You are on page 1of 15

2.2.

Quá trình khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc từ tháng 3-1935 đến tháng 5-1941

2.2.1. Trong những năm 1930-1935

a) Hoàn cảnh lịch sử

Tháng 4-1930, Theo quyết định của Quốc tế Cộng sản, Trần Phú về nước hoạt động và
được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, đồng thời bắt tay vào nghiên cứu
thực tế, viết Luận cương chính trị của Đảng, chuẩn bị và tổ chức Hội Nghị lần thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương cùng Ban Thường vụ.

Từ ngày 14 đến 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại
Hương Cảng, Trung Quốc do Trần Phú chủ trì. Hội nghị thống nhất: đổi tên Đảng Cộng sản
Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; thông qua Luận cương chính trị của Đảng
Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo; cử Trần Phú làm Tổng Bí thư.

b) Chủ trương khôi phục tổ chức Đảng và phong trào cách mạng

Ngay sau khi thành lập, Đảng đã trở thành đội tiên phong trong việc dẫn dắt cuộc cách
mạng và đã khởi xướng một cuộc cách mạng có quy mô lớn, đỉnh cao là Xôviết Nghệ Tĩnh.
Đế quốc Pháp và các tay sai của họ đã rất tàn bạo và tàn ác trong việc đàn áp và khủng bố.
Chúng ta đã phải đối mặt với mất mát lớn trong lực lượng, với nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ và
nhiều cán bộ cách mạng và đảng viên xuất sắc bị bắt, giết hoặc đày ải. Kết quả là, các phong
trào đấu tranh sau đó đã trở nên ít sôi nổi hơn.

Thành tựu lớn nhất của cuộc cách mạng 1930-1931 mà quân thù không thể xóa bỏ là
sự thực tế về vai trò và khả năng lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản, Đảng, và việc hình
thành khối liên minh công-nông trong cuộc chiến cách mạng đã gieo mầm niềm tin mạnh mẽ
vào Đảng và cuộc cách mạng trong tâm trí của nhân dân. Mặc dù bị kẻ thù khủng bố, nhưng
một số nơi vẫn duy trì các cơ sở Đảng, chẳng hạn như Hà Nội, Sơn Tây, Hải Phòng, Nghệ
Tĩnh... Các đảng viên chưa bị bắt vẫn nỗ lực tìm lại cơ sở để tái thiết tổ chức.
Việc khôi phục Đảng cũng phải kể đến sự đóng góp quan trọng của Quốc tế Cộng sản.
Họ đã lựa chọn một số tài năng trẻ tốt nghiệp từ Đại học Phương Đông và gửi đến Hồng
Kông, Trung Quốc, để thành lập Ban chỉ huy hải ngoại - hoạt động với tư cách là Ban Chấp
hành Lâm thời (thay thế cho Ban Chấp hành trước đây đã tan rã): Lê Hồng Phong, Hà Huy
Tập, Phùng Chí Kiên... Trong đó, Lê Hồng Phong đứng đầu và lãnh đạo, và họ đã công bố
Chương trình hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương (T6-1932).

Cuộc chiến đấu đòi ân xá tù nhân chính trị đã dẫn đến năm 1934, khi toàn quyền Đông
Dương đã ký lệnh ân xá cho tù nhân chính trị ở Đông Dương. Điều này đánh dấu lần đầu tiên
Pháp thực hiện lệnh ân xá cho tù nhân chính trị.

Nhờ những nỗ lực phi thường của Đảng và sự hỗ trợ của cộng đồng Cộng sản quốc tế,
đến cuối năm 1934 và đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng đã được phục hồi và phong
trào quần chúng bắt đầu trở lại sôi nổi.

Khi hệ thống tổ chức của Đảng đã được phục hồi từ cơ sở đến Trung ương, Ban chỉ
huy của Đảng quyết định tổ chức Đại hội Đảng. Vào tháng 3 năm 1935, Đại hội lần đầu tiên
của Đảng đã được tổ chức tại Ma Cao, Trung Quốc. Đại hội đã đặt ra một số nhiệm vụ trọng
tâm, bao gồm củng cố và phát triển Đảng về mặt số lượng và chất lượng, tăng cường cuộc
vận động và thu hút sự ủng hộ của quần chúng, và tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến
tranh, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc. Hồ Chí Minh đã lý giải rằng Chính sách
Đại hội Ma Cao không hoàn toàn phù hợp với tình hình cách mạng thế giới và trong nước tại
thời điểm đó.

2.2.2. Trong những năm 1936-1939

a) Hoàn cảnh lịch sử

Trên toàn cầu, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ 1929 đến 1933 đã làm gia tăng
mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản và đẩy phong trào cách mạng của quần chúng lên cao.
Một số quốc gia đã lựa chọn con đường phát xít, sử dụng bạo lực để đàn áp phong trào đấu
tranh trong nước và tích cực chạy đua trong việc tăng cường sự vũ trang và khởi đầu cuộc
chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít đã chiến thắng ở Đức, Ý, Nhật Bản, và chúng đã
liên kết thành phe "Trục," tuyên bố đối mặt với phong trào Quốc tế Cộng sản và khởi đầu
cuộc chiến tranh để chia lại thế giới.

Nguy cơ từ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đã đe dọa nghiêm trọng nền hoà
bình và an ninh quốc tế. Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản, tổ chức tại Matxcơva (T7-1935) ,
đã xác định rằng kẻ thù nguy hiểm hàng đầu của nhân dân thế giới không phải là chủ nghĩa
đế quốc nói chung, mà là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ chính của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trên toàn thế giới không phải là lật đổ chế độ tư bản và chiếm quyền lãnh đạo,
mà là chống lại chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, đòi hòa bình, tự do, dân chủ và cải thiện
cuộc sống. Đối với các quốc gia thuộc địa và nửa thuộc địa, việc thành lập Mặt trận thống
nhất chống lại đế quốc trở nên cực kỳ quan trọng.

Trong nước, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã gây ra nhiều biến động sâu sắc trong
đời sống của tất cả các tầng lớp và giai cấp trong xã hội. Trong khi đó, các thế lực phản động
tại Đông Dương đã tận dụng cơ hội để tập trung khai thác và bóc lột nhân dân, đồng thời
khủng bố phong trào đấu tranh của họ, tạo ra một không khí chính trị căng thẳng và gây ra
yêu cầu mạnh mẽ về cải cách dân chủ.

b) Chủ trương và nhận thức mới của Đảng

Vào tháng 7 năm 1936, Ban Chấp hành Trung ương đã tổ chức Hội nghị lần thứ hai tại
Thượng Hải. Dựa trên tình hình thực tế, Hội nghị xác định rằng mục tiêu chiến lược vẫn
không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất, đó là "cách mạng tư sản dân quyền - phản đế và
điền địa - lập chính quyền công nông bằng hình thức Xô viết" và "dự bị điều kiện cho cách
mạng xã hội chủ nghĩa". Kẻ thù nguy hiểm nhất trong tình thế hiện tại là bọn phản động
thuộc địa và đám tay sai của họ. Nhiệm vụ chính của cuộc cách mạng là chống lại phát xít,
chiến tranh đế quốc, phản động thuộc địa và tay sai, và đòi những quyền tự do, dân chủ, cơm
áo và hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ này, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định thành
lập Mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm các giai cấp, đảng phái, các tôn giáo và các dân tộc
khác nhau ở Đông Dương để đấu tranh cho những quyền dân chủ cơ bản.
Liên quan đến đoàn kết quốc tế, Đảng đã hợp nhất với giai cấp công nhân và Đảng
Cộng sản Pháp, ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp và Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp trong
cuộc chiến chung chống lại kẻ thù chung là phát xít và phản động thuộc địa ở Đông Dương.

Để cải thiện tổ chức và phương pháp đấu tranh, Hội nghị đã quyết định chuyển từ hình
thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, bán công
khai, hợp pháp và bán hợp pháp. Mục tiêu là mở rộng mối quan hệ của Đảng với quần chúng.

Vào tháng 10 năm 1936, Trung ương Đảng trải qua một cuộc tổ chức lại với đồng chí
Hà Huy Tập được bổ nhiệm làm Tổng Bí thư. Trong văn kiện xung quanh chiến sách mới,
Ban Chấp hành Trung ương đã đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ quan trọng
của cách mạng Đông Dương: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng điền địa. Họ nhấn
mạnh rằng cách mạng giải phóng dân tộc không nhất thiết phải liên kết chặt với cuộc cách
mạng điền địa. "Nếu việc phát triển cuộc đấu tranh về đất đai gây trở ngại cho cuộc đấu tranh
phản đế, thì phải xem xét đâu là vấn đề quan trọng cần giải quyết trước". Điều này phản ánh
một nhận thức mới phù hợp với tinh thần Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng và bước
đầu khắc phục hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930.

Phong trào quần chúng phát triển mạnh mẽ từ giữa năm 1936 trở đi, xác nhận sự
chuyển đổi đúng đắn trong chỉ đạo của Đảng. Các cuộc họp Hội nghị thứ ba (T3-1937), thứ
tư (T9-1937), và thứ năm (T3-1938) đã tập trung vào công việc tổ chức của Đảng và quyết
định mở rộng hơn nữa các phương pháp tổ chức và hoạt động để thu hút đông đảo quần
chúng vào Mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phát xít, và đòi những quyền tự do,
cơm áo, hòa bình.

Tại Hội nghị tháng 7-1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã cho xuất bản tác phẩm
"Tự " chỉ trích và nhằm rút ra kinh nghiệm từ những sai lầm và thiếu sót của các Đảng viên
trong cuộc vận động tranh cử tại Hội đồng quản hạt Nam kỳ vào tháng 4-1939. Tác phẩm này
đã đi sâu vào phân tích các vấn đề quan trọng liên quan đến xây dựng Đảng và tổng kết kinh
nghiệm từ cuộc vận động dân chủ của Đảng, đặc biệt là về đường lối trong việc xây dựng
Mặt trận dân chủ Đông Dương. Tác phẩm không chỉ có tác dụng quan trọng trong việc khắc
phục những sai sót và lệch lạc trong phong trào vận động dân chủ, mà còn góp phần tăng
cường sự đoàn kết và thống nhất trong nội bộ Đảng. Nó cũng đánh dấu một bước quan trọng
trong công tác xây dựng Đảng và trong việc thúc đẩy sự tham gia của quần chúng.

Tóm lại, trong giai đoạn từ 1936 đến 1939, Đảng đã thực hiện một cuộc cách mạng
mạnh mẽ trên nhiều mặt trận, bao gồm chính trị, kinh tế, và văn hóa tư tưởng, với các hình
thức đấu tranh đa dạng và linh hoạt. Cuộc vận động dân chủ quy mô lớn đã mở rộng và nâng
cao uy tín và tầm ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, và triết lý Mác-Lênin và đường lối
của Đảng đã được truyền bá rộng rãi trong mọi tầng lớp xã hội. Đồng thời, tổ chức Đảng đã
được củng cố và mở rộng để đáp ứng các thách thức và nhiệm vụ trong tình thế chính trị phức
tạp.

c) Giải quyết hạn chế

Đường lối chính trị mà Đảng đã trải qua sự điều chỉnh trong quan điểm để phù hợp với
tinh thần của Cương lĩnh chính trị ban đầu của Đảng và bước đầu khắc phục những hạn chế
của Luận cương chính trị tháng 10-1930 về chiến lược, nhiệm vụ, lực lượng cách mạng, và
phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc.

Về nhiệm vụ, đã có sự nhận thức chính xác về kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất,
chính là bọn phản động thuộc địa và đồng minh của họ.

Về chiến lược, đã tách biệt cuộc cách mạng điền địa ra khỏi cách mạng dân tộc và đặt
mục tiêu giải phóng dân tộc lên hàng đầu, hiểu rằng giải quyết vấn đề dân tộc là yếu tố quan
trọng.

Về lực lượng cách mạng, đã xây dựng mối quan hệ mạnh mẽ giữa liên minh công-
nông và tạo ra một mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, từ đó phát huy được sức mạnh của toàn
bộ nhân dân.

Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc, đã xác định chính xác phạm vi của Việt Nam,
không còn coi Đông Dương là toàn bộ phạm vi. Giải quyết tình hình dân tộc trở thành ưu tiên
hàng đầu.
2.2.3. Chủ trương đấu tranh từ năm 1939 đến năm 1941

a) Hoàn cảnh lịch sử

- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ:

Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến.
Chính quyền Pháp đã triển khai hàng loạt biện pháp để đàn áp các phong trào dân chủ nội bộ
và các cuộc cách mạng thuộc địa.

Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22-6-1941,
quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, tính chấtchiến
tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do LiênXô làm trụ
cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.

Tháng 6 năm 1940, Đức tiến hành cuộc tấn công vào Pháp và Chính phủ Pháp đã phải
đầu hàng. Ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân đội phát xít Đức tiến công Liên Xô. Từ khi phát
xít Đức tiến hành cuộc tấn công vào Liên Xô, chiến tranh đã chuyển từ cuộc chiến tranh đế
quốc ban đầu sang cuộc chiến đấu giữa các lực lượng dân chủ, với Liên Xô đóng vai trò là là
nước đứng sau các lực lượng chống phát xít, trong khi Đức lãnh đạo các lực lượng phát xít.

- Tình hình trong nước:

Tại Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp đã áp dụng chính sách phản động trong
thời kỳ chiến tranh: họ đã sử dụng biện pháp bạo lực để đàn áp phong trào cách mạng của
nhân dân Việt Nam và tập trung vào việc đàn áp Đảng Cộng sản Đông Dương. Họ thực hiện
chính sách "kinh tế chỉ huy" để tăng cường thu thập tài nguyên và lực lượng lao động của
nhân dân để phục vụ chiến tranh, và họ đã buộc nhiều công dân Việt Nam phải làm bia đỡ
đạn cho Pháp

Tận dụng cơ hội sau khi Pháp đầu hàng, vào tháng 9 năm 1940, Nhật Bản xâm lược
Đông Dương và Pháp đã nhanh chóng đầu hàng, chuyển quyền kiểm soát của Đông Dương
cho Nhật. Cuộc sống của người dân Việt Nam trở nên cực kỳ khó khăn trong bối cảnh chính
trị và kinh tế rối ren. Mâu thuẫn giữa người dân Việt Nam và các thế lực Pháp, Nhật, và tay
sai phản động trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
b) Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

Thể hiện qua: Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939); Hội nghị Trung ương lần thứ
7 (11-1940); Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941).

- Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11-1939):

Hội nghị phân tích tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai: đây là cuộc chiến
tranh giữa hai tập đoàn đế quốc nhằm tranh giành, chia lại thị trường thế giới. Thủ phạm
chính của cuộc chiến tranh là phát xít Đức - Ý - Nhật. Các nước đế quốc trong khi đánh nhau
đều có âm mưu xoay cuộc chiến chĩa mũi nhọn vào Liên Xô. Hội nghị nhận định: chiến tranh
thế giới sẽ gieo đau thương tai hoạ ghê gớm cho loài người “thế giới sẽ là cái lò sát sinh lớn?
Nhân loại sẽ phải chịu một số kiếp vô cùng thê thảm”.

Về tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định Đông Dương sẽ bị lôi kéo vào guồng
máy chiến tranh "một cuộc đại thảm sát xưa nay chưa từng thấy”, phát xít Nhật sẽ xâm chiếm
Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật. Chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ
phát xít “một thứ phát xít quân nhân thuộc địa nên lại càng tham tàn độc ác bội phần”. Toàn
bộ đời sống xã hội của các giai cấp, các dân tộc ở Đông Dương bị đảo lộn.Hội nghị phân tích
rõ thái độ từng giai cấp trong xã hội, xu hướng chính trị của các đảng phái, tôn giáo.

Hội nghị kết luận: mối liên quan lực lượng các giai cấp như sau:

Một bên là đế quốc Pháp cầm hết quyền kinh tế chính trị dựa vào bọn vua quan bổn xứ
thối nát và bọn chó săn phản bội dân tộc.

Một bên là tất cả các dân tộc bổn xứ bị đế quốc chủ nghĩa Pháp áp bức như trâu ngựa
và đẽo rút xương tuỷ... Những thảm trạng do đế quốc chiến tranh gây nên sẽ làm cho trình tự
cấp tiến hoá và cách mệnh hoá của quần chúng hết sức mau chóng... Cuộc khủng hoảng kinh
tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ
bùng...
Sau khi phân tích rõ mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất ở Đông Dương lúc này là mâu
thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương, Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước
mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông
Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông
Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất
cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập”.

Nhằm tập trung mọi lực lượng phục vụ nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến tranh đế
quốc, giành độc lập dân tộc, Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất,
thay bằng khẩu hiệu “tịch ký ruộng đất của những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc”.

Lần đầu tiên, Hội nghị làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản
phong, xác định rõ nhiệm vụ phản đế là quan trọng, làm rõ thêm tính chất khăng khít nhưng
không tiến hành nhất loạt ngang nhau giữa hai nhiệm vụ đó.

Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế ĐôngDương thay
cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, dựa trên cơ sở liên minh công nông là “hai lực lượng
chính của cách mạng” để đoàn kết tất cả các giai cấp các đảng phái, các dân tộc các phần tử
phản đế chĩa mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu là đế quốc và tay sai của chúng.
Khẩu hiệu lập chính quyền Xôviết công, nông binh được thay thế bằng khẩu hiệu lập chính
quyền dân chủ cộng hoà.

Về phương pháp cách mạng, Hội nghị quyết định chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân
sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai, từ hoạt
động hợp pháp nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp “bước tới bạo động làm
cách mạng giải phóng dân tộc”.

Hội nghị đặc biệt chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, đề ra những nguyên tắc và
biện pháp cụ thể nhằm củng cố Đảng về mọi mặt. Phải thống nhất ý chí và hành động, phải
mật thiết liên lạc với quần chúng, phải có vũ trang lý luận cách mạng phải lập tức khôi phục
hệ thống tổ chức Đảng Trung - Nam - Bắc, phải khuếch trương và củng cố cơ sở Đảng ở các
thành thị, các trung tâm điểm kỹ nghệ và các hầm mỏ, đồn điền, thực hiện tự phê bình và đấu
tranh trên hai mặt trận chống “tả” khuynh và “hữu” khuynh, đặc biệt chú trọng sự thống nhất
ý chí và hành động trong toàn Đảng.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939 đánh dấu bước phát triển quan
trọng về lý luận và đường lối phương pháp cách mạng của Đảng, thể hiện sự nhạy bén về
chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. Nghị quyết góp phần làm phong phú kho tàng lý
luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân[1][2]

- Đánh giá Hội nghị Trung ương Đảng lần 6:

Hội nghị Trung ương Đảng lần VI (11/1939) đã khắc phục những hạn chế trong Luận
cương thời điểm đó. Điều đáng chú ý là Đảng chúng ta đã nâng cao biểu tượng của sự giải
phóng dân tộc và thực hiện một cuộc đoàn kết rộng rãi, bao gồm tất cả các tầng lớp giai cấp
và các dân tộc ở Đông Dương, trong một mặt trận dân tộc thống nhất nhằm đối phó với kẻ
thù chung. Trong khi Luận cương ban đầu tập trung vào cuộc đấu tranh giai cấp và cách
mạng ruộng đất, Hội nghị lần thứ sáu đã tạm thay khẩu hiệu "Cách mạng ruộng đất" bằng
khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất từ đế quốc, Việt gian chia cho dân cày ." Sự thay đổi này đã
mở ra một giai đoạn mới trong cuộc đấu tranh, giai đoạn trực tiếp hướng tới chiến thắng của
cuộc cách mạng tháng Tám sau này.

Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương để
thay thế cho Mặt trận Dân chủ. Đồng thời, hội nghị cũng quyết định áp dụng các hình thức
đấu tranh phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, với sự tập trung vào việc xây dựng Đảng
để thúc đẩy sự thống nhất về ý chí và hành động. Điều này đánh dấu sự chuyển đổi quyết
định trong sự lãnh đạo của cách mạng Việt Nam, đưa vào giai đoạn trực tiếp hướng đến độc
lập dân tộc.

- Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (11-1940):


1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,2000, t. 6, tr.
509-567.
2
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, 2008
Tháng 6-1940, Pháp đầu hàng phát xít Đức, lập Chính phủ bù nhìn Visi (Vichy). Lợi
dụng cơ hội này, từ cuối tháng 9-1940, phát xít Nhật kéo quân vào chiếm Đông Dương. Nhân
dân Đông Dương lâm vào tình cảnh “một cổ hai tròng”. Quần chúng nung nấu căm hờn, khởi
nghĩa Bắc Sơn đã nổ ra, nhân dân Nam Kỳ đang ráo riết chuẩn bị khởi nghĩa.

Sau Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, nhiều cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng bị sa vào tay giặc.

Trước tình hình ấy, Trung ương Đảng họp Hội nghị từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, tại
làng Đình Bảng (huyện Từ Sơn, Bắc Ninh). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trường
Chinh, Hạ Bá Cang, Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu, Trần Đăng Ninh.

Phân tích tình hình thế giới, Hội nghị nêu rõ: Cuộc chiến tranh thế giới ngày càng lan
rộng, đế quốc Pháp đã bại trận, phát xít Nhật thừa cơ mở rộng chiến tranh, giành lấy những
thuộc địa của Pháp, Anh, Mỹ ở Viễn Đông. Hội nghị nhận định: “Cuộc đế quốc chiến tranh
này rất có thể chuyển biến thành cuộc chiến tranh giữa đế quốc với Liên Xô”.

Về tình hình trong nước, Hội nghị nhận định, từ khi phát xít Pháp - Nhật câu kết,
ápbức bóc lột nhân dân ta, mâu thuẫn giữa chúng và toàn thể dân tộc Việt Nam càng trở nên
sâu sắc, một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ
mệnh thiêng liêng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành
lấy quyền tự do độc lập.

Về tình hình Đảng và các hội quần chúng, Hội nghị chỉ rõ, từ khi Đảng ta chủ trương
lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thì nhiều nơi lại xao nhãng việc tổ
chức Công hội và Nông hội, chỉ chú trọng tổ chức Hội Phản đế cứu quốc.

Hội nghị khẳng định: “Tình thế hiện tại không thay đổi gì tính chất cơ bản của cuộc
cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương”, chủ trương chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược,
nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 là đúng.

Hội nghị chỉ rõ, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là đế quốc Pháp -
Nhật. Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp thiết trước mắt: vấn đề thứ nhất, duy trì lực lượng
vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, dùng hình thức vũ trang công tác, xây dựng
cơ sở cách mạng, khi cần thiết thì chiến đấu chống địch khủng bố, tiến tới thành lập căn cứ du
kích, lấy vùng Bắc Sơn, Võ Nhai làm trung tâm, do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Đồng chí
Hoàng Văn Thụ chịu trách nhiệm thực hiện Nghị quyết này. Vấn đề thứ hai, sau khi nghe báo
cáo về tình hình Nam Bộ, Hội nghị chỉ thị cho Xứ uỷ Nam Kỳ đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở
Nam Bộ vì chưa có đủ kiện chủ quan và khách quan bảo đảm giành thắng lợi. Đồng chí Phan
Đăng Lưu, ủy viên Trung ương Đảng được giao nhiệm vụ truyền đạt chủ trương này của
Trung ương đến Đảng bộ Nam Kỳ.

Ban Chấp hành Trung ương lâm thời được thành lập gồm các đồng chí Trường Chinh,
Hoàng Văn Thụ, Phan Đăng Lưu, do đồng chí Trường Chinh làm quyền Tổng Bí thư. Hội
nghị cũng quyết định chắp mối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận của Đảng ở nước
ngoài.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 1-1940 sáng suốt nhận định kẻ thù chính
của nhân do Đông Dương lúc đó là phát xít Pháp - Nhật, đồng thời có chủ trương đúng về
cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ.[3][4]

Đánh giá Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần 7:

Sau khi nghe báo cáo về tình hình Nam Bộ, Hội nghị đã chỉ thị cho Xứ uỷ Nam Kỳ
dừng lại với cuộc khởi nghĩa vũ trang ở khu vực này. Lý do là vẫn chưa đủ điều kiện, cả từ
góc độ chủ quan và khách quan, để đảm bảo chiến thắng. Hội nghị nhận thấy rằng cuộc khởi
nghĩa chưa có sự hỗ trợ đủ mạnh từ khắp cả nước, lực lượng vũ trang và công tác xây dựng
lực lượng vẫn chưa ổn định. Đồng thời, cuộc khủng bố khốc liệt từ phía thực dân Pháp cũng
đang diễn ra.

Hội nghị đã đặt ra rõ ràng rằng kẻ thù chính tại thời điểm này là liên minh phát xít giữa
Pháp và Nhật Bản, và nhấn mạnh tình hình mâu thuẫn dân tộc. Do đó, hội nghị đã tạm thời
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr.
20-82.
4
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, 2008
rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất. Tất cả những điều này đã giúp giải quyết một phần hạn
chế của luận cương.

Tuy nhiên, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy chưa đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc thống nhất ý chí và hành động, mật thiết liên lạc với quần chúng và cần phải có vũ
trang lý luận cách mạng. Hội nghị cũng đề cập sự nhanh nhẹn trong việc khôi phục hệ thống
tổ chức Đảng ở cả khu vực Trung, Nam và Bắc, cũng như khuếch trương và củng cố cơ sở
Đảng. Hội nghị này có thể coi là một bước thụt lùi so với Hội nghị Trung ương lần thứ sáu.

- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần 8 (5-1941):

Hội nghị phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ
hai, từ đó nhận định phát xít Đức sẽ tấn công Liên Xô và chiến tranh Thái Bình Dương sẽ
bùng nổ. Loài người sẽ bị tàn sát ghê gớm trong cuộc chiến tranh phát xít. Phe Đồng minh
chống phát xít nhất định sẽ thắng lợi, phe phát xít nhất định sẽ thất bại, phong trào cách mạng
thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ.

Hội nghị dự đoán: nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước
xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa,
sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công. Hội nghị nhận định cuộc cách mạng Đông
Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới, của phong trào dân chủ chống phát xít.

Hội nghị chỉ rõ: nhân dân Đông Dương phải chịu những hậu quả nặng nề của cuộc
chiến tranh thế giới, vì vậy thái độ chính trị của các giai cấp có thay đổi khá lớn. Mâu thuẫn
chủ yếu phải được giải quyết cấp bách lúc này là mâu thuẫn giữa các dân tộc Việt Nam với
bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Hội nghị tán thành Nghị quyết của các Hội nghị Trung
ương lần thứ sáu, bảy về chuyển hướng chiến lược và sách lược.

Hội nghị đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn
đề dân tộc, nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân, nếu muốn tập hợp lực lượng toàn dân
thì phải giương cao ngọn cờ dân tộc, phải đoàn kết hết sức rộng rãi “Trong lúc này quyền lợi
của bộ phận, của giai cấp, phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong
lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do
cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống
đế quốc trong Mặt trận đều lấy tên là Hội Cứu quốc như Hội Công nhân Cứu quốc, Hội Nông
dân Cứu quốc, Hội Phụ nữ Cứu quốc, Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phụ lão Cứu quốc, Hội
Nhi đồng Cứu vong, Hội Quân nhân Cứu quốc... Với các dân tộc Lào, Cao Miên, Đảng chủ
trương thành lập Mặt trận ở mỗi nước, tiến tới thành lập một Mặt trận chung Đông Dương.

Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội nghị
tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân
cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày
nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức”.

Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là “cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”. Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi
nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một
cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.

Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam, Lào,
Khơ me, thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết”, với tinh thần liên hệ mật thiết, giúp đỡ nhau
giành thắng lợi...

Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị đề ra gấp rút đào tạo cán bộ và tăng thêm
thành phần vô sản trong Đảng.

Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường Chinh,
Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang, Phùng Chí Kiên, đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của
Đảng. Ban Thường vụ Trung ương Đảng gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ,
Hạ Bá Cang.
Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương
thay đổi chiến lược cách mạng được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, có ý nghĩa quyết định
thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.[5][6]

Đánh giá Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần 8:

Hội nghị tháng 5-1941 đã giải quyết được hạn chế sau của Luận cương chính trị:

Xác định động lực cách mạng là công nhân và nông dân. Chưa tập hợp được toàn dân
tộc chống đế quốc, chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của các giai cấp, tầng lớp khác
ngoài công nhân và nông dân.

Nếu như hội nghị tháng 11-1939 đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đưa
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu nhưng vẫn là giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ 3 nước Đông Dương. Phải đến hội nghị 5-1941, vấn đề dân tộc được giải quyết trong
khuôn khổ từng nước. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh
thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, thay tên các hội Phản đề thành
hội cứu quốc và giúp đỡ thành lập mặt trận ở các nước Lào, Campuchia.

Hội nghị lần thứ 8 (khóa I) của Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan
trọng đối với cách mạng nước ta. Nghị quyết của hội nghị thể hiện một cách sâu sắc và hoàn
chỉnh vấn đề giải phóng dân tộc, đánh dấu bước tiến mới trong tư duy cách mạng và sự lãnh
đạo của Đảng, khẳng định bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam; có ý nghĩa quyết
định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 8 và những
chủ trương sáng suốt của Nguyễn Ái Quốc được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn
đấu thực hiện, đi đến thành công.

TLTK

5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.
96-136.
6
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, 2008
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000,
t.6, t.7

Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, 2008

You might also like