Professional Documents
Culture Documents
3. Đảng lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945
Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9-1939), Trung ương Đảng đã họp
Hội nghị lần thứ 6 (tháng 11-1939) để điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội dung: Đặt nhiệm
vụ chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị quyết định thành lập
Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp,
đảng phái, tôn giáo và các cá nhân yêu nước để đánh đổ đế quốc và tay sai, dành độc lập hoàn
toàn cho các dân tộc ở Đông Dương. Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ đạo các tổ chức đảng và
quần chúng nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật, chuyển hướng hoạt động về nông thôn,
tránh sự đàn áp khủng bố của kẻ thù.
Tháng 02-1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào giải phóng
dân tộc Việt Nam. Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 đã họp tại Pắc Bó (Cao
Bằng), do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì. Hội nghị này đã cụ thể hóa và hoàn thiện
thêm một bước đường lối giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam. Hội nghị chủ trương giải
quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương và chủ trương thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất ở mỗi nước. Tại Việt Nam, Hội nghị quyết định thành lập tổ chức Việt Nam
Độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, gồm các đoàn thể cứu quốc trên cả nước. Hội
nghị nhấn mạnh công tác chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm và dự kiến một số
chủ trương, chính sách khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Tháng 8-1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh với danh nghĩa là đại
diện của Việt Minh sang Trung Quốc để liên hệ với các lực lượng đồng minh quốc tế chống phát
xít và vận động những người yêu nước ở nước ngoài tham gia cách mạng. Năm 1943, bản “Đề
cương văn hoá Việt Nam” của Đảng được công bố, nhằm lôi cuốn các tầng lớp tri thức, văn
nghệ sĩ cùng toàn dân tham gia phong trào cách mạng. Được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản
Đông Dương, tháng 6-1944, Đảng Dân Chủ Việt Nam - một chính đảng của tư sản dân tộc và
tiểu tư sản tri thức yêu nước, tiến bộ đã ra đời. Đảng Dân chủ Việt Nam tham gia vào Mặt trận
Việt Minh đã góp phần thúc đẩy mặt trận dân tộc thống nhất phát triển ngày càng sâu rộng. Đội
du kích Bắc Sơn (ra đời từ Khởi nghĩa Bắc Sơn tháng 9-1940); Đội du kích Ba Tơ (ra đời từ Khởi
nghĩa Ba Tơ tháng 3-1945),... đã phát triển đấu tranh vũ trang. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, do đồng chí Võ
Nguyên Giáp chỉ đạo.
Trên cơ sở đó, Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ trang cách mạng và cả căn cứ địa cách
mạng, đều phát triển mạnh mẽ, không chỉ ở khu Việt Bắc. Trên khắp cả nước, đâu đâu cũng
diễn ra các phong trào đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Qua các cuộc vận động cách mạng
đó, Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm, hình thành các chủ trương, quyết sách, đồng thời đẩy
mạnh xây dựng một cách toàn diện các lực lượng cách mạng (Mặt trận Việt Minh, lực lượng vũ
trang, căn cứ cách mạng,...) gấp rút chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng
lợi.
Đảng phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, dự kiến thời cơ khởi nghĩa giành chính
quyền
Từ đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bước vào giai đoạn kết thúc. Tại khu vực
Đông Dương, do lo sợ quân đồng minh sẽ đổ bộ lên Đông Dương, Nhật tiến hành đảo chính lật
đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương (vào đêm 09-3-1945). Ngay lúc đó, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đã họp tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), để đánh giá tình hình và ra chỉ thị “Nhật
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị vạch rõ: Cuộc đảo chính Nhật - Pháp
làm cho các điều kiện khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi. Kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của
nhân dân Đông Dương lúc này là phát xít Nhật; phải nhanh chóng phát động cao trào chống
Nhật, cứu nước, đồng thời thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận,
chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa.
Trước tình hình phát xít Nhật thẳng tay vơ vét, bóc lột, gây ra một nạn đói khủng khiếp và
làm chết gần hai triệu người, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc của Nhật để cứu đói”.
Khẩu hiệu đó đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng, nhất là nông dân, đứng lên chống Nhật, giành
chính quyền về tay nhân dân. Từ giữa tháng 3-1945, cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở
thành cao trào. Đến giữa tháng 8-1945, lực lượng cách mạng, bao gồm cả lực lượng chính trị và
vũ trang, đã phát triển rộng rãi khắp nông thôn và đô thị.
Ngày 13-8-1945, Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh vô điều
kiện. Quân Nhật ở Đông Dương lâm vào tình thế bị tê liệt. Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim
hoang mang cực độ. Trước tình hình đó, Đại hội quốc dân đã họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ
ngày 13 đến ngày 15-8-1945 dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, thống nhất với chủ trương của
Đảng Cộng sản Đông Dương là nhanh chóng phát động toàn dân kịp thời đứng lên tổng khởi
nghĩa, quyết tâm giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Đại hội đã cử ra Ủy ban dân tộc giải
phóng do Hồ Chí Minh làm chủ tịch để lãnh đạo tổng khởi nghĩa.
Mệnh lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban dân tộc giải phóng và lời kêu gọi cả nước đứng lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền của Hồ Chủ tịch được các địa phương nhiệt liệt hưởng ứng. Từ
ngày 14 đến 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã thắng lợi hoàn toàn trên cả
nước. Chính quyền từ trung ương đến các địa phương đã thuộc về nhân dân Việt Nam. Ngày
02-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Hồ Chủ tịch đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, long
trọng tuyên bố với nhân dân trong cả nước và các quốc gia trên thế giới: Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà đã ra đời, có chủ quyền độc lập như mọi quốc gia khác trên toàn thế giới.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù
trực tiếp của nhân dân Việt Nam là phátxít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật ở Đông
Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận lợi để
nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đó là kết quả và đỉnh cao của 15 năm
đấu tranh của toàn dân tộc Việt Nam dưối sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là cao trào vận
động giải phóng dân tộc 1939 - 1945.
Đảng Cộng sản Đông Dương đóng vai trò tổ chức và lãnh đạo cách mạng. Đảng có đường
lối chính trị đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, bắt rễ
sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa
giành chính quyền
=> Hơn 80 năm qua, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và Bác Hồ đã kịp thời xác định đúng đắn, sáng
tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tìm thấy ở
chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định đúng đắn
đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ nguyên mới của độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời
cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ,
xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng đắn nhiệm vụ,
phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên giành nhiều thắng lợi to
lớn
Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn,
sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam
Vai trò
Bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giai đoạn hiện nay, một trong 5
bài học kinh nghiệm được rút ra xuyên suốt trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, đó
là: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Những kinh nghiệm của Đảng trong công tác lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập
từ cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 tiếp tục phát huy giá trị và được vận dụng sáng tạo
trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay:
Xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, bối cảnh, nhiệm
vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam trong từng chặng đường, bước đi với những hình thức, biện
pháp phù hợp. Tiếp tục củng cố, đổi mới và phát huy sức mạnh của cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ trong điều kiện mới.
Xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn thể dân tộc dựa trên nòng cốt là
khối liên minh công nông và trí thức, đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Phát huy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc
trong điều kiện mới, giải phóng mọi nguồn lực nhằm quyết tâm đưa nước ta thoát khỏi tình
trang tụt hậu, sớm bắt kịp với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong điều kiện mới, trong đó sức mạnh
dân tộc là nhân tố chủ quan, yếu tố quyết định, nền tảng vững chắc đem lại thắng lợi của công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Sức mạnh thời đại có ý nghĩa quan trọng, bổ sung, phát
triển sức mạnh dân tộc, tạo cơ hội và động lực to lớn cho cách mạng Việt Nam thực hiện thắng
lợi mục tiêu đề ra.
Xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc, phát
huy bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc” trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng, củng cố
sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân, quán triệt phương châm “người trước súng sau” trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tranh thủ cơ hội, giảm thiểu những khó khăn, thách thức, biến “nguy” thành “cơ” trong
bối cảnh tình hình quốc tế chuyển biến mau lẹ và khó lường, chớp thời cơ đưa đất nước tiến
bước bắt kịp với dòng chảy của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, với sự điều chỉnh của
thế giới hậu Covid-19.