You are on page 1of 7

Lịch sử Đảng

I. Tình hình Việt Nam trước 1930


1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa
đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân
lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa.
Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng
cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

2. Bối cảnh trong nước


Kể từ khi bị thực dân Pháp xâm lược và đặt ách thống trị, xã hội Việt Nam có hai mâu
thuẫn cơ bản, đó là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và giữa nông dân với
địa chủ phong kiến.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam rơi vào cuộc khủng hoảng
về đường lối cứu nước. Ngọn cờ cứu nước của giai cấp phong kiến đã lỗi thời, ngọn cờ của giai
cấp tư sản cũng không phất cao lên được, điển hình là thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái do
Việt Nam Quốc dân Đảng tiến hành. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước thực chất là cuộc
khủng hoảng về sự lãnh đạo cách mạng của một giai cấp tiên tiến mà đại biểu là chính
đảng cách mạng. Đất nước trong cơn bế tắc, “tình hình đen tối như không có đường ra”,
năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, Người đã tiếp thu và truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng của
giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
    
II. Vai trò
1. Cao trào cách mạng 1930-1931
Từ sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng thất bại, thực dân Pháp ra
sức đẩy mạnh khủng bố trắng càng làm cho dân thêm căm thù và quyết tâm đấu tranh giành
quyền sống.
Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930, với Cương lĩnh đúng
đắn đã biến sự căm thù của quần chúng thành hành động cách mạng, Đảng đã kịp thời nắm
quyền lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng công - nông.
Đảng đã nêu ra những vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân “Đảng phải đoàn kết được
đại đa số nông dân, phải dựa vững vào nông dân nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại
địa chủ và phong kiến”; đồng thời Đảng nhấn mạnh “Nông dân là lực lượng to lớn của cách
mạng’’, vì vậy phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân,
đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất.
Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò của trí thức và đề cao công tác trí thức. Trong các văn kiện
Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1930, xác định trí thức là một bộ phận trong lực lượng quần
chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh tuy chỉ diễn ra chưa đầy
một năm, nhưng có ý nghĩa và giá trị lịch sử to lớn. Trong cao trào cách mạng, trí thức đã sát
cánh cùng công nông trong các cuộc đấu tranh, phong trào đã khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, sức mạnh to lớn của khối liên minh công nông trong cuộc đấu tranh
chống đế quốc và phong kiến vì độc lập dân tộc và dân chủ.
Vai trò của Đảng trong giai đoạn 1930-1931
 Đảng lôi cuốn đông đảo tầng lớp tiểu tư sản - trí thức tham gia vào phong trào quần
chúng đấu tranh, trí thức trở thành một bộ phận trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Đảng. 
 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với tổ chức chặt chẽ  và cương lĩnh chính trị đúng đắn,
nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam, quy tụ lực lượng và sức
mạnh toàn dân tộc Việt Nam, kịp thời lãnh đạo nhân dân bước vào một thời kì đấu
tranh mới

2. Cao trào cách mạng 1936-1939


Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ Pháp là Gôđa (Godard) đi kinh lý Đông
Dương và tiếp đó là Bơrêviê (Brévié) sang nhận chức toàn quyền Đông Dương, Đảng vận động
hai cuộc biểu dương lực lượng quần chúng rộng lớn dưới danh nghĩa "đón rước", míttinh, biểu
tình, đưa đơn "dân nguyện". Công nhân và nông dân là lực lượng đông đảo và hăng hái nhất
trong các cuộc biểu dương lực lượng này.
Những cuộc bãi công, biểu tình, bãi chợ, bãi khóa đã nổ ra trong nhiều thành phố và vùng
công nghiệp như: Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Bến Thủy, Hòn Gai, Cẩm Phả... Các cuộc bãi
công năm 1938 và năm 1939 có tổ chức chặt chẽ hơn, khẩu hiệu đấu tranh chính xác và trình
độ tổ chức, lãnh đạo của các tổ chức Đảng vững vàng hơn.
Phong trào đấu tranh của nông dân cũng phát triển khắp Bắc, Trung, Nam. Mỗi năm có
hàng trăm cuộc đấu tranh, nhất là các cuộc đấu tranh đòi khất thuế, chống các hủ tục ở hương
thôn, chống nạn cường hào áp bức nhũng nhiễu. Hầu hết các cuộc đấu tranh của nông dân đều
do Đảng tổ chức và lãnh đạo.
Cùng với việc lãnh đạo các cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị. Đảng chú trọng đẩy mạnh
công tác tuyên truyền cổ động, đặc biệt là trên lĩnh vực hoạt động báo chí công khai, để tăng
cường ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.
Báo chí của Đảng và Mặt trận Dân chủ đã tập trung phản ánh tình cảnh đau khổ, bị áp
bức, bóc lột của các tầng lớp nhân dân do bọn phong kiến và tay sai; nêu lên những nguyện
vọng của quần chúng trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; phổ biến tin tức và kinh
nghiệm đấu tranh của quần chúng; hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi các quyền lợi dân chủ,
dân sinh; tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, chống mọi thủ đoạn của kẻ thù vu cáo,
xuyên tạc Đảng Cộng sản; đấu tranh phê phán các luận điệu cực "tả" của "tờrốtkít" chống lại
chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng.
Trong thời kỳ này, Đảng còn xuất bản nhiều tập sách chính trị phổ thông để giới thiệu chủ
nghĩa Mác-Lênin và chính sách mới của Đảng. Cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường
Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) tố cáo tội ác của đế quốc và phong kiến đối với nông dân
và nêu lên vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng nước ta. Cuốn Chủ nghĩa Các Mác
của Hải Triều in và phát hành năm 1938. Một số cuốn sách giới thiệu về Liên Xô, về cách mạng
Trung Quốc, về Mặt trận nhân dân Pháp, Mặt trận nhân dân Tây Ban Nha được ra mắt bạn đọc.
Để mở rộng hoạt động trên mặt trận báo chí công khai, lôi cuốn những người làm báo
tiến bộ trong phong trào vận động dân chủ, thực hiện chủ trương của Đảng, Hội nghị báo chí
Trung Kỳ được tổ chức (tháng 5-1938), tiếp đó là Hội nghị báo chí Bắc Kỳ (tháng 6-1938). Trong
điều kiện một nước thuộc địa, mọi quyền tự do, dân chủ bị bóp nghẹt, phát động và tổ chức
được mặt trận đấu tranh công khai và rộng lớn trên lĩnh vực báo chí là một thắng lợi lớn của
Đảng.
Trong cuộc tuyển cử Viện dân biểu Trung Kỳ năm 1937, Đảng đã kết hợp khéo léo với đấu
tranh của quần chúng bên ngoài nghị viện, các nghị viên Mặt trận dân chủ ở Viện dân biểu
Trung Kỳ đã bác bỏ được dự án tăng thuế của đế quốc Pháp đưa ra trong phiên họp tháng 9
năm 1938. Đây cũng là một sự kiện hiếm có ở một nước thuộc địa.
Từ giữa năm 1939 trở đi, Chính phủ Pháp nghiêng hẳn về phía hữu, và phát xít hóa. Ở
Đông Dương, bọn thực dân Pháp quay ra đàn áp quyết liệt phong trào dân chủ. Đảng chỉ thị cho
bộ phận hoạt động công khai nhanh chóng chuẩn bị để rút vào hoạt động bí mật, tránh tổn thất
do bắt bớ, khủng bố của thực dân Pháp. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-
1939), Đảng liền chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược cho phù hợp với thời kỳ chiến
tranh và cách mạng. Thời kỳ vận động dân chủ kết thúc.
Đảng vẫn luôn luôn có ý thức lấy các tổ chức bí mật làm nòng cốt, giữ vững sự lãnh đạo
của Đảng đối với các tổ chức hoạt động công khai và chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với mọi thủ
đoạn đánh phá của kẻ thù, nhanh chóng chuyển bộ phận hoạt động công khai vào hoạt động bí
mật khi điều kiện hoạt động công khai không còn nữa.
Qua cuộc vận động dân chủ rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và
nâng cao trong quần chúng. Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối chủ trương cách mạng của Đảng
được công khai tuyên truyền phổ cập trong tất cả các giai cấp và tầng lớp nhân dân ở nông thôn
và đô thị, đồng bằng và miền núi. Tổ chức Đảng được củng cố và phát triển. Số đảng viên của
Đảng ngày càng thêm đông. Đến tháng 4-1938, toàn Đảng có 1.597 đảng viên hoạt động bí mật
và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai. Số hội viên trong các tổ chức quần chúng công
nhân, nông dân, phụ nữ, học sinh, cứu tế là 35.009 người.
Mặt trận dân chủ đã hình thành trong thực tiễn là "sự liên hiệp các lớp nhân dân các đảng
phái tấn bộ để chống phátxít và chế độ thuộc địa phản động, là một hình thức đặc biệt của Mặt
trận phản đế rộng rãi".
 Cao trào dân chủ 1936-1939 là cuộc chuẩn bị lực lượng cho giai đoạn cách mạng
1939-1945. Qua cao trào đó, Đảng đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đông đảo,
dày dạn trong đấu tranh, trưởng thành về tư tưởng chính trị và tổ chức và tích lũy
thêm nhiều kinh nghiệm mới:
 Nắm vững hoàn cảnh cụ thể của cách mạng trong mỗi thời kỳ để xác định đúng
kẻ thù và nhiệm vụ chính trị cụ thể trước mắt để huy động đến mức cao nhất lực
lượng cách mạng và tiến bộ lên trận tuyến đấu tranh, triệt để khai thác những
chỗ yếu của kẻ thù, tập trung ngọn lửa đấu tranh nhằm giành thắng lợi lớn mà so
sánh lực lượng lúc đó cho phép, chuẩn bị điều kiện tiến lên giành những thắng
lợi lớn hơn về sau.
 Phân tích chính xác thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các
đảng phái chính trị, thực hiện một liên minh dân chủ rộng rãi, kết hợp đúng đắn
sự liên minh bên dưới với liên minh bên trên, lấy liên minh bên dưới - liên minh
công nông làm nền tảng, xây dựng một mặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù.
 Sử dụng khéo léo các hình thức tổ chức và đấu tranh, kết hợp công khai với bí
mật, hợp pháp với không hợp pháp, kết hợp các mặt đấu tranh kinh tế, chính trị,
văn hóa, kết hợp đấu tranh của quần chúng với đấu tranh nghị trường, kết hợp
tuyên truyền với tổ chức đấu tranh... giành thắng lợi trong từng cuộc đấu tranh,
trong từng mặt trận, tiến lên giành thắng lợi lớn nhất cho cách mạng.

3. Đảng lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-1939), Trung ương Đảng đã họp
Hội nghị lần thứ 6 (tháng 11-1939) để điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội dung: Đặt nhiệm
vụ chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị quyết định thành lập
Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp,
đảng phái, tôn giáo và các cá nhân yêu nước để đánh đổ đế quốc và tay sai, dành độc lập hoàn
toàn cho các dân tộc ở Đông Dương. Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ đạo các tổ chức đảng và
quần chúng nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, chuyển hướng hoạt động về nông thôn,
tránh sự đàn áp khủng bố của kẻ thù. 
Tháng 02-1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng
dân tộc Việt Nam. Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 đã họp tại Pắc Bó (Cao
Bằng), do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì. Hội nghị này đã cụ thể hóa và hoàn thiện
thêm một bước đường lối giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ trương giải
quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương và chủ trương thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất ở mỗi nước. Tại Việt Nam, Hội nghị quyết định thành lập tổ chức Việt Nam
Độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, gồm các đoàn thể cứu quốc trên cả nước. Hội
nghị nhấn mạnh công tác chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm và dự kiến một số
chủ trương, chính sách khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi. 
Tháng 8-1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh với danh nghĩa là đại
diện của Việt Minh sang Trung Quốc để liên hệ với các lực lượng đồng minh quốc tế chống phát
xít và vận động những người yêu nước ở nước ngoài tham gia cách mạng. Năm 1943, bản “Đề
cương văn hoá Việt Nam” của Đảng được công bố, nhằm lôi cuốn các tầng lớp tri thức, văn
nghệ sĩ cùng toàn dân tham gia phong trào cách mạng. Được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản
Đông Dương, tháng 6-1944, Đảng Dân Chủ Việt Nam - một chính đảng của tư sản dân tộc và
tiểu tư sản tri thức yêu nước, tiến bộ đã ra đời. Đảng Dân chủ Việt Nam tham gia vào Mặt trận
Việt Minh đã góp phần thúc đẩy mặt trận dân tộc thống nhất phát triển ngày càng sâu rộng. Đội
du kích Bắc Sơn (ra đời từ Khởi nghĩa Bắc Sơn tháng 9-1940); Đội du kích Ba Tơ (ra đời từ Khởi
nghĩa Ba Tơ tháng 3-1945),... đã phát triển đấu tranh vũ trang. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, do đồng chí Võ
Nguyên Giáp chỉ đạo.
Trên cơ sở đó, Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng và cả căn cứ địa cách
mạng, đều phát triển mạnh mẽ, không chỉ ở khu Việt Bắc. Trên khắp cả nước, đâu đâu cũng
diễn ra các phong trào đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Qua các cuộc vận động cách mạng
đó, Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm, hình thành các chủ trương, quyết sách, đồng thời đẩy
mạnh xây dựng một cách toàn diện các lực lượng cách mạng (Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ
trang, căn cứ cách mạng,...) gấp rút chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng
lợi. 
Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời cơ khởi nghĩa giành chính
quyền
Từ đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Tại khu vực
Đông Dương, do lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, Nhật tiến hành đảo chính lật
đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương (vào đêm 09-3-1945). Ngay lúc đó, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đã họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), để đánh giá tình hình và ra chỉ thị “Nhật
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị vạch rõ: Cuộc đảo chính Nhật - Pháp
làm cho các điều kiện khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của
nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật; phải nhanh chóng phát động cao trào chống
Nhật, cứu nước, đồng thời thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận,
chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa. 
Trước tình hình phát xít Nhật thẳng tay vơ vét, bóc lột, gây ra một nạn đói khủng khiếp và
làm chết gần hai triệu người, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc của Nhật để cứu đói”.
Khẩu hiệu đó đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng, nhất là nông dân, đứng lên chống Nhật, giành
chính quyền về tay nhân dân. Từ giữa tháng 3-1945, cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở
thành cao trào. Đến giữa tháng 8-1945, lực lượng cách mạng, bao gồm cả lực lượng chính trị và
vũ trang, đã phát triển rộng rãi khắp nông thôn và đô thị. 
Ngày 13-8-1945, Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều
kiện. Quân Nhật ở Đông Dương lâm vào tình thế bị tê liệt. Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim
hoang mang cực độ. Trước tình hình đó, Đại hội quốc dân đã họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ
ngày 13 đến ngày 15-8-1945 dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, thống nhất với chủ trương của
Đảng Cộng sản Đông Dương là nhanh chóng phát động toàn dân kịp thời đứng lên tổng khởi
nghĩa, quyết tâm giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Đại hội đã cử ra Ủy ban dân tộc giải
phóng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch để lãnh đạo tổng khởi nghĩa.
Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban dân tộc giải phóng và lời kêu gọi cả nước đứng lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền của Hồ Chủ tịch được các địa phương nhiệt liệt hưởng ứng. Từ
ngày 14 đến 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã thắng lợi hoàn toàn trên cả
nước. Chính quyền từ trung ương đến các địa phương đã thuộc về nhân dân Việt Nam. Ngày
02-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chủ tịch đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, long
trọng tuyên bố với nhân dân trong cả nước và các quốc gia trên thế giới: Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đã ra đời, có chủ quyền độc lập như mọi quốc gia khác trên toàn thế giới.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù
trực tiếp của nhân dân Việt Nam là phátxít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật ở Đông
Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận lợi để
nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đó là kết quả và đỉnh cao của 15 năm
đấu tranh của toàn dân tộc Việt Nam dưối sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là cao trào vận
động giải phóng dân tộc 1939 - 1945.
Đảng Cộng sản Đông Dương đóng vai trò tổ chức và lãnh đạo cách mạng. Đảng có đường
lối chính trị đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ
sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa
giành chính quyền

=> Hơn 80 năm qua, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và Bác Hồ đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng
tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy ở
chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định đúng đắn
đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội
 Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời
cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ,
xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
 Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ,
phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to
lớn
 Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn,
sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam

Vai trò
Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giai đoạn hiện nay, một trong 5
bài học kinh nghiệm được rút ra xuyên suốt trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, đó
là: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Những kinh nghiệm của Đảng  trong công tác lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập
từ cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 tiếp tục phát huy giá trị và được vận dụng sáng tạo
trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay:
Xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, bối cảnh, nhiệm
vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam trong từng chặng đường, bước đi với những hình thức, biện
pháp phù hợp. Tiếp tục củng cố, đổi mới và phát huy sức mạnh của cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ trong điều kiện mới.
Xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn thể dân tộc dựa trên nòng cốt là
khối liên minh công nông và trí thức, đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc
trong điều kiện mới, giải phóng mọi nguồn lực nhằm quyết tâm đưa nước ta thoát khỏi tình
trang tụt hậu, sớm bắt kịp với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. 
Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới, trong đó sức mạnh
dân tộc là nhân tố chủ quan, yếu tố quyết định, nền tảng vững chắc đem lại thắng lợi của công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Sức mạnh thời đại có ý nghĩa quan trọng, bổ sung, phát
triển sức mạnh dân tộc, tạo cơ hội và động lực to lớn cho cách mạng Việt Nam thực hiện thắng
lợi mục tiêu đề ra.
Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc, phát
huy bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng, củng cố
sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân, quán triệt phương châm “người trước súng sau” trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tranh thủ cơ hội, giảm thiểu những khó khăn, thách thức, biến “nguy” thành “cơ” trong
bối cảnh tình hình quốc tế chuyển biến mau lẹ và khó lường, chớp thời cơ đưa đất nước tiến
bước bắt kịp với dòng chảy của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, với sự điều chỉnh của
thế giới hậu Covid-19.   

You might also like