Professional Documents
Culture Documents
TUẦN 4
Nguyễn Thùy Dung
• Hoàn cảnh lịch sử và quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam của Đảng
Cộng sản từ năm 1930 - 1939.
1.1 Hoàn cảnh
lịch sử.
01 Tình hình thế giới.
• Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về việc đế quốc Pháp buộc dân cày ra đầu thú, vạch rõ thủ
đoạn của kẻ thù và đề ra các biện pháp hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Hội nghị Trung ương (3-1931) quyết định nhiều vấn
đề thúc đẩy đấu tranh. Năm 1931, các đồng chí Trung ương bị địch bắt. Trần Phú bị địch bắt ngày 18-4-1931 tại Sài Gòn.
• Ngày 11-4-1931, Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là chỉ bộ độc lập. Đó là sự khẳng
định vai trò lãnh đạo của Đảng.
• Nhiều chỉ bộ nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho đáng viên về lý luận Mác- Lênin, đường lồi chính trị của Đảng, kinh
nghiệm vận động cách mạng; tổ chức học văn hóa, ngoại ngữ v.v. Nhiều tài liệu huấn luyện đảng viên được biên soạn ngay
trong tù.
• Các chi bộ đảng trong nhà tù còn ra báo bí mật để phục vụ việc học tập và đấu tranh tư tưởng.
• Ngày 6-6-1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt giam. Đầu năm 1934, sau khi ra tù, trở lại làm
việc ở Quốc tế Cộng sản (Mátxcơva-Liên Xô).
• Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí công bố Chương trình hành động
của Đảng Cộng sản Đông Dương và các chương trình hành động của Công hội, Nông hội, Thanh niên cộng sản đoàn...
• Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương (15-6-1932) vạch ra nhiệm vụ đấu tranh trước mắt để khôi
phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng, đặc biệt cằn phải “gây dựng một đoàn thể bí mật, có kỷ luật
nghiêm ngặt, cứng như sắt vững như đồng, tức Đảng Cộng sản để hướng đạo quần chúng trên con đường giai cấp chiến
đấu”.
• Từ ngày 2 đến ngày 9-5-1933, Tòa án Đại hình Sài Gòn mở phiên tòa xét xử 120 chiến sĩ cộng sản
• Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc), đề ra ba nhiệm vụ trước mắt:
1- Củng cổ và phát triển Đảng,
2- Đẩy mạnh cuộc vận động tập hợp quần chúng,
3- Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng hộ cách mạng Trung Quốc...
=> Đại hội lần thứ I đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng, tạo điều kiện để
bước vào một cao trào cách mạng mới.
02 Phong trào dân chủ 1936 - 1939
MỸ NGUYỆN – LINH ĐAN – ANH ĐÀOLỊCH SỬ ĐẢNGCHÚ THÍCH:-Phần chữ màu đỏ trình
bày trên PPTPHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936-1939 b) Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm
áo, hoà bìnhDưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận động dân chủ diễn ra trên quy mô rộng lớn, lôi
cuốnđông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú.Nắm cơ hội Chính phủ
Mặt trận nhân dân Pháp quyết định trả tự do một số tù chính trị,thi hành một số cải cách xã hội cho
lao động ở các thuộc địa Pháp và cử một uỷ ban điềutra thuộc địa đến Đông Dương, Đảng phát động
phong trào đấu tranh công khai của quầnchúng, mở đầu bằng cuộc vận động động lập “Uỷ ban trù bị
Đông Dương đại hội” nhằmthu thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân
dân ĐôngDương.Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng tổ chức các cuộc míttinh, để tập hợp
“dânnguyện”. Trong thời gian ngắn, ở khắp các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, từ thành thị đếnnông
thôn đã lập ra các “uỷ ban hành động” để tập hợp quần chúng. Riêng ở Nam Kỳ có600 “uỷ ban hành
động
b.Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình
Qua lãnh đạo phong trào giai đoạn 1936 – 1939, Đảng tích lũy thêm nhiều
kinhnghiệm mới , đó là kinh nghiệm về chỉ đạo chiến lược: giải quyết mối quan hệ
giữa mụctiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt; về xây dựng một mặt trận thống nhất
rộng rãi phùhợp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị , phân hóa và cô lập cao độ kẻ
thù nguy hiểmnhất; về kết hợp các hình thức tổ chức bí mật và công khai để tập hợp
quần chúng và cáchình thức, phương pháp đấu tranh: tổ chức Đông Dương đại hội,
đầu tranh nghị trường,trên mặt trận báo chí, đòi các quyền dân sinh, dân chủ, bãi
công lớn của công nhân vùngmỏ (12/11/1936) >
2. So sánh Chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1939 - 1945
với giai đoạn trước đó
Trong giai đoạn từ 1939 đến 1945, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) đã có sự điều chỉnh so với giai đoạn trước đó. Sự điều chỉnh này là do
tình hình chính trị, kinh tế và xã hội trong thời kỳ này thay đổi nhanh chóng, đòi
hỏi Đảng Cộng sản phải tương thích và thích nghi để tiến hành kháng chiến và
khởi nghĩa thành công.
Trong giai đoạn này, Đảng đã điều chỉnh chủ trương của mình bằng cách tăng
cường chiến lược của đấu tranh vũ trang và tập trung vào việc xây dựng quân đội
dân chủ. Đảng đã nhận thức được rằng để đạt được độc lập và tự do, việc sử dụng
vũ khí và quân sự là cần thiết.
2. So sánh Chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1939 - 1945
với giai đoạn trước đó
Để nắm bắt thời cơ khởi nghĩa, Đảng Cộng sản đã đẩy mạnh công tác tổ chức và
tuyên truyền, làm việc với các tầng lớp và đội ngũ lãnh đạo, và tìm kiếm cơ hội
để tiến hành khởi nghĩa ở những khu vực có sự phản kháng nhỏ nhất từ phía thực
dân Pháp. Qua quá trình này, Đảng đã chiêu mộ được nhiều cán bộ, lính và nhân
dân ủng hộ và tham gia vào cuộc khởi nghĩa.
Tóm lại, sự điều chỉnh chủ trương của Đảng trong giai đoạn 1939 - 1945 là một
bước đi cần thiết để Đảng Cộng sản có thể thích nghi với tình hình chính trị và
kinh tế thay đổi và khai thác thời cơ khởi nghĩa thành công.
T h a n k
yo u!