sự bất mãn hoặc khó khăn trong việc duy trì sự đồng lòng
và mục tiêu chung.

- Thiếu cụ thể về chiến lược dài hạn: Nghị quyết chỉ đề cập đến việc duy trì và phát
triển lực lượng vũ trang cụ thể, nhưng thiếu thông tin chi tiết về chiến lược dài hạn và kế
hoạch tổng thể để đạt được mục tiêu giành quyền tự do và độc lập.

III.2 Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941)

III.2.1 Nhiệm vụ cách mạng

Căn cứ sự phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị khẳng định nhiệm vụ
chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. “Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

III.2.2 Lực lượng cách mạng


Quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt
trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mật trận ở các nước
Lào, Campuchia, thay tên các Hội Phản đế thành Hội Cứu quốc.

III.2.3 Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc

 Về tình hình của cuộc cách mạng : Hội nghị chỉ ra : cuộc cách mạng Đông Dương
hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết
2 vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết 1 vấn đề cần
kíp “dân tộc giải phóng”, vì vậy cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là
một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng.

 Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia
ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt
gian chia cho dân cày nghèo”.

 Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp-Nhật, “sẽ thành lập 1 Chính phủ nhân dân của VN
dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”.

III.2.4 Nhận xét

Ưu điểm:

- Tập trung vào mục tiêu giải phóng dân tộc: Nhấn mạnh mục tiêu giải phóng dân tộc
khỏi áp bức và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, đặt lợi ích cộng đồng và quốc gia lên
hàng đầu.

- Nhận diện rõ vấn đề quan trọng cần giải quyết: Xác định rõ cuộc cách mạng Đông
Dương là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, tập trung vào vấn đề cần kíp "dân tộc
giải phóng".

- Tạo ra liên minh quốc gia và quốc tế: Thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh) và giúp đỡ lập mật trận ở các nước láng giềng, tạo môi trường hợp tác và liên kết
quốc tế để đấu tranh chung.
- Thực hiện điều chỉnh chiến lược linh hoạt: Tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ,
chia ruộng đất cho dân cày" để tập trung vào mục tiêu giải phóng dân tộc. Điều này cho
thấy khả năng thích ứng linh hoạt và điều chỉnh chiến lược theo tình hình cụ thể.

Nhược điểm:

- Thiếu sự cụ thể và chi tiết: Nghị quyết không cung cấp đủ thông tin cụ thể và chi tiết
về cách thức, kế hoạch, và các bước thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc. Thiếu thông
tin chi tiết này gây khó khăn trong việc triển khai kế hoạch và đánh giá hiệu quả.

- Sự mơ hồ trong phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Nghị quyết chỉ đề cập một cách
mơ hồ về việc giải quyết vấn đề dân tộc mà không xác định rõ các phương pháp cụ thể và
biện pháp xử lý để thực hiện mục tiêu này.

- Khó khăn trong việc duy trì lòng tin và cam kết dân chúng: Thay đổi khẩu hiệu có
thể làm mất lòng tin hoặc tạo sự hiểu lầm trong dân chúng và đồng thời làm yếu lòng cam
kết và sự đoàn kết đối với mục tiêu cách mạng.

III.2.5 Tiểu kết:

So sánh chủ trương của Đảng 1936-1939 và những năm 1939-1945 :


- Giai đoạn 1939-1945 đã mang lại điểm mới quan trọng với việc tập trung vào mục
tiêu giải phóng dân tộc khỏi áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Điều này được thể hiện qua
việc thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, tạo nên sự đoàn kết
mạnh mẽ hơn giữa các lực lượng chống phát xít Pháp-Nhật. Tuy vậy, vẫn còn khó khăn
và hạn chế trong việc duy trì và phát triển lực lượng vũ trang, đặc biệt tại miền Nam. Cần
tiếp tục khắc phục để đảm bảo mục tiêu giải phóng dân tộc.

IV. Tổng Kết chủ trương của Đảng trong những năm 1930-1945 đẻ làm rõ quá

trình Dảng từng bước khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối Cách Mạng

giải phóng Dân tộc

IV.1. Về Nhiệm vụ cách mạng từ năm 1930-1945

Nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn từ 1930 đến 1945 đã có nhiều chuyển
biến quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do chống lại thực dân Pháp.
Dưới đây là một số điểm chính về sự chuyển biến trong khoảng thời gian này:

1. Năm 1930: Sự thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCĐĐ), dưới sự lãnh đạo
của Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh), đã đưa ra Nghị quyết của Việt Nam Dân chủ
Cách mạng Đông Dương. Bản nghị quyết này đã tuyên bố mục tiêu kháng chiến chống
lại thực dân Pháp để giành độc lập, công bằng và đảm bảo quyền cho nhân dân Việt Nam.
ĐCĐĐ trở thành tổ chức dẫn đầu cuộc cách mạng Việt Nam.

2. Năm 1940: Pháp bị chiếm đóng bởi quân đội Đức trong Thế chiến II. Trong khi đó,
Hồ Chí Minh đã thành lập Liên minh Quốc gia Việt Nam (VNQDD) nhằm tập hợp các tổ
chức đấu tranh chống Pháp. Liên minh này lấy chính quyền dân tộc làm mục tiêu và bổ
sung thêm các thành viên từ các phong trào dân chủ khác.

3. Năm 1941: Bằng sự hỗ trợ của quân Xô Viết, Hồ Chí Minh thành lập Việt Nam
Độc lập Đồng minh hội (Viet Minh) nhằm động viên và tổ chức cuộc kháng chiến chống
Pháp, tạo nên một lực lượng chính thức chống thực dân Pháp. Viet Minh trở thành một
chính quyền song song với Liên minh Quốc gia Việt Nam.
4. Năm 1945: Sau khi Nhật Bản chiếm đóng Indochina trong chiến tranh Thế giới thứ
hai, Hồ Chí Minh dẫn đầu Đảng Cộng sản Đông Dương cùng với các lực lượng đấu tranh
khác đã tận dụng cơ hội này để tiến hành khởi nghĩa tổng tấn công chống lại cả Nhật Bản
và nước Pháp. Khởi nghĩa này đã đẩy lùi quân địch và tạo nên các sự kiện quan trọng như
Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập năm 1945.

Tóm lại, từ năm 1930 đến 1945, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam đã trải qua nhiều
chuyển biến quan trọng, từ việc thành lập các tổ chức đấu tranh, hình thành và hợp nhất
các liên minh và đảng lực, cho đến khởi nghĩa tổng tấn công đẩy lùi thực dân Pháp và
Nhật Bản.

IV.2 Về lực lượng cách mạng

- Giai đoạn 1930-1935: Lực lượng cách mạng giai cấp vô sản vừa là động lực chính
của cách mạng tư sản dân quyền vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực
lượng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng. Như vậy, lực lượng được xác
định ở đây chỉ có nông dân và các phần tử lao khổ, sau đó Đại hội lần thứ nhất của Đảng
Cộng sản Đông Dương tín nhiệm vào năng lực đấu tranh cấp tư sản và giai cấp vô sản -
chính là quần chúng nhân dân lao động trên toàn Đông Dương, gồm nhiều thành phần
như công nhân, nông nhân, binh lính, phụ nữ , thanh niên,...

- Giai đoạn 1936-1939: Lực lượng cách mạng bao gồm các giai cấp nhân dân, dân
tộc gồm lực lượng chính là công dân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông
thôn, đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ,
các Đảng quốc gia cách mạng. cùng nhau tranh đấu đòi những điều dân chủ đơn sơ.

- Giai đoạn 1939-1945: Lực lượng chính của Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế
Đông Dương là công nhân, nông dân đoàn kết với các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và
nông thôn do giai cấp công nhân lãnh đạo. sau thành lập Việt Nam độc lập đồng minh,
gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương và giúp
đỡ việc lập mật trận ở các nước Lào, Campuchia, thay tên các Hội Phản đế thành Hội
Cứu quốc. .Trong giai đoạn này, lực lượng cách mạng Việt Nam có sự tham gia của nhiều
tổ chức và phong trào khác nhau. Bên cạnh Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCĐĐ) dưới
lãnh đạo của Hồ Chí Minh, các tổ chức khác như Liên minh Quốc gia Việt Nam
(VNQDD) và Việt Nam Độc lập Đồng minh hội (Viet Minh) cũng tham gia vào hoạt
động cách mạng. Sự tham gia của các tổ chức này đã tăng cường lực lượng cách mạng và
mở rộng phạm vi hoạt động

IV.3 Phạm vi hoạt động

- Giai đoạn 1930-1935: Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
quyết định xác định phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc là trên toàn Đông Dương, nghĩa là
cả ba dân tộc phải cùng giải phóng dân tộc cùng một lúc.

- Giai đoạn 1936-1939: Phạm vi hoạt động được xác định trên toàn Đông Dương, sôi
nổi nhất là ở thành thị với mục tiêu đòi tự do, dân sinh, dân chủ. Phạm vi giải quyết vấn
đề dân tộc với quy mô rộng rãi ở nhiều nơi, chủ yếu ở thành thị với hình thức đấu tranh
đa dạng và lôi kéo được đông đảo quần chúng tham gia, với nhiệm vụ mục tiêu được đề
ra phù hợp với tình hình mới đối với cả chống phong kiến và đế quốc trên toàn mặt trận
Đông Dương. Với nhiệm vụ trước mắt là chống lại chế độ phản động thuộc địa, phát xít
và chiến tranh sau đó là xóa bỏ tàn tích phong kiến và trả lại tự do, dân chủ cho nhân dân
cả nước.

- Giai đoạn 1939-1945:Trước năm 1939, các hoạt động cách mạng chủ yếu tập trung
ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng và Sài Gòn. Tuy nhiên, trong giai đoạn này,
phạm vi hoạt động của cách mạng đã mở rộng ra nhiều khu vực miền núi, vùng sông
nước và nông thôn. Điều này cho phép việc tổ chức và phát triển lực lượng cách mạng
trên diện rộng hơn và đạt được sự tham gia đông đảo của người dân trên toàn nước.

- Trong giai đoạn từ năm 1930 đến 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ
trương và thực hiện nhiều biện pháp nhằm cải thiện và vượt qua các mặt hạn chế trong
cách mạng Việt Nam. Dưới đây là một số chủ trương quan trọng:

+ Xây dựng Đảng và tổ chức cách mạng: Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã đặt
nền tảng cho việc xây dựng một đảng chính trị đoàn kết, tiến bộ và lãnh đạo trong cuộc
cách mạng. Chủ trương này nhấn mạnh vai trò tối quan trọng của một đội ngũ lãnh đạo
mạnh mẽ, có kỷ luật và tận tâm trong việc tổ chức và chỉ đạo cuộc cách mạng.

+ Kết hợp các giai cấp xã hội: ĐCSVN đề cao sự đoàn kết của các giai cấp xã hội,
nhất là giai cấp công nhân và nông dân, để đấu tranh chung chống lại thực dân Pháp. Chủ
trương này nhằm xây dựng một liên minh đồng minh trong cuộc cách mạng, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển và gia tăng lực lượng của cách mạng Việt Nam.

+ Tăng cường lực lượng vũ trang: ĐCSVN đã gắn chủ trương tăng cường lực lượng
vũ trang trong cuộc cách mạng. Điều này bao gồm việc hình thành và củng cố quân đội
cách mạng nhằm đáp ứng nhu cầu của kháng chiến và bảo đảm an ninh trong quá trình
cách mạng.

+ Xây dựng liên minh quốc tế: ĐCSVN nhận thấy tầm quan trọng của việc xây dựng
liên minh và đoàn kết với các phong trào cách mạng và quốc tế khác. Chủ trương này ghi
nhận tác động quan trọng của viện trợ quốc tế, quyền lợi quốc tế và sự sát cánh của các
cách mạng và quốc tế trong cuộc cách mạng Việt Nam.

Tóm lại, trong khoảng thời gian từ năm 1930 đến 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa ra chủ trương và triển khai nhiều biện pháp nhằm cải thiện các mặt hạn chế trong
cách mạng, bao gồm xây dựng đảng và tổ chức cách mạng, kết hợp các giai cấp xã hội,
tập trung vào công tác tuyên truyền và báo chí, tăng cường lực lượng vũ trang và xây
dựng liên minh quốc tế. Các chủ trương này đã đóng vai trò quan trọng giúp mở rộng và
mạnh mẽ hóa lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do của Việt
Nam

You might also like