You are on page 1of 14

I.

CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHƯNG NĂM (1930-1935)

1. Luận cương chính trị (10-1930):

Năm 1929, kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cuộc Đại khủng
hoảng, bắt đầu từ Mỹ đến các nước Châu Âu. Một số nước tư bản chủ nghĩa đối
phó với tình hình trên bằng cách đi theo con đường phát xít như Đức, Ý, Nhật.
Trong giai đoạn này, Liên Xô tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và tập
thể hóa nông nghiệp, đạt một số thành tựu nhất định. Tác động tích cực đến nền
kinh tế Việt Nam.
Trong nước, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp ngày càng
gay gắt, nhiều thứ thuế bị áp đặt, quyền tự do bị hạn chế. Các cuộc khởi nghĩa
nổ ra chống thực dân Pháp nhưng bị đàn áp khốc liệt, tiêu biểu là khởi nghĩa
Yên Bái tháng 2-1930.
Từ ngày 14 – 30/10/1930, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ nhất
họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thông qua
nghị quyết về tình hình hiện tại của Đông Dương và nhiệm vụ cần thiết của
Đảng, thảo luận Luận cương chính trị, điều lệ Đảng và điều lệ các tổ chức quần
chúng.
Về nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng tư sản dân quyền
là đánh đổ phong kiến, thực hành triệt để thổ địa cách mạng; đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ có quan
hệ khăng khít với nhau, trong đó thổ đại cách mạng là cái cốt của cách mạng tư
sản dân quyền. Vì có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được giai cấp địa
chủ và có đánh tan chế độ phong kiến mới lật đổ được đế quốc chủ nghĩa. Trong
hai vấn đề này, luận cương xác định: “vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng
dân quyền” là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.

Về tập hợp lực lượng cách mạng, Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định Giai
cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, vừa là giai
cấp lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực
mạnh của cách mạng. Khước bỏ vai trò của giai cấp tiểu tư sản, trí thức, địa chủ
vừa và nhỏ.
Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc, Luận cương chính trị năm 1930 khẳng
định làm tư sản dân quyền, tranh đấu đánh đổ các di tích phong kiến để thực
hành thổ địa cách mạng cho triệt để và tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp. Mục tiêu hướng đến là cả độc lập dân tộc và độc lập của toàn Đông
Dương.

Về ưu điểm,

Thứ nhất, luận cương một lần nữa khẳng định tính đúng đắn về vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với cách mạng.

Thứ hai, khẳng định nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng mà
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã nêu ra như nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của
Đảng, tầm quan trọng trong quan hệ với cách mạng vô sản thế giới và lực lượng
cách mạng chủ yếu là công nhân và nông dân.

Thứ ba, đã phát triển và hoàn chỉnh hóa “Chính cương và sách lược vắn tắt”
của Nguyễn Ái Quốc.

Thứ tư, Luận cương là kết quả của sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối uốc tế cộng sản với thực tiễn
cách mạng Việt Nam và cách mạng Đông Dương.

Về hạn chế,

Thứ nhất, Luận cương đề cao việc đấu tranh giành độc lập cho toàn cõi Đông
Dương nhưng bỏ qua sự khác biệt về lịch sử, văn hóa… giữa các nước, chính vì
thế không thể tập hợp sức mạnh, chung sức chung lòng cùng làm cách mạng
được.

Thứ hai, Luận cương không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp mà chỉ nhấn mạnh vào mâu thuẫn giai cấp,
không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu nên không xác định được đâu
là mâu thuẫn cốt lõi cần giải quyết trước.

Thứ ba, Luận cương đánh giá không đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu
tư sản, khả năng chống đế quốc của tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo của một bộ
phận trung và tiểu địa chủ. Luận cương không đề ra được chiến lược liên minh
dân tộc và giai cấp rộng rãi trong đấu tranh chống đế quốc và tay sai.
Thứ tư, Luận cương phủ nhận quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt,
sách lược vắn tắt.

II. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM (1936-1939)

1. Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7/1936)

1.1. Nhiệm vụ cách mạng

Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương là: Chống đế
quốc và phong kiến.

Nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là: Đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa,
chống phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa
bình.

Ngày 26/07/1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị tại Thượng Hải
(Trung Quốc), nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến không thay đổi. Xuất phát từ tình
hình cụ thể lúc bấy giờ, tạm thời chưa nêu khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp
địa chủ mà chỉ nêu khẩu hiệu đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít
và chiến tranh đế quốc, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình. Kẻ thù chủ yếu trước mắt
của nhân dân Đông Dương là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Khẩu
hiệu đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ, phong kiến để giành độc lập dân tộc,
ruộng đất cho dân cày tạm thời gác lại. Vì trong giai đoạn này, Đảng nhận thức được rằng
mục tiêu trước mắt bây giờ là việc giành lại tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình quan trọng
hơn việc phân chia ruộng đất cho dân cày. Đảng xác định rõ ràng kẻ thù chung của toàn
thể dân tộc Việt Nam là phát xít, đế quốc, bọn phản động thuộc địa và tay sai vì mâu
thuẫn về lợi ích giữa đế quốc và toàn dân tộc Việt Nam gay gắt hơn nhiều so với mâu
thuẫn lợi ích giữa địa chủ phong kiến và người nông dân.

1.2. Lực lượng cách mạng

Các giai cấp nhân dân, gồm lực lượng chính là công nhân, nông dân, đoàn kết với
tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản
bản xứ, trung và tiểu địa chủ, các Đảng quốc gia cách mạng.

1.3. Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc


Trên ba nước Đông Dương

1.4. Nhận xét

Ưu điểm

Nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm
vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân
và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp

Hạn chế

Mặc dù đã tập hợp thêm lực lượng nhưng phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc trên
toàn Đông Dương là quá sức, không phát huy hết tinh thần dân tộc trong sự nghiệp giải
phóng đất nước.

2. Chung quanh vấn đề về chiến sách mới (10/1936)

Chiến sách Mới 10/1936 là một chiến sách mới đề xuất bởi chính quyền Cách mạng
Việt Nam trong thời đấu tranh đòi quyền dân chủ. Chủ yếu tập trung tăng cường sức
mạnh nhân dân, bằng cách cải thiện điều kiện kinh tế và xã hội, và tăng hợp tác giữa tổ
chức dân tộc và cộng đồng. Chiến sách còn quan tâm đến phổ biến chủ trương dân chủ và
xây dựng một xã hội công bằng.

2.1. Nhiệm vụ cách mạng

Chiến sách là đại cương, là căn cứ để Đảng thay đổi cách thức hoạt dông theo tình
hình thế giới, nhưng cần nhắc lại chiến lược của Đảng không thay đổi là chiến đấu chống
Đế Quốc và lật đổ Phong Kiến, nhằm giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội dân chủ, tự
do và công bằng. Nhưng theo hoàn cảnh hiện thời, nhiệm vụ của cách mạng chưa phải là
đánh đổ nền thống trị của đế quốc Pháp ở Đông Dương, mà chỉ tranh đấu chống chế độ
thuộc địa dã man, đòi những quyền dân dân chủ tự do, v.v 1..Phối hợp với Đảng cộng sản
Pháp, nhân dân Pháp, chống nạn phát xít, chống chính sách thuộc địa phản động, nhấn
mạnh chích sách của Đảng là chống Đế quốc Pháp, không chống người Pháp,…Cuối
cùng nhiệm vụ cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương là đuổi đế quốc Pháp ra
khỏi xứ, tẩy sạch tàn tích phong kiến, Đông Dương hoàn toàn độc lập! Chủ trương ấy
không bào giờ di dịch2, là mục đích cuối cùng của cách mạng.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000,t.6,tr.144
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000,t.6,tr.152
2.2. Lực lượng cách mạng

Để thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng, ban chấp hành trung ương đảng đã
quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế ở Đông dương bao gồm các giai cấp, các
đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ
Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ 3, với nồng cốt là
liên minh công-nông, sau này để phù hợp với tình hình mới đã được đổi tên thành Mặt
trận dân chủ Đông Dương.

2.3. Phạm vi giải quyết các vấn đề dân tộc

Diễn ra trên mặt trận dân chủ Đông dương và phối hợp với nhân dân Pháp, chống
nạn phát xít, chống chính sách thuộc địa phản động 4, chuyển từ các hình thức bí mật
không hợp pháp sang công khai, và nửa công khai. Tổ chức quần chúng nhân dân đấu
tranh đòi những quyền lợi cơ bản nhất.

2.4. Nhận xét:

Chiến sách Mới tháng 10 năm 1936 là một chiến sách mới được đề xuất bởi chính
quyền Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ Đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (1936-
1947), nhằm giải quyết những vấn đề mới và thách thức mới xuất hiện trong cuộc chiến
chống Đế quốc và Phong kiến. Chiến sách Mới tháng 10 năm 1936 có ưu điểm là tập
trung tăng cường sức mạnh của nhân dân, cải thiện điều kiện kinh tế và xã hội, và tăng
cường sự hợp tác giữa các tổ chức dân tộc và cộng đồng. Chiến sách cũng nhấn mạnh sự
quan tâm đến sự phổ biến và hoàn thiện các chủ trương về quyền dân chủ và dân sinh, và
việc xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ, cùng với đó là một số thành tựu nhất
định. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế, khó khăn khi chủ trương và bảo vệ quyền
lợi nhân dân, do các thế lực phản động, chống phá, như chích sách Pháp-Việt đề huề của
bọn Lê Quang Liêm5 đã chia rẻ mặt trận dân tộc, và đàn áp các cuộc đấu tranh chính
đắng. Việc thực hiện chiến sách trong một môi trường chiến tranh và khống chế của Đế
quốc và Phong kiến là một thách thức lớn. Dẫu vậy, chiến sách vẫn là một bước tiến bộ
trong đấu tranh đòi quyền dân chủ và dân sinh của Đảng tại thời điểm bấy giờ.

Tiểu kết
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000,t.6,tr.144

4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000,t.6,tr.148
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000,t.6,tr.151
Nhờ Đảng có chiến lược đúng đắn, tầm nhìn linh hoạt, hợp thời, mà chiến sách mới
tháng 10 năm 1936 đã mang lại nhiều hiệu quả trong hoạt động cách mạng, học tập theo
kinh nghiệm đấu tranh trước đây, cùng kinh nghiệm từ Quốc tế Cộng sản, không áp dụng
một cách máy móc, bảo chứng cho cách mạng vận động ở Đông Dương thắng lợi là có
hàng triệu dân chúng tổ chức hăng hái tham gia lúc bấy giờ.

Phong trào dân chủ giai đoạn 1936 – 1939 là một phong trào đấu tranh chính trị
diễn ra trên quy mô rộng lớn, hình thức đấu tranh phong phú, lôi cuốn đông đảo quần
chúng tham gia. So với chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1930 đến 1935, chủ
trương từ 1936 đến 1939 có một số sự thay đổi về nội dung và chi tiết hơn:

Về nhiệm vụ cách mạng: Trong giai đoạn từ năm 1936 – 1939, sau khi thấy được
những sai lầm, hạn chế trong Luận cương chính trị tháng 10/1930, Đảng ta nhận thức
được rằng nhiệm vụ trước mắt và quan trọng bây giờ là phải chống phát xít, đế quốc, bọn
phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, dân sinh, cơm áo, hòa bình và tạm gác cuộc cách
mạng điền địa. Với việc Đảng đã kịp thời nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ trước mắt
chọn địch nhân chính là chống phát xít, đánh đổ đế quốc góp phần giải quyết quan hệ
giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt, phù hợp với tình hình đất nước trong
giai đoạn này.

Trong chủ trương mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở rộng phạm vi của cuộc đấu
tranh của mình, bao gồm cả việc giải quyết vấn đề dân tộc và các vấn đề xã hội, kinh tế
và chính trị. Chủ trương mới cũng đề cập đến việc khắc phục các hạn chế của Đảng, bao
gồm việc đảm bảo sự bình đẳng giữa các dân tộc và việc giải quyết các vấn đề xã hội,
kinh tế và chính trị một cách công bằng. Tuy nhiên, khắc phục hoàn toàn các hạn chế đó
chưa thể đảm bảo trong thời gian ngắn.

Về lực lượng cách mạng: Trong giai đoạn 1936-1939, Đảng đã lôi kéo được đông
đảo quần chúng tham gia, công nhận công nhận vai trò cách mạng của tầng lớp tư sản,
tiểu sư sản và địa chủ phong kiến. Đây là bước ngoặt lớn so với giai đoạn trước. Giai
đoạn 1932-1935 thì lực lượng cách mạng là giai cấp nông dân và công nhân, Đảng đã
không đánh giá đúng vai trò cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản. Tư sản thương nghiệp,
tư sản công nghiệp thì đứng về phe đế quốc chống lại cách mạng, giai cấp tiểu tư sản thì
có thái độ do dự, tiểu tư sản thương gia thì không tán thành các mạng; tiểu tư sản tri thức
chỉ hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu.
Về phạm vi giải quyết các vấn đề dân tộc: Giống như giai đoạn trước thì giai đoạn
1936-1939 phạm vi vẫn là toàn Đông Dương, không khai thác được quyền tự quyết dân
tộc trong sự nghiệp giải phóng đất nước.

III. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM 1939-1945:

1. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ
6 (11/1939):

a) Nhiệm vụ cách mạng:

Nhiệm vụ của đảng giải quyết mối quan hệ giữa 2 nv chống đế quốc và chống
phong kiến. Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tát cả bọn phản động tay sai cho
đế quốc và phản động dân tộc.

Đông Dương (ĐD) hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). Sự liên
hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết bắt buộc các dân tộc phải thành lập một
quốc gia duy nhấtm. Mỗi dân tộc có quyền giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình,
song tự quyết cũng không nhất định là rời hẳn ra nhau.

Lập Chính phủ Liên bang Cộng hòa dân chủ Đông Dương. Đánh đuổi hải lục không
quân của đế quốc Pháp ra khỏi xứ, lập quốc dân cách mệnh quân. Hội nghị làm sáng tỏ
mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, xác định rõ nhiệm vụ phản đế là
quan trọng, làm rõ thêm tính chất khăng khít nhưng không tiến hành nhất loạt ngang nhau
giữa hai nhiệm vụ đó.

b) Tập hợp lực lượng cách mạng:

Mặt trận dân chủ trước kia không còn phù hợp nữa không còn thích hợp nữa do đó
phải thành lập Mặt trận T.N.D.T.P.Đ.Đ.D để chống đế quốc chiến tranh, đánh đổ đế quốc
Pháp và phong kiến thối nát và giải phóng toàn bộ Đông Dương.

Khác với Mặt trận dân chủ là sự liên hiệp các giai cấp có ít nhiều tiến bộ, các đảng
phái cách mệnh với các đảng phái cải lương để đòi cải cách tiến bộ, Mặt trận
T.N.D.T.P.Đ.Đ.D là mặt trận cách mệnh, là sự liên hiệp các dân tộc, các giai cấp, các
đảng phái, các phần tử có tính chất phải đế. Mặt trận T.N.D.T.P.Đ.Đ.D là một mặt trận
kịch liệt chống với các đảng phái, các xu hướng cải lương đề huề, làm liệt bại chúng nó
hoàn toàn trong phong trào giải phóng dân tộc, điều mà Mặt trận dân chủ chưa làm được.
Lực lượng chính của cách mệnh là công nông dựa vào các tầng lớp trung sản thành
thị, thôn quê và đồng minh trong chốc lát hoặc trung lập giai cấp tư sản bổn xứ, trung tiểu
địa chủ. Mặt trận ấy phải dưới quyền chỉ huy của vô sản giai cấp. Công nông vì quyền lợi
dân tộc mà sẵn sàng bắt tay với tiểu tư sản và những tầng lớp tử sản bổn xứ, trung tiểu
địa chủ để khi cao trào cách mệnh thì nếu họ có rời bỏ cách mạng thì ít nhất vẫn ở thế
trung lập, điều rất cần thiết cho cách mạng. Ngoài những lực lượng chính và phụ, cuộc
cách mệnh còn có lực lượng dự trữ gián tiếp như vô sản Pháp, vô sản thế giới, Liên Xô,
dân chúng thuộc địa và bán thuộc địa.

c) Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc:

Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là
đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương
hoàn toàn độc lập. "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con
đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô
luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập".

Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
(M.T.T.N.D.T.P.Đ.Đ.D) để tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, đánh đổ đế quốc Pháp
và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho Đông Dương
hoàn toàn độc lập với quyền dân tộc tự quyết.

d) Nhận xét:

- Ưu điểm: Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939 đánh dấu bước
phát triển quan trọng về lý luận và đường lối phương pháp cách mạng của Đảng, thể hiện
sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. Nghị quyết góp phần làm phong
phú kho tàng lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

- Nhược điểm: Ta vẫn đang đặt nhiệm vụ cách mạng khá lớn khi muốn cùng một
lúc chống đế quốc và phong kiến, lực lượng cách mạng còn yếu.

2. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ
7 (11/1940):

a) Nhiệm vụ cách mạng:


Đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và những lực lượng ngoại xâm. Đánh đổ các hạng tay
sai cho đế quốc, phản bội quyền lợi dân tộc. Chỉ rõ, kẻ thù chính của nhân dân Đông
Dương lúc này là đế quốc Pháp - Nhật.

Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp thiết trước mắt: vấn đề thứ nhất, duy trì lực
lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, dùng hình thức vũ trang công tác,
xây dựng cơ sở cách mạng, khi cần thiết thì chiến đấu chống địch khủng bố, tiến tới
thành lập căn cứ du kích, lấy vùng Bắc Sơn, Võ Nhai làm trung tâm, do Trung ương trực
tiếp chỉ đạo. Vấn đề thứ hai, sau khi nghe báo cáo về tình hình Nam Bộ, Hội nghị chỉ thị
cho Xứ uỷ Nam Kỳ đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam Bộ vì chưa có đủ điều kiện chủ
quan và khách quan bảo đảm giành thắng lợi.

b) Tập hợp lực lượng cách mạng:

Chủ lực cách mạng là vô sản giai cấp gồm có vô sản thành thị và thôn quê (trong đó
thợ thuyền kỹ nghệ là lực lượng kiên quyết nhất).

Sức dự trữ trực tiếp của cách mạng tư sản Đông Dương là: trung bần nông; tiểu tư
sản thành thị; tư sản bản xứ; địa chủ phản đế; Hoa kiều; cách mạng ở các nước lân bang;
cách mạng ở Pháp, ở Nhật. Sức dự trữ gián tiếp của cách mạng tư sản Đông Dương là:
Liên bang Nga Xôviết; cách mạng thế giới; cuộc xung đột giữa các đế quốc chủ nghĩa về
vấn đề Đông Dương.

Chiến thuật của Đảng trong lúc này là tập trung hết thảy những lực lượng phản đế,
phản phong ở ĐD, dùng hết thảy những lực lượng ấy thành một Mặt trận dân tộc thống
nhất phản đế, ráng sức đập thẳng vào kẻ thù chính và các hạng tay sai của chúng.

Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mạng
phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phải, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện việc
thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy.

c) Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc:

Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế tranh đấu tiến lên võ trang bạo động đánh đổ
đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm, diệt trừ phong kiến và các
hạng phản bội quyền lợi dân tộc, làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng.

d) Nhận xét:
- Ưu điểm: Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 1-1940 sáng suốt nhận
định kẻ thù chính của nhân do Đông Dương lúc đó là phát xít Pháp - Nhật, đồng thời có
chủ trương đúng về cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ.

- Nhược điểm: Tuy đã có nhiều thay đổi tuy nhiên chúng ta vẫn còn đặt phạm vi
giải quyết là giải phóng dân tộc và toàn bộ Đông Dương điều khó có thể thực hiện cùng
lúc.

3. NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG LẦN THỨ
8 (5/1941):

a) Nhiệm vụ cách mạng:

Nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông
Dương. Nhiệm vụ trước hết của cách mạng Việt Nam lúc này nhấn mạnh Đảng của giai
cấp công nhân, nếu muốn tập hợp lực lượng toàn dân thì phải giương cao ngọn cờ dân
tộc, phải đoàn kết hết sức rộng rãi trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp, phải
đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc, phải giành cho được độc lập dân
tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào.

b) Tập hợp lực lượng cách mạng:

Sau khi đề ra phương hướng, chủ trương mới về tính chất, quy mô rộng mở của Mặt
trận, Hội nghị lần này đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải thay đổi tổ chức và phương
thức vận động của Mặt trận. Nghị quyết chỉ rõ: phải vận dụng một phương pháp hiệu
triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc trong lòng dân. Chính
vì vậy, mặt trận hiệu triệu của Đảng ta cần phải thay đổi. Lúc này, tên gọi Mặt trận
Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương cần phải đổi sang tên gọi khác có tính chất dân
tộc hơn, tạo nên một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn và có thể thực hiện được trong tình thế
hiện tại. Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã nhất trí quyết định lập Mặt
trận có tên gọi: Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Dưới sự chủ trì của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã kiện toàn ban lãnh đạo của Đảng, cử ra Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Chế độ làm việc của Ban Chấp hành Trung ương theo nguyên
tắc: nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, nhất trí, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
phê bình và tự phê bình.
Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trong Mặt trận đều lấy tên là Hội
Cứu quốc như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu
quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Hội Nhi đồng Cứu vong, Hội
Quân nhân Cứu quốc... Với các dân tộc Lào, Cao Miên, Đảng chủ trương thành lập Mặt
trận ở mỗi nước, tiến tới thành lập một Mặt trận chung Đông Dương.

Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội nghị
tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân
cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân
cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức.

Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết
liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo
một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà
mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".

c) Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc:

Tập trung chủ yếu vào giải phóng dân tộc Việt Nam. Hội nghị quyết định đặt vấn đề
dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam, Lào, Khơ me, thi hành đúng quyền
“dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ mật thiết, giúp đỡ nhau giành thắng lợi...

Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ và tăng
thêm thành phần vô sản trong Đảng.

d) Nhận xét:

- Ưu điểm: Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn
chỉnh chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939,
có ý nghĩa quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

- Nhược điểm: Về cơ bản Văn kiện 1941 đã kiện toàn được các văn kiện trước đó

Bảng tiểu kết

Văn kiện 1939 Văn kiện 1940 Văn kiện 1941


Nhiệm vụ Chống đế quốc và Chỉ rõ, kẻ thù chính Giải phóng dân tộc
phong kiến của nhân dân Đông
Dương lúc này là đế
quốc Pháp - Nhật.
Lực lượng Lực lượng chính là Chủ lực cách mạng Việt Minh và các tổ
công nông dựa vào là vô sản giai cấp chức quần chúng
các tầng lớp trung gồm có vô sản yêu nước
sản thành thị, thôn thành thị và thôn
quê và đồng minh quê
trong chốc lát hoặc
trung lập giai cấp tư
sản bổn xứ, trung
tiểu địa chủ
Phạm vi đánh đổ đế quốc đế quốc Pháp, Nhật Tập trung chủ yếu
Pháp và phong kiến và các lực lượng vào giải phóng dân
thối nát và giải phản động ngoại tộc Việt Nam.
phóng toàn bộ xâm, diệt trừ phong
Đông Dương. kiến và các hạng
phản bội quyền lợi
dân tộc, làm cho
Đông Dương được
hoàn toàn giải
phóng.

So sánh: Qua quá trình phân tích 3 văn kiện có thể thấy rằng Văn kiện 1941 đã có nhiều
thay đổi và kiện toàn lại những điểm thiếu sót hoặc các phạm vi rộng mà đất nước ta lúc
bấy giờ chưa đủ để thực hiện. Nhận định rõ được kẻ thù chính, tìm được con đường cách
mạng đúng đắn nhất để thực hiện giải cứu dân tộc.

Tài liệu tham khảo:

1) https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/nhung-quyet-sach-quan-trong-tu-hoi-
nghi-trung-uong-8-425025
2) https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3097/14317/hoi-nghi-lan-thu-viii-ban-
chap-hanh-trung-uong-djang-va-quyet-djinh-tien-hanh-cong-cuoc-giai-phong-dan-
toc-tu-ngay-10-djen-ngay-19-5-1941.html
3) https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/lich-su-
dang/lich-su-bien-nien-dang-cong-san-viet-nam-tap-2-175
Lịch sử biên niên Đảng cộng sản Việt Nam tập 2 – 2008, Chính trị Quốc gia – Sự thật

IV. TỔNG KẾT:

Xác định mâu thuẫn cơ bản nhất của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa
toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai đảng đã đề ra nhiệm vụ
mới cho cách mạng Việt Nam:

Đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc. Điều đó thể hiện rõ
nhất trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) xác định nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam là “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản” (tức là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trước).

Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc,
giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi
của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là:
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ
Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản
động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo
hình thức XôViết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách
mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây
dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát
động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.
Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh
đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân
phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về
chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy
được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất,
kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945) dưới sự lãnh đạo sáng
suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn
kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng
sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng
tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của
thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta
mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam
bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt
Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác
cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các
dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã
nắm chính quyền toàn quốc”.

You might also like