You are on page 1of 111

Bộ tài liệu, bộ đề SHG của chia sẻ để phục vụ nâng cao chất lượng cho học

sinh của bạn. Vì thế mình không phân quyền chia sẻ cho bất cứ ai dưới mọi
hình thức và mục đích. Khi mình chia sẻ tài liệu dĩ nhiên là mình có nhiều
cách bảo vệ tài liệu của mình. Để tránh mọi phiền phức, khiếu nại rất mong
các bạn tôn trọng.
Chúng ta hãy là những người bạn để chia sẻ và kết nối thay vì những cuộc
chiến tranh trên mạng để rồi ai cũng sẽ trở thành người nổi tiếng.

BÀI LÀM SỐ 1:
“Nhà văn phải là người gắng đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm
hồn của con người.”(Nguyễn Minh Châu) Em hiểu ý kiến trên như thế nào?
Hãy làm sáng tỏ qua 1 tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ Văn 8 tập 1
Bài làm :
Ai đó đã từng nói rằng :“Văn học như 1 thiên thần mang sứ mệnh tôn vinh
và bảo vệ con người ”.Thật vậy ,từ trước tới nay, các thi nhân đều lấy xúc cảm
từ con người mà viết nên trang,có thể nói con người là nguồn cảm hứng bất tận,
không bao giờ vơi cạn của văn học dân tộc. Và chính văn học với sứ mệnh
thiêng liêng của mình. Nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào lòng đọc giả
hình ảnh những con người với tâm hồn cao thượng, đẹp đẽ, giàu tình yêu
thương, đức hi sinh...nhưng lại có số phận éo le, bất hạnh. Vì thế,b khi đánh giá
về điều này có ý kiến cho rằng :“Nhà văn phải là người gắng đi tìm những hạt
ngọc ẩn dấu trong bề sâu của tâm hồn con người ”. Và một lần nữa ,nhà văn
Nam Cao đã để tác phẩm Lão Hạc của mình là nốt ngân đầy sáng tạo trong bản
hòa tấu của văn học.
Vậy nhà văn là ai? Nhà văn chính là người sáng tác ra các tác phẩm văn
học. Còn hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người nghĩa là chỉ những
phẩm chất, ẻ đẹp tâm hồn cao quý, trong sáng của con người nhưng không dễ
phát hiện, hông dễ thấy, ị ẩn khuất sau vẻ bề ngoài hoặc hoàn cảnh nhân vật. Ý
kiến trên đề cập đến thiên chức của nhà văn là phải tìm ra những vẻ đẹp về
phẩm chất, tâm hồn trong con người. Và qua tác phẩm Lão Hạc nhà văn Nam
Cao đã phát hiện ra những hạt ngọc quý báu trong con người Lão Hạc.
Trước hết, đọc tác phẩm Lão Hạc ta tìm thấy số phận bất hạnh, nghèo
khổ trong con người Lão Hạc. Vợ mất sớm, Lão Hạc phải một mình gà trống
nuôi con,nhắc đến đây ta mới biết được cuộc đời lão khổ thế nào? Vợ mất đi thì
trong gia đình chỉ còn lão ,lão vừa phải chèo chống nơi “dông bão” để kiếm
sống cho 2 cha con, vừa phải làm 1 người nội trợ đảm đang. Chuyện đã thế,
nhà lão Hạc ngày một khó khăn, nghèo khổ hơn đến mức không đủ tiền cưới vợ
cho con khiến đứa con trai “độc đinh” phải phẫn chí bỏ đi làm ở đồn điền cao su
- nơi một đi không trở lại. Con trai đi rồi, lão đau khổ lắm! Cô đơn lắm! Ấy vậy
lại gặp trận ốm nặng sức khỏe già yếu đi ,việc làm nhẹ lúc trước cũng bị cướp
hết không biết ăn vào đâu.Bây giờ lão Hạc phải sống thui thủi 1 mình, mặc cho
dòng thời gian cứ nhuộm bạc mái tóc,lão chỉ có 2 người bạn là ông Giáo và cậu
Vàng để tâm sự ,chia sẻ nỗi đau đớn .Đây quả là 1 số phận bất hạnh, tội nghiệp
và chính lão Hạc cũng đã từng thốt lên :“cuộc đời như thế chỉ nhỉnh hơn kiếp
con chó”.Có lẽ khi viết về cuộc sống bần cùng của lão Hạc nhà văn Nam Cao
như ứa từng giọt lệ, ông nghẹn ngào, đau đớn trước kiếp lầm than của người
nông dân.
Chính từ cuộc sống nghèo khổ ấy của lão Hạc mà Nam Cao mới tìm
ra hạt ngọc về tình thương trong con người lão. Trước hết, đó là tình yêu
thương con sâu sắc đến quên mình. Một gia đình đầy đủ không thể thiếu bóng
dáng của người phụ nữ, ấy vậy mà lão Hạc lại chấp nhận vừa làm cha vừa làm
mẹ vì con trai. Chắc có lẽ vì tình yêu thương con quá lớn nên lão mới ở vậy
nuôi con mặc cho cái đói, cái nghèo bủa vây. Vì lão Hạc hiểu việc mình đi thêm
bước nữa sẽ không đúng với đạo làm cha, không xứng đáng với người vợ quá
cố. Lão Hạc thương con như thế nên khi nhắc đến đứa con trai lão lại rân rấn
nước mắt, đau đớn :“...nó là người của người ta chứ đâu còn là con tôi nữa ”
Còn gì đau đớn hơn, bất hạnh hơn khi một người cha mất đi đứa con thân yêu
duy nhất của mình. Lão coi đứa con trai như một nửa còn lại của cuộc đời mình,
mất đi nó nghĩa là lão mất đi niềm vui tuổi già, động lực sống, mất cả chỗ dựa
lúc trái gió trở trời và kể từ đó lão sống trong nói nhớ thương, mong mỏi. Người
ta nói lúc khỏe mạnh thì dè xẻn, chắt chiu để đến lúc ốm đau, bệnh tật có cớ mà
sinh nhai nhưng lão Hạc lại khác, tuy có tiền để dành nhưng lão lại ăn củ
sung ,củ ráy...mặc cho bệnh tật tàn phá để giữ lại tiền cho con. Chính bà giáo
cũng đã từng thốt lên :“..lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ ”.Và cuối cùng lão
tìm đến cái chết trong đau đớn với 30 đồng bạc và 3 sào vườn gửi lại nhờ ông
giáo giữ với lời trăng trối “để lại cho đứa con trai”. Lão chuẩn bị thật chu đáo,
lão mong cái chết của mình có thể đổi lại cho con niềm vui và 1 cuộc sống đầy
đủ hơn. Người cha ấy đã sẵn sàng hi sinh cả tính mạng, thậm chí là cả niềm vui
duy nhất của mình- cậu Vàng để tìm lại cho con trai “nguồn sống ”. Lão đã sống
1 cuộc đời khổ cực đầy đắng cay nhưng cho tới lúc chết cũng là vì con. Ôi! Sao
lão vĩ đại thế !cao cả thế!
Đó không chỉ là tình yêu thương con mà còn là tình yêu đối với cậu
Vàng. Con trai đi rồi, lão Hạc chỉ biết sống cùng cậu Vàng, hằng ngày lão yêu
thương, quan tâm, chăm sóc nó 1 cách chu đáo như con cháu trong nhà. Lão
Hạc đặt cho nó 1 cái tên rất sang trọng“ cậu Vàng”, lão còn cho cậu Vàng ăn
vào “một cái bát sứ như nhà giàu ”. Điều đó có thể thấy lão coi nó như 1 đứa
con tinh thần, 1 kỉ vật thiêng liêng duy nhất mà đứa con trai để lại trước khi bỏ
đi. Ở tuổi xế chiều gần đất xa trời, lão Hạc phải sống một cuộc đời cô đơn, buồn
tẻ, lão chỉ còn Vàng là người thân duy nhất để làm nơi giãi bày tâm sự, tình
cảm, lão Hạc tìm thấy ở cậu Vàng 1 niềm vui, sự động viên, chia sẻ. Khi nói
chuyện về con trai lão Hạc chỉ mang tâm trạng buồn bã, vẻ mặt u sầu nhưng khi
nhắc đến cậu Vàng tâm hồn lão ta trở nên trong trẻo, hồn nhiên đến lạ thường.
Lão chắc hẳn cảm thấy hạnh phúc, sung sướng, biết ơn khi được thượng đế ban
cho 1 ân huệ là “cậu Vàng ”. Đó không phải là tình cảm giữa con người bình
thường mà là giữa 1 người nông dân nghèo khổ với 1 con chó. Chắc trong kí ức
của lão Hạc cậu Vàng chính là hình ảnh của đứa con trai cho nên lão dành cho
Vàng 1 tình yêu rất đặc biệt. Và vì vậy mà giây phút bán cậu Vàng vì con lão
đau đớn lắm! Đó như cắt từng miếng thịt. Sự ra đi của Vàng cũng là lần cuối lão
Hạc nhìn thấy cõi đời này, thiếu nó thì cuộc sống của lão cũng sẽ không còn tồn
tại nữa.
Đọc tác phẩm Lão Hạc nhà văn Nam Cao không chỉ tìm thấy hạt ngọc
về tình yêu thương mà còn tìm thấy hạt ngọc về lòng tự trọng trong con
người lão Hạc Trong truyện ngắn của Nam Cao, cái đói và miếng ăn thường trở
thành 1 nỗi ám ảnh đối với nhân vật, có khi làm tha hóa, biến chất nhân cách
của nhân vật (Chí Phèo, bà lão, Binh Tư...) nhưng cái đói và miếng ăn không
vùi dập được lão Hạc. Trước hết, lão Hạc thể hiện lòng tự trọng với con trai, dù
còn tiền, còn đất, còn tài sản nhưng lão Hạc buộc mình phải ăn củ ráy, củ khoai,
bữa rau, bữa ốc để dành dụm tiền cho con. Có lẽ lão cảm thấy có lỗi với con,
không muốn trở thành người cha vô trách nhiệm, chỉ biết ăn dần, sống mòn, đây
chắc hẳn là việc cuối cùng lão làm được cho con trai trước khi ra đi và tất cả
cũng là vì đứa con. Còn với ông Giáo lão từ chối mọi sự giúp đỡ một cách
“hách dịch”, lão Hạc không muốn vì ba miếng ăn mà trở thành con người ăn
bám, bị bà giáo ghét bỏ, vì bởi lẽ đối với lão Hạc “miếng ăn là miếng nhục ”.
Dân gian có câu: “chết là hết ”nhưng lão chết đi mà vẫn không muốn làm khổ
hàng xóm nên lão đã gửi lại 30 đồng bạc nhờ họ lo hậu sự khi lỡ ra đi đột ngột.
Tự trọng với con trai với ông giáo là bình thường nhưng tự trọng với cậu Vàng
đã làm lão trở nên sáng ngời giữa đêm đen tối của xhpk. Lão rất đau khổ và tự
trách mình vì già đến tuổi này còn trót lừa một con chó. Ôi chao! Chỉ vì lừa bán
1 con chó mà lão Hạc quyết định tự tử để đền tội và đồng cảm với nó. Cậu Vàng
tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng lại là hình ảnh không thể thiếu, làm toát lên số
phận và nhân cách cao đẹp của lão Hạc. Đó là một vẻ đẹp đáng trân trọng, gìn
giữ
Vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn lão Hạc được thể hiện sâu sắc dưới ngòi bút
dầy tính nhân đạo và phong cách nghệ thuật của tác giả. Bằng cách kể
chuyện hấp dẫn, độc đáo, lôi cuốn nhà văn đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á,
cách tạo tình huống... đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm
trong cõi đất này và có lẽ bởi vậy mà người ta nói Nam Cao là 1 bậc thầy kể
chuyện. Cùng nghệ thuật miêu tả khắc họa tâm lý, tính cách nhân vật và ngôn
ngữ giàu tính gợi hình gợi cảm giúp đọc giả hình dung trước mắt mình là một
lão Hạc đang sống. Nhà văn đã dùng lão Hạc để làm cái đòn bẫy nâng con
người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Lão Hạc đầy bóng tối nhưng từ trong
đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng.
Nhận định của Nguyễn Minh Châu là hoàn toàn đúng đắn. Nhận định đã
thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương con người của Nam Cao
đổng thời nhà văn bày tỏ thái độ lên án xã hội phong kiến bất công đã dẩy
nhưng con người nông dân nghèo khổ như lão Hạc vào bước đường cùng. Qua
tác phẩm Lão Hạc ta đã tìm được hạt ngọc về tình yêu thương sâu sắc, rộng lớn
và lòng tự trọng cao cả ẩn giấu bấy lâu nay trong con người lão Hạc. Bởi vậy
Nam Cao được ví như 1 loại đồ cổ quý hiếm cất giữ trong đó là những hạt bụi
vàng văn hóa thẳm sâu của nền văn minh dân tộc. Dù gần một thế kỷ trôi qua
nhưng cho tới nay câu chuyện về lão nông dân nghèo khổ này vẫn được nhắc
mãi, đó là một câu chuyện nhân cách và tình thương.

BÀI LÀM SỐ 2 Nhận định về Lão Hạc, Hoàng Thị Hương trong vẻ đẹp con
người có viết: "Tinh thần Lão Hạc mới kiên định làm sao! Như thành trì
kiên cố xây bằng tình thương và lòng tự trọng .Đói khổ, đau đớn không phục
nổi. Nhà văn Kim Lân tặng lão từ "bất khuất". Bất khuất trước kẻ thù còn dễ
hiểu nhưng trước mình mới thật khó". Bằng hiểu biết về truyện ngắn Lão
Hạc của nhà văn Nam Cao, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Nguyễn Văn Siêu đã từng nói: “Văn chương có hai loại, loại đáng thờ và
loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là chuyên chú ở văn chương, loại
đáng thờ là loại chuyên chú về con người”. Văn chương muôn đời phải phục vụ
con người, hướng con người đến những giá trị cao đẹp của cuộc sống. “Lão
Hạc” của Nam Cao là một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn học Việt
nam hiện đại có thể xem là một tác phẩm giàu chất nhân sinh. Truyện ngắn đã
hướng con người, đặc biệt là những con người nghèo khổ, bất hạnh nhưng trái
tim vẫn dạt dào tình yêu, tâm hồn vẫn ngời ngợi cao đẹp.
Vậy “thành trì kiên cố” là gì? Đó là một tòa thành được xây dựng rất đỗi
vững chắc, không dễ bị sụp đổ hẳn với một số va chạm có sức công phá lớn.
Còn nếu xét với nghĩa câu nói của Hoàng Thị Thương thì đó là một thành trì do
vẻ đẹp người nông dân xây nên? Điều mà Hoàng Thị Thương nói đến ở đây
chính là khẳng định phẩm chất cao đẹp của một con người mà điển hình ở đây
là lão Hạc: một con người giàu tình yêu thương và lòng tự trọng mà mọi khó
khăn, thử thách không thể làm sụp đổ, đổi thay.
Trước hết, tâm hồn lão Hạc như một thành trì kiên cố được xây nên
bởi trái tim đầy ắp tình yêu thương. Lão Hạc là một người nông dân thuộc tầng
lớp nghèo nàn nhất nhì xã hội ngày xưa. Khi con còn nhỏ thì người vợ đã qua
đời, lão phải một thân một mình “gà trống nuôi con”. Cả gia tài của lão chỉ vỏn
vẹn một túp lều. Mới nói đến đây thôi mà người đọc như chúng ta đã thấy hoàn
cảnh lão thật đáng thương rồi! Ấy vậy mà người con trai chỉ vì cha không đủ
tiền lo đám cho mà vội phẫn chí bỏ đi làm đồn điền cao su, để người cha già yếu
sống một mình trong sự éo le, hiu quạnh. Thật sự mà nói thì trong lòng lão luôn
có một nỗi khổ tâm rất lớn: gia đình không có được giây phút đoàn tụ, không
được sống bình yên, êm ấm. Nhìn vậy thôi chứ lúc nào lão cũng thương nhớ đến
con, mọi câu chuyện thường ngày của lão đều ngấm ngầm xoay quanh đứa con
ấy. Lão mòn mỏi trông mong lá thư con gửi về, đong đếm từng ngày con đi để
được gặp con nữa. Nhưng có vẻ như điều ấy quá đỗi xa vời đối với lão. Lão
luôn cho rằng mình mắc lỗi với con, không lo cho con được một cuộc sống tốt
như bao người khác. Lão tìm đủ mọi cách để giữ mảnh vườn cho người con sau
này về lấy vợ có chỗ mà ở. Lão ta thà chết chứ chẳng chịu bán lấy một sào.
Tình cảm của lão quả là thiêng liêng và cảm động, lão tình nguyện chọn chết
chỉ để trọn đạo làm cha.
Thương nhớ con trai nhưng nên có bao nhiều tình cảm lão dành
hết cho cậu Vàng. Đối với lão Hạc, cậu Vàng như sợi dây liên lạc giữa lão với
người con trai vắng nhà. Lão thương cậu ta lắm, lão cho nó ăn cơm trong bát sứ,
chia sẽ thức ăn, chăm sóc, trò chuyện cùng nó như một người bạn thâm giao,
tưởng chừng như chẳng thể nào xa rời nó. Bởi thế, lúc bán cậu ta có lẽ là giây
phút lựa chọn khó khăn nhất đời lão. Năm đồng bạc kể ra cũng là “món tiền to”,
nhất là giữa thời buổi “đói deo đói lắt” này. Thế nhưng lão ta bán cậu Vàng
chẳng phải vì tiền đâu! Lão làm như vậy chẳng qua là vì hoàn cảnh đói nghèo,
cùng quẫn đã buộc lão phải nói lời từ biệt với nó và còn cả một điều sâu xa nữa
mà chính lão mới hiểu. “Thóc cao, gạo kém”, sức cùng, lực kiệt nên lão đành
phải vậy. Sau khi bán chó, lão “cố làm ra vui vẻ” nhưng cũng chẵng giấu được
bộ mặt “cười như mếu và đôi mắt lúc nào cũng ầng ậng nước” ấy. Lão tự trách
bản thân là một kẻ bất nhân, là tên lừa đảo không có tính người, nhẫn tâm lừa cả
một con chó vốn “tin yêu của mình”. Có lẽ đó cũng chính là giây phút lão đau
đớn khi mất đi “một nữa trái tim” của mình khiến: “mặt lão đột nhiên co rúm
lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão
ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu
khóc…!”. Cuộc đời lão cứ như dòng nước mắt chảy dài trên những nỗi đau bất
lực. Nhìn lão lúc này cứ như bị chìm xuống như bị ai “vùi dập”. Chung quy lại
hai sự việc lớn của cuộc đời lão Hạc: việc bán cậu Vàng và việc tìm đến cái
chết. Hai sự việc ấy tuy chẳng dính dáng gì nhau nhưng đều toát lên một ý
nghĩa chung về tấm lòng người cha thương con mênh mông, sâu nặng.
Thành trì kiên cố của lão Hạc không chỉ đơn thuần xây bằng
tình yêu thương mà để nó được vững chắc thì lão đã phải dâng hiến vào đó
cả tấm lòng tự trọng sáng chói như ánh dương. Trong truyện ngắn của Nam
Cao, cái đói và miếng ăn hầu như trở thành nỗi ám ảnh đối với nhân vật, nó
buộc nhân vật phải trở nên tha hóa, biến chất như: Binh Tư trong “lão Hạc”, bà
cụ trong “một bữa no”, Chí Phèo” trong chính câu chuyện của cuộc đời hắn…
Nhưng cái đói và miếng ăn lại không vùi dập được vẽ đẹp tâm hồn của lão Hạc
mà ngược lại nó là cho nhân cách lão sáng ngời ngời hơn bao giờ hết. Trước
hết, lão tự trọng với người con của mình, dù còn tiền, còn đất, còn có cái để
sinh nhai nhưng lão vẫn chọn ăn ráy, củ khoai, bữa trai, bữa ốc để dành dụm
từng đồng cho con. Lão không muốn biến mình thành một người cha vô trách
nhiệm, chỉ biết ăn dần, sống mòn bằng tiền của con. Và rồi cuối cùng lão chọn
cái chết không ngoài mục đích là vì đứa con của mình. Đối với ông giáo, lão ta
từ chối mọi sự giúp đỡ như một kẻ hách dịch. Lão không muốn vì dăm ba
miếng ăn mà trở thành một lão già tội nghiệp được bố thí, cũng không muốn vì
miếng ăn mà mất đi thiện cảm trong mắt bà giáo. Dân gian vốn có câu: “miếng
ăn là miếng nhục”, có lẽ nó đúng, rất đúng với hoàn cảnh lão Hạc lúc này.
Người đời thường nói: “chết là hết” nhưng lão Hạc thì lại không, ông muốn sau
khi “ra đi” vẫn để lại thiện cảm trong lòng xóm làng nên ông đã gửi ba mươi
đồng bạc nhờ hàng xóm lo giúp việc hậu sự. Trong khi cái đói và miếng ăn luôn
đe dọa, trở thành nỗi ám ảnh của biết bao nhiêu người dân trong xã hội cũ thì
lão Hạc như một điểm sáng giữa không gian đen tăm tối, mịt mù ấy. Nếu lão chỉ
tự trọng với con, với ông giáo, với xóm làng thì có lẽ đây là điều bình thường
đối với người đọc nhưng việc giữ lòng tự trọng trước một con chó đã bán đi mới
thực sự là điều làm cho nhân cách lão chói lòa, rực rỡ. Trong lòng lão luôn đau
đáu một điều: con chó nhìn lão cứ như là đang trách móc, giận hờn vì đã lừa
nó. Phải chăng cái chết bằng bã chó đầy đau đớn và dữ dội của lão một phần là
vì muốn chuộc lỗi với con chó? Bởi vì bản thân lão vẫn luôn cho rằng lão lừa
cậu Vàng tức là lão đã từ bỏ tư cách làm người lương thiện. Đứng trước sự sống
và cái chết, lão đã không mảy may suy nghĩ mà hướng về cái chết vì biết nếu
tiếp tục sống thì sẽ hoen ố nhân cách, vậy nên chỉ còn cách chết đi để giữ lấy
phần nguyên sơ, thánh thiện trong tâm hồn.
Thành trì kiên cố của tâm hồn lão Hạc còn được xây dựng bằng
ngòi bút sắc sảo, giàu chất hiện thực, thấm đã mtinh thần nhân đạo sâu sắc.
Đó là sự trân trọng, ngợi cả tâm hồn thánh thiện, trong sáng, nhân cách
tuyệt vời của một người cha, người nông dân bận cùng, là thái dộ cảm thông
chia sẻ, thái độ lên án xã hội bất công…mỗi một nét bút của Nam Cao như
một đường dao cứa vào vết thương của XHPK. Ngòi bút hiện thực của Nam
Cao như lời nói đanh thép vạch rõ từng chân tơ, kẽ tóc cái xấu xa tàn bạo của xã
hội phong kiến đương thời đã đẩy những người dân hiền lành, lương thiện như
lão Hạc phải tìm đến cái chết để giải thoát cho bản thân. Họ không có quyền
được lựa chọn đời sống giàu sang hay đói khổ, xin hãy để họ sống đúng nghĩa
“sống” ở cuộc đời này!
Nhận xét của Hoàng Thị Thương đưa ra khi đánh giá về “lão
Hạc” là hoàn toàn hợp lí và đầy sức thuyết phục. Bằng cách kể chuyện hấp
dẫn, lôi cuốn,…nghệ thuật xây dưng, miêu tả tâm lí nhân vật… Nhà văn Nam
Cao đã tái hiện lại cuộc sống đầy đau khổ của người dân nghèo trong xã hội
phong kiến bất công nhưng họ vẫn giữ được tâm hồn lương thiện. Đồng thời tác
giả cũng bày tỏ lòng cảm thông, chia sẽ đến họ, qua đó lên án và phê phán xã
hội phong kiến tàn bạo ấy. Câu chuyện khép lại với một cái chết đầy đau đớn,
dữ dội, gây ám ảnh cho bao thế hệ bạn đọc gần một thế kỉ qua!

BÀI LÀM SỐ 3: Nhận xét về 2 bài thơ “Nhớ rừng”(Thế Lữ) và khi con Tu
Hú ( Tố Hữu) có ý kiến cho rằng: “ Cả 2 bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước
và niềm khát khao cháy bỏng của tầng lớp thanh niên tri thức.Tuy nhiên thái
độ đấu tranh cho tự do ở 2 bài thơ lại hoàn toàn khác nhau”. Em hãy làm
sáng tỏ ý kiến trên.
Bài làm
“Thơ là âm nhạc tâm hồn, nhất là tâm hồn cao cả, đa đảm” ( Voltaire).
Thơ ca chỉ bật ra khi trong tim người nghệ sĩ đang rung lên những nhịp đập thổn
thức, đang ngân lên những điệu ngân của tâm hồn. Chính bởi vậy nhiều bài thơ
hay về tự do, về tinh thần đấu tranh ra đời. Trong đó phải kể đến Nhớ Rừng của
Thế Lữ và khi con tu hú của Tố Hữu. Khi đánh giá về hai bài thơ này, có ý kiến
cho rằng: “ Cả hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và niềm khát khao tự do
cháy bỏng của tầng lớp thanh niên tri thức .Tuy nhiên thái độ đấu tranh cho tự
do của mỗi bài lại hoàn toàn khác nhau”.
Hai bài thơ đều thể hiện lòng yêu nước và khát khao tự do cháy bỏng
của tầng lớp thanh niên tri thức. Trước hết, đó là lòng yêu nước và khát khao
tự do qua bài Nhớ Rừng
“ Gậm một khối căm hờn trong củi sắt
Ta nằm dài trong ngày tháng dần qua”
Mở đầu cho bài thơ là từ “gậm”, chắc hẳn có nhiều người sẽ thắc mắc tại sao
thế Lữ lại không dùng từ gặm hay ngậm . Vì nếu là gặm thì trong có vẻ ngon
quá, cũng không dùng ngậm vì nếu thế thì nghe sẽ khá nhục nhã. Chắc hẳn bị
nhốt trong củi sắt, vì căm hờn uất hận mà không thể làm được gì nên đã tích tự
thành “khối” để gậm nát chúng. Nhưng khó thay gậm mãi chẳng tan, càng gậm
càng cay đắng. Hổ ta chỉ biết “nằm dài” bất lực trước thực tại đầy đau đớn và
nhục nhã. Bị giễu, bị nhục nhằn tù hãm phải trở thành thứ đồ chơi cho lũ người
kia ngạo mạn ngẩn ngơ. Có lẽ đau đớn nhất, tủi nhục nhất vẫn là từ một chúa
sơn lầm oai hùng bị hạ xuống ngang hàng với lũ thú rừng. Đó là một nét tâm
trạng điển hình đầy bi kịch của vị chúa sơn lâm khi sa cơ lỡ vận.
Bất mãn trước thực tại đầy đau đớn tù túng, con hổ chỉ biết nhớ về thời
vàng son lừng lẫy:
“Nhớ cảnh sơn lầm bóng cả cây già.
Với tiếng gió gào ngàn, với dòng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội”
Bị giam cầm trong củi săt, con hổ đau đáu nhớ rừng miên man. Đối với chúa
sơn lâm mà nói thì rừng là tất cả. Nhớ rừng là nhớ tiếc tự do, là nhớ thời oanh
liệt là nhớ tiếc những cái cao cả,... cho nên hình ảnh rừng – con hổ gọi một cách
rất trang trọng là nước non hùng vĩ đã hiện lên với tất cả những gì lớn lao. Đó là
cảnh bóng cả cây già,.. và cả ngôi nhà thân yêu với thời oanh liệt của nó ở nơi
ấy. Vì thế, con hổ khao khát trở về tự do, nên nó gửi mình theo giấc mộng ngàn
to lớn. Qua việc thể hiện tâm sư, tác giả kín đáo bộc lộ tình yêu nước tha thiết
của thanh niên tri thức. Đồng thời ta cũng thấy được sự uất hận khát khao tới
cuộc sống tự do của toàn dân tộc.
Nếu như nhớ rừng khát khao tự do bằng cách quay về quá khữ lẫy lừng về
chốn ngàn năm cao cả âm u thì bài thơ khi con tu hú của Tố Hữu lại thể hiện
tình yêu thiên nhiên, đất nước..
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiên đang chín trái cây ngọt bùi
Vườn râm dật tieéng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sâ nắng vàng
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”.
Tiếng chim tu hú kêu là âm thanh quen thuộc báo hiệu một mùa hè đang đến.
Âm thanh ấy đã thức gọi tâm hồn người tù một khung cảnh mùa hè nắng nóng
với “nụ cười tỏa nắng” của mặt trời. Với 6 câu thơ lục bát câu đầu là tiếng
chim náo nức gọi bầy, 5 câu còn lại là một thế giới của sự sống tươi đẹp. Chỉ
với trí tưởng tượng của người tù, Tố Hữu như họa lên một bức tranh đầy màu
sắc len lỏi vào đó là những âm thanh, màu sắc: màu vàng của lúa, trái cây đang
chín... Và phải chăng bức tranh mùa hè sôi động này lại là tình yêu thiên nhiên,
tình yêu quê hương, đất nước chăng? Đây chính là tâm tư, tình cảm của tác giả
đối với quê hương đất nước mình. Yêu quê hương, đất nước nhưng không chìm
đắm trong quá khứ vàng son mà hướng về vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời tươi
thắm dù ngay cả khi bị giam trong nhà tù. Khi viết những câu thơ này nhà thơ
đang bị giam giữ trong tù nhưng băng ftinhf yêu thiên nhiên, đất nước, quê
hương, Tố Hữu đã tworng tượng ra bức tranh mùa hè sôi động, đầy màu sắc….
Không chỉ là cảnh thiên nhiên đất trời, nhà thơ còn khát khao muốn
đạp đổ nhà tù, ách thống trị…
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà sao muốn đập tan phòng hè ôi
Ngột làm sao , chết uất thôi,
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”.
Lời tâm sự thật tha thiết và niềm khao khát thật mạnh mẽ! Mà hè tươi đẹp tươi
đẹp của cuộc sống bên ngoài thôi thúc người tù muốn đạp tan cả 4 bức tường
giam. Nhưng đó chỉ là ý muốn , là khát vọng chủ quan. Còn hiện tại vẫn là cảnh
tù, vẫn trơ trơ ra đó 4 bức tường nhà giam. Không thể nào vượt thoát được,
người tù thấm thía cảm giác ngột ngạt đến mức không kìm được nỗi uất hận:
“Ngột làm sao, chết uất thôi” “con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”, từ cứ trong
thơ xoáy sâu vào nỗi đau, nó vạch rõ hai không gian: ngoài kia là tiếng chim
mùa hè rộng rãi, trong này là bốn bức tường giam ngột ngạt. Đồng thời, đây
cũng là lời thôi thúc niềm ước mơ tự do trong lòng người tù. Tố Hữu là nhà thơ
chiến sĩ – thơ ông là thứ thơ trữ tình, chính trị độc đáo.Dođó ,nỗi lên trong bài
thơ này, ta thấy tình yêu đất nước tha thiết và khát khao tự do cháy bỏng của
một chiến sĩ cách mạng.
Hai bài thơ đầu thể hiện lòng yêu nước và nhất là khát vọng tự do cháy
bỏng, nhưng thái độ đấu tranh cho tự do lại hoàn toàn khác nhau. Về phía bài
nhớ rừng, con hổ khi rơi vào cảnh tù túng thì nó uất hận, chán ghét thực tại tầm
thường giả dối, buông xuôi trước hoàn cảnh đó: “ Ta nằm dài trong ngày tháng
dần qua “. Chỉ biết chờ đợi, gửi gắm hồn đề tìm về quá khứ oai hùng , để nuối
tiếc và nương theo giấc mộng ngàn to lớn, được phảng phất gần cảnh nước non
hùng vĩ xa xôi đó. Hổ ta bất lực trước mọi thứ, thái độ chán nản, không có ý
thức đấu tranh để thoát khỏi cảnh tù tối tăm mịt mù. Thân phận nô lệ ấy cứ tiếp
tục đeo bám vị chúa sơn lâm cho đến khi hổ ta đứng dậy đấu tranh quyết liệt.
Nhưng ác thay, con hổ chỉ biết chờ đợi. Có lẽ hổ không bao giờ được giải quyết
theo tinh thần lãng mạn, một thái độ đấu tranh tiêu cực, giải thoát bằng hoài
niệm và ước mơ.
Nếu nhớ rừng là cách đấu tranh tiêu cực thì khi con tu hú của Tố Hữu lại
là hoàn toàn khác. Cảnh tù tối tăm đã dồn nén tâm trạng trữ tình với ý chí quyết
liệt, tinh thần mạnh mẽ. Tiếng chim tu hú trở thành tiếng kèn xung đột, hồi
trống giục giã tâm hồn con người. Người chiến sĩ khát khao hành động , muốn
‘đạp tan phòng’, phá vỡ sự giam hãm kia, ra ngoài để bảo vệ sự yên bình, tự do
của dân tộc. Dù hoàn cảnh hiện tại là đau khổ, tù đày nhưng không hề khiến anh
buồn bã, chán nãn mà nó càng hun đúc thêm tinh thần chiến đấu sắt thép của
người tù. Thái độ đấu tranh quyết liệt, mạnh mẽ. Không chịu buống xuôi trước
hoàn cảnh. Đây chính là thái độ đấu tranh tích cực. Hai bài thơ Nhớ Rừng và
Khi Con Tu Hú là hai cách đấu tranh hoàn toàn khác nhau với nhớ rừng Thế Lữ
không nói được trực tiếp tâm tư, tình cảm của mình như Tố Hữu mà gián tiếp
qua lời con hổ ở vườn bách thú. Đây cũng là một tài năng đặc biệt của ông để
nói lên tình yêu thiên nhiên, yêu nước và khát vọng tự do của mình.
Nhớ rừng và khi con tu hú là hai bài thơ hay, thể hiện tinh thần yêu nước
của một thế hệ thanh niên trí thức hồi bấy giờ. Nhưng có sự khác nhau trong
thái độ đấu tranh. Sự khác nhau ấy góp phần làm nên nét riêng của thơ lãng mạn
và thơ cách mjang. Đông thời cho chúng ta thấy phần nào phong cách riêng biệt
của mỗi bài thơ.

BÀI LÀM SỐ 4 Đề bài : Một kết thúc bất ngờ bao giờ cũng chứa đựng sự
kịch tính và sự thú vị, đặc biệt sẽ gây ấn tượng mạnh và sự liên tưởng sâu xa,
tạo cho tác phẩm có tiếng vang lớn . chứng minh nhận định trên bằng tác
phẩm Lão Hạc .
Bài Làm
Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao điều lí thú trong thưc tế và trang sách.
Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao, cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn, cái
nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời ( Nguyễn Văn Thạc ) Có thể nói, khi
viết về người nông dân, Nam Cao như “ứa từng giọt lệ”. Ông đã tái hiện về một
cuộc đời cay đắng bất công trong truyện ngắn cùng tên “Lão Hạc”, để rồi, kết
thúc truyện thật dữ dội, bất ngờ nhưng cũng thật sâu sắc, ám ảnh với người đọc
suốt hơn 80 năm qua với cái chết bi thảm, đau thương! Bởi thế, có nhận định
cho rằng : “ Một kết thúc bất ngờ bao giờ cũng chứa đựng sự kịch tính và sự thú
vị, đặc biệt sẽ gây ấn tượng mạnh và sự liên tưởng sâu xa, tạo cho tác phẩm có
tiếng vang lớn.”
Trước hết, kết thúc bất ngờ là kết thúc người đọc không ngờ đến, tạo ra một
sự hấp dẫn. Ý nghĩa của nhận định : kết thúc của một câu truyện thường thể
hiện sự thành công của tác phẩm và tài năng của tác giả .
Kết truyện bắt đầu từ lúc ông giáo sang nhà binh tư xin bã chó về và nói
rằng để đánh bã chó nhà nào đó để giết thịt , từ đó mọi ánh mắt với lời dị nghị
đều hướng về phía lão Hạc ngay cả ông giáo cũng hiểu lầm lão. Nhưng ai biết
rằng sau đó, ông Giáo đã dùng chính bã chó đó để kết liễu cuộc đời của ông.
Cái chết vật vã , đau đớn giữ dội của Lão Hạc đã làm cho ông giáo và Binh Tư
vỡ lẽ rằng lão không hề tha hóa và chỉ có Binh Tư và ông giáo mới hiểu rõ cái
chết của lão.
Kết truyện của tác phẩm Lão Hạc rất bất ngờ, có thể nói kết truyện đã
gây bất ngờ lớn với người đọc, với ông giáo. Sự bất ngờ của cái chết càng làm
cho câu chuyện thêm căng thẳng, thêm xúc động. Mâu thuẫn bế tắc được đẩy
lên đến đỉnh điểm và kết thúc một cách bi đát và tất yếu. Khi Lão sang nhà Binh
Tư để xin Bã chó có lẽ đó là lúc lão đã xác định được cái chết đau đớn của
mình. Lão đã nói xin bã chó về để đánh chó, ngay cả người đọc cũng rất bất
ngờ, trời ơi, lão Hạc đó ư? một người đã từng từ chối lời mời gọi đường đi xấu
xa của binh Tư, một người đã từng từ chối sự giúp đỡ của ông giáo một cách
hách dịch. Hành động và lời nói của lão không chỉ khiến người đọc, Binh Tư
bất ngờ mà đến cả ông giáo, người bạn thân chí cốt của lão cũng rất ngạc nhiên!
Nhưng đâu ai biết rằng lời nói và thái độ của lão Hạc chỉ là sự che đậy ý dịnh
bên trong của Lão. Giữa lời nói bên ngoài nó đối lập với ý định bên trong của
lão, và điều đó được thể hiện bằng cái chết dữ dội của lão. Đâu ai biết rằng, lão
xin bã chó để tự tử, để kết liễu những chuỗi ngày đau khổ. Với hành động và
lời nói của lão Hạc, người ngoài họ nghĩ rằng lão Hạc đã hoàn toàn tha hóa biến
chất thật rồi, nhưng bất ngờ thay, sự thật lại không phải là như thế mà thực ra,
nói đúng hơn, Lão làm thế là để lão được giải thoát sau bao tháng ngày cùng
cực, đau khổ. Đồng thời đoạn kết của Truyện ngắn cùng tên còn thể hiện một
triết lí sâu sắc của nhà văn Nam Cao: Đừng nhìn người bằng vẻ bên ngoài để
đánh giá, quy kết mà hãy nhìn họ bằng con mắt bằng tấm lòng sâu thẳm bên
trong thì mới thấy hết được vẻ đẹp, nhân cách sáng ngời của họ .
Kết thúc truyện Lão Hạc gây ấn tượng và sự liên tưởng sâu xa tạo cho
tác phẩm có sức vang lớn. Lão đã kết liễu cuộc đời mình bằng bã chó, có thể
nói đó là một cái chết dữ dội và đau đớn nhất, “ Lão vật vã trên giường, đầu tóc
rũ rượi … chốc chốc lại giật nảy lên, lão tru tréo, bọt mép sùi ra”, bấy nhiêu
cụm từ đó đã khiến cho ta ấn tượng cái chết cuả lão Hạc. Tác giả đã liên tiếp sử
dụng các từ láy gợi hình, gợi cảm, nó khiến cho ta hình dung được một lão Hac
sắp chết. Đó là cái chết của người do bị trúng độc bả chó. Bất giác, em có cảm
tưởng như không phải cách chết của một con người bình thường mà là cách chết
như của một con chó. Có lẽ, cái chết đau đớn mà dữ dội như muốn liên tưởng
sâu sắc đến lời thanh minh, chuộc tội với cậu Vàng. Lão không chọn cách chết
nào khác mà chết như cách chết của một con chó ăn phải bả, bởi với lão đến tận
lúc chết, ám ảnh về cậu Vàng, về việc mình đã trót lừa một con chó vẫn day dứt
lương tâm lão. Lão đã chọn một cách giải thoát đáng sợ nhưng lại như một cách
để tạ lỗi cùng cậu Vàng. Lão Hạc yêu thương con chó như con trai nhưng lại nỡ
lừa bán nó đổ cho thằng Mục giết thịt, thì lão cũng phải tự trừng phạt mình, tự
chịu hình phạt như một con chó. Lão Hạc chết trong đau đớn, vật vã ghê gớm về
thể xác nhưng chắc chắn lão lại thanh thản về tâm hồn vì đã hoàn thành nốt
công việc cuối cùng với đứa con trai vẫn “bặt vô âm tín” với hàng xóm láng
giềng về tang ma của mình. Lão chết để giữ phần ấm cho con, để giữ lại hi vọng
cho người con duy nhất đang ở nơi xa của mình. Cái chết của lão là biểu hiện
cao nhất của tình phụ tử thiêng liêng, của đức hi sinh cao cả. Đó là âm vang của
lòng tự trọng, âm vang của tình thương yêu và cả nhân cách cao đẹp. Tiếng
vang về cái chết của lão Hạc như một lời tố cao đanh thép về xã hội bất công
tàn bạo.
Cái chết của Lão Hạc đã gây một âm vang lớn cho nền văn học Việt
Nam. Văn học về những con người bị áo cơm ghì sát đất, phải sống tha hoá,
sống kiếp sống mòn, của những cảnh đời bị đẩy vào bước đường cùng không lối
thoát,… Nước mắt và cái chết có thể coi là những hình ảnh quen thuộc của văn
học hiện thực phê phán 1930 – 1945. Mô típ ấy ám ảnh nhiều trong sáng tác của
nhà văn Nam Cao: Chí Phèo chết trên vũng máu của chính mình ngay trong khi
khát vọng trở về với cuộc đời bị dập tắt; Lang Rận, Mụ Lợi tự tử trong sự ghẻ
lạnh, đàm tiếu của người làng ; và bà cụ chết vì một bữa no duy nhất của cuộc
đời… nhưng đối với cái chết của Lão Hạc, Nam Cao đã hoàn toàn đặt một
niềm tin lớn, mãnh liệt vào vẻ đẹp phẩm chất của con người, dù chết chứ không
chịu tha hóa biến chất, thà chết nhưng trọn đạo, thà hi sinh để giữ lấy lòng yêu
thương, giữ lấy trọn nhân phẩm của mình. Ấy thế, ông giáo đã từng nói“ Cuộc
đời chưa hẳn đáng buồn” là vì thế. Có lẽ, tác giả còn thể hiện một nỗi đau đớn,
xót xa trước tấn bi kịch của con người: người dân bị chèn ép, bị bần cùng hóa,
buộc họ phải tìm đến cái chết bi thương và bế tắc. có thể nói rằng: “ Khi viết về
người nông dân, Nam Cao như ứa từng giọt lệ ” là vì thế .
Cái chết của Lão Hạc một mặt góp phần bộc lộ tính cách và số phận của
Lão Hạc, cũng là một điển hình sắc nét của số phận và tính cách của người
nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám : nghèo khổ, bế tắc, nhưng
giàu lòng tự trọng, không tha hóa và có một lòng yêu thương cao cả, mặt khác,
cái chết của Lão Hạc cũng có ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội thực dân nửa
phong kiến đã đẩy những con người lương thiện vào bước đường cùng, phải
chấp nhận cái chết như cách duy nhất kết thúc cuộc đời nhiều đau khổ. Cái chết
của lão cũng giúp những người xung quanh lão hiểu con người lão hơn.
Kết thúc truyện còn thể hiện một tài năng nghệt thuật của Nam Cao.
Trước hết, ta thấy Nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu là qua nhân vật Lão
Hạc : Bằng phương pháp đối lập, nhà văn tạo vẻ bề ngoài cho Lão Hạc dường
như lẩm cẩ , hách dịch, đôi lúc bị nghi ngờ là “phường heo thuốc chó” nhưng
bên trong lại là một người có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, sâu sắc, đáng kính
trọng. Không những thế, cách xây dựng cốt truyện của nhà văn Nam Cao quả
thật là tài năng, chân thực và sinh động. Ông dẫn người đọc vào mạch truyện
đầy khéo léo, bất ngờ, gay cấn, gây cảm xúc căng thẳng cho người đọc và tâm
lý nhân vật qua từng tự kiện trong truyện. Ngôn ngữ của truyện cũng góp phần
không thể thiếu của tác phẩm . Truyện được viết với nghệ thuật ngôn ngữ cô
đọng, nét nỏi bật là ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy chất trứ tình mang đầy
tâm tư tình cảm, suy nghĩ tâm trạng của nhân vật. Nghệ thuật đóng vai trò quan
trọng nhất đó là Nghệ thuật kể truyện thể hiện được tài năng của tác giả . Câu
truyện được kể theo lời dẫn của nhân vật “tôi” ( Ông Giáo)- người tham gia câu
truyện và chứng kiến sự việc diễn ra. Điều này lam cho câu truyện thêm chân
thật , gần gũi với người đọc . Đồng Thời việc chọn vai kể này việc dẫn dắt câu
chuyện sẽ tự nhiên và linh hoạt hơn . Cũng vì thế , câu chuyện được kể với
nhiều giọng điệu hơn. Người kể có thể vừa kể , vừa bộc lộ được hết tình cảm,
suy nghĩ của mình việc miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật rất tự nhiên, hợp lí.
việc tạo tình huống truyện bất ngờ nhằm lôi cuốn người đọc và dễ dàng trình
bày triết lí sâu sắc về cuộc sống của tác giả
Ta có thể khẳng định rằng, nhận định: “Một kết thúc bất ngờ bao giờ cũng
chứa đựng sự kịch tính và sự thú vị, đặc biệt sẽ gây ấn tượng mạnh và sự liên
tưởng sâu xa, tạo cho tác phẩm có tiếng vang lớn” là đúng. Đồng thời, còn
khẳng định được một tài năng, thiên chức của người làm nghệ thuật là cảm
thông, đồng cảm về hoàn cảnh người nông dân, và hướng người nông dân về
một thế giới yên bình, tự do, ấm no. Qua những tác phẩm của Nam Cao, có lẽ
đây là tác phẩm truyện ngắn thành công nhất về cả giá trị nghệ thuật đặc sắc, lẫn
giá trị nhân đạo sâu sắc. Dù thế, nhưng cái chết của Lão Hạc vẫn là nỗi ám ảnh
hơn bao giờ hết cho bao thế hệ bạn đọc. Và em tin rằng, Truyện ngắn cùng tên
của Nam Cao sẽ vẫn mãi đồng hành với bao bạn đọc, với thời gian .

BÀI LÀM SỐ 5: Nhà văn khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản
kháng cái ác, cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp. Hãy làm
sáng tỏ qua đoạn trích tức nước vỡ bờ của NGÔ TẤT TỐ
“Văn chương có hai loại, loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại đáng
thờ chuyên chú về con người, loại không đáng thờ chuyên chú về văn chương .
Đúng vậy, một tác phẩm muốn sống mãi với thời gian, năm tháng phải luôn
hướng về con người, cuộc sống của con người phải giúp con người xóa bỏ độc
sự tàn ác,bất công , hướng mọi người đến những điều tốt đẹp.Vì thế có ý kiến
cho rằng “ nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản
kháng cái ác, cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp “ điêu đó
được thể hiện rõ nét qua đoạn trích tức nước vỡ bờ của NGÔ TẤT TỐ .
Vậy nhà văn là gì? Nhà văn chính là người nghệ sĩ sáng tác ra những tác
phẩm văn học để gửi gắm tình cảm, tâm tư của mình. Niềm trắc ẩn chính là
tình yêu thương, sự cảm thông, chia sẻ, thương cảm để giúp những con người
khó khăn vượt qua hoàn cảnh. Còn ý thức phản kháng cái ác chính là sự chống
lại cái xấu, cái ác. Khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp là hướng
cuộc sống đến những điều tốt đẹp, chân lý. Như vậy nhận định trên đề ccapj
đến giá trị nhân đạo của văn chương.
Trước hết, qua đoạn trích tức nước vỡ bờ nhà văn đã khơi lên ở con
người tình yêu thương, sự cảm thông trước hoàn cảnh bất hạnh của chị
Dậu. Gia đình chị Dậu nghèo khổ, phải đóng đủ thứ thuế, chị một mình lo toan
mọi việc trong nhà. Chị phải bán con, bán chó nhưng vẫn không đủ tiền sưu,
chị còn phải đóng thêm phần sưu của em chồng đá mất, chồng chị thì bị đánh
đập tàn nhẫn. Thật đáng buồn thay cho số phận của chị Dậu nói riêng và người
dân lúc bấy giờ nói chung, họ phải chịu cảnh áp bức, bóc lột tàn bạo của chế
độ phong kiến. Họ không chỉ khổ sở về vật chất mà còn thiếu thốn về tinh thần.
Chắc có lẽ nhà văn NGÔ TẤT TỐ cũng đã phải trải qua những đau đớn đó thì
mới có thể viết ra được những câu văn thấm thía tình cảm, nhờ đó chúng ta mới
biết được hoàn cảnh vô cùng khốn khổ của người dân, chúng ta còn thấy được
sự cảm thông chia sẻ của nhà văn trước hoàn cảnh khốn khổ của người dân.
Người dân họ bị đàn áp, bóc lột nặng nề về thể xác nhưng tâm hồn của họ thì lại
trần ngập tình yêu thương, đó là sự yêu thương chồng con của chị Dậu. Dưới
ngòi bút pháp của nhà văn, ta thấy rõ những phẩm chất của người dân và ta thấy
được sự trân trọng, ngợi ca của nhà văn với những phẩm chất đáng quý của họ.
Và niềm trắc ẩn mà nhà văn muốn gửi đến đó chính là sự yêu thương, cảm
thông, chia sẻ trước hoàn cảnh và phẩm chất của người dân
Nhà văn NGÔ TẤT TỐ còn khơi lên ý thực phản kháng cái ác.Khi gia
đình nhà chị Dậu bị tên cai lệ và người nhà lí trưởng kéo tới đời tiền sưu thì chị
Dậu đành phải nhìn nhường, văn xin để chúng tha cho, nhưng chúng quyết
không tha mày nói cho cha mày nghe đấy à bọn chúng thật là ác tâm, người
dân đang phải chịu cảnh khốn khổ nhưng chúng vẫn hành hạ không tha. Chị còn
phải xưng cháu và ông nhưng bọn ác nhân ác đức kia thì làm sao chúng có thể
tha được . Khi nhìn nhường không được nữa thì chị đừng cải lí , lí lẽ ( xưng tôi
và ông ) chị đứng dậy phản kháng với những lời nói mạnh mẽ, quyết liệt chồng
tôi đau ốm , ông không được phép hành hạ khi phải đứng nhìn chúng càng
ngày càng lớn tới thì chỉ không thể chịu được nữa, sau khi phải chỉ những tra
tấn đánh đập của chúng thích chị Dậu đứng lên vùng dậy đấu tranh, chỉ nghiện
hai hàm răng và sưng tôi với ông. Khi mọi sự tàn ác của xã hội phong kiến mà
chúng đã gieo rắc cho người dân đã quá lớn , khi Sức chịu đựng của họ đã vượt
quá giới hạn thi hồ đáng phải đứng dậy đấu tranh để giành lại sự yên bình cho
chính bản thân mình. Cũng giống như chị Dậu, chị vùng dậy , quyết liệt chống
trả thà ngồi tù , để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu
được. Câu nói của chị Dậu như một lời tuyên ngôn hùng hồn, khẳng định quy
luật có áp bức thì có đấu tranh, tức nước thì vỡ bờ . Nhà văn Ngô Tất Tố cũng là
người phải chịu những cảnh khốn khổ như vậy, nên tác giả muốn cho người dân
nổi dậy đấu tranh và có ý thức phản kháng cái ác tìm lại hòa bình . Có người đã
từng nói Ngô Tất Tố bố là là người xui nông dân Nổi Loạn . Đúng vậy khi con
người bị áp bức quả lớn thì họ phải đứng dậy đấu tranh để giành lại những điều
tốt đẹp cho mình , nhà văn Ngô Tất Tố là một phương tiện gián tiếp giúp đỡ ,
tiếp thêm vị trí cho những người nhân dân để họ có thể đứng dậy đấu tranh cho
cuộc sống của mình.
Quà tác phẩm Tức Nước Vỡ Bờ Ngô Tất Tố đã khởi lên ở con người
khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp . Trong xã hội công bằng Bác
ai, những điều tàn Nhẫn xấu xa bị xóa bỏ , cuộc đời hòa bình là mong muốn
chung của mọi người nhất là những người dân thấp cổ bé họng trong xã hội xưa.
Họ muốn mình có thể để có được được cuộc sống hòa bình, muốn có được xã
hội như vậy thì phải đấu tranh loại bỏ cái ác cái xấu bảo vệ chân lý. Trong đoạn
trích chúng ta có thể thấy được nhà văn Ngô Tất Tố đã ngợi ca, yêu thương số
phận và những hành động của chị Dậu, cổ vũ tiếp thêm sức mạnh để chị Dậu và
những người nông dân có thể đứng dậy dân lại cuộc sống của mình . Chúng ta
có thể thấy được những câu văn của Ngô Tất Tố là ánh sáng lên lói giữa đêm
trường u tối , dẫn dắt người nông dân đến với hòa bình tự do .
Nhận định” nhà văn phải viết hơi lên ở con người niềm trắc ẩn ý thức
phản kháng cái ác cái Khát Vọng khôi phục và bảo vệ những điều tốt đẹp” là
hoàn toàn đúng . Chúng ta có thể thấy được khi cả nỗi lòng của tác giả và những
mong muốn của nhà văn . Hơn nửa thế kỷ trôi qua những tiếng kêu ai oán của
chị Dậu mãi là nỗi ám ảnh của bảo thế hệ nhưng hành động phải phản kháng
trước cái ác để bảo vệ công bằng, bảo vệ cuộc sống đã khiến người đọc báo thế
hệ cảm phục và ngưỡng mộ . Hành động của chị Dậu giúp ta nhận ra một điều:
sức mạnh của một con người không phải nằm ở cơ bắp, mà ở tinh thần, nghị lực
và khát vọng sống

BÀI LÀM SỐ 6: “thơ là thơ nhưng cũng là vẽ, là nhac, là chạm khắc theo
một nét riêng”. E hãy chứng minh qua bài thơ nhớ rừng của Thế Lữ. từ đó
liên hệ đến bài thơ khi con tu hú của tố Hữu.
Nhà văn Nga: Maiacopxki từng viết:
“Phải phí tốn nghìn cân quặng chữ
Chỉ thu về một chữ mà thôi
Nhưng chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Trong các loại hình nghệ thuật, thơ là một trong ba thể loại lớn trong chỉnh thể
văn học. Nếu truyện ngắn là câu chuyện phản ánh hiện thực khách quan, kịch là
những màn đối thoại về nhân tình thế thái thì thơ là tiếng nói cảm xúc là những
nhịp ngân của tâm hồn. Vì vậy, khi bàn về thơ, Sóng Hồng đã từng nói: “thơ là
thơ nhưng cũng là vẽ, là nhac, là chạm khắc theo một nét riêng”. Điều đó được
thể hiện rõ nét qua bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ và Khi con tu hú của Tố Hữu.
Vậy “thơ là thơ” nghĩa là như nào? Thơ là sản phẩm của nhận thức, tưởng
tượng và sáng tạo, nhờ có nó mà ngôn từ được phát triển mạnh mẽ hơn, dồi dào
hơn. Thơ là một phương tiện dùng để truyền tải những tình cảm, cảm xúc mãnh
liệt đã được ý thức, đặc biệt là nghệ thuật của trí tưởng tượng. Thơ chính là cái
“tôi” đầy cảm xúc của tác giả và điều đặc biệt hơn hết là thơ phải có “chất thơ”
đúng nghĩa. Vậy “thơ là họa” thì có nghĩa gì? Thơ là nghệ thuật của biểu tượng,
thông qua ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình, thơ gợi lên hình dung về những sự
vật sống động, từ đó làm nên giá trị của bài thơ: “thi trung hữu họa” (trong thơ
có họa). “Thơ là nhạc” có nghĩa là: ngôn từ thơ là ngôn từ được cấu tạo đặc biệt,
đó là ngôn từ có nhịp điệu, giàu tính nhạc với những âm thanh luyến láy, những
từ trùng điệp, sự phối hợp bằng trắc và cách ngắt nhịp có giá trị gợi cảm. Nhạc
điệu thơ là nhạc điệu của cảm xúc dâng trào “thi trung hữu nhạc” (trong thơ có
nhạc). Vậy “thơ là chạm khắc” là gì? Là khả năng sử dụng ngôn từ để tạo dựng
hình khối, đừng nét chân thực, đầy cảm xúc thi ca. Câu nói của Sóng Hồng đã
khẳng định những đặc trưng cơ bản của thơ ca, thơ có tính nhạc, thơ có họa, thơ
có chạm khắc tinh vi. Từ đó, đòi hỏi người nghệ sĩ sáng tạo ra những thành
phẩm giàu tính tạo hình nhưng phải có chất riêng trong sáng tác, đó chính là
phong cách nghệ thuật của mỗi bài thơ. Hãy cùng khám phá bài thơ Nhớ rừng
và Khi con tu hú để hiểu rõ hơn về nhận định được đưa ra trên.
Nhớ rừng của thế Lữ là một bài thơ giàu chất thơ. Trước hết, đó là
cảm xúc uất hận của con hổ khi bị giam cầm:
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”
Mở đầu cho bài thơ là từ “gậm”, chắc hẳn có nhiều người sẽ thắc mắc vì sao
Thế Lữ lại không dùng từ gặm hay từ ngậm thay vào đó. Vì nếu dùng từ “gặm”
thì trông có vẻ ngon lành quá, cũng chẳng dùng “ngậm” vì nếu thế thì nghe sẽ
khá nhục nhã. Chắc hẳn bị nhốt trong cũi sắt, vì căm hờn, uất hận mà không thể
làm gì được nên con hổ đã tích tụ những thứ vô hình ấy thành “một khối” để
“gậm” nát chúng. Nhưng ác thay là “gậm” mãi mà chẳng tan, càng “gậm” càng
cay đắng. Hổ ta chỉ còn biết “nằm dài” bất lực buông xuôi trước thực tại đầy
đau đớn và nhục nhã. Bị “giễu”, bị “nhục nhằn tù hãm”, phải trở thành “thứ đồ
chơi” cho “lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ”. Có lẽ đau đớn nhất, tủi nhục nhất
vẫn là từ một chúa sơn lâm oai hùng lại bị hạ xuống ngang hàng với lũ thú rừng:
“Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”
Đó là một nét tâm trạng điển hình đầy bi kịch vị chúa rừng xanh khi bị sa cơ,
thất thế, bị giam cầm. Trong hoàn cảnh đất nước thời bấy giờ, bài thơ ra đời với
nỗi tủi nhục của con hổ cũng đồng điều với chính bi kịch nhân dân ta trong xích
xiềng nô lệ, sống trong cảnh đời tăm tối, mịt mờ.
Bất mãn trước thực tại đầy đau đớn, con chỉ biết nhớ về quá khứ vàng son
lừng lẫy để thoải mái bản thân.
“Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội…”
Bị giam cầm trong cũi sắt, con hổ đau đáu một nỗi nhớ rừng miên man. Đối với
chúa sơn lâm mà nói thì rừng là tất cả. Nhớ rừng là nhớ tiếc tiếc tự do, là nhớ
thời oanh liệt, hào hùng, nhớ rừng là nuối tiếc những cái cao cả, chân thực,…
cho nên hình ảnh rừng-con hổ gọi một cách rất trang trọng là “nước non hùng
vĩ” đã hiện lên với tất cả những gì lớn lao, cao cả. Đó là nhớ cảnh bóng cả, cây
già, tiếng gió gào ngàn, khi thét khúc trường ca dữ dội,…đó là chất thơ của bài
thơ nhớ rừng.
Bài thơ nhớ rừng còn là một bài thơ giàu chất họa và chạm khắc theo
một cách riêng. Đó là họa, là chạm khắc nên bức tranh tứ bình đầy màu sắc,
đầy tính gợi hình. Trước hết, đó là nỗi nhớ khôn nguôi với rừng thẳm, suối
trong, ánh trăng, nhớ “đêm vàng”, nhớ “lúc say mồi” ung dung thỏa thích bên
bờ suối. Bức tranh thứ hai là nỗi nhớ ngẩn ngơ, man mác của hổ khi lặng ngắm
giang sơn trong những ngày mưa rừng. Kỉ niệm thứ ba là những giấc ngủ say
nồng của hổ trong bình minh tràn ngập ánh nắng và tiếng chim muông hát ca.
Nhưng đặc biệt nhất là hình ảnh hổ nhớ cảnh chiều tà trong khoảnh khắc hoàng
hôn chờ đợi:
“Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật”
Trong cảm nhận của mãnh hổ, trời chiều không đỏ rực mà là “lênh láng máu sau
rừng”. Mặt trời không lặn mà là “chết”. Phút giây chờ đợi của chúa sơn lâm
trong khoảnh khắc chiều tà và hoàng hôn thật dữ dội. Chúa sơn lâm sẽ “chiếm
lấy riêng phần bí mật” của rừng đêm, để tung hoành. Qua đó nói lên bút pháp
tạo hình của Thế Lữ là tập trung khắc họa những cái phi thường, làm nổi bật
hình ảnh vị chúa tể rừng sâu. Hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ giàu chất tạo hình,
có sức gợi cảm xúc mãnh liệt nên mới khắc họa hình ảnh con hổ với nhiều cung
bậc cảm xúc khác nhau
Bài thơ nhớ rừng của Thế Lữ còn là một bài thơ giàu tính nhạc. Bằng
những từ ngữ gợi hình, gợi thanh: dõng dạc, nhịp nhàng,…tác giả đã cho bạn
đọc thấy được tài sử dụng ngôn từ của mình là rất giàu nhạc tính. Góp phần làm
êm giai điệu hơn cho bài thơ. Làm nên nhịp cho bài thơ còn là do cách ngắt
nhịp. Nhớ rừng có cách ngắt nhịp linh hoạt, thường là nhịp 3/5 và 4/4, nhưng
nhiều khi cũng thay đổi cách ngắt nhịp thành 2/6; 2/2… Câu thơ ngắt nhịp 2/2:
“hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” như xé vụn câu thơ, tạo nên giọng chì
chiết, bực dọc của con hổ trước những cảnh sửa sang tầm thường, giả dối.
Không những vậy, Thế Lữ còn sử dụng thành công các biện pháp tu từ để tạo
nhịp điệu cho câu thơ:
“-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu ?”
Bằng việc sử dụng câu hỏi tu từ đã làm thêm phần nhạc cho câu thơ, cũng như
xoa dịu đi nỗi uất hận, căm hờn của con hổ. Tất cả ngôn ngữ, giọng điệu, tiết
tấu,…đều là thành phần chủ yếu cấu tạo nên tính nhạc trong bài thơ. Chúng hòa
quyện vào nhau, tạo âm điệu du dương, thơ mộng
Cũng như Nhớ rừng của Thế Lữ, Khi con tu hú của Tố Hữu cũng mang đầy chất
thơ, lại có sự kết hợp giữa tính nhạc và họa. Trước hết, đó là bức tranh làng quê
tươi sáng, đầy màu sắc được vẽ qua đầu óc tưởng tượng và các giác quan siêu
nhạy bén của người tù cách mạng:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dầ
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không”
Tiếng chim tu hú kêu là âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê, báo hiệu một
mùa hè đang đến. Âm thanh ấy đã thức gọi trong tâm hồn người tù một khung
cảnh mùa hè nắng nóng với “nụ cười tỏa nắng” của mặt trời. Với sáu câu thơ lục
bát, câu đầu là tả tiếng chim náo nức gọi bầy, năm câu còn lại thì mở ra môt thế
giới của sự sống tươi đẹp. Chỉ là trí tưởng tượng của người tù nhưng chỉ với vỏn
vẹn 6 câu thơ, Tố Hữu như họa lên một bức tranh đầy màu sắc, len lỏi vào đó là
đôi chút âm thanh, gợi nhiều cảm giác cho bạn đọc: màu vàng của lúa, lúa
chiêm, trái cây đang chín, ngọt dần, tiếng ve ngân nga trong vườn râm mát,..tất
cả đều được khắc họa, tô thêm bản sắc. Và phải chăng, hình ảnh con diều đang
bay và tiếng kêu của tu hú chính là niềm khát khao cháy bỏng của người tù-khát
khao của tự do ?
Bài thơ Khi con tu hú cũng rất giàu tính nhạc. Bằng việc lựa chọn thể
thơ lục bát để thoải mái thể hiện tư tưởng, tình cảm và cách dùng ngôn từ giàu
chất tạo hình, gợi cảm, Tố Hữu đã làm cho bài thơ khi con tu hú tăng thêm tính
nhạc. Tiếng ve ngân vang, tiếng chim tu hú kêu hòa quyện vào nhau như tạo
thành khúc nhạc bất tận của mùa hè. Cũng từ chính những âm thanh ấy đã giúp
người tù hình dung được bức tranh ngoài tù tràn trề nhựa sống ở mọi bậc tầng
gần-xa, cao-thấp của không gian. Và bài khi con tu hú của Tố Hữu cũng mành
đầy tâm tư, tình cảm, mang nặng bản sắc yêu nước nhà của người tù, có sự kết
hợp hài hòa giữa tính ngạc và tính họa.
Ý kiến mà Sóng Hồng đưa ra là hoàn toàn đúng đắn, điều đó khẳng định
sức sống và vẻ đẹp trìu tượng của thơ ca. Thơ là kết tinh của cảm xúc, là đứa
con tinh thần của nhà thơ. Mỗi bài thơ là sự kết hợp vốn văn hóa, thể hiện cái
nhìn về cuộc sốn và biểu hiện những trạng thái, cảm xúc của con người. Để
sáng tạo ra một kiệt tác, nhà thơ không chỉ cần có cảm xúc mãnh liệt mà còn
phải có tài năng trong việc phối hợp, sử dụng từ ngữ, tình ảnh, thanh điệu, nhịp
điệu thật độc đáo để tạo được phong cách riêng của chính mình.

BÀI LÀM SỐ 7 Tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối
cùng ,không giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện giữa các nhân vật
đều kết thúc. Chứng minh qua tác phẩm chiếc lá cuối cùng .
Bài
Làm

Nguyễn Văn Siêu đã từng cho rằng: “Văn chương có hai loại , loại đáng
thờ và loại không đáng thờ , loại đáng thờ là loại luôn chuyên chú ở con người ,
loại không đáng thờ là loại luôn chuyên chú về văn chương”. Văn chương muốn
đồng hành với thời gian và bao bạn đọc , thì phải hướng đến con người , vì con
người, Vì thế , Ai- ma-tốp đã nhận xét : Tác phẩm chân chính không bao giờ kết
thúc ở trang cuối cùng ,không giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện giữa
các nhân vật đều kết thúc, và có thể xem , tác phẩm chiếc lá cuối cùng là một
tác phẩm như thế .
Vậy như thế nào là tác phẩm chân chính? Tác phẩm chân chính có thể coi là
tác phẩm “Đáng Thờ”. Là tác phẩm luôn luôn hướng đến con người , vì con
người, hướng đến giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc trong mỗi tác phẩm. Nhận
định trên muốn nói rằng một tác phẩm “ đáng thờ” không bao giờ kết thúc ở kết
truyện , mà nó còn tạo ra dư âm, phải khiến người đọc phải ấn tượng mà ngẫm
đi , ngẫm lại. Và có thể xem truyện ngắn chiếc lá cuối cùng là một tác phẩm
chân chính , tuy rằng câu chuyện đã kết thúc nhưng ấn tượng , giá trị của nó còn
lắng đọng mãi mãi.
Trước hết, tác phẩm Chiếc là cuối cùng không bao giờ kết thúc ở trang
cuối cùn , vì lòng yêu thương của những con người cùng khổ lan tỏa thật
mãnh liệt. Có lẽ rằng, tình người lấp lánh trên những dòng miêu tả của tác giả
đối với nhân vật Xiu. Một người bạn có trái tim nhân hậu, luôn quan tâm, chắm
sóc cho bạn mình. Khi Xiu thấy Giôn-xi đang dần tuyệt vọng nhìn những chiếc
lá thường xuân lặng lẽ rơi, giôn-xi đặt sự sống của mình vào những chiếc lá,
cũng là lúc Xiu cảm thấy đau lòng , và lo sợ nhất. Mặc dù hai người họ không
phải chị em ruột thịt nhưng Xiu lại hết mực lo lắng, yêu thương Gion-xi khi cô
bị bệnh. Sự buồn bã, xót xa dường như luôn nặng trĩu trong tâm tư của Xiu . Cô
dường như bất lực trước sự hữu hạn của vạn vật và nhìn Giôn-xi chìm ngập
trong nỗi tuyệt vọng. Vì thế, Xiu dù luôn tỏ ra mạnh mẽ nhưng cũng yếu đuối
và lo sợ cho người em :“Em hãy nghĩ đến chị… chị sẽ làm gì đây?”. Phải là một
tình bạn thân thiết, gắn bó và một trái tim yêu thương chân thành, Xiu mới yêu
thương Giôn-xi như người em ruột thịt của mình như vậy. Lời động viên ấy cô
muốn Giôn-xi hiểu được, với cô, Giôn-xi như một nửa cuộc đời của mình và cô
không thể để người em gái buông bỏ sự sống dễ dàng như vậy.
Nếu tình cảm của Xiu đối với Gion-xi là bộc trực , thì có lẽ tình cảm của cụ
Bơ-men đối với Gion-xi là lặng lẽ và âm thầm. Có lẽ, không ai có thể ngờ được
bên trong con người kì quái, dữ tợn, lúc nào cũng sặc sụa mùi rượu ấy của cụ lại
có một thế giới tâm hồn rất phong phú, đẹp đẽ. Khi nghe Xiu kể lại chuyện
Giôn-xi, cụ đã vô cùng tức giận, không ngờ rằng một con người trẻ tuổi lại suy
nghĩ buông tha cuộc sống đến vậy. Lòng nhân ái được khơi dậy, thôi thúc người
nghệ sĩ già phải tìm cách cứu lấy niềm tin, niềm hi vọng của sự sống trong cô
gái trẻ. Và ông nghĩ rằng, chỉ cần chiếc lá thường xuân cuối cùng vẫn mãi ở đó
chắc chắn sẽ cứu sống được Giôn-xi. Trong đêm hôm đó, mưa bão nổi lên mãnh
liệt , ở ngoài kia lại có hình bóng một cụ già đang lom khom vẽ một chiếc lá
thường xuân , với mong muốn phần nào cứu lấy tâm trí của cô gái trẻ. Ông miệt
mài say đắm với cây cọ trên tay , dường như ông đã quên đi cái mưa lạnh của
trời bão để vẽ chiếc lá. Bất chấp hiểm nguy, trong cái đêm mưa gió khủng
khiếp, trên một chiếc thang chênh vênh dựa vào tường, với ánh sáng mờ tỏ của
chiếc đèn bão cầm tay, cụ Bơ-men đã dồn hết khả năng của mình để vẽ lên một
chiếc lá. Hành động của cụ không một ai biết cho đến khi bác gác cổng thấy cụ
ốm nặng trong căn phòng, với giấy và áo quần ướt sũng, lạnh buốt. Cuối cùng
hành động của cụ cũng đã được đền đáp bằng sự tiến triển về căn bệnh của
giôn-xi. Gion-xi trong một đêm bão rất buồn bã và lo lắng về chiếc lá , và cho
rằng nó sớm muộn gì rồi cũng sẽ rụng xuống , nhưng rồi một ngày…hai ngày .
Hai ngày trôi qua chiếc lá vẫn cứ ở đó , nó không rơi xuống niềm hi vọng sống
vẫn còn nhen nhóm đâu đó trong lòng cô gái bỗng trỗi dậy, Giôn-xi vui vẻ trở
lại và bệnh tình cũng giảm dần. “ Chiếc lá cuối cùng” đó chính là kiệt tác của cụ
Bơ-men. Cụ đã phải hi sinh để đổi lấy tính mạng của Gion-xi, chiếc lá đó chính
là đại diện cho tình yêu thương và lòng nhiệt huyết của những con người cùng
khổ, nhưng cụ đã ra đi mãi mãi. Khi Xiu biết được tin đã vội vàng nói sự thật
cho Giôn-xi biết: “Người nghệ sĩ ra đi vĩnh viễn nhưng để lại một kiệt tác và
cứu sống một con người.”. Câu chuyện đã kết thúc, Cụ Bơ-men đã qua đời ,
Gion-xi đã hồi sinh nhưng dư âm ý nghĩa là không bao giờ khép lại. Cao cả và
thiêng liêng biết nhường nào khi người nghệ sĩ đã dám hi sinh cả tính mạng để
phục vụ cho nghệ thuật. Cụ Bơ-men đã cứu sống một con người bằng nghệ
thuật và người nghệ sĩ ấy đã đánh đổi bằng cả cuộc sống của chính bản thân
mình. Đọc “Chiếc lá cuối cùng” của O.Hen-ri, chúng ta càng thêm tin tưởng ở
con người, con người sống với nhau bằng tình nhân ái và lòng vị tha. Chúng ta
cần trân trọng những tác phẩm nghệ thuật đích thực hướng tới con người, vì sự
sống của con người.
“Nếu là con chim, là chiếc lá
Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
Câu chuyện Chiếc lá cuối cùng đã kết thúc nhưng khả năng kể chuyện giữa
các nhân vật vẫn không kết thúc , vì câu chuyện không chỉ sâu sắc về nội dung,
ý nghĩa mà còn đặc sắc cả về giá trị nghệ thuật. Trước hết , cốt truyện mà nhà
văn O.Hen-ri xây dựng lên thật tinh tế, chu đáo, xây dựng tình tiết, nhân vật hấp
dẫn, khiến cho người đọc được lôi cuốn, hòa mình vào câu chuyện. Không
những thế, biện pháp đảo tình huống hai lần khiến cho người đọc không ngờ
tới , và tạo được sự thú vị trong tác phẩm. Đầu tiên, Giôn-xi bị ốm và rất tuyệt
vọng, nằm chờ chết. Thế nhưng cô đã hồi sinh, khoẻ lại, đó là chi tiết đảo tình
huống lần thứ nhất . Chi tiết đảo tình huống lần thứ hai đó là Cụ Bơ-men đang
khoẻ mạnh, chỉ bị ốm có hai ngày, nhưng cụ đã đột ngột ra đi. Nhưng có một
suy nghĩ vẫn cứ luôn hiện hữu trong tâm trí của em đó chính là biện pháp đảo
tình huống không chỉ dừng lại ở hai lần đó, mà còn xuất hiện ở một chi tiết nữa
đó là chi tiết chiếc lá thường xuân . Theo lí mà nói , có thể chiếc lá mong manh
kia sẽ rơi xuống trong cơn mưa bão nhưng qua hai ngày chiếc lá vẫn còn ở đó.
Mặc dù , chiếc lá thường xuân là do cụ Bơ-men vẽ lên nhưng trong tâm trí của
các đọc giả và Gion-xi đó vẫn là chiếc lá thật sự của tình yêu thương, lòng nhân
ái.
Không những thế, Tác phẩm chiếc lá cuối cùng đã thể hiện được một tinh
thần nhân đạo sâu sắc. Có vẻ như , tác phẩm muốn gợi đến chúng ta một tấm
lòng ngợi ca, trân trọng tình cảm , vẻ đẹp tâm hồn và đức hi sinh giữa những
con người cùng khổ. Không những thế , Tác giả còn muốn hướng con người đến
một cuộc sống yên bình , ấm no, hạnh phúc, tốt đẹp nhất có thể và muốn nhắc
nhở chúng ta rằng , hãy đừng ngần ngại mà hi sinh bản thân vì tình yêu và lòng
nhân ái khi còn có thể, Nếu bạn vui vẻ , cho đi thì bạn sẽ được nhận lại một
cách tốt đẹp nhất giống như câu thơ:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”
Có thể nói, nhận định:“ Tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở
trang cuối cùng ,không giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện giữa các
nhân vật đều kết thúc” là hoàn toàn chính xác và đúng đắn. Khi ta đọc “ chiếc lá
cuối cùng” ta cảm nhận được một bài học về sự “cho” và “nhận” Giống như
nhân vật cụ Bơ-men vậy , ông đã dũng cảm, hi sinh dưới cái mưa bão và rồi ông
đã cứu sống được Gion-xi và để lại cho đời một kiệt tác , một kiệt tác mà khi
nhắc đến mọi người đều biết rằng đó là kiệt tác cuả tấm lòng nhân ái.

BÀI LÀM SỐ 8 Đề Bài : Tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở
trang cuối cùng ,không giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện giữa các
nhân vật đều kết thúc. Chứng minh qua tác phẩm chiếc lá cuối cùng .
Bài
Làm

Nguyễn Văn Siêu đã từng cho rằng: “Văn chương có hai loại , loại đáng
thờ và loại không đáng thờ , loại đáng thờ là loại luôn chuyên chú ở con người ,
loại không đáng thờ là loại luôn chuyên chú về văn chương”. Văn chương muốn
đồng hành với thời gian và bao bạn đọc , thì phải hướng đến con người , vì con
người, Vì thế , Ai- ma-tốp đã nhận xét : Tác phẩm chân chính không bao giờ kết
thúc ở trang cuối cùng ,không giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện giữa
các nhân vật đều kết thúc, và có thể xem , tác phẩm chiếc lá cuối cùng là một
tác phẩm như thế .
Vậy như thế nào là tác phẩm chân chính? Tác phẩm chân chính có thể coi là
tác phẩm “Đáng Thờ”. Là tác phẩm luôn luôn hướng đến con người , vì con
người, hướng đến giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc trong mỗi tác phẩm. Nhận
định trên muốn nói rằng một tác phẩm “ đáng thờ” không bao giờ kết thúc ở kết
truyện , mà nó còn tạo ra dư âm, phải khiến người đọc phải ấn tượng mà ngẫm
đi , ngẫm lại. Và có thể xem truyện ngắn chiếc lá cuối cùng là một tác phẩm
chân chính , tuy rằng câu chuyện đã kết thúc nhưng ấn tượng , giá trị của nó còn
lắng đọng mãi mãi.
Trước hết , tác phẩm Chiếc là cuối cùng không bao giờ kết thúc ở trang
cuối cùng , vì lòng yêu thương của những con người cùng khổ lan tỏa thật mãnh
liệt. Có lẽ rằng, tình người lấp lánh trên những dòng miêu tả của tác giả đối với
nhân vật Xiu. Một người bạn có trái tim nhân hậu, luôn quan tâm , chắm sóc
cho bạn mình. Khi Xiu thấy Giôn-xi đang dần tuyệt vọng nhìn những chiếc lá
thường xuân lặng lẽ rơi , giôn-xi đặt sự sống của mình vào những chiếc lá ,
cũng là lúc Xiu cảm thấy đau lòng , và lo sợ nhất. Mặc dù hai người họ không
phải chị em ruột thịt nhưng Xiu lại hết mực lo lắng , yêu thương Gion-xi khi cô
bị bệnh. Sự buồn bã, xót xa dường như luôn nặng trĩu trong tâm tư của Xiu . Cô
dường như bất lực trước sự hữu hạn của vạn vật và nhìn Giôn-xi chìm ngập
trong nỗi tuyệt vọng. Vì thế, Xiu dù luôn tỏ ra mạnh mẽ nhưng cũng yếu đuối
và lo sợ cho người em :“Em hãy nghĩ đến chị… chị sẽ làm gì đây?”. Phải là một
tình bạn thân thiết, gắn bó và một trái tim yêu thương chân thành, Xiu mới yêu
thương Giôn-xi như người em ruột thịt của mình như vậy. Lời động viên ấy cô
muốn Giôn-xi hiểu được, với cô, Giôn-xi như một nửa cuộc đời của mình và cô
không thể để người em gái buông bỏ sự sống dễ dàng như vậy.
Nếu tình cảm của Xiu đối với Gion-xi là bộc trực , thì có lẽ tình cảm của cụ
Bơ-men đối với Gion-xi là lặng lẽ và âm thầm. Có lẽ, không ai có thể ngờ được
bên trong con người kì quái, dữ tợn, lúc nào cũng sặc sụa mùi rượu ấy của cụ lại
có một thế giới tâm hồn rất phong phú, đẹp đẽ. Khi nghe Xiu kể lại chuyện
Giôn-xi, cụ đã vô cùng tức giận, không ngờ rằng một con người trẻ tuổi lại suy
nghĩ buông tha cuộc sống đến vậy. Lòng nhân ái được khơi dậy, thôi thúc người
nghệ sĩ già phải tìm cách cứu lấy niềm tin, niềm hi vọng của sự sống trong cô
gái trẻ. Và ông nghĩ rằng, chỉ cần chiếc lá thường xuân cuối cùng vẫn mãi ở đó
chắc chắn sẽ cứu sống được Giôn-xi. Trong đêm hôm đó, mưa bão nổi lên mãnh
liệt , ở ngoài kia lại có hình bóng một cụ già đang lom khom vẽ một chiếc lá
thường xuân , với mong muốn phần nào cứu lấy tâm trí của cô gái trẻ. Ông miệt
mài say đắm với cây cọ trên tay , dường như ông đã quên đi cái mưa lạnh của
trời bão để vẽ chiếc lá. Bất chấp hiểm nguy, trong cái đêm mưa gió khủng
khiếp, trên một chiếc thang chênh vênh dựa vào tường, với ánh sáng mờ tỏ của
chiếc đèn bão cầm tay, cụ Bơ-men đã dồn hết khả năng của mình để vẽ lên một
chiếc lá. Hành động của cụ không một ai biết cho đến khi bác gác cổng thấy cụ
ốm nặng trong căn phòng, với giấy và áo quần ướt sũng, lạnh buốt. Cuối cùng
hành động của cụ cũng đã được đền đáp bằng sự tiến triển về căn bệnh của
giôn-xi. Gion-xi trong một đêm bão rất buồn bã và lo lắng về chiếc lá , và cho
rằng nó sớm muộn gì rồi cũng sẽ rụng xuống , nhưng rồi một ngày…hai ngày .
Hai ngày trôi qua chiếc lá vẫn cứ ở đó , nó không rơi xuống niềm hi vọng sống
vẫn còn nhen nhóm đâu đó trong lòng cô gái bỗng trỗi dậy, Giôn-xi vui vẻ trở
lại và bệnh tình cũng giảm dần. “ Chiếc lá cuối cùng” đó chính là kiệt tác của cụ
Bơ-men. Cụ đã phải hi sinh để đổi lấy tính mạng của Gion-xi, chiếc lá đó chính
là đại diện cho tình yêu thương và lòng nhiệt huyết của những con người cùng
khổ, nhưng cụ đã ra đi mãi mãi. Khi Xiu biết được tin đã vội vàng nói sự thật
cho Giôn-xi biết: “Người nghệ sĩ ra đi vĩnh viễn nhưng để lại một kiệt tác và
cứu sống một con người.”. Câu chuyện đã kết thúc, Cụ Bơ-men đã qua đời ,
Gion-xi đã hồi sinh nhưng dư âm ý nghĩa là không bao giờ khép lại. Cao cả và
thiêng liêng biết nhường nào khi người nghệ sĩ đã dám hi sinh cả tính mạng để
phục vụ cho nghệ thuật. Cụ Bơ-men đã cứu sống một con người bằng nghệ
thuật và người nghệ sĩ ấy đã đánh đổi bằng cả cuộc sống của chính bản thân
mình. Đọc “Chiếc lá cuối cùng” của O.Hen-ri, chúng ta càng thêm tin tưởng ở
con người, con người sống với nhau bằng tình nhân ái và lòng vị tha. Chúng ta
cần trân trọng những tác phẩm nghệ thuật đích thực hướng tới con người, vì sự
sống của con người.
“Nếu là con chim, là chiếc lá
Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”
Câu chuyện Chiếc lá cuối cùng đã kết thúc nhưng khả năng kể chuyện giữa
các nhân vật vẫn không kết thúc , vì câu chuyện không chỉ sâu sắc về nội dung,
ý nghĩa mà còn đặc sắc cả về giá trị nghệ thuật. Trước hết , cốt truyện mà nhà
văn O.Hen-ri xây dựng lên thật tinh tế, chu đáo, xây dựng tình tiết, nhân vật hấp
dẫn, khiến cho người đọc được lôi cuốn, hòa mình vào câu chuyện. Không
những thế, biện pháp đảo tình huống hai lần khiến cho người đọc không ngờ
tới , và tạo được sự thú vị trong tác phẩm. Đầu tiên, Giôn-xi bị ốm và rất tuyệt
vọng, nằm chờ chết. Thế nhưng cô đã hồi sinh, khoẻ lại, đó là chi tiết đảo tình
huống lần thứ nhất . Chi tiết đảo tình huống lần thứ hai đó là Cụ Bơ-men đang
khoẻ mạnh, chỉ bị ốm có hai ngày, nhưng cụ đã đột ngột ra đi. Nhưng có một
suy nghĩ vẫn cứ luôn hiện hữu trong tâm trí của em đó chính là biện pháp đảo
tình huống không chỉ dừng lại ở hai lần đó, mà còn xuất hiện ở một chi tiết nữa
đó là chi tiết chiếc lá thường xuân . Theo lí mà nói , có thể chiếc lá mong manh
kia sẽ rơi xuống trong cơn mưa bão nhưng qua hai ngày chiếc lá vẫn còn ở đó.
Mặc dù , chiếc lá thường xuân là do cụ Bơ-men vẽ lên nhưng trong tâm trí của
các đọc giả và Gion-xi đó vẫn là chiếc lá thật sự của tình yêu thương, lòng nhân
ái.
Không những thế, Tác phẩm chiếc lá cuối cùng đã thể hiện được một tinh
thần nhân đạo sâu sắc. Có vẻ như , tác phẩm muốn gợi đến chúng ta một tấm
lòng ngợi ca, trân trọng tình cảm , vẻ đẹp tâm hồn và đức hi sinh giữa những
con người cùng khổ. Không những thế , Tác giả còn muốn hướng con người đến
một cuộc sống yên bình , ấm no, hạnh phúc, tốt đẹp nhất có thể và muốn nhắc
nhở chúng ta rằng , hãy đừng ngần ngại mà hi sinh bản thân vì tình yêu và lòng
nhân ái khi còn có thể, Nếu bạn vui vẻ , cho đi thì bạn sẽ được nhận lại một
cách tốt đẹp nhất giống như câu thơ:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”
Có thể nói, nhận định:“ Tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở
trang cuối cùng ,không giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện giữa các
nhân vật đều kết thúc” là hoàn toàn chính xác và đúng đắn. Khi ta đọc “ chiếc lá
cuối cùng” ta cảm nhận được một bài học về sự “cho” và “nhận” Giống như
nhân vật cụ Bơ-men vậy , ông đã dũng cảm, hi sinh dưới cái mưa bão và rồi ông
đã cứu sống được Gion-xi và để lại cho đời một kiệt tác , một kiệt tác mà khi
nhắc đến mọi người đều biết rằng đó là kiệt tác cuả tấm lòng nhân ái.

BÀI LÀM SỐ 9 Đề bài : Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn
thơ dân tộc là máu trong trái tim của người nghệ sĩ ( Tố Hữu) . Chứng
minh qua bài thơ Ông đồ.
Bài làm
Mở bài 1 : Văn chương có hai loại : Loại đáng thờ và loại không đáng thờ
. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú về văn chương , loại đáng thờ là loại
chuyên chú về con người. Đúng vậy !Một tác phẩm muốn sống mãi với thời
gian, năm tháng , đi cùng bạn đọc thì nhà văn phải biết hướng đến con người và
phục vụ cuộc sống con người . Vì vậy , có ý kiến cho rằng : " Cuộc bể dâu mà
con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim của người nghệ
sĩ " . Và bài thơ Ông đồ là một tác phẩm đáng thờ .
Mở bài 2 : Nhà văn Nguyễn Văn Thạc đã từng viết :" Cuộc sống còn tuyệt vời
biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết
bao . Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn . Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước
mắt ở đời ". Thật vậy, cuộc đời của mỗi người được ví như một dòng sông lúc
thì phẳng lặng, êm ái , có lúc lạo nhấp nhô , sóng cuộn . Có lẽ vì vậy mà xưa
nay các thi sĩ đều lấy cảm hứng từ cuộc đời con người mà viết nên trang , lấy
dòng huyết lệ mà tạo nên hồn thơ ca . Vì thế , khi nhận xét về điều này Tố Hữu
đã từng viết : " Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là
máu trong trái tim của người nghệ sĩ " . Và có lẽ ta không thể cảm nhận trọn
vẹn" niềm sầu buồn " hay " giọt nước mắt " dfos nếu nhà thơ Vũ Đinh Liên
không dùng ngòi bút của mình để in dấu tất cả qua hình tượng ông đồ xưa .
Mở bài 3 : Elasa Trisole , nhà văn Pháp quan niệm :" Nhà văn là người cho máu
" . Đúng vậy , người nghệ sĩ muôn đời luôn phục vụ con người , truyền nhiệt
huyết, tình cảm đến cho bạn đọc . Có trách nhiệm phản ánh cuộc sống khổ cực
của con người, hướng con người tới những giá trị cao cả của cuộc sống : Đấy
chính là thiên chức của người nghệ sĩ. Vì vậy , có ý kiến cho rằng : " Cuộc bể
dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim của
người nghệ sĩ " . Điều dfos được thể hiện qua bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên.
Mở bài 4 : Văn thơ vốn dĩ là một món ăn tinh thần của con người ta trong rất
nhiều thế hẹ khác nhau . Văn thơ cùng đi với con người biết bao nhiêu vui ,
buồn trong cuộc sống , lưu giữ những tình cảm, kỉ niệm,... trong cuộc sống con
người. Và trải qua nhiều thay đổi trong cuộc đời thì văn thơ vẫn đồng hành với
con người và họ nhận ra rằng trong thơ văn luôn có một thứ gì đó đang ngầm
chảy , đang có một nhiệt huyết, đó chính là máu của người nghệ sĩ Vì thế có ý
kiến cho rằng :" Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là
máu trong trái tim của người nghệ sĩ " . Điều đó được tái hiện sâu sắc qua bài
thơ Ông đồ .

Vậy" Cuộc bể dâu " là gì ? Đó là những thay đổi lớn trong cuộc đời con
người. Máu trong trái tim của người nghệ sĩ là những tình cảm, nhiệt huyết có
trong trái tim người nghệ sĩ. Nghệ sĩ là những người chuyên hoạt động ( sáng
tác hoặc biểu diễn) trong một bộ môn nghệ thuật, bao gồm cả những sáng tác
của nhà thơ , nhà văn .Câu nói của Tố Hữu :" Cuộc bể dâu mà con người ...nghệ
sĩ " đã khẳng định được thiên chức của người nghệ sĩ là hướng đến và phục vụ
cuộc sống con người.
Trước hết,cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc
được thể hiện qua quá khứ vàng son, huy hoàng của ông đồ . Đó là sự xuất
hiện của ông đồ vào ngày Tết :
" Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua "
Hình ảnh " hoa đào nở" là hình ảnh hoán dụ chỉ mùa xuân đã trở về . Từ " mỗi
năm " chỉ hình ảnh ông đồ thường xuyên xuất hiện trong mỗi dịp xuân về và đã
trở thành thói quen , quen thuộc bên phố đông người qua , hành trang ông mang
theo là mực tàu , giấy đỏ . Theo phong tục , khi Tết đến , người ta sắm câu đối
hoặc một đôi chữ Nho viết trên giấy đều dán lên vách , lên tủ , lên cột , vừa để
trang hoàng nhà cửa vào ngày Tết , vừa gửi gắm lời cầu chúc tốt lành . Tiếp
theo đó là thời hoàng kim của ông đồ vào ngày xuân :
" Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay"
Cụm từ " Bao nhiêu người " có vẻ rất nhiều người đến thuê ông đồ viết câu đối ,
nhiều đến nỗi không đếm xuể. Những người thuê viết luôn " Tấm tắc ngợi khen
tài " vì ông có hoa tay, khen nét chữ của ông như phượng múa rồng bay , mọi
người đều nhìn ông bằng con mắt thán phục , ngưỡng mộ . Đó là thời kì " vàng
son " của ông đồ . Ông đồ đang rất vui , vậy ông vui vì điều gì ? Ông đồ vui
mừng vì được đem niềm vui đến cho đời , hạnh phúc vì nền Nho học bây giờ
vẫn đang rất thịnh hành và nét đẹp truyền thống văn hóa phát triển, ông đồ còn
vui mừng vì tài năng của mình được mọi người ghi nhận .
Cuộc bể dâu ấy của ông đồ còn là thực tại phai mờ theo năm tháng .
Vẫn là hình ảnh ông đồ hiện lên với mực tàu giấy đỏ nhưng tất cả đã khác xưa :
" Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu"
Từ " nhưng " đặt ngay ở dòng thơ tiếp theo như tạo ra một bước ngoặt có phần
cay đắng , tủi thân của sự nghiệp ông đồ . " Mỗi năm mỗi vắng " nghĩa là phố
xá vẫn đông vui , nhộn nhịp , tết đến xuân về vẫn như xưa nhưng người tìm đến
ông cứ vắng dần , vắng dần theo thời gian. Tác giả sử dụng câu hỏi tu từ "
Người thuê viết nay đâu " thể hiện một cảm xúc luyến tiếc khi một nét đẹp văn
hóa truyền thống đã lụi tàn khi văn hóa phương tây du nhập vào nước ta . " Giấy
đỏ " và " mực " là nguyên liệu làm nên nét vẽ tài hoa của ông đồ , thế nhưng
bây giờ vẫn đỏ mà không thắm lên được vì chẳng ai đụng đến nên trở thành bẽ
bàng . " Nghiên mực " không hề được chiếc bút lông chấm vào nên mực đọng
lại bao sầu tủi , nghiên trở thành nghiên sầu . Các từ " buồn " , "sầu " như thổi
hồn vào sự vật còn có phép nhân hóa đã khiến cho " giấy " và " mực " vốn chỉ là
vật vô tri vô giác nhưng trước hoàn cảnh đìu hiu, vắng vẻ thì mực và giấy cũng
cảm thông , chia sẻ trước nỗi buồn của ông đồ . Giấy chỉ thắm khi có nét chữ
của ông đồ viết lên , mực phải được mài thành nước mới viết được. Nhưng giờ
đây , mực đã đọng thành keo còn giấy thì không dùng đến . Nghệ thuật tương
phản giữa thời hoàng kim với thời thực tại như một tiếng thở dài xót xa.
Nếu như khổ trên miêu tả khách vắng dần thì đến đây , ông đồ trở nên
mất hút trong mắt mỗi người :
" Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay "
Cụm từ " không ai hay " chính là lòng người đã thay đổi ? Người ta không thấy
ông hay một vẻ đẹp văn hóa đã bị lãng quên theo thời gian. Bóng dáng ông cứ
lặng lẽ qua đường, lặng lẽ bên phố nhưng không một ai biết . Hình ảnh ông đồ
đã rơi vào quên lãng. Hình ảnh ấy chỉ là " cái di tích tiều tụy đáng thương của
một thời tàn " của ông đồ . Hai câu thơ :" Lá vàng rơi trên giấy / Ngoài giời mưa
bụi bay " là tả cảnh nhưng chính là nỗi lòng , là ngoại cảnh nhưng kì thực là tâm
cảnh . Trong câu thơ gọi đó là phép mượn cảnh ngụ tình . Nhưng thật băn khoăn
tại sao giờ đang là mùa xuân lại có lá vàng rơi? Phải chăng hình ảnh lá vàng
gợi đến sự tàn phai , tàn lụi về một thời kì , một lớp người trong xã hội và một
phong tục tập quán đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam là chơi câu đối đỏ ngày Tết giờ
cũng đã trở thành quá khứ . Hình ảnh ông đồ cũng giống như hình ảnh lá vàng
rơi, đã gắng níu kéo cuộc đời thầm lặng của mình nhưng so với thời đại mới thì
chỉ còn là chiếc lá úa tàn đang rơi rụng . Giời - đó phải chăng là cách nói dân
gian của những người tưởng như đã xa xưa lắm nhưng vẫn luôn hiện hữu. Câu
thơ gợi ra tâm trạng buồn tủi của ông trước cơn mưa bụi nhạt nhòa . Dẫu chỉ là
mưa bay , mưa bụi nhưng nó cũng đủ sức xóa sạch dfi dấu vết của một lớp
người. Đó là cuộc bể dâu của một lớp người mà cũng là của một nét đẹp văn
hóa .
Cuộc bể dâu của ông đồ còn là sự biến mất của ông theo thời gian :
"Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đòi xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?"
Mở đầu bài thơ là hình ảnh rất nhẹ nhàng và kết thúc cũng với hình ảnh rất khẽ
khàng . Mở đầu bài thơ tác giả viết "Mỗi năm hoa đào nở / Lại thấy ông đọc già
" kết thúc bài thơ tác giả viết " Năm nay hoa đào nở / Không thấy ông đồ xưa " ,
kết cấu đầu cuối tương ứng của bài thơ chặt chẽ , có tính liên kết thành một thể
thống nhất song cũng khắc sâu nỗi buồn của tác giả trước sự biến mất ngày càng
rõ ràng của nét đẹp truyền thống dân tộc. Cảnh thiên nhiên vẫn tươi đẹp , hoa
đào vẫn nở rộ nhưng ông đôg không còn" bày mực tàu giấy đỏ " , ông đồ đã
biến mất hoàn toàn trong bức tranh mùa xuân không thay đổi ấy , thời gian cảnh
vật đã quên lãng đi người xưa , hay chính nét đẹp truyền thống đã biến mất. Câu
hỏi tu từ :" Những người muôn năm cũ / Hồn ở đâu bây giờ ?" là sự tiếc thương
của tác giả với ông đồ , với giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Cuộc bể dâu của cuộc đời ông đồ được nhà thơ thể hiện sâu sắc qua các
hình thức nghệ thuật độc đáo . Với thể thơ ngũ ngôn gieo vân chân , lời thơ
bình dị nhưng sâu lắng , cô đọng , lời thơ giống như một lời kể chuyện thuật lại
nét đẹp truyền thống thời xưa của dân tộc . Kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ
, mở đầu câu có hình ảnh hoa đào nở và đên cuối câu vẫn là hình ảnh hoa đào
nở rộ vào ngày Tết ,kết hợp với giọng thơ lúc vui tươi tràn ngập đến ngậm
ngùi , xót xa . Tác giả còn sử dụng đặc sắc các biện pháp tu từ như hoán dụ ,
nhân hóa ,so sánh , ẩn dụ , câu hỏi tu từ và cách ngắt nhịp linh hoạt , bài thơ
chứa đựng đủ những yếu tố đặc sắc nhất .
Câu nói của Tố Hữu :" Cuộc bể dâu mà con người nhìn thấy trong văn thơ
dân tộc là máu trong trái tim của người nghệ sĩ " là một câu nói hoàn toàn chính
xác và nó càng đúng với bài thơ Ông đồ . "Ông đồ" là sự hoài niệm về những
giá trị xưa cũ , bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc của tác giả Vũ Đình Liên về
cuộc bể dâu của một lớp người trong xã hội.Dù đã hơn nửa thế kỉ trôi qua , bài
thơ Ông đồ vẫn luôn được độc giả đón nhận và góp phần to lớn trong phong
trào Thơ mới .

BÀI LÀM SỐ 10: Đọc một tác phẩm ta luôn bắt gặp những khoảnh khắc vô
tận: Ngắn ngủi về thời gian vật lí nhưng vô tận về ý nghĩa nhân sinh. Em hãy
làm sáng tỏ khoảnh khắc vô tận về ý nghĩa nhân sinh qua tác phẩm Cô bé
bán diêm của An-đéc-xen.
Bài làm:
“Văn học là nhân học” (M.Gorki). Phải chăng Thượng Đế sinh ra nhà
văn là để phục vụ con người? Phải chăng sứ mệnh thiêng liêng của người cầm
bút là thám hiểm, dò tìm, khám phá những khoảnh khắc thấm đượm giá trị nhân
đạo? Cũng vì thế mà khi nói đến “đứa con tinh thần” của nhà văn, ta lại bắt gặp
những khoảnh khắc vô tận: ngắn ngủi về thời gian vật lí nhưng vô tận về ý
nghĩa nhân sinh. Đó là khoảnh khắc cô bé bán diêm sợ hãi quẹt từng que diêm
trong màn đêm lạnh lẽo, dưới lớp tuyết dày đặc của ngày giáng sinh.
Cây đại thụ văn học vốn dĩ hút nhựa từ cuộc sống để nở hoa. Cuộc
sống thì vốn đã trăm màu, nghìn vẻ nhưng qua ngòi bút ngôn từ của nhà văn,
bức tranh cuộc sống, con người lại hiện lên những dáng vẻ khác nhau, quen mà
lạ, gần mà xa. Dù là gì thì “Văn chương luôn là một thứ khí giới thanh cao và
đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo, vừa thay đổi thế giới giả dối, tàn ác, vừa
làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn” (Thạch Lam). Để thực hiện
được chức năng cao đẹp đó, tác phẩm cần là những lát cắt của cuộc sống, xoáy
sâu vào cuộc đời bằng cách xây dựng được những chi tiết đắt giá, dồn nén về
cảm xúc lẫn tư tưởng vô tận về ý nghĩa nhân sinh. Những khoảng khắc ngắn
ngủi trong tác phẩm luôn là sự dồn nén của cảm xúc, chất chứa nhiều ý nghĩa,
khơi gợi nơi người đọc những cảm xúc thẩm mĩ, phát huy sự đồng sáng tạo
trong khi đọc. Khoảnh khắc vô tận chính là chiều sâu giá trị nhân đạo của tác
phẩm văn học chân chính.
Trước hết, đọc truyện ngắn Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen, ta
bắt gặp khoảnh khắc ngắn ngủi về thời gian vật lí khi đọc tác phẩm. Đó là
khoảnh khắc cô bé bán diêm đốt những que diêm trong sự lo lắng, nghĩ đến
những trận đòn tơi tả của bố khi em trở về nhà. Giữa ảo mộng và thực tế đan
xen, những que diêm trong hộp được cô bé thắp sáng khi đầu óc mơ hồ, tâm trí
bị lấn át bởi cái lạnh giá vây quanh. Cô bé quẹt que diêm thứ nhất: diêm sáng
rực lên như than hồng. Em tưởng chừng như mình đang được ngồi trước một
chiếc lò sưởi bằng đồng bóng nhoáng. Nhưng giây phút em vừa duỗi chân ra thì
que diêm phụt tắt. Ngay lúc ấy, lò sưởi biến mất, cái lạnh lại bao trùm lấy em,
niềm vui của em cũng vụt tắt theo. Em quyết định quẹt tiếp que diêm thứ hai,
diêm vừa sáng lên, trước mặt em hiện lên một bàn tiệc thịnh soạn như chỉ dành
cho những người khách đặc biệt. Trên bàn là bát đĩa làm bằng sứ quý giá cùng
với những món ăn trông xa xỉ tận cùng đối với em hiện tại. Con ngỗng quay
trên bàn bỗng nhảy ra và tiến về phía em trên lưng có gắn dao ăn, phuốc-sét. Em
đưa tay ra, chưa kịp chạm đến thì que diêm đã vụt tắt. Trước mặt em giờ chỉ còn
những bức tường dày đặc và lạnh lẽo. Phố xá ngày càng vắng lặng. Mấy người
khách qua đường vội vã hoàn toàn ảm đạm với em. Cô bé tội nghiệp ấy cố tìm
lại ngọn lửa để tiếp tục sưởi ấm, xua đi cái rét buốt của mùa đông và sự âm u
của màn đêm nơi xó tường. Bàn tay co quắp ấy của em lại mằn mò quẹt lên que
diêm thứ ba trong hộp. Ngay khi diêm sáng, em nhìn thấy một cây thông Nô-en
rất lớn, nó được trang trí trang hoàng và lộng lẫy hơn cây thông mà em đã nhìn
thấy năm ngoái qua cửa sổ của một nhà buôn giàu có. Một lần nữa, đôi tay yếu
ớt, xanh xao, mềm mại của em lại giơ lên và cố vươn đến cây thông…nhưng rồi
diêm lại vụt tắt. Tất cả những ngọn nến trong mộng tưởng về cây thông của em
bay lên, bay lên mãi, rồi biến thành những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời đen
mịt mù. Từ lần quẹt diêm thứ nhất, đến lần thứ hai thực tế đã xóa nhòa đi mộng
tưởng của cô bé. Nhưng đến ngọn nến thứ ba thì dường như mộng tưởng hảo
huyền đã vươn dậy, cố vượt lên trên thực tế. Vì thế, sau khi diêm tắt, em bé thấy
tất cả các ngọn nến đang bay lên, biến thành những ngôi sao trên trời. Có vẻ
như em bé đang ngẩng đầu nhìn sao trời, rồi nhớ đến người bà thân yêu. Điều gì
đó đã thôi thúc em thắp sáng que diêm thứ tư…bỗng nhiên…bà hiện lên! Em
sung sướng reo lên, trò chuyện với bà, xin được đi theo…“cho cháu về với bà”.
Có lẽ cho đến giây phút này, cô bé tội nghiệp ấy đã hoàn toàn kiệt sức đang gục
xuống cạnh bức tường dày và lạnh. Em bé lịm dần, lịm dần và rồi vào một giấc
mơ đẹp. Và rồi ánh sáng, hơi ấm vụt tắt, bà cũng mờ dần, mờ dần theo làn khói
của que diêm đang lụi tàn. Rồi em bừng tỉnh như ngọn lửa trước khi tắt hẳn đã
sáng lóe lên. Trong sự bấn loạn của tâm trí, em không thể kiềm chế đôi tay của
mình. Cứ như vậy, lần lượt các que diêm thứ năm, thứ sáu, thứ bảy,…và các
que diêm còn lại trong bao được em đốt sáng lên, nối ánh sáng, chiếu sáng như
ban ngày. Em bé thực sự được sống trong một giấc mơ kì diệu. Khoảnh khắc ấy
đối với em bé mà nói thì còn đáng giá hơn những ngày trước đây khi mà em còn
được sống cùng với bà. Đó là những khoảnh khắc vô cùng ngắ ngủi nhưng lại
hết sức hạnh phúc của cuộc đời em. Cai ngắn ngủi ấy lại chứa đựng những vấn
đề nhân sinh cao cả.
Những lần diêm sáng rồi vụt tắt là những khoảnh khắc vô tận, tuy có
ngắn ngủi về thời gian vật lí nhưng lại vô tận về ý nghĩa nhân sinh. Rõ ràng
cứ mỗi lần quẹt diêm, đốt lửa là một lần cô bé đói khổ ấy mơ ước, khát vọng.
Những ước mơ của em thật giản dị, thật ngây thơ, gắn liền với tuổi thơ trong
sáng và nhân hậu của em. Em chỉ khao khát có được cuộc sống vật chất đầy đủ,
được hưởng những thú vui tinh thần, được sống trong hạnh phúc gia đình ấm
êm, được bà ở bên chăm sóc, chiều chuộng. Có thể đối với nhiều người thì bà là
một ước mơ rất đỗi xa xỉ và với em bé bán diêm cũng vậy. Nhưng điều đáng nói
đến ở đây lại là những thứ như lò sưởi, bữa ăn, cây thông,…đối với nhiều người
thì là bình thường nhưng với em bé thì tất cả, tất cả đều rất xa vời, bàn tay yếu
ớt ấy của em với mãi, với hoài mà chẳng đến nơi. Đó cũng chính là những mơ
ước, khát vọng chính đáng, muôn đời của em bé nói riêng và con người nói
chung. Bằng cách thể hiện khát vọng, ước mơ của một em bé mà cụ thể là cô bé
bán diêm trong câu chuyện cùng tên này, An-đéc-xen hẳn đã cháy lòng mong
muốn những em bé, những con người có hoàn cảnh tương tự vượt qua được
những thực tế phũ phàn để vươn đến một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, một
tương lai sáng lạng tình thương. Có lẽ mỗi một lần que diêm được em bé thắp
lên dường như chính là một lần ngọn lửa tin yêu, khát vọng trong nhà văn cháy
lên, thúc dục con người, động viên con người…Cai vẻ đẹp nhân sinh cao cả lại
chưa trọng khoảng thời gian ngắn ngủi vô ngần. Phải chăng đàng sau mỗi lần
quẹt diêm, đàng sau mỗi ánh lửa lóe lên là nhà văn lại gửi gắm một thông điệp
trong cuộc sống – thông điệp về tình thương yêu, che chở, sẻ chia, thông điệp về
hạnh phúc gia đình bền vững và cả sự nhói đau trước một xã hội vô cảm, vô
lương?
Liệu rằng ý nghĩa nhân sinh của những khoảnh khắc que diêm được
thắp sáng chỉ dừng lại ở đó thôi sao? Không! Đó chưa là tất cả! Những khoảnh
khắc ấy không đơn thuần chỉ là khát vọng về cuộc sống đủ đầy, sung túc mà còn
là ẩn ý cho tiếng lòng tố cáo xã hội phương Tây – nơi cô bé được sinh ra và lớn
lên. Tại sao em bé lại chọn ra đi sau những lần quẹt diêm? Vì những que diêm
ấy sáng lên cùng những ảo mộng, chỉ là ảo mộng thay lời em bé tội nghiệp ấy
muốn nói. Em bé chọn ra đi ngay trong đêm lễ giáng sinh là có ý nghĩa gì? Điều
mà cái chết của cô bé đáng thương ấy muốn nói đến là gì? Đó là khi “sáng hôm
sau…” nghe sao nặng trĩu đến vậy! Em bé thật sự đã ra đi, ra đi một mình với
bóng tối bủa vây, với gió rét thét gào dưới tuyết trắng. Nhưng đáng nói hơn vẫn
là con người. Họ nhìn thấy em, nhìn thấy em đã chết mà vẫn không lại ôm em
lên nhưng một sự an ủi chậm trễ. Những con người ấy chỉ biết đứng nhìn, xôn
xao bàn tán rồi lẳng lặng rời đi. Còn em bé vẫn vậy, em sống trong cô độc, chết
cũng trong cô độc, chẳng một ai thèm quan tâm hay đoái hoài em một chút. Và
cũng bất chợt trong giây phút ấy, trong khoảnh khắc ấy, người đọc có vẻ như đã
nhận thấy, đã nhận ra sự vô tâm, thờ ơ của con người phương Tây đối với
những con người nghèo khổ, những mảnh đời deo dắt, đáng thương. Và thật sự
là em bé ấy đã chết. Nhưng chết môt cách rất đẹp: “đôi má hồng, đôi môi đang
mỉm cười…” nhìn vào cứ như em đã chết nhưng thạt sự em còn sống, nói em
còn sống nhưng em đã chết rồi! Tại sao lại sống nhưng chết, chết nhưng sống?
Vì hình hài thể xác của em bé ấy đã chết nhưng tâm hồn, ước mơ của em vẫn
còn sống, sống trên biểu hiện gương mặt em khi bị vùi trong tuyết, sống trong
cảnh tượng huy hoàng cùng bà bay lên đón năm mới, sống trên những trang
sách viết về cuộc đời em, sống trong triệu trái tim của bao bạn đọc. Khoảnh
khắc ấy thật đẹp! Khoảnh khắc chói lọi nhất trong “bi kịch lạc quan” mà An-
đéc-xen rưới lên cho đứa con tinh thần của mình. Khoảnh khắc ấy còn là trái
tim ấm áp, giàu yêu thương của chính người “cha ruột” – An-đéc-xen muốn
đồng cảm cho cô bé cũng như đồng cảm với những mảnh đời khổ sở giống như
vậy.
Qua những khoảnh khắc vô tận của “cô bé bán diêm”, ta có thể kết
luận rằng nhận định được đưa ra là hoàn toàn đúng đắn và có tính triết lí cao.
Chỉ là một vài khoảnh khắc ngắn ngủi đến mức tưởng chừng như chưa kịp
chứng kiến nhưng lại cho ta thấm thía những điều rất đáng để suy nghĩ. Cũng
như khoảnh khắc ngắn chỉ một đêm nhưng cô bé bán diêm đã để lại cho người
đọc nhiều suy nghĩ, để lại cho những con người nghèo khổ trong thực tại lúc
này niềm tin, ý chí vươn đến một cuộc sống hạnh phúc. Và cũng là khoảnh khắc
ấy, nó lưu truyền mãi như tiếng lòng của nhà văn. Truyện cô bé bán diêm kết
thúc, một cái kết không có hậu nhưng lại mở ra trước mắt bạn đọc bao điều suy
nghĩ, trăn trở.

BÀI LÀM SỐ 11 Đề bài : "Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ
nữa". Chứng minh qua bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ.
Bài làm
Thơ ca đã đến với con người từ ngàn năm trước và còn tồn tại với ta đến
ngày tận thế. Thế nhưng khi địng nghĩa về thơ, mỗi thi sĩ lại có một định nghĩa
khác nhau “Thơ là sự thần thánh hóa thực tại” (Edith Sitwell), “Thơ là những gì
đáng ghi nhớ trong cuộc sống” (William Hazlitt), “Thơ là ngôn ngữ chưng cất
mạnh mẽ nhất của bản thân tác giả” (Rita Dove). Với Xuân Diệu:" Thơ là hiện
thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa". Quan niệm đó thật đúng với bài thơ "
Nhớ rừng " của Thế Lữ
Vậy "Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời " nghĩa là gì ? Đó là thơ ca phải
bắt nguồn từ hiện thực đời sống, từ những vui buồn, đau khổ , hạnh phúc của
cuộc đời, của số phận cá nhân con người . Thơ ca phải hướng tới cuộc đời con
người chứ không phải là cái gì đứng ngoài troe vẻ. "Thơ còn là thơ nữa" ý muốn
nhấn mạnh đặc trưng của thơ : có vần , có điệu, có nhạc, có hình ảnh, có phép tu
từ thì mới được người đọc tiếp nhận với thời gian . Câu nói của Xuân Diệu : "
Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa " khẳng định vai trò của
nghệ thuật nói chung và thơ văn nói riêng đó là phải bắt nguồn từ cuộc sống và
phục vụ cuộc sống.
Trước hết, thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, bài thơ phản ánh hiện thực
tâm trạng uất hận của con hổ khi bị giam cầm :
"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
……………………
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự."
Bị nhốt " trong cũi sắt", nỗi căm hờn tích tụ thành " khối","gậm" mãi mà chẳng
tan , càng " gậm "càng cay đắng, điều đó đã thể hiện sự đau đớn, chán chường
của con hổ khi bị giam cầm trong vườn bách thú. Từ đó, thái độ của chú hổ đối
với mọi người xung quanh thể hiện sự khinh ghét, coi thường "lũ người " –
những người đã bắt giam, đẩy hổ vào chốn tù đày, mất tự do . Đau khổ nhất là
từ một vị chúa sơn lâm làm mưa làm gió nhưng nay phải chịu ngang bầy cùng
bọn gấu dở hơi, với cặp báo chuồng bên. Đã chịu tù hãm rồi nhưng con hổ lại bị
đối xử như "thứ đồ chơi", "trò lạ mắt". Các từ ngữ " khinh", "giễu","giương mắt
bé" thể hiện tinh thần ngạo nghễ, kiêu hùng của con hổ. Khổ thơ có giọng thơ
mạnh mẽ nhịp nhanh. Đó là một nét tâm trạng điển hình, chán ghét thực tại, sự
bất lực của con hổ và hình ảnh con hổ cũng là hình ảnh ẩn dụ cho người nông
dân phải chịu xiềng xích nô lệ sống trong tăm tối "nhơ nhuốc lầm than" lúc bấy
giờ. Bài thơ phả ánh một hiện thực về cuộc sống lúc bấy giờ là như thế.
(nhắc lại từ khóa của đề bài luận điểm)
Bài thơ còn phản ánh hiện thực về quá khứ vàng son, huy hoàng trong
nỗi nhớ của con hổ :
" Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những
ngày xưa
……………………
Ta biết ta chúa tể muôn loài
Giữa chốn thảo hoa k tên không tuổi".
Cụm từ " ta sống mãi" , "ta " chỉ cái tôi cá nhân. Các động từ "gào"," hét",
"thét" đặc tả khúc trường ca dữ dội của núi rừng, suối ngàn thiêng liêng, hùng
tráng, đó là những câu thơ tuyệt bút làm sang trọng cho cả bài thơ. Một loạt từ
ngữ miêu tả gợi hình : "dõng dạc", "đường hoang", "lượn tấm thân ", ….. đã gợi
lên sự uy nghi, ngang tàng, lẫm liệt của chúa tể rừng xanh Năm tháng trôi qua,
chúa sơn lâm có bao giờ nguôi được nỗi nhớ rừng với:"cảnh sơn lâm, bóng cả,
cây già " "nhớ tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn thét núi" với "khúc trường ca
dữ dội ". Khổ thơ thể hiện sự hoài niệm về quá khứ của con hổ huy hoàng, đẹp
đẽ, uy nghi, xứng tầm với chúa tể muôn loài. Đó là quá khứ của đỉnh cao quyền
lực, chỉ một cái nhìn của hổ thôi cũng khiến cho mọi vật đều im hơi. Điều đặc
biệt là hổ nhận thức được vị thế chúa sơn lâm của nó thì nó càng đau đớn, uất
hận " Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu ".
Quá khứ huy hoàng của con hổ còn được thể hiện sâu sắc qua bức tranh
tứ bình :
"Đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng
Đâu những chiều lênh láng máu sau r rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật
Than ôi!Thời oanh liệt nay còn đâu ".
Bốn bức tranh là bốn câu hỏi tu từ, là bốn nỗi nhớ nhung, tiếc nuối là 4 thời đại
anh hùng của chúa sơn lầm. Nhưng đó còn là bốn nổi đau đớn khôn nguôi. Điệp
ngữ “nào đâu, đâu” cứ khắc. Bức tranh thứ nhất trong bộ tứ bình được Thế Lữ
vẽ bằng bút pháp tài hoa gợi lên hình ảnh chúa sơn lâm say mồi trong niềm vui
hân hoan giữa một đêm trăng bên bờ suối. Đến bức tranh thứ 2 nói về nỗi nhớ
ngẩn ngơ, man mác của hổ về ngày mưa rừng, khi đó vị chúa tể cũng trở nên
điềm nhiên, điềm tĩnh như một nhà hiền triết ngắm giang sơn. Bức tranh thứ ba
là giấc ngủ của hổ trong cảnh bình minh, bức tranh đầy màu sắc và âm thanh.
Có màu hồng của bình minh, màu vàng nhạt của nắng sớm, màu xanh bát ngát
của núi rừng. Thiên nhiên như trở nên tươi mới, lộng lẫy, huy hoàng, tiếng chim
ca ríu rít, con hổ cũng chìm trong giấc ngủ. Còn có nhạc của thơ. Nhớ đêm
trăng, nhớ ngày mưa, nhớ bình minh rồi hổ nhớ lại những buổi chiều tà trong
khoảnh khắc hoàng hôn chờ đợi :
" Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt".
Trong cảm nhận của mãnh hổ, trời chiều không đỏ rực mà là "lênh láng máu sau
rừng ". Bức tranh hoàng hôn là hình ảnh ẩn dụ cho màu của chết chóc, những
buổi chiều tà lại là hình ảnh của vị chúa tể rượt bắt những con mồi yêu thích của
mình trong cảnh hoàng hôn. Cảnh tượng hiện lên thật dữ dội trong hình ảnh
"chiều lênh láng máu sau rừng". Gam màu nóng trở thành gam màu chủ đạo của
bức tranh. Đó có thể là màu của máu đỏ , cũng có thể là màu của ánh sáng mặt
trời trong cảnh chiều tà. Nếu như ban ngày, mực trời làm nhiệm vụ soi tỏa ánh
sáng xuống nhân gian, sự sống của vạn vật cũng nương theo ánh sáng ấy để vận
hành, đến khi mặt trời khuất bóng thì vạn vật cũng lấy thời gian mà mặt trời lặn
xuống ấy để ngưng mọi hoạt động mà nghỉ ngơi. Thế nhưng vị chúa tể lại đang
chờ đón khoảnh khắc" chết mảnh mặt trời gay gắt ấy để :
" Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu"
"Bí mật" ấy có phải chăng là quyền lực cai trị, hổ muốn chớp lấy thời cơ để đạt
được quyền lực mà chế ngự hoàn toàn thế giới của nó. Khát khao của nó tuy
lớn, khung cảnh của bốn bức tranh tuy hùng vĩ , nguy nga nhưng chỉ là những
hình ảnh thuộc về dĩ vãng, dù có lúc hiện rõ rệt nhưng kèm theo đó chỉ là nỗi
nhớ da diết tới đau đớn của con hổ. Các điệp ngữ "nào đâu", "đâu những" cùng
hàng loạt các câu hỏi tu từ đã có vai trò diễn tả rất sâu sắc sự nhớ tiếc của con
hổ đối với những chuyện nó đã trải qua. Câu thơ "Than ôi! Thời oanh liệt nay
còn đâu? " như một tiếng thở dài ngao ngán, bất lực về một thực tại . Đó cũng là
nỗi niềm tiếng lòng , tâm trạng của nhân dân , đất nước phải sống trong cảnh
lầm than , nô lệ .
Bài thơ còn phản ánh nỗi uất hận của con hổ khi nghĩ về thực tại tầm
thường , giả dối :
"Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào
thay đổi
……………………
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Giữa chốn ngàn năm cao cả, âm u".
Cụm từ " uất hận ngàn thâu" để vạch trần toàn bộ sự giả dối, tầm thường, lố
bịch của cuộc sống trước mắt. Được sống lại với những kí ức tươi đẹp ở chốn
rừng núi hùng vĩ, hổ chợt nhận ra sự tầm thường, giả dối của những khung cảnh
nó đang sống. Trong cái nhìn ngạo nghễ của con hổ là những cảnh" không đời
nào thay đổi" ,những cảnh nhàm chán do con người sửa sang và cố đòi "bắt
chước ". Chúa tể rừng xanh đã tỏ thái độ khinh miệt, chán chường trước những
cảnh vật nhỏ bé, thấp kém của những sự giả dối nhân tạo. Đó không phải là nơi
xứng đáng để sống với một đấng thống lĩnh . Dẫu có cố gắng sửa sang thì đó
cũng chỉ là những "dải nước đen giả suối", "mô gò thấp kém", là những "hoa
chăm, cỏ xén , lối phẳng, cây trồng ", không có gì là "bí hiểm ", " hoang vu" .
Những cảnh sống giả tạo ấy khiến cho hỏi càng tiếc nhớ chốn " ngàn năm cao
cả, âm u". Chán ghét cuộc sống thực tại , ôm niềm uất hận không nguôi, hổ khát
khao một cuộc sống tự do, mãnh liệt. Tất cả tâm tư tình cảm của hổ đều thuộc
về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Cũng qua đó, chúa sơn lâm đã gửi một lời
nhắn tha thiết về núi rừng của mình. Đó là một thực tại đớn đau, uất nghẹn
đến khó chấp nhận của bậc chúa sơn lâm. (nhắc lại từ khóa của đề bài luận
điểm)
Bài thơ Nhớ rừng còn phản ánh thực tại khao khát tự do sôi sục trong
lòng con hổ, dẫu đang bị sa cơ nhưng vị chúa tể cũng không giấu được niềm
tự hào khi nói đến chốn " nước non hùng vĩ " :
"Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị
………………………
Để hồn ta phảng phất được gần
ngươi
–Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!"
Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp. Từ"hỡi" gợi tình cảm
tha thiết, cháy bỏng , là nỗi nhớ khôn nguôi về quá khứ vàng son lẫy lừng.
Trong cảnh giam cầm , hổ chỉ còn biết gửi hồn về chốn nước non hùng vĩ, giang
sơn của giống hầm thiêng ngự trị từ ngàn năm xưa. Bất bình với hiện tại nhưng
không thể thoát khỏi xiềng xích nô lệ, vị chúa sơn lâm uy nghi ngày nào giờ
đành buông xuôi, tự an ủi mình bằng những "giấc mộng ngàn to lớn " trong
quãng đời tù túng còn lại . Một nỗi buồn tê tái thấm đẫm tâm hồn con người.
Than ôi ! Quá khứ hào hùng, oanh liệt giờ chỉ còn hiện lên trong giấc mộng! Tự
đáy lòng vị chúa tể rừng xanh bật thốt lên tiếng than ai oán :" Hỡi cảnh rừng
ghê gớm của ta ơi!". Mượn lời con hổ, tác giả đã thay thế cho tiếng lòng của con
dân Việt Nam trong thời kì mất nước , ấy là tiếng than nuối tiếc cho một thời
vàng son của dân tộc ta, là tiếng khao khát tự do cháy bỏng , sục sôi trong từng
người dân yêu nước.
Hiện thực, cuộc đời được nhà thơ Thế Lữ phản ánh trong thơ không chỉ
bằng những hình tượng đặc sắc mà còn bằng cả ngôn từ gợi hình, giàu sắc
thái biểu cảm với cả thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng thể thơ tự
do trong bài thơ kết hợp với cách ngắt nhịp linh hoạt giúp tác giả thoải mái bộc
lộ rõ cái tôi cá nhân. Giọng thơ lúc đầu hùng hồn đến bi tráng và cuối bài thơ là
ngậm ngùi, xót xa.Bài thơ còn sử dụng thành công các câu hỏi tu từ :" nào đâu
","đâu những " thể hiện tâm trạng nhớ thương, tiếc nuối về quá khứ vàng son ,
hào hùng của con hổ. Sự đối lập, tương phản còn làm toát lên thực tại tầm
thường, giả dối với quá khứ vàng son, lẫm liệt của vị chúa tể. Biện pháp tu từ
điệp ngữ:" nào đâu "," nào" nhằm nhấn mạnh sự tiếc nuối, đau đớn, nhớ nhung
của con hổ và tác giả còn sử dụng các từ ngữ gợi hình, gợi cảm sâu sắc. Mỗi từ
ngữ có cuộc sống riêng, có sức mạnh riêng mà tài năng của Thế Lữ là ở chỗ đã
tập hợp được các sức mạnh tản mác ấy thành một sức mạnh thống nhất, có khả
năng biểu đạt tâm trạng cao nhất, tạo thành những hình ảnh có tính tạo hình và
ấn tượng sâu sắc. Cho nên có ý kiến cho rằng Thế Lữ như một vị tướng điều
khiển đội quan Việt ngữ .
Câu nói của Xuân Diệu:" Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ
nữa " là một câu nói hoàn toàn đúng đắn. " Nhớ rừng " không chỉ thành công ở
nghệ thuật tinh tế mà còn có giá trị lớn về nội dung, đại diện cho tiếng lòng của
mọi người dân Việt Nam đang sục sôi trước hoàn cảnh đất nước. Dù đã được ra
đời từ rất lâu nhưng bài thơ bài thơ mãi luôn được độc giả yêu mến và góp phần
to lớn vào sự thành công của phong trào Thơ mới.

BÀI LÀM SỐ 12 Đề bài: Một kết thúc bất ngờ luôn chưa đựng những điều
kịch tính, gây ấn tượng và liên tưởng sâu xa, tạo âm vang lớn.
Bài làm: (Bài làm của em HS, mình chưa hề chỉnh sửa)
“Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ
Như đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu”
Có những tác phẩm ra đời chỉ để lãng quên ngay sau đó, nhưng có những tác
phẩm lại như những dòng sông chảy nặng phù sa in dấu chạm khắc trong tâm
khảm. Những tác phẩm ấy đã trở thành: “những bài ca đi cùng năm tháng” và
nó để lại trong tâm hồn bạn đọc nhiều ấn tượng không bao giờ quên. Vì vậy khi
đánh giá về những đứa con tinh thần của văn học, Bùi Việt Thắng đã cho rằng:
“Kết thúc bất ngờ luôn chứa đựng nhiều điều kịch tính, gây ấn tượng và liên
tưởng sâu xa, tạo âm vang lớn”. Và một lần nữa, nhận định ấy đã được sống lại
trong kết thúc của truyện ngắn Lão Hạc.
Kết thúc bất ngờ là gì? Là một kết thúc mà không ai ngờ đến. Kết thúc ấy tạo
ra sự hấp dẫn, kịch tính. Nó tạo nên ấn tượng và liên tưởng sâu xa: bắt nguồn
cho quá trình đồng sáng tác ở các độc giả, khơi dậy ở bạn đọc nhiều liên tưởng
về ý nghĩa truyện và tư tưởng của nhà văn. Đồng thời, kết thúc truyện cũng bộc
lộ tài năng của tác giả trong việc dẫn dắt truyện, cách chọn điểm dừng và dừng
đúng lúc, tạo cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Có thể xem kết
thúc là cái đích nội dung của truyện, thể hiện nghệ thuật khép truyện của nhà
văn. “Sức mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là thuộc về đoạn cuối”. và kết thúc của
truyện ngắn Lão Hạc rất bất ngờ, bất ngờ với người đọc, với ông giáo, với Binh
Tư.
Kết thúc truyện ngắn Lão Hạc của Nam cao là một kết thúc bất ngờ chứa
đựng sự kịch tính. Hành động của lão làm cho ông Giáo cũng như Binh Tư
không khỏi há hốc miệng. Điều đó đi ngược với suy nghĩ của Binh Tư và ông
giáo, tạo nên một mâu thuẫn khó giải bày. Bên ngoài thì như là lão xin bã về
đánh con chó cứ lờn vờn ở vườn lão. Nhưng ai mà biết được rằng là lão đang
che đậy cho một sự thật ẩn chứa bên trong. Đến cả ông giáo-người được cho là
hiểu lão Hạc nhất cũng cùng với Binh Tư cho rằng: cho đến lúc bần cùng thì lão
cùng có thể làm liều như ai hết! Kết thúc truyện tạo nên sự kịch tính, mâu
thuẫn: lão không tha hóa như người đời đánh giá, lão chọn chết là để giữ trọn
tính người. Cho đến cuối truyện, người đọc mới nhận ra rằng câu chuyện nỳ
như một cuộc chuẩn bị từ trước để chết của một con người. Lão ta cứ vậy, cứ
âm thầm, lặng lẽ sắp xếp, lo liệu những việc cuối đời của một kiếp con người.
Lão bán cậu Vàng đi để thêm chút ít tiền tích cóp cho con, nhưng lại đâu ngờ
đến sự mất mát của cậu Vàng lại khiến lão đau đớn đến vậy. Sau những lời than
vãn đắng cay về việc bán cậu Vàng, lão rề rà, nhỏ nhẹ mà tha thiết nhờ ông giáo
giúp cho hai việc. Lão nhờ ông giáo giữ hộ ba sào vườn, chừng nào con trai lão
về thì giao lại để anh ta có đất ở, có vốn mà sinh nhai. Rồi lão lại gửi ba mươi
đồng bạc (hai mươi lăm đồng tích cóp tằn tiện hơn một năm trời và năm đồng
vừa bán chó) để nhỡ khi lão chết, nhờ hàng xóm chi tiêu việc ma chay. Sau đó
lão ra về, dùng bã chó xin của Binh Tư để kết thúc cuộc đời mà không ai hay
biết. Người đời nhìn vào chắc hẳn sẽ bĩu môi mà cho rằng lão chỉ là một lão già
lần thần, gàn dỡ. Để rồi đến cuối mới bất ngờ nhận ra vẻ đẹp một phần nguyên
sơ, thánh thiện của lão. Cách dẫn dắt truyện của Nam Cao tạo nên một quá trình
lô-gíc trong nhận thức của con người. Từ ngộ nhận đi đến vỡ lẽ, không chỉ với
những nhân vật xung quanh lão Hạc mà chính người đọc cũng vậy. Đây quả thật
là một kết thúc quá đỗi bất ngờ và kịch tính. Kết thúc bất ngờ này như một lời
khẳng định: có những bí ẩn, bí mật sâu bên trong người nông dân không dễ gì
nhận ra.
Kết thúc truyện không chỉ bất ngờ, kịch tính mà còn khiến người đọc ấn
tượng và có sự liên tưởng sâu xa, tạo cho tác phẩm có âm vang lớn. Kết thúc
truyện gây ấn tượng về cách miêu tả cái chết của lão Hạc. Sau khi ăn bã chó, lão
Hạc vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng
sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái,
giật nãy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên lão. Lão phải vật vả
hơn hai giờ đồng hồ. Đây quả thật là một cái chết đầy ấn tượng. Nhưng để có
được sự ấn tượng ấy thì phải kể đến tài năng của Nam Cao. Bằng ngòi bút viết
lách và nhiều từ láy gợi hình, Nam Cao như họa trước mắt người đọc cảnh cái
chết đầy đau đớn của lão Hạc. Thực sự mà nói thì lão có thể lựa chọn nhiều
cách chết êm dịu hơn nhưng lão vẫn quyết định ăn bã chó để chết. Lí do nào
khiến lão làm vậy? Vì lão luôn cho rằng lão lừa cậu Vàng tức là đã từ bỏ tư
cách làm người lương thiện. Lão chọn cái chết đầy dữ dội như vậy một phần là
vì thanh minh, chuộc lỗi với cậu Vàng. Phần còn lại là vì lão nghĩ nếu tiếp tục
sống thì lão sẽ phải bán dần mọi thứ để có cái ăn. Và nếu làm vậy thì lão lại
phải lỗi làm cha. Suy cho cùng, lão cho rằng chết đi sẽ tốt hơn là tiếp tục cuộc
sống như vậy.
Cái chết đầy ấn tượng của lão Hạc gợi lên nhiều liên tưởng về vẻ đẹp của
người nông dân. Đó là sống thì phải lỗi làm cha, muốn trọn đạo làm cha thì
phải chết. Nếu sống là tha hóa nhân cách, muốn bảo toàn nhân cách thì phải
chết. Cái chết của lão Hạc giúp Nam Cao kí thác được rất nhiều điều về con
người. Điều đó được bộc lộ qua dòng độc thoại nội tâm của ông giáo (của Nam
Cao). Gợi lên nhiều liên tưởng sâu xa cho bạn đọc. “Cuộc đời chưa hẳn là đáng
buồn”: thể hiện niềm tin của Nam Cao về vẻ đẹp tâm hồn của con người. Dù xã
hội có đầy rầy những bất công, bao nhiêu con người bị tha hóa, thí dụ như Binh
Tư, bà cụ Tứ trong “một bữa no” hay Chí Phèo,…thì Nam Cao vẫn còn có lão
Hạc. “Cuộc đời vẫn đáng buồn nhưng đáng buồn theo một nghĩa khác”: nỗi đau
xót của Nam Cao trước bi kịch của người nông dân trong xã hội cũ. Những con
người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, bị xã hội thực dân phong kiến mục nát chèn
ép đến bước đường cùng, phải tìm đến cái chết để giải thoát bản thân.
Kết thúc “lão Hạc” đã tạo cho tác phẩm một âm vang lớn để đời. Kết
thúc ấy như một lời dằn mặt đanh thép đến xã hội phong kiến bất công, tàn bạo.
Nó còn là tiếng nói đồng cảm với những người dân nghèo khổ trong xã hội xưa.
Kết thúc ấy còn thể hiện triết lí tình thương của Nam Cao: nhìn người đừng chỉ
dùng đôi mắt đơn thuần. Nhìn người phải bằng đôi mắt tình thương thì mới phát
hiện và thấu hiểu được những bí mật ẩn sâu trong tâm hồn của họ. Đây chính là
tư tưởng, là chân lý sáng tác của Nam Cao.
Kết truyện thể hiện tài năng của Nam Cao. Bằng cách sử dụng ngôn từ súc tích,
giàu chất tạo hình và nghệ thuật xây dựng cốt truyện, miêu tả tâm lý, tính cách
nhân vật,…Nam Cao đã thể hiện được chiều sâu của tác phẩm và gợi lên nhiều
liên tưởng sâu xa. Vừa có sức mạnh tố cáo mãnh liệt, vừa giúp người đọc đồng
sáng tác.
Nhận định mà Bùi Việt Thắng đưa ra là đúng đắn. Mặc dù “lão Hạc” dã ra
đời gần tám mươi năm nhưng cho đến ngày nay, cái chết ấy vẫn còn ám ảnh
người đọc-một cái chết đầy bi thương và đau đớn. Cái chết ấy làm người đọc
như nhỏ từng giọt lệ thương xót cho số phận hẩm hiu của người nông dân. Cái
chết của lão Hạc lưu truyền như một lời tố cáo đanh thép đến xã hội cũ, đồng
thời cũng là lời oán than cho số phận của người nông dân.
BÀI LÀM SỐ 13 Nhân vật văn học là đứa con của thời đại, mang dấu ấn
của thời. Mỗi thời đại lịch sử có những kiểu nhân vật đặc thù riêng. Chứng
minh qua nhân vật chị Dậu trong đoạn trích tức nước vỡ bờ

Macxingofiky từng nói “ nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại “ .
Trong một tác phẩm văn học, điều đầu tiên mà chúng ta luôn hướng tới, quan
tâm đến đó chính là hình ảnh nhân vật. Mỗi nhân vật sẽ làm toát lên những dấu
mà tg muốn truyền tải trong tp và và nhân vật văn học cũng sẽ phản ánh cuộc
đời, con người...trong thời đại lúc bấy giờ. Nó sẽ cho ta những suy nghĩ, ấn
tượng khác nhau. Và mỗi thời đại sẽ có một nhân vật văn học đặc thù riêng vì
thế có ý kiến cho rằng “ nhân vật văn học là đứa con của thời đại...” điều đó đc
thể hiện qua nhân vật chị Dậu trong đoạn trích tức nước vỡ bờ
Trước hết , vật chị Dậu đã phản ánh một thời đại mà con người phải
chịu hoàn cảnh cực khổ, bất hạnh, đắng cay trong cuộc sống. Điển hình là
hoàn cảnh của chị Dậu. Nhà chi nghèo nhưng phải đóng đủ thứ thuế , ví không
có tiền nạp sưu mà chị phải đứt ruột bán đi đứa con của mình , bán chó . Chị
còn phìa gánh thêm một phần sưu cho em chồng đã mất . Còn nỗi cơ cực nào
khi người vợ , người mẹ phải lo toan mọi việc trong nhà , chị phải hứng chịu
nhiều đau đớn khi phải bán con , lo tiền sưu . Đường như con người của chị
luôn bị giam cầm , hành hạ bởi sự vất vả , khó khăn, mọi điều bất công như
đang dồn vào con người chị. Nhưng sự khốn khổ của chị chưa đưg lại ở đó , mà
chị còn phải chịu cảnh người chồng của mình bị tên cai lệ và người nhà lí
trưởng đánh đập . Anh dậy là trụ cột của gia đình nhưng bây giờ anh bị hành
hạ như vậy thì mọi trách nhiệm chị Dậu phải là người gánh chịu và nổi khổ của
chị càng chồng chất hơn nữa . Sự ép le ấy ngày càng nặng nề hơn nữa , đó là chị
Dậu bị tên cai lệ và người nhà lí trưởng hành hạ, chị phải nếm trải mùi vị đắng
cay của sự bất công, tan ác , viên mãn của xã hội phong kiến đương thời.
Nhưng con người của chị mạnh mẽ như vậy thì không thể bị đánh bại bởi những
sự khốn khổ như thế được . Chị đã vùng dậy đấu tranh để chống lại sự bất công
của xã hội , để thoát sự nghèo khổ , tù túng . Từ hình ảnh chị Dậu chúng ta có
thể thấy được hoàn cảnh , cuộc sống khó khăn, bất hạnh mà người nông dân
phải chịu trong thời đại lúc bấy giờ, họ phải chịu cảnh số phận hẩm hiu, thấp
cổ bé họng, họ bị đầy đọa bởi sự bất công của xã hội phong kiến
Và nhân vật chị Dậu còn phản ánh một thời đại lịch sử bất công, tàn
bạo của xã hội thực dân phong kiến. Điều đó được thể hiện qua cách đối xử
của tên cai lệ và người nhà lí trưởng với chị Dậu. Chúng đến nhà chị Dậu đời
tiền sưu nhưng vì gia đình đang khó khăn vì thế chị phải nhìn nhường , văn
xin , nài nỉ để họ có chút lòng thương mà bỏ qua . Nhưng chị Dậu càng cố gắng
van con thì chúng lại càng là tới , càng lộng hành .việc chị Dậu phải hạ thấp bản
thân mình( xưng “ông" “ cháu") để nài nỉ , cố gắng khất sưu , nhưng lại buồn
thay cho sự hi sinh của chị , bọn chúng quyết không tha . Thôi thì mình là phận
thấp cổ bé họng phải chịu nhiều sự bất công nhưng đứng trước sự vô nhân tính
của chúng thì chị Dậu đành phải đứng lên cải lí , dùng lí lẽ . Chị đứng lên
ngang hàn cùng với bọn chúng (xưng tôi và ông) , chị cố gắng cứu chồng mình
khỏi bọn tàn ác kia, chúng cũng không tha , còn “bịch luôn vào ngực chị Dậu
mấy bịch” . Không chịu được nữa chị Dậu liền nói “ chồng tôi đâu ốm , ông
không được phép hành hạ". Chị vừa là người gồng gánh gia đình nhưng bây
giờ phải gánh thêm sự ác nhân ác đức của chúng, nhưng cho dù chíp nhiều bất
công nhưng chị luôn quan tâm đến chồng của mình , cố gắng đứng dậy để bảo
vệ chồng con , sự vô nhân tính có thể hạ gục được thân xác chi nhưng không thể
làm gục ngã được tâm hồn của chị .sức chịu đựng của chị Dậu đã đi quá giới
hạn vì thế chị quyết tâm đứng đầu tranh , chống lại sự tàn ác . Bây giờ chị
không ngang hàng với chúng mà chị là bậc trên ( xưng bà và mày) . Ngời ta
nói tức nước thì vỡ bờ , chị nghiến hai hắn răng nói mày trói chồng bà đi bà
cho mày xem . Khi mà sự bất công cố dồn dập đến người dân thì họ không chịu
đựng được nữa , họ đứng dậy chống lại , xóa bỏ sự bất công của xã hội . Chị
vốn dĩ là người phụ nữ dịu dàng nhưng vì áp bức bóc lột , bị dồn đến đường
cùng nên chị đã chống trả quyết liệt , chị phẫn uất là chị “ thà ngồi tú , để cho
chúng nó làm tình làm tội mãi thế , tôi chịu không được . Câu nói của chị
Dậu như một lời tuyên thể hùng hồn, khẳng định quy luật có áp bức là có đấu
tranh. Chị dậu đã đưa chúng ta đến một thời đại xa xưa , cho ta thấy rõ hơn về
bộ mặt xấu xa , tàn ác của xã hội phong kiến đương thời, cái ác rồi cũng bị
đánh bại , bi xóa bỏ .
Để tái hiện lại thời đại đương thời, nhà văn NGÔ TẤT TỐ đã sự dụng
thành công các biện pháp nghệ thuật . Trước hết chúng ta phẫu kể đến nghệ
thuật xây dựng tâm lí nhân vật. Đây chính là nét nghệ thuật độc đáo nhất của
truyện. Chính thử bứt pháp này đã vẽ nên những hình ảnh nhân vật, cho ta thấy
được nhiều điền trong thời đại đương thời. Nhà văn tập trung khắc họa tính cách
nhân vật , hình tượng của chị Dậu trong đoạn trích được khắc họa sinh động .
Giọng thơ lúc cay đắng, khi giễu cợt , mềm mỏng , khi thì mạnh mẽ, đanh thép
, hả hê. Tác giả NGÔ TẤT TỐ đã rất tinh tế trong việc sử dụng các biện pháp
nghệ thuật tu từ , giúp bạn đọc hình dung được cuộc sống con người, xã hội
trong thời đại xưa.
Nhận định “ nhân vật văn học là đứa con của thời đại, mang dấu ấn của
thời đại, mỗi thời đại sẽ có một nhân vật đặc thù riêng “ là hoàn toàn
đúng. Nhân vật bao giờ cũng là một phương tiện truyền tải đến cho chúng ta
những điều bổ ích, nhân vật văn học sẽ đưa ta đến những thời đại khác
nhau ,giúp ta hiểu được những điều tốt xấu trong xã hội xưa , chị Dậu cũng đã
cho thấy được sự bất công của xã hội phong kiến và cuộc sống vô cùng khốn
khổ của người dân.

BÀI LÀM SỐ 14 :
Chất thép và chất tình trong thơ Hồ Chí Minh luôn hòa quyện, thống nhất.
Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua những bài thơ đã học.

Khi đọc thơ Bác, Hoàng Trung Thông đã nói rằng:


“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
Quả thật, lãnh tụ Hồ Chí Minh không những là một nhà cách mạng, một
danh nhân lỗi lạc mà còn là một nhà thơ lớn. Trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Bác đã sáng tác rất nhiều bài thơ. Bác làm thơ vừa để “vừa
ngâm vừa đợi đến ngày tự do”, vừa trở thành nguồn động lực, nguồn sức mạnh
tinh thần giúp Người vượt qua gian lao thử thách, vượt qua rào cản của thực dân
để chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng, vì tương lai của nhân dân đất nước. Khi
nghiên cứu những bài thơ ấy, nhiều nhà phê bình văn học đều tìm thấy trong thơ
Bác một chất tình, chất thép rất hòa hợp. Chính Bác cũng đã từng nói:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Vì vậy, khi nhận xét về thơ Bác có ý kiến cho rằng : “Chất thép và chất tình
trong thơ Hồ Chí Minh luôn hòa quyện, thống nhất”
Trước hết, chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa của câu nói trên. “Chất tình”
trong câu nhận định trên có nghĩa là những cảm xúc, những rung động của nhà
thơ trước những vẻ đẹp của tạo vật. “Chất tình” có nghĩa là tinh thần chiến đấu,
ý chí bất khuất kiên cường, niềm lạc quan tin tưởng… vào sự nghiệp cách
mạng. Sự hoà quyện, thống nhất giữa hai thái độ đó là sự gắn bó chặt chẽ không
thể tách rời được giữa cảm xúc, rung động về cái đẹp và khát vọng chiến đấu, ý
chí nghị lực... của nhà thơ. Vậy chúng ta có thể hiểu câu nhận định trên có nghĩa
là : “Những cảm xúc, những rung động về cái đẹp và tinh thần chiến đấu kiên
quyết trong thơ Hồ Chí Minh gắn bó với nhau không thể tách rời”. Điều đó
được thể hiện rõ ràng nhất trong ba bài thơ Cảnh khuya, Rằm tháng
Giêng và Tức cảnh Pác Bó.
Trước hết, chất tình trong thơ Hồ Chí Minh là một hồn thơ mơ mộng,
một tấm lòng yêu nước, yêu thiên nhiên cây cỏ, yêu thương quên mình. Điều đó
được thể hiện qua hai bài thơ Cảnh khuya và Rằm tháng Giêng. Với bài
thơ Cảnh khuya, ta thấy được tình yêu thiên nhiên được bộc lộ qua đôi mắt tâm
hồn của người thi sĩ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
Luận điểm 1: Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, sống
động. Tiếng suối vốn được cảm nhận bằng thính giác nhưng khi tiếng suối vang
lên, Người cảm nhận được cả tiếng nước chảy và độ “trong” của dòng chảy.
Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, cũng như là một thứ quà riêng mà
thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho những người chiến sĩ trên đường hành
quân xa xôi. Với biện pháp tu từ so sánh, tác giả đã cảm nhận tiếng suối như là
tiếng hát xa xa, trầm bổng nơi núi rừng. Tiếng hát đó phải là thứ âm thanh rất
đặc biệt để có sức lan toả mạnh mẽ, để từ xa con người vẫn có thể cảm nhận
được. Đó cũng phải là tiếng hát vang lên trong im lặng bởi nếu không, nó sẽ bị
lẫn vào biết bao âm thanh phức tạp của sự sống và từ xa, con người không thể
cảm nhận được. Những câu thơ đầu tiên thể hiện cảm hứng nhân văn sâu sắc
trong vần thơ của Bác.
Câu thơ thứ hai : "Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa" tiếp tục cho ta cảm
nhận được bức tranh phong cảnh đầy màu sắc. Đây là bức tranh có nhiều tầng
lớp, nhiều đường nét và đặc biệt là lung linh dưới ánh trăng. Bức tranh chỉ sử
dụng hai màu sáng tối nhưng lại tạo nên vẻ đẹp lung linh chập chờn và ấm áp,
hoà hợp giữa các chi tiết của thiên nhiên tạo vật. Ở đây Bác dùng từ "lồng" rất
đắt, trở thành "nhãn tự" cho câu thơ. Chỉ với một từ ấy, cảnh vật như đang giao
hòa, nương dựa vào nhau một cách duyên dáng, đáng yêu, tạo nên một bức
tranh phong cảnh sống động: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Bức tranh
thiên nhiên ấy phải chăng là nhờ tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ hay chỉ là sự
sắp xếp hài hoà của tạo hoá ? Nói cách khác, nhà thơ đã thổi vào khung cảnh
đêm trăng Việt Bắc chất tình của mình, tạo nên bức tranh chan hoà lung linh
ánh trăng.
Với bài thơ Rằm tháng Giêng, chất tình của Hồ Chí Minh được thể hiện
qua bức tranh trời mây non nước hùng vĩ, hữu tình trong tiết trời nhẹ nhàng,
thoáng đãng của tháng Giêng, tức tháng đầu tiên của năm mới:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thuỷ, tiếp xuân thiên”
Hai câu đầu của bài thơ Rằm tháng Giêng cho ta thấy được vẻ đẹp của
đêm trăng rằm tháng Giêng. Trên bầu trời, vầng trăng vừa tròn như nổi bật lên
giữa đêm tối.Trăng rằm tháng giêng mang một vẻ đẹp tự nhiên, nhẹ nhàng khác
với những đêm rằm khác vì tháng giêng là tháng của mùa xuân, của sự tươi
mới. Ánh trăng chiếu xuống lòng sông một màu ánh bạc lung linh kì ảo. Cùng
với ánh trăng, màu xanh bao trùm lên thiên nhiên đất trời một cách êm ả. Bằng
cách sử dụng khéo léo biện pháp tu từ điệp ngữ, nhà thơ đã nhấn mạnh được
màu xuân tràn trề sức sống đã về phủ lên nước non một màu xanh của sự sống:
Màu xanh lấp lánh của "xuân giang", màu xanh ngọc bích của "xuân thuỷ" tiếp
nối với màu xanh thiên thanh của "xuân thiên". Ba từ "xuân" trong câu thơ thứ
hai như là những nét chấm phá làm nổi bật vẻ đẹp của đất nước và cũng làm nổi
bật cái chất tình của nhà thơ qua việc quan sát với đôi mắt nhạy cảm.  Như
vậy, chất tình trong thơ Bác chính là tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và
yêu tự do mà lơn hơn chính là tình yêu Tổ quốc.
Luận điểm 2: Thơ Bác nồng nàn tình yêu với mọi vật, với muôn loài.
Nhưng thơ Bác không phải là những bài thơ yểu điệu, ướt át, mà thơ Bác có một
chất thép cứng cỏi và mạnh mẽ đan xen, hoà quyện giữa những vần thơ giàu
chất tình. Điều đó được thể hiện qua bài thơ Tức cảnh Pác Bó và Cảnh khuya.
Với bài Tức cảnh Pác Bó, chất thép của thơ Hồ Chí Minh được thể hiện qua
thái độ lạc quan, yêu đời và phong thái ung dung, tự tại:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Hai câu thơ đầu tiên đập vào mắt người đọc là cuộc sống thường ngày
của Bác Hồ khi còn hoạt động ở Pác Bó. Không gian sinh hoạt chỉ khép gọn
trong hai khu vực là suối và hang. Đồ ăn cũng rất bình thường, có khi nghèo
khổ nữa như cháo bẹ, rau măng. Những từ ngữ đó đã cho ta thấy được cuộc
sống nghèo khổ của Bác. Tuy khổ cực như vậy nhưng nhà thơ vẫn không buồn,
không nản lòng mà vẫn luôn “sẵn sàng”. Hồ Chí Minh đã rất khéo léo khi giấu ý
thơ vào trong âm điệu, vẫn là những nhịp 4/3 hay 2/2/1/2 của thơ Đường luật
bảy chữ, nhưng lồng trong đó là cái đều đặn, nề nếp, khoan thai như nhịp tuần
hoàn giữa một cuộc sống khổ cực giữa rừng núi. Suối rồi hang, hang rồi suối;
cháo rồi rau, rau rồi cháo… Thơ Bác đơn giản mà vẫn bền vững, ung dung, đậm
chất thép.
Hai câu thơ cuối đã làm cho phong thái ung dung và thái độ lạc quan của
Bác trở nên rõ nét hơn. Như ta đã biết, “dịch sử Đảng” là Bác Hồ đang dịch
Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô để các đồng chí cách mạng học. Một công việc
gian khó, quan trọng như vậy chắc hẳn phải có những trang thiết bị tốt để thực
hiện. Nhưng Bác chỉ có độc một chiếc bàn đá chông chênh để làm công việc đó.
Tuy phải sống trong điều kiện sống vô cùng gian khổ, thiếu thốn, nhưng Người
lại vô cùng ung dung và yêu đời khi thốt lên rằng: “Cuộc đời cách mạng thật là
sang”. Câu chủ chốt của bài thơ cho ta thấy rằng Bác rất ung dung tự tại và luôn
vượt lên hoàn cảnh.
Luận điểm 3: Chất thép trong thơ Hồ Chí Minh không chỉ là tinh thần lạc
quan, yêu đời và phong thái ung dung tự tại, thơ Bác còn chất chứa một chất
thép đầy tình yêu thương đất nước, yêu thương dân tộc. Điều đó được thể hiện
sâu sắc qua bài thơ Cảnh khuya:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Với một tâm hồn nhạy cảm, Bác Hồ của chúng ta khẳng định cảnh đêm
rừng Việt Bắc đẹp như một bức tranh là cũng đúng. Bác đã vì cảnh đẹp mà thức
suốt đêm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây, bài thơ sẽ trở thành trống trải vì thiếu
đi tình yêu thương đất nước. Và hồn thơ của Bác vẫn tiếp tục xao động, hai chữ
“chưa ngủ” vừa sơ kết dòng thơ, vừa mở ra một khung bậc mới, được mở ra
trong câu thơ: “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Điệp từ “chưa ngủ” như bản lề
khép mở hai phía tâm trạng tách biệt của Bác: càng say mê, yêu mến cảnh Việt
Bắc bao nhiêu thì Người càng thao thức nghĩ suy, lo lắng về sự nghiệp kháng
chiến, về việc nước bấy nhiêu. Hai nét tâm trạng ấy trộn lẫn trong Bác, thể hiện
sự hòa hợp giữa chất tình và chất thép trong thơ văn và trong tâm người chiến sĩ
cộng sản Hồ Chí Minh.
Chất tình nhờ chất thép mà thêm nồng hậu. Chất thép cũng nhờ chất tình
mà được nâng lên. Trái tim chan chứa yêu thương và tấm lòng nghĩ về cuộc đời
đã nuôi dưỡng và củng cố cho Người đương đầu với mọi thử thách và bền bỉ gìn
giữ niềm lạc quan cách mạng. Câu nhận định “Chất thép và chất tình trong thơ
Hồ Chí Minh luôn hòa quyện, thống nhất” là một nhận định đúng. Thơ Bác sẽ
mãi tồn tại trong trái tim mỗi người dân Việt Nam dù thời gian có qua đi, vì lời
của Bác là những câu nói sống mãi theo năm tháng.

BÀI LÀM SỐ 15
Nhà văn khơi lên ở con người niềm trắc ẩn , ý thức phản kháng cái ác, cái
khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp. Hãy làm sáng tỏ qua đoạn
trích tức nước vỡ bờ của NGÔ TẤT TỐ
“ văn chương có hai loại , loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại đáng
thờ chuyên chú về con người, loại không đáng thờ chuyên chú về văn chương .
Đúng vậy, một tác phẩm muốn sống mãi với thời gian, năm tháng phải luôn
hướng về con người, cuộc sống của con người phải giúp con người xóa bỏ độc
sự tàn ác,bất công , hướng mọi người đến những điều tốt đẹp.Vì thế có ý kiến
cho rằng “ nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản
kháng cái ác, cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp “ điêu đó
được thể hiện rõ nétqua đoạn trích tức nước vỡ bờ của NGÔ TẤT TỐ .
Vậy nhà văn là gì? Nhà văn chính là người nghệ sĩ sáng tác ra những tác
phẩm văn học để gửi gắm tình cảm, tâm tư của mình . Niềm trắc ẩn chính là
tình yêu thương , sự cảm thông , chia sẻ, thương cảm để giúp những con người
khó khăn vượt qua hoàn cảnh. Còn ý thức phản kháng cái ác chính là sự chống
lại cái xấu , cái ác . Khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp là hướng
cuộc sống đến những điều tốt đẹp, chân lý . Điều đó được thể hiện sâu sắc qua
đoạn trích tức nước vỡ bờ.
Trước hết, qua đoạn trích tức nước vỡ bờ nhà văn đã khơi lên ở con người
niềm trắc ẩn. Đó chính là tình tình yêu thương, sự cảm thông trước hoàn cảnh
bất hạnh của chị Dậu .Gia đình chị Dậu nghèo khổ, phải đóng đủ thứ thuế, chị
một mình lo toan mọi việc trong nhà. Chị phải bán con, bán chó nhưng vẫn
không đủ tiền sưu, chị còn phải đóng thêm phần sưu của em chồng đá
mất, chồng chị thì bị đánh đập tàn nhẫn . Thật đáng buồn thay cho số phận của
chị Dậu nói riêng và người dân lúc bấy giờ nói chung , họ phải chịu cảnh áp
bức, bóc lột tàn bạo của xã hội phong kiến đã gieo rắc. Họ không chỉ khổ sở về
vật chất mà còn thiếu thốn về tinh thần . Chắc có lẽ nhà văn NGÔ TẤT TỐ
cũng đã phải trải qua những đau đớn đó thì mới có thể viết ra được những câu
văn thấm thía tình cảm, nhờ đó chúng ta mới biết được hoàn cảnh vô cùng
khốn khổ của người dân , chúngta còn thấy được sự cảm thông chia sẻ của nhà
văn trước hoàn cảnh khốn khổ của người dân . Người dân họ bị đàn áp , bóc lột
nặng nề về thể xác nhưng tâm hồn của họ thì lại trần ngập tình yêu thương, đó
là sự yêu thương chồng con của chị Dậu. Lưới ngồi bứt pháp của nhà văn ta
thấy rõ những phẩm chất của người dân và ta thấy được sự trân trọng, ngợi ca
của nhà văn với những phẩm chất đáng quý của họ . Và niềm trắc ẩn mà nhà
văn muốn gửi đến đó chính là sự yêu thương, cảm thông , chia sẻ trước hoàn
cảnh và phẩm chất của người dân
Nhà văn NGÔ TẤT TỐ còn khơi lên ý thực phản kháng cái ác.Khi gia
đình nhà chị Dậu bị tên cai lệ và người nhà lí trưởng kéo tới đời tiền sưu thì chị
Dậu đành phải nhìn nhường, văn xin để chúng tha cho, nhưng chúng quyết
không tha mày nói cho cha mày nghe đấy à bọn chúng thật là ác tâm, người
dân đang phải chịu cảnh khốn khổ nhưng chúng vẫn hành hạ không tha. Chị còn
phải xưng cháu và ông nhưng bọn ác nhân ác đức kia thì làm sao chúng có thể
tha được . Khi nhìn nhường không được nữa thì chị đừng cải lí , lí lẽ ( xưng tôi
và ông ) chị đứng dậy phản kháng với những lời nói mạnh mẽ, quyết liệt chồng
tôi đau ốm , ông không được phép hành hạ khi phải đứng nhìn chúng càng
ngày càng lớn tới thì chỉ không thể chịu được nữa, sau khi phải chỉ những tra
tấn đánh đập của chúng thích chị Dậu đứng lên vùng dậy đấu tranh, chỉ nghiện
hai hàm răng và sưng tôi với ông. Khi mọi sự tàn ác của xã hội phong kiến mà
chúng đã gieo rắc cho người dân đã quá lớn , khi Sức chịu đựng của họ đã vượt
quá giới hạn thi hồ đáng phải đứng dậy đấu tranh để giành lại sự yên bình cho
chính bản thân mình. Cũng giống như chị Dậu, chị vùng dậy , quyết liệt chống
trả thà ngồi tù , để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu
được. Câu nói của chị Dậu như một lời tuyên ngôn hùng hồn, khẳng định quy
luật có áp bức thì có đấu tranh, tức nước thì vỡ bờ . Nhà văn Ngô Tất Tố cũng là
người phải chịu những cảnh khốn khổ như vậy, nên tác giả muốn cho người dân
nổi dậy đấu tranh và có ý thức phản kháng cái ác tìm lại hòa bình . Có người đã
từng nói Ngô Tất Tố bố là là người xui nông dân Nổi Loạn . Đúng vậy khi con
người bị áp bức quả lớn thì họ phải đứng dậy đấu tranh để giành lại những điều
tốt đẹp cho mình , nhà văn Ngô Tất Tố là một phương tiện gián tiếp giúp đỡ ,
tiếp thêm vị trí cho những người nhân dân để họ có thể đứng dậy đấu tranh cho
cuộc sống của mình.
Quà tác phẩm Tức Nước Vỡ Bờ Ngô Tất Tố đã khởi lên ở con người
khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp . Trong xã hội công bằng Bác
ai, những điều tàn Nhẫn xấu xa bị xóa bỏ , cuộc đời hòa bình là mong muốn
chung của mọi người nhất là những người dân thấp cổ bé họng trong xã hội xưa.
Họ muốn mình có thể để có được được cuộc sống hòa bình, muốn có được xã
hội như vậy thì phải đấu tranh loại bỏ cái ác cái xấu bảo vệ chân lý. Trong đoạn
trích chúng ta có thể thấy được nhà văn Ngô Tất Tố đã ngợi ca, yêu thương số
phận và những hành động của chị Dậu, cổ vũ tiếp thêm sức mạnh để chị Dậu và
những người nông dân có thể đứng dậy dân lại cuộc sống của mình . Chúng ta
có thể thấy được những câu văn của Ngô Tất Tố là ánh sáng lên lói giữa đêm
trường u tối , dẫn dắt người nông dân đến với hòa bình tự do .
Nhận định” nhà văn phải viết hơi lên ở con người niềm trắc ẩn ý thức
phản kháng cái ác cái Khát Vọng khôi phục và bảo vệ những điều tốt đẹp” là
hoàn toàn đúng . Chúng ta có thể thấy được khi cả nỗi lòng của tác giả và những
mong muốn của nhà văn . Hơn nửa thế kỷ trôi qua những tiếng kêu ai oán của
chị Dậu mãi là nỗi ám ảnh của bảo thế hệ nhưng hành động phải phản kháng
trước cái ác để bảo vệ công bằng, bảo vệ cuộc sống đã khiến người đọc báo thế
hệ cảm phục và ngưỡng mộ . Hành động của chị Dậu giúp ta nhận ra một điều:
sức mạnh của một con người không phải nằm ở cơ bắp, mà ở tinh thần, nghị lực
và khát vọng sống

BÀI LÀM SỐ 16
Đề bài: Elasa Trisole, nhà văn Pháp quan niệm: “Nhà văn là người cho
máu.” Em hiểu như thế nào ý kiến trên? Bằng một tác phẩm đã học trong
chương trình ngữ văn 8 hãy làm sáng tỏ.
BÀI LÀM
“Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại”. Nhà văn chính là
người phản ánh hiện thực mọt cách chân thật, là người truyền cảm hứng, nhiệt
huyết đến mọi người. Chính bởi vậy, người nghệ sĩ phải nhận thức được thiên
chức của mình để lao động sáng tạo như một nhà văn chân chính. Vì vậy, elasa
trisole, nhà văn pháp từng quan niệm: “ Nhà văn là người cho máu”. Điều đó
được thể hiện qua tác phẩm Ông Đồ của Vũ Đình Liên.
Vậy “nhà văn” là gì? Nhà văn là chủ thể của quá trình sáng tác, là người
sáng tạo ra tác phẩm văn học; nhà văn đóng vai trò quan trọng bởi lẽ không có
nhà văn thì không thì không có tác phẩm và đương nhiên cũng không có nền
văn học. Vậy còn “cho máu” nghĩa là gì? Chính là truyền nhiệt huyết tình yêu
đến bàn đọc. Câu nói của elasa trisole khẳng định thiên chức, trách nhiệm của
người nghệ sĩ là truyền nhiệt huyết và tình cảm đến bạn đọc. Hãy khám phá
máu mà Vũ Đình Liên truyền đến cho bạn đọc qua tác phẩm Ông Đồ để hiểu rõ
hơn.
Trước hết, “máu” mà nhà thơ Vũ Đình Liên đem đến cho bạn đọc là tình
yêu thương con người sâu sắc. Đó là niềm hân hoan trước thời vàng kim của
Ông Đồ.
“Bao nhiều người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Mở đầu đoạn thơ là cụm từ “bao nhiêu người”, có lẽ là rất đông, không đếm
được cụ thể số người đến để thyê viết. Khi đó, Ông đồ được người ta tìm đến và
ông có dịp trổ tài. Trong không khí tưng bừng, rộn rã của ngày Tết, trong sắc
màu tươi thắm của hoa đào, hình ảnh ấy Ông Đồ với màu sắc rực rở của mực
tàu và giấy đỏ thu hút bao người xúm đến. Người ta xúm xíu quanh ông không
chỉ cần thuê viết chữ mà còn thưởng thức tài viết chữ đệp của ông. Mọi người
tấm tắc ngợi khen ông có hoa, nét chữ ông như phượng múa rồng bay. Mọi
người nhìn ông bằng ánh mắt kính phục. Đó là thời kì vàng son của Ông Đồ.
Nhưng các danh dự còn sót lại nhỏ nhoi ấy cũng đâu tồn tại mãi, nó vẫn bị thời
gian khắc nghiệt vùi lấp không thương tiếc:
“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Từ nhưng đặt ngay ở dòng thơ tiếp theo tạo ra một bước ngoặt có phần cay
đắng, tủi thân của sự nghiệp Ông Đồ. Hình ảnh phố xá đông vui nhộn nhịp vẫn
còn, tết đến xuân về vẫn như xưa nhưng người tìm đến ông đồ cứ vắng dần
vắng dần theo thời gian. Giọng thơ như chùng xuống, nhịp thơ cũng chậm lại
như diễn tả đúng cái sự thay đổi kia. Câu hỏi tu từ kia như xoáy sâu vào tâm can
con người đọc bao thế hệ:” Người thuê viết nay đâu?”. Có phải nét chữ Ông Đồ
không còn như trước kia hay là có sự thay đổi nào khác lớn hơn. Tác giả cũng
nhân hóa “giấy đỏ”, “nghiên” biết buồn biết sầu lắng như con người có trái tim.
Nỗi buồn đó cửa ông ddooof không chỉ thấm vào đồ dùng mưu sinh mà còn lan
ra và đi sâu vào tâm hồn mỗi bạn đọc. Đây cũng là một phần nhỏ của máu mà
Vũ Đình Liên gửi đến bạn đọc.
Tình yêu thường con người ấy còn là nỗi đau đớn, xót xa khi ông đồ
vắng bóng hẳn trong cuộc đời:
“ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đườn không ai hay
Lá vàng rợi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Có sự đối lập đầy xót xa giữa các không thay đổi và cái đã thay đổi. Ông Đồ
vẫn ngồi đây như xưa, không có gì thay đổi nhưng cuộc đời lại khác xưa.
Đường phố vẫn đông người qua lại, nhưng qua đường không ai hay không ai
biết đến sự có mặt của ông. Một sự lãng quên tuyệt đối! Ông vẫn kiên trì cố
gắng bám lấy sự sống, vẫn muốn có mặt trong cuộc đời. Hai câu tiếp theo là tả
nỗi lòng, là ngoại cảnh nhưng kì thực là tâm cảnh. Trong thơ gọi đó là phép
mượn cảnh ngụ tình, trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh ông đồ ngồi bên vỉa
hè, lá vàng rơi trên giấy đỏ, không buồn nhặt. Mắt ngơ ngác nhìn ra màu mưa
bụi mịt mờ. Chính hình ảnh lá vàng rơi và mưa bụi bay đã dần lấp đi sự sống
cưa Ông Đồ và chính số phận của ông.
“ Máu” mà nhà thơ gửi đến cho bạn đọc còn là niềm hoài cổ. Câu thơ “
người thuê viết nay đâu” vừa là một câu hỏi tu từ vừa là cảm xúc luyến tiếc khi
một nét đẹp văn hóa truyền thống, nhớ thương về thú vui chơi chữ đã bị tàn. Từ
đó hãy biết cách nâng niu, trân trọng truyền thống với văn hóa của dân tộc
mình. Sự xuất hiện của ông đồ cùng với sự xuất hiện của thú vui tao nhã là
truyền thống dân tộc ta. Nhưng sự xuất hiện ấy chưa được bao lâu thì đã lụi tàn.
Có bắt ông đồ chịu đựng quá chăng khi đặt lên vai ông số phận của nền văn hóa
dân tộc. Tiếc thương cho ông là ngậm ngùi trước sự thảm bại không tránh khỏi
của một lớp người, sự mai một của thú vui tao nhã. Còn toàn bộ nền văn hóa
dân tộc đâu chỉ nằm trong nếp thưởng thức chữ Nho và mất đi thói quen thưởng
thức này đâu hẳn là tiêu tan mất cốt cách tinh thần dân tộc. Dẫu ngậm ngùi
trước sự thất thế rồi triệt tiêu của chế độ học hành,.. và nhà nho trong mấy mươi
năm đầu thế kỉ này chúng ta cũng phải thừa nhận rằng hiện đại văn hóa văn học
là nhu cầu tư thân, là khuynh hướng tất yếu của đời sông tinh thần xã hội khi
được kích thích bởi văn minh Phương Tây. Đó là một bước tiến bộ văn minh.
Từ đây, tác giả thể hiện niềm hoài cổ của mình đến nền văn học và thời bụi tàn
của ông đồ. Đây chính là máu trong tác phẩm ông đồ.
Hình thức nghệ thuạt dặc sắc cũng chính là “ máu” mà Vũ Đình Liên
đem đến cho bạn đọc. Thể thơ ngũ ngôn 5 chữ tạo nên áng văn hay, lãng mạng
cùng với giọng văn trầm lắng buồn bã mà bài thơ ông đồ đã trở thành tác phẩm
hay về hồn lẫn xác. Hòa vào bài thơ là các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh
giúp bài thơ có hình ảnh, trở nê sinh động trowng mỗi câu thơ. Với kết thúc bài
đơn giản nhưng lại sử dụng các câu hỏi tu từ gửi đến trái tim bạn đọc niềm cảm
thương, để lại cho nhân loại tiếng vang lớn. Biện pháp đầu cuối tương ứng là sự
xuất hiện hoa đào và kết thúc cũng là hoa đào. Tinh thân nhân đạo tài năng của
nhà thơ VĐL thể hiện sâu sắc qua nhân vật ông đồ. Sự kết hợp hài hòa giwuxa
nội dung và nghệ thuật tạo nên bài thơ với đầy tình cảm.
Nhận định của elasa trisola là hoàn toàn đúng đắn. Nhà văn chính là sáng
tạo ra tác phẩm và cũng chính là người truyền máu – nhiệt huyết đến cho người
đọc. Mặc dù ra đời đã lâu nhưng tác phẩm Ông Đồ vẫn còn nguyên giá trị, vẫn
đem đến cho bạn đọc nhiều tâm tư tinh cảm đẹp đẽ.

BÀI LÀM SỐ 17
Đề bài: thầy Chu Văn An đã từng nhận định” nhân tố quyết định sự sống
còn Tác phẩm là chiều sâu và sức sống của hình tượng nhân vật” em hãy
làm sáng tỏ nhận định trên

Nguyễn Bính đã từng Than Thở: “anh hào dính vào duyên bút mực suốt
đời mang lấy số long đong” . Tác phẩm văn học là một bức tranh tái hiện lại
một cuộc sống khó khăn của người dân, chị còn người không phải gánh chịu sự
bạt bẽo của văn chương . Nhưng cũng có đôi lúc tác phẩm văn học là nơi để con
người có thể thư giãn, bày tỏ hết cảm xúc của mình . Cuộc đời hiện tại cho dù
khó khăn ,khổ cực khi trong tác phẩm Người dân đốt sống lại , được có một
cuộc sống vui tươi. Vì thế Có ý kiến cho rằng:” nhân tố quyết định sự sống còn
tác phẩm là chiều sâu và sức sống của hình tượng nhân vật “ điều đó được cho
thấy rõ qua tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao
Vậy nhân tố quyết định sự sống là gì ? Nhân tố là một trong những điều
kiện kết hợp với nhau để tạo ra một kết quả , sự sống dựa vào những điều kiện
sống , cuộc sống hiện tại . Còn trong tác phẩm thì nhân vật cho dù phải chịu
nhiều đau đớn của cuộc sống hiện tại thì họ vẫn cảm thấy có sức sống hơn. tác
phẩm như là một thiên đường khác của những con người khó khăn lúc. Cho
thấy được vai trò của văn học nói chung và tác phẩm văn học nói riêng , khẳng
định thiên chức của văn học
Trước hết, tác phẩm lão hạc cho chúng ta thấy được chiều sâu- cuộc sống
vô cùng khốn của lão Hạc . Vợ lão mất sớm, lão phải một mình Gà Trống Nuôi
Con, vợ là một người rất quan trọng trong gia đình nhưng nhưng lào đã mất đi
Đi Một Người quan trọng . Ông phải vừa làm cha vừa làm mẹ để nuôi được
con của mình. Vì không có tiền cưới vợ cho con nên con của lão bỏ thì làm
đồn điền cao su , bỏ lão phải sống một mình, cô đơn , quạnh hiu. Nhưng trước
khi đi con của lão đã để lại cậu vàng cho lão hạc , lão chỉ có cầu vàng làm bạn.
Ông và một người gần đất xa trời nhưng phải xa con mất vợ chỉ còn cậu làm
bạn , ông phải một mình bơ vơ kiếm sống cho bản thân mình. Đặng Lê ở độ tuổi
của ông thì ông phải được hưởng sự hạnh phúc của con cháu nhưng vì hoàn
cảnh khó khăn, éo le nên ông phải chịu đựng nhiều sự bất hạnh . Nhà văn Nam
Cao không hề nhắc đến tài sản nào của lão Hạc như một cách gián tiếp nói lên
cái nghèo đói của lão . Chính lão Hạc Tổ đã từng thốt lên” Cuộc đời như thế
cùng nhỉnh hơn cái kiếp của con chó”. Có lẽ vì cái nghèo khó ngắn Lão Hạc đã
khuất phục trước hạnh phúc riêng của đứa con trai, khiến nó phẩn chí phải đi
đồn điền cao su. Có lẽ khi viết về cuộc sống bận không của lão Hạc nhà văn
Nam Cao cũng như ứa từng giọt lệ, ông đau đớn, nghẹn ngào trước kiếp lầm
than của người nông dân . Chúng ta có thể thấy được cuộc sống hiện tại khó
khăn của lão Hạc, nhân tố mà họ phải chịu . Họ không thể tâm sự với ai được
Nếu như cuộc sống hiện tai của họ không có ai để tâm sự , giải bày thì tác
phẩm văn học sẽ giúp họ có sức sống hơn . Chúng ta có thể thấy được sức sống
của hình tượng Lão Hạc đó chính là tình yêu thương con. Khi nhắc đến con trai
lão lại rân rân Nước Mắt , không kiềm chế được. Lão nói về con một cách đau
đớn và tội nghiệp : thẻ của nó người ta giữ hình của nó người ta giữ … Nó là
người của người ta rồi chứ đâu còn là con của tôi. Còn gì đau đớn hơn khi một
người cha mất đi rồi còn duy nhất của mình, một người cha không lo nổi đám
cưới cho con. Mất đi đuổi con có nghĩa là làm mất đi một niềm vui tuổi già, mất
đi động lực sống và mất đi chỗ dựa . hàng ngày lão chị ăn củ sung, củ rày, bữa
trai , bữa ốc… để giữ tiền lại cho con. Chính bà giáo đã thốt lên: “cho lão chết
là làm làm ở chứ ai làm lau khổ “ và cuối cùng nào đã tìm đến cái chết trong
đau đớn với 30 đồng, ba sàm vừa gửi ông giáo dự với lời trăn trối:” để lại cho
đứa con trai”. Những điều ông thu xếp, nhờ cậy ông giáo thật là chu đáo . Nghĩ
đến con thì cũng luôn mong ước cho con được một cuộc sống yên bình, hạnh
phúc . Lão sẵn sàng bán đi cầu vàng bán đến niềm vui để hi sinh cho đứa con
trai. Lão đã phải sống một cuộc sống vì con , có lúc nào nghĩ kiểu mình chỉ
nhỉnh hơn kiếp con chó , lão đã phải sống trong sự bất hạnh, khổ sở , ông phải
chịu nhiều cay đắng của cuộc sống . Một người ta hệ sinh cả tính mạng cuộc
sống cho con thật là cao cả, cho dù phải chịu nhiều cay đắng nhưng lão vẫn yêu
thương con . Nhờ tác phẩm văn học không chỉ tình yêu thương với con của
lão được sống lại mà tình yêu thương với cậu cần cũng được sâu sắc hơn .
Tình yêu có thể gọi là đẹp nhất là tình yêu thương cậu vàng . Những ngày tháng
tuyệt vời, vui vẻ nhất của lão là những giây phút mà lão được ở bên cậu vàng .
Ông và cậu vàng sống với nhau Trong căn nhà nhỏ , trong mắt của lão thì cậu
vàng là kỉ vật thiêng liêng của đứa con trai để lại, nó là niềm vui duy
nhất, niềm hạnh phúc của ông , giúp lão sống tốt hơn trong cuộc sống khó khăn
như địa ngục. Lúc nào ông cũng chăm sóc chu đáo và cầu vàng, ông luôn quan
tâm nói như con người cháu trong nhà. Có lẽ cậu vàng như nào hình bóng của
con trai bởi vậy lão rất tận tình với cậu, một lúc được ở bên cầu dương như
những cái bất hạnh mà xã hội phong kiến đã ra chắc là ông đã biến mất và chỉ
còn lại những điều vui tươi, hạnh phúc vô bờ bến. Và những lúc Danh ông luôn
trò chuyện với cậu Vàng, Bởi lẽ vì cái xã hội này đầy rẫy những cái xấu xa , độc
ác nên lúc nào ông cũng cảm thấy đau khổ buồn bã , trong những lúc này thì
người có thể làm bớt đi phần nào nỗi buồn cho lão Hạc chính là cậu Vàng. Ông
có lời tâm sự, giải bài những suy tư, những nỗi đau ẩn giấu trong lòng của mình.
Ông chồng thấy niềm vui, động lực, sự ủi ở nơi cầu vàng . Cầu vang Là nơi chỗ
dựa tinh thần, là nơi để ông bộc lộ hết nỗi đau của mình . Ông luôn mơ ước
được ở bên Cầu Vàng , đó là niềm Ước Mơ Nhỏ Nhoi , vô cùng đơn giản nhưng
rồi niềm khát khao đó cùng biến mất đi trong giây phút ông bạn đi cầu vàng.
Những năm tháng bình yên giờ đã biến mất đi và còn lại những nỗi u ám, đen
tôi trong lòng Lão Hạc . Không đơn thuần là Lão Hạc bản chế cầu vàng mà lão
bán luôn cả niềm vui ,hạnh phúc của bản thân mình. Trước kia sống trong vui
vẻ nhưng bây giờ ông phải sống trong ân hận dây dứt, tội lỗi vì đã trở lừa cậu
vàng . Cầu vàng chỉ là một nhân vật phụ trong tác phẩm Những qua cho ta thấy
được những vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, đẹp đẽ của lão hạc
Qua văn bản ta không chỉ thấy tình yêu thương của lão Hạc được sống dậy
mà lòng tự trọng của lão cũng được có thêm sức sống hơn . Trong truyện ngắn
của nam cao cái đói và miệng Ăn thường trở thành một nỗi ám ảnh đối với nhân
vật, có khi làm tha hóa, biến chất nhân cách của nhân vật, cũng giống như nhân
vật Chí Phèo, bà cụ Tứ, Binh tư . Nhưng cái đói và miệng Ăn không vùi dập
được vẻ đẹp tâm hồn của lão Hạc ngược lại nó làm cho nhân cách của lão sáng
ngời hơn bao giờ hết. Trước hết là thể hiện lòng tự trọng đối với đứa con trai
của mình, dù còn tiền , còn đất , còn tài sản nhưng lão phải ăn quả sung của
giấy củ khoai bưởi rau Vợ ngốc để dành dụm tiền cho con, lão không muốn trở
thành một người cha vô trách nhiệm chỉ biết ăn dần và Sống Mòn và cuối cùng
lại chọn cái chết không ngoài mục đích cũng là vì đứa con của mình. Với ông
giáo lão từ chối mọi sự giúp đỡ như một cách hách dịch. Lào không muốn vì ba
miếng ăn mà trở thành một lão già tội nghiệp, được bố thí , cũng không muốn vì
miếng ăn mà mất đi thiện cảm trong con mắt và giáo, dân gian đã có câu miếng
ăn là miếng nhục có lẽ đúng với Lão Hạc trong hoàn cảnh này. Dân gian có câu
chết thì hết Nhưng với lão Hạc vẫn muốn để lại một chút thiện cảm trong lòng
của xóm làng cho nên ông gửi lại 30 đồng bạc như hàng xóm lo hậu sự khi nhỡ
chết đi. Trong khi cái đói và miệng Ăn luôn đe dọa, trở thành một nỗi ám ảnh
của biết bao người dân trong xã hội cũ thì lão Hạc như một điểm sáng giữa đêm
tối ấy. Từ trọng với con, với ông giáo , với hàng xóm là điều bình thường với
người đọc Nhưng giữ lòng tự trọng trước một con chó Đã bán làm cho Nhân
cách lại trở nên sáng ngời hơn. Lão luôn luôn đau đớn với một điều” con chó
nhìn Lào như tỏ vẻ trách móc , giận hờn “ vì trót lừa một con chó. Phải chăng
Lão Hạc chọn cái chết đau đớn , giữ đội như một phần tạ lỗi
Để giúp tạo phẩm đi vào trong lòng người đọc, làm sâu sắc, góp phần
sức sống cho hình tượng nhân vật thì nhà văn NAM CAO đã sử dụng thành
công các biện pháp nghệ thuật. Cách kể chuyện hấp dẫn độc đáo lôi cuốn khiến
người đọc thích thú , nghệ thuật miêu tả khắc họa tâm lý tính cách nhân vật,
ngôn ngữ giàu tính gợi hình gợi cảm
Nhận định trên là hoàn toàn đúng. Chúng ta có thể thấy được cho dù cuộc
sống hiện tại vô cùng khốn khổ, bất hạnh thì văn chương sẽ giúp cho mọi người
xóa tan đi những cái kho khăn đó . Trong văn chương thì con người được sống
với chính bản thân mình , không bị ép buộc, trong những tp thì chúng ta cũng
thấy được những vẻ đẹp tâm hồn của họ sống dậy , họ được tiếp thêm sức sống

BÀI LÀM SỐ 18
Một kết thúc bất ngờ bao giờ cũng chứa đựng sự kịch tính và sự thú vị, đặc
biệt sẽ gây ấn tượng mạnh và sự liên tưởng sâu xa, tạo cho tác phẩm có tiếng
vang lớn . chứng minh nhận định trên bằng tác phẩm Lão Hạc .
Bài Làm
Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thưc tế và trang sách. Nhưng cuộc
sống cũng bi thảm biết bao, cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn, cái nên thờ còn
lóng lánh giọt nước mắt ở đời ( Nguyễn Văn Thạc ) Có thể nói , Khi viết về
nhân dân , Nam Cao như “ứa từng giọt lệ” Ông đã tái hiện về một cuộc đời cay
đắng bất công bởi truyện ngắn cùng tên “Lão Hạc” , để rồi ,kết thúc truyện thật
dữ dội , bất ngờ nhưng cũng thật êm đềm sâu sắc , để lại nỗi ám ảnh với người
đọc suốt hơn 80 năm qua với cái chết bi thảm , đau thương! Bởi thế , có nhận
định cho rằng : “ Một kết thúc bất ngờ bao giờ cũ chứa đựng sự kịch tính và sự
thú vị, đặc biệt sẽ gây ấn tượng mạnh và sự liên tưởng sâu xa, tạo cho tác phẩm
có tiếng vang lớn.”
Trước hết , kết thúc bất ngờ là kết thúc người đọc không ngờ đến, tạo ra
một sự hấp dẫn . Ý nghĩa của nhận định : Một kết thúc bất ngờ bao giờ cũ chứa
đựng sự kịch tính và sự thú vị, đặc biệt sẽ gây ấn tượng mạnh và sự liên tưởng
sâu xa, tạo cho tác phẩm có tiếng vang lớn là muốn nói rằng , kết thúc của một
câu truyện thường thể hiện sự thành công của tác phẩm và tài năng của tác giả .
Kết truyện bắt đầu từ lúc ông giáo sang nhà binh tư xin bã chó về và nói
rằng để đánh bã chó nhà nào đó để giết thịt , từ đó mọi ánh mắt với lời dị nghị
đều hướng về phía lão Hạc ngay cả ông giáo cũng hiểu lầm lão . Nhưng ai biết
rằng sau đó , ông Giáo đã dùng chính bã chó đó để kết liễu cuộc đời của ông.
Cái chết vật vã , đau đớn giữ dội của Lão Hạc đã làm cho ông Giáo và Binh Tư
vỡ lẽ rằng lão không hề tha hóa và chỉ có Binh Tư và ông Giáo mới hiểu rõ cái
chết của lão.
Kết truyện của tác phẩm Lão Hạc rất bất ngờ , có thể nói kết truyện đã
gây bất ngờ lớn với người đọc, với ông giáo. Sự bất ngờ của cái chết càng làm
cho câu chuyện thêm căng thẳng, thêm xúc động. Mâu thuẫn bế tắc được đẩy
lên đến đỉnh điểm và kết thúc một cách bi đát và tất yếu .Khi Lão sang nhà Binh
Tư để xin Bã chó có lẽ đó là lúc lão đã xác định được cái chết đau đớn của
mình. Lão đã nói xin bã chó về để đánh bã chó , ngay cả người đọc cũng rất bất
ngờ , trời ơi , lão Hạc đó ư? , một người đã từng từ chối lời mời gọi đường đi
xấu xa của binh Tư , một người đã từng từ chối sự giúp đỡ của ông giáo một
cách hách dịch. Hành động và lời nói của lão không chỉ khiến người đọc , Binh
Tư bất ngờ mà đến cả ông Giáo , người bạn thân chí cốt của lão cũng rất chi là
ngạc nhiên ! Nhưng đâu ai biết rằng lời nói và thái độ của lão Hạc chỉ là sự che
đậy ý dịnh bên trong của Lão. Giữa lời nói bên ngoài nó đối lập với ý định bên
trong của lão , và điều đó được thể hiện bằng cái chết dữ dội của lão . Đâu ai
biết rằng , lão xin bã chó để tự tử , để kết liễu những chuỗi ngày đau khổ . Với
hành động và lời nói của lão Hạc , người ngoài họ nghĩ rằng lão Hạc đã hoàn
toàn tha , hóa biến chất thật rồi , nhưng bất ngờ thay , sự thật lại không phải là
như thế mà thực ra , nói đúng hơn , Lão làm thế là để lão được giải thoát sau
bao tháng ngày cùng cực, đau khổ. Đồng thời đoạn kết của Truyện ngắn cùng
tên còn thể hiện một triết lí sâu sắc của nhà văn Nam Cao : Đừng nhìn người
bằng vẻ bên ngoài để đánh giá , quy kết mà hãy nhìn họ bằng con mắt bằng tấm
lòng sâu thẳm bên trong thì mới thấy hết được vẻ đẹp, nhân cách sáng ngời của
họ .
Kết thúc truyện Lão Hạc gây ấn tượng và sự liên tưởng sâu xa , tạo cho
tác phẩm có sức vang lớn. Lão đã kết liễu cuộc đời mình bằng bã chó, có thể
nói đó là một cái chết dữ dội và đau đớn nhất , “ Lão vật vã trên giường , đầu
tóc rũ rượi … chốc chốc lại giật nảy lên,Lão tru tréo, bọt mép sùi ra” , bấy nhiêu
cụm từ đó đã khiến cho ta ấn tượng cái chết cuả lão Hạc . Tác giả đã liên tiếp sử
dụng các từ láy gợi hình , gợi cảm , nó khiến cho ta hình dung được một lão
Hac sắp chết . Đó là cái chết của người do bị trúng độc bả chó. Bất giác, em có
cảm tưởng như không phải cách chết của một con người bình thường mà là cách
chết như của một con chó.Có lẽ , cái chết đau đớn mà dữ dội như muốn liên
tưởng sâu sắc đến lời thanh minh , chuộc tội với Cậu Vàng . Lão không chọn
cách chết nào khác mà chết như cách chết của một con chó ăn phải bả, bởi với
lão đến tận lúc chết, ám ảnh về cậu Vàng, về việc mình đã trót lừa một con chó
vẫn day dứt lương tâm lão. Lão đã chọn một cách giải thoát đáng sợ nhưng lại
như một cách để tạ lỗi cùng cậu Vàng. Lão Hạc yêu thương con chó như con
trai nhưng lại nỡ lừa bán nó đổ cho thằng Mục giết thịt, thì lão cũng phải tự
trừng phạt mình, tự chịu hình phạt như một con chó chết vì ăn phải bả. Lão Hạc
chết trong đau đớn, vật vã ghê gớm về thể xác nhưng chắc chắn lão lại thanh
thản về tâm hồn vì đã hoàn thành nốt công việc cuối cùng với đứa con trai vẫn
“bặt vô âm tín” với hàng xóm láng giềng về tang ma của mình. Lão chết để giữ
phần ấm cho con, để giữ lại hi vọng cho người con duy nhất đang ở nơi xa của
mình. Cái chết của lão là biểu hiện cao nhất của tình phụ tử thiêng liêng, của
đức hi sinh cao cả.
Cái chết của Lão Hạc đã gây một âm vang lớn cho nền văn học Việt
Nam . Văn học về những con người bị áo cơm ghì sát đất, phải sống tha hoá,
sống kiếp sống mòn, của những cảnh đời bị đẩy vào bước đường cùng không lối
thoát,… Nước mắt và cái chết có thể coi là những hình ảnh quen thuộc của văn
học hiện thực phê phán 1930 – 1945. Mô típ ấy ám ảnh nhiều trong sáng tác của
nhà văn Nam Cao : Chí Phèo chết trên vũng máu của chính mình ngay trong khi
khát vọng trở về với cuộc đời bị dập tắt; Lang Rận, Mụ Lợi tự tử trong sự ghẻ
lạnh, đàm tiếu của người làng ; và bà cụ Tứ chết vì một bữa no duy nhất của
cuộc đời,… nhưng đối với cái chết của Lão Hạc , Nam Cao đã hoàn toàn đặt
một niềm tin lớn , mãnh liệt vào vẻ đẹp phẩm chất của con người , dù chết chứ
không chịu tha hóa biến chất , thà chết nhưng trọn đạo , thà hi sinh để giữ lấy
lòng yêu thương , giữ lấy trọn nhân phẩm của mình. Ấy thế , ông Giáo đã từng
nói “ Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn ” là vì thế. Có lẽ , tác giả còn thể hiện
một nỗi đau đớn, xót xa trước tấm bi kịch của con người : người dân bị chèn ép,
bị bần cùng hóa , buộc họ phải tìm đến cái chết bi thương và bế tắc . Nguyễn
Bỉnh Khiêm có nói rằng : “ Khi viết về người nông dân , Nam Cao như ứa từng
giọt lệ ” là vì thế .
Cái chết của Lão Hạc một mặt góp phần bộc lộ tính cách và số phận của
Lão Hạc, cũng là một điển hình sắc nét của số phận và tính cách của người
nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám : nghèo khổ, bế tắc, nhưng
giàu lòng tự trọng , không tha hóa và có mọt lòng yêu thương cao cả, mặt khác,
cái chết của Lão Hạc cũng có ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội thực dân nửa
phong kiến đã đẩy những con người lương thiện vào bước đường cùng, phải
chấp nhận cái chết như cách duy nhất kết thúc cuộc đời nhiều đau khổ. Cái chết
của lão cũng giúp những người xung quanh lão hiểu con người lão hơn.
Kết thúc truyện còn thể hiện một tài năng Nghệ Thuật của Nam Cao . Trước hết,
ta thấy Nghệ thuật xây dựng nhân vật chủ yếu là qua nhân vật Lão Hạc : Bằng
phương pháp đối lập, nhà văn tạo vẻ bề ngoài cho Lão Hạc dường như lẩm cẩm
, Hách Dịch , đôi lúc bị nghi ngờ là “phương heo thuốc chó” nhưng bên trong
lại là một người có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý , sâu sắc , đáng kính trọng. Không
những thế ,cách xây dựng cốt truyện của nhà văn Nam Cao quả thật là tài năng ,
chân thực và sinh động . Ông dẫn người đọc vào mạch truyện đầy khéo léo, bất
ngờ , gay cấn, gây cảm xúc căng thẳng cho người đọc và tâm lý nhân vật qua
từng tự kiện trong truyện. Ngôn ngữ của truyện cũng góp phần không thể thiếu
của tác phẩm . Truyện được viết với nghệ thuật ngôn ngữ cô đọng , nét nỏi bật
là ngôn ngữ đối thoại và độc thoại đầy chất trứ tình mang đầy tâm tư tình cảm ,
suy nghĩ tâm trạng của nhân vật . Nghệ thuật đóng vai trò quan trọng nhất đó
là Nghệ thuật kể truyện thể hiện được tài năng của tác giả . Câu truyện được kể
theo lời dẫn của nhân vật “tôi” ( Ông Giáo)- người tham gia câu truyện và
chứng kiến sự việc diễn ra. Điều này lam cho câu truyện thêm chân thật , gần
gũi với người đọc . Đồng Thời việc chọn vai kể này việc dẫn dắt câu chuyện sẽ
tự nhiên và linh hoạt hơn . Cũng vì thế , câu chuyện được kể với nhiều giọng
điệu hơn. Người kể có thể vừa kể , vừa bộc lộ được hết tình cảm , suy nghĩ của
mình việc miêu tả diễn biến tâm lí của nhân vật rất tự nhiên , hợp lí . việc tạo
tình huống truyện bất ngờ nhằm lôi cuốn người đọc và dễ dàng trình bày triết lí
sâu sắc về cuộc sống của tác giả
Ta có thể khẳng định rằng , nhận định : “Một kết thúc bất ngờ bao giờ cũng
chứa đựng sự kịch tính và sự thú vị, đặc biệt sẽ gây ấn tượng mạnh và sự liên
tưởng sâu xa, tạo cho tác phẩm có tiếng vang lớn” là đúng . Đồng thời , còn
khẳng định được một tài năng , thiên chức của người làm nghệ thuật là cảm
thông , đồng cảm về hoàn cảnh người nông dân , và hướng người nông dân về
một thế giới yên bình , tự do , ấm no. Qua những tác phẩm của Nam Cao , có lẽ
đây là tác phẩm truyện ngắn thành công nhất về cả giá trị nghệ thuật đặc sắc ,
lẫn giá trị nhân đạo sâu sắc Dù thế , nhưng cái chết của Lão Hạc vẫn là nỗi ám
ảnh hơn bao giờ hết cho bao thế hệ bạn đọc. Và em tin rằng , Truyện ngắn cùng
tên của Nam Cao sẽ vẫn mãi đồng hành với bao bạn đọc , với thời gian
BÀI LÀM SỐ 19
Đề bài :Nhà văn Nga Le-o-nit le-o Nóp từng cho rằng :“Một tác phẩm văn
học là 1 phát minh về hình thức và khám phá về nội dung ”.Em hãy làm
sáng tỏ nhận định trên qua văn bản ông đồ của Vũ Đình Liên.
Bài làm
Xuân Diệu đã từng cho rằng :“Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài
”.Thật vậy, 1 tác phẩm hay là tác phẩm mới mẻ về cả nội dung, tư tưởng và độc
đáo về hình thức nghệ thuật. Đó là 1 áng văn chương kết hợp hài hòa giữa 2 vực
thu hút :“ nội dung và hình thức”.Vì thế, khi đánh giá về điều này nhà văn Nga
Le-o-nit le-o Nóp từng cho rằng :“Một tác phẩm văn học là một phát minh về
hình thức và một khám phá về nội dung. ”Và một lần nữa Vũ Đình Liên đã để
“Ông đồ ”của mình trở thành nốt ngân đầy sáng tạo trong bản hòa tấu văn học
Việt Nam.
Vậy, tác phẩm văn học là gì? Là những sáng tác của các nhà thơ, nhà văn
viết ra nhằm phục vụ cuộc sống tinh thần của đọc giả .Còn hình thức là gì ? Đó
là các hình thức nghệ thuật dùng trong những tác phẩm văn học như thể
thơ,nhịp điệu,giọng thơ,các phép tu từ...Nội dung lại là gì? Là chủ đề,ý nghĩa,tư
tưởng,tình cảm tốt đẹp mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm của mình. Ý kiến
trên đề cập đến giá trị của một tác phẩm chân chính là vừa phải mang nét mới
mẻ về các hình thức nghệ thuật,vừa phải mang dấu ấn đặc sắc về nội dung,tư
tưởng .Và một nội dung xác định cũng quy định cả hình thức tương ứng với nó.
Tác phẩm ông đồ của Vũ Đình Liên là tác phẩm chứa đựng hai giá trị độc đáo
này.
Trước hết,“Ông đồ”là 1 tác phẩm đặc sắc về nội dung.Đây là bài thơ
dạt dào tình yêu thương. Đó là niềm hân hoan,hạnh phúc của nhà thơ trước
thời“vàng son”của ông đồ. Xuân đã về,sự xuất hiện của ông đồ như một tiêu
điểm :
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “ hoa đào nở ”,1 hình ảnh đặc trưng, dùng dấu
hiệu để chỉ mùa xuân đang về .Cụm từ “mỗi năm” chỉ sự quen thuộc, gần gũi,
thường xuyên lặp lại của mùa xuân,đó chính là sự luân chuyển của trời đất trong
suốt 4 mùa xuân,hạ,thu,đông.Nhưng mỗi mùa xuân về phải chăng có điều gì
khiến người ta trông đợi? Đó không phải là ông đồ hay sao! Ông đồ đã trở thành
1 hình ảnh không thể thiếu vào mỗi dịp tết đến xuân về. Và đồng hành với ông
suốt chặng đường cho chữ phải nhắc đến “mực tàu,giấy đỏ ”,2 dụng cụ dùng để
viết nên “chữ thư pháp ”.Cùng với ông đồ, màu sắc của giấy và mực đã tô thắm
thêm nét đẹp của một phiên chợ tết truyền thống ở làng quê Việt Nam. Chắc có
lẽ vì bản thân là 1 nhà Nho nên ông đồ hẳn là con người rất tinh tế, sắc sảo, ông
đã tự chọn cho mình vị trí “bên phố đông người qua”,đấy là 1 khoảng không
gian đông đúc chắc hẳn chữ ông đồ sẽ bán rất chạy! Những sự xuất hiện ấy đã
đánh dấu thời kì vàng son của ông đồ :
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Ông đồ tinh tế, tài năng như thế thử hỏi sao không có nhiều “khách ”,cụm từ
“bao nhiêu người ”chỉ số lượng nhiều người, không thể đếm được. Đấy thật sự
là một niềm vui lớn của ông đồ, không phải vui vi chữ “tiền ”mà vui vì nền Nho
học đang thịnh hành, tài năng của mình được người đời đón nhận .Họ không chỉ
trân trọng, nâng niu nét chữ ấy mà còn“ tấm tắc ”khen ngợi, ngưỡng mộ tài
năng của một bậc thánh hiền _ông đồ. Ông đồ bấy giờ được tôn vinh, trở thành
trung tâm của mọi ánh nhìn, chữ ông được người ta biết đến với cái tên “chữ
thánh hiền ”.Tác giả đã sử dụng thành ngữ “phượng múa rồng bay”để so sánh
với nét chữ của ông đồ,nó đã làm hiện lên vẻ đẹp thanh thoát, bay bổng, tựa
rồng, tựa phụng trong chữ thư pháp. Chắc có lẽ khi đặt bút viết lên những dòng
chữ ấy ông đã đặt vào đó một tình cảm rất đặc biệt nên nhìn vào đây ta như tìm
thấy khoảng không của một tâm hồn đang rung động. Và chắc hẳn khi viết về
ông đồ nhà thơ Vũ Đình Liên không khỏi tự hào, phấn khởi, hạnh phúc vì một
thuần phong mỹ tục đang hiện hữu trước mắt mình.
Đó còn là cảm xúc xót xa, niềm thương cảm của nhà thơ khi ông đồ vắng
khách. Khung cảnh cũng đìu hiu, vắng vẻ dần đi :
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Từ “nhưng ”vang lên như một tiếng thở dài ngao ngán, nó đánh dấu một sự
chẳng lành, một nỗi buồn đang hiện hữu trước cuộc đời của ông đồ. Giờ đây
khách của ông “mỗi năm mỗi vắng ”,cứ thưa thớt dần rồi vắng bóng,người tìm
đến với ông đồ chỉ còn là sự“thương hại ”.Chắc có lẽ “cuộc bể dâu ”của ông đồ
đều bắt nguồn từ khi nền văn minh Âu hóa du nhập vào nước ta,biến những nét
đẹp văn hóa “chơi chữ ”trở thành dĩ vãng. Chứng kiến nỗi buồn ấy tác giả đã
đặt ra 1 câu hỏi tu từ :“người thuê viết nay đâu ?”,câu hỏi ấy vang lên trong vô
vọng, không một ai trả lời rồi mất hút trong màn làn mưa bụi. Nó cứ văng vẳng
trong lòng ông đồ để rồi cái nỗi cô đơn niềm sầu buồn cứ đeo bám mãi không
buông.Nỗi buồn thê lương đó có mấy ai hiểu được, ấy vậy mà “mực và giấy
”chỉ là vật vô tri vô giác khi nhìn thấy một kiếp người sắp lụi tàn cũng rung
động, cảm thông, chia sẻ. Vì bởi lẽ, không ai đến tìm ông đồ xin chữ nữa thì
chúng cũng chẳng còn giá trị, cũng chỉ được coi là “đồ bỏ đi”trong mắt con
người. Đọc đến đây ta không khỏi ngậm ngùi, xót xa,thương thay cho cả một
kiếp người suốt đời chỉ biết mang niềm vui cho đời mà đến cuối cùng cùng chỉ
được coi là “cái di tích tồi tàn ”.Ông đồ bấy giờ phải sống trong nỗi buồn hiu
quạnh rồi bản thân ông cũng nhòa đi cùng năm tháng :
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.
Hình ảnh ông đồ “vẫn ngồi đấy ”khiến lòng người ta phải chua xót,dường như ở
ông có 1 sự kiên nhẫn đến lạ thường. Mặc cho dòng thời gian tàn phá, ông đồ
vẫn cố níu giữ con người người,cố bám lấy xã hội. Vì ông tin tưởng một nét đẹp
văn hóa do con người gây dựng từ ngàn đời nay sẽ không dễ dàng biến mất con
người sẽ không vô tình đến mức đẩy một kiếp sống vào ngõ cụt. Nhưng càng hi
vọng, chờ đợi bao nhiêu thì con người lại đổi cho ông đồ sự vô tâm “qua đường
không ai hay”.Ông đồ bấy giờ không còn tồn tại trong tâm thức của con
người,để rồi đến cả những lời khen ngày xưa cũng không bù vào đâu vết thương
lòng trong sâu thẳm trái tim ông đồ. Mọi năm xuân về cây cối đều xanh mơn
mởn nhưng năm nay lạ thay“ lá vàng rơi trên giấy ”,chắc hẳn thiên nhiên cũng
xót xa,cảm động trước hoàn cảnh hiu hắt,vắng lặng của ông đồ.Hình ảnh “mưa
bụi bay” chỉ là thời tiết bình thường trong tiết xuân nhưng nó lại làm ông đồ
như nhòa đi cùng thời gian,nhòa đi trong tâm thức những vị khách đến xin chữ
ông ngày xưa.Nỗi buồn thê lương của ông đồ đã làm rung động cả cảnh vật,điều
đó cũng chẳng khó hiểu vì bởi lẽ “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”
Không chỉ vậy,đó còn là niềm đau đớn,xót xa,ân hận khi ông đồ mất hút
cùng với thời gian :
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Một sự lặp lại hiển nhiên của tạo hóa “đào lại nở ”,mùa xuân lại về nhưng năm
nay rất khác biệt “không thấy ông đồ xưa ”.Ông đồ đã thực sự ra đi,chấp nhận
đầu hàng trước thời gian, mà phải chăng ông có chờ đợi,có mong mỏi thì xã hội
thì xã hội hiện đại ấy có tìm đến ông không?Bấy giờ ông đồ đang cố bám lấy xã
hội nhưng con người cứ điên cuồng chạy theo dòng hiện đại rồi buông rơi ông
một cách vô tình ,để rồi khi ngoảnh đầu nhìn lại thứ họ đi không chỉ là ông đồ
mà họ còn vứt đi cả 1 nét đẹp văn hóa của dân tộc.Bóng dáng của ông đồ đã
hoàn toàn mất hút cùng với thời gian,ta nên hiểu rằng sự kiên nhẫn của 1 con
người cũng cần nhận được sự đón nhận từ mọi người xung quanh, ấy vậy mà có
ai lắng nghe,đồng cảm với ông đồ đâu!Để rồi nhà thơ đặt ra câu hỏi tu từ cho“
những người muôn năm cũ”,cho những thế hệ nhà Nho xưa “Hồn ở đâu bây giờ
”.Nếu ngày xưa ông đồ được tôn trọng,ngưỡng mộ thì bấy giờ tài năng,tâm
huyết của ông chỉ còn tồn tại trong dĩ vãng,ngay cả tác giả cũng không biết
“hồn” của ông đồ có còn hiện hữu nữa không? Ông đồ bấy giờ chỉ được coi là
“Cái di tích tiều tụy của một thời tanf”.Đau đớn thay!Tiếc thương thay! 1 mĩ tục
tốt đẹp của dân tộc được con người gây dựng từ ngàn năm nay đến cuối cùng lại
bị hủy hoại bởi con người.Bây giờ ta mới hiểu việc điên cuồng chạy theo dòng
hiện đại lại vô tình để mất cả 1 thời đại.
“Ông đồ ” không chỉ là bài thơ mang nặng lòng thương người mà còn thấm
đẫm tình hoài cổ ”Niềm hoài cổ ở đây là nhớ về quá khứ vàng son của ông
đồ,nhớ về một nét đẹp văn hóa của dân tộc. Trước đây,thú vui chơi chữ,mua câu
đối treo vào mỗi dịp Tết rất được ưa chuộng,đây được coi là một thú vui tao
nhã,thời thượng.Đây là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với người xưa,chữ
thư pháp được xem là vật mang lại may mắn,phú quý cho gia chủ.Bởi vậy ta
không khỏi nhớ về thời kì ông đồ được trọng vọng, “tấm tắc ngợi khen tài ”,ông
được mọi người tôn trọng, ngưỡng mộ,khen ngợi hết lời.Chắc có lẽ đối với
người xưa chữ ông đồ là một món đồ trân quý,món đồ của những bậc vĩ nhân
uyên bác.Nỗi nhớ nhung ấy rất da diết nhưng lại đi cùng nỗi buồn tiếc nuối của
thời đại.Không chỉ nhớ về thời kì vàng son của ông đồ,tác giả còn gợi cho ta nỗi
nhớ nền Nho học ngày xưa.Thời kì ông đồ được trọng vọng cũng là lúc nền Nho
học đang thịnh hành,chế độ thi cử,khoa bảng được đề cao.Chữ Nho xưa không
phải là chữ Quốc ngữ nhưng nó lại là chữ viết phổ biến, được dùng để dạy học
rộng rãi khắp nơi và đa số các nhà văn,thơ lớn của nền văn học Việt Nam là
những nhà Nho.Nhưng ngày nay chữ Quốc ngữ thay thế,con người cũng chạy
theo nền văn hóa hiện đại,chữ Nho và thú vui chơi chữ cũng chỉ còn là nỗi nhớ.
“Ông đồ ”không chỉ là bài thơ đặc sắc về nội dung mà còn mới mẻ về
cả hình thức nghệ thuật
Nhận định của nhà văn Nga Le-o-nit le-o Nóp là hoàn toàn đúng đắn.“Ông
đồ ”là một bài thơ kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức nghệ thuật ,đó là
1 bài thơ vừa mang nặng lòng thương người và tình hoài cổ,vừa mang những
nét đặc sắc về nghệ thuật. Đây quả là một tứ thơ chở tải nỗi lòng trong sâu thẳm
trái tim tác giả. Dù bài thơ đã ra đời rất lâu nhưng cho tới nay người đời vẫn coi
“Ông đồ ”là một kiệt tác của Vũ Đình Liên _Nhà thơ của tình thương và sự hoài
niệm.

BÀI LÀM SỐ 20
Đề bài:Trong nguồn mạch cảm xúc của phong trào Thơ mới len lõi một thứ
tình cảm đáng quý: tâm sự yêu nước thầm kín, thiết tha( Hà Minh Đức). Em
hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua một số tác phẩm đã học.
Bài làm
M.Gorki đã cho rằng:" Thơ chính là tâm hồn". Đúng vậy! Thơ ca đối với các
thi nhân là người bạn, là đứa con tinh thần mà họ có thể thoải mái bộc lộ các
tâm tư, tình cảm thầm kín và trong Thơ mới đâu đó vẫn đang len lõi một thứ
tình cảm đáng quý. Vì vậy, có ý kiến cho rằng :" Trong nguồnavhj cảm xúc của
phong trào Thơ mới len lõi một thứ tình cảm đáng quý: tâm sự yêu nước thầm
kín, thiết tha". Điều đó được thể hiện sâu sắc qua các bài thơ Khi con tu hú, Quê
hương, Cảnh khuya.
Trước hết, qua bài thơ Khi con tu hú, tâm sự yêu nước của nhà thơ Tế
Hanh được thể hiện sâu sắc qua tâm trạng uất hận của nhà thơ trong cảnh
tù đày:
"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !"
Khổ thơ là lời bộc lộ tâm tư con người. Bốn câu cảm thán là sự dồn nén những
cảm xúc mãnh liệt của một trái tim đau khổ, uất hận vì mất tự do. Nhà thơ nghe
hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy. Hè đã đến, ba tháng trong
ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy
mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên đường, tiếng gọi của tự do. Các động từ mạnh:" đạp
tanphòng","chết uất" thể hỉu sự uất ức, tù túng của người tù cách mạng, qua đó
còn gợi khát vọng tự do của tác giả. Ở khổ thơ cuối, vần trắc được sử dụng
nhiều hơn, cụm từ "ta nghe hè dậy bên lòng" sử dụng thành công phép ẩn dụ
chuyển đổi cảm xúc. Một loạt từ cảm thán"ôi","thôi", "làm sao" càng nhấn
mạnh hơn niềm khát khao được thoát khỏi cảnh tù đày đang sôi sục trong lòng
nhà thơ. Ở khổ thơ này, tác giả còn sử dụng phép tu từ đầu cuối tương ứng,
tiếng chim tu hú được lặp lại hai lần ở câu mở đầu và câu kết thúc tạo ra sự
logic. Mở đầu bài thơ, tiếng chim tu hú kêu nhắc cho tác giả mùa hè đã tới và
khiến cho nhà thơ thấy vui khi nghĩ đến cảnh vật vào mùa hè của quê hương,
đây nước nhưng về cuối bài thơ, càng nghe tu hú kêu tác giả càng căm hận cảnh
tù đày, thúc giục nhà thơ trở về cuộc sống tự do. Con chim tu hú càng kêu càng
giục giã nhà thơ, khát vọng tự do càng cháy bỏng, mãnh liệt. Có lẽ vì vậy mà ba
năm sau,Tố Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn ước nguyện cống
hiến tất cả cuộc đời cho cách mạng.
Với bài thơ Quê hương, tâm sự yêu nước thầm kín, thiết tha của Tế
Hanh được thể hiện sâu sắc qua tâm trạng, tình cảm yêu quý, thương nhớ
hình bóng quê hương:
"Nay xa cách long tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh,cá bạc,chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá."
Điệp ngữ"nhớ" làm cho giọng thơ thiết tha, bồi hồi, sâu lắng. Dù xa quê nhưng
nhà thơ vẫn luôn nhớ về:" màu nước xanh" của sông, biển làng chài, nhớ"cá
bạc","chiếc nuốm vôi"..... Thấp thoáng trong hoài niệm là hình ảnh con thuyền
"rẽ sóng chạy ra khơi "đánh cá. Xa quê nên mới thấy nhớ hương vị biển, hương
vị làng chài thân yêu " cái mùi nồng mặn quá". Tình cảm ấy đã thấm sâu vào
từng câu chữ, màu sắc, vần thơ. Tiếng thơ cũng là tiếng lòng trang trải của hồn
quê vơi đầy thương nhớ. Nếu không có mấy câu thơ này, có có thể biết bài thơ
được viết trong xa cách, trong niềm tưởng nhớ khôn nguôi bởi những hình ảnh
được miêu tả quá sống động, giống hệt như chính đang diễn ra trước mắt nhà
thơ. Nỗi nhớ của nhà thơ thật bình dị, tự nhiên như một lời nói tự đáy lòng :"
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!". Cậu học trò xa quê Tế Hanh nhớ về làng
quê mình bới tất cả màu nước xanh, cá bạc, cánh buồm trắng, những con thuyền
rẽ sóng chạy ra khơi, nhưng nhớ nhất là cái mùi nồng mặnđặc trưng của quê
hương. Với Tế Hanh, cái hương vị đó chính là hương vị riêng đầy quyến rũ của
quê hương, là chất thơ bình dị và khỏe khoắn toát lên từ bức tranh tươi sáng, thơ
mộng và hùng tráng. Dù cho nhà văn nay xa quê, nhưng tâm tư, tình cảm của
nhà thơ vẫn gắn bó máu thịt với nơi chôn rau cắt rốn của mình, qua đó thể hiện
tình yêu quê hương tha thiết của Tế Hanh.
Cuối cùng, với bài thơ Cảnh khuya, tâm sự yêu nước thầm kín, thiết
tha của Hòi Chí Minh được thể hiện sâu sắc qua hình ảnh Bác trằn trọc cả
đêm không ngủ vì nước, vì dân:
"Cảnh khuya như vẽ Người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà."
Điệp ngữ"chưa ngủ" được tác giả sử dụng trong hai câu thơ cuối là nỗi thao
thức, tâm trạng đầy bất trắc, âu lo, không yên bình. Vậy tại sao Người lại chưa
ngủ? Người chưa ngủ là vì cảnh khuya đẹp như vẽ, đã dẫn hồn thi nhân vào cõi
mộng say trăng, say thiên nhiên hay chăng. Nhưng không phải, Bác chưa ngủ vì
một nỗi niềm sâu xa hơn là "lo nỗi nước nhà". Không phải Bác thức để ngắm
cảnh mà Người đồng một niềm thao thức lớn đó là lo cho nước nhà, con dân của
mình, là vận mệnh của cả dân tộc, là cuộc chiến đấu còn vô vàn thử thách gian
lao. Dấu ngã trong từ "nỗi" có một cái gì đó như day dứt, trăn trở kéo dài, và tuy
không xoáy vào tâm trí ta như dấu hỏi nhưng nó cũng thể hiện tâm trạng băn
khoăn, day dứt dìu dặt, trong hình ảnh quấn quýt đầm ấm của đêm rừng Việt
Bắc, nỗi thao thức của Người như lớn dần lên, ngày càng day dứt khôn nguôi.
Chân dung của Bác hiện lên thật đẹp đẽ, cảm động ,đó là hình ảnh vị lãnh tụ hết
lòng lo cho đất nước. Câu thơ đã làm sáng ngời thêm phẩm chất, nhân cách cao
đẹp của Bác.
Ý kiến của Hà Minh Đức:" Trong nguồn mạch cảm xúc của phong trào
Thơ mới len lõi một thứ tình cảm đáng quý: Tâm sự yêu nước thầm kín, thiết
tha " là một câu nói hoàn toàn đúng đắn. "Khi con tu hú", " Quê hương ", "Cảnh
khuya" là những bài thơ, những đứa con tinh thần của các thi nhân được sáng
tác trong phong trào Thơ mới, chứa đựng những tình cảm thầm kín của con
người, của nhà thơ. Dù cho các bài thơ đã được ra đời từ rất lâu nhưng vẫn luôn
được độc giả đón nhận và góp phần to lớn trong phong trào Thơ mới.

BÀI LÀM SỐ 21
Đề bài : Thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim con
người. Em hãy chứng minh qua bài thơ khi con tu hú của Tố Hữu.
“Đối tượng của văn học vốn là thân phận con người, nên chỉ có kẻ nào đọc
và hiểu nó sẽ hóa thành không phải là một chuyên gia nghiên cứu văn học mà
là một kẻ hiểu biết con người một cách sâu sắc “quả thực con người là nơi bất
đầu và nơi đi đến của văn học . Với mỗi thế giới khác nhau của mỗi tác phẩm
thì chúng ta hiểu thêm về con người, và đồng thời ta thấy trong đó là những
tình cảm ,tâm tư của người nghệ sĩ. Trong môi tác phẩm thì người nghệ sĩ đóng
vai trò quan trọng , vì thế có ý kiến cho rằng:”Thiên hướng của người nghệ sĩ là
đưa ánh sáng vào trái tim con người “ điêu đó được thể hiện sâu sắc qua bài thơ
khi con tu hú của nhà thơ TỐ HỮU .
Vậy thiên hướng là gì , thiên hướng chính là khuynh hướng thiện về
những điều có tính chất tự nhiên , thiên hướng của người nghệ sĩ là mục đích,
con đường mà một người nghệ sĩ muốn đưa những tâm tư , tình cảm của mình
đến bạn đọc , con người , khuynh hướng chủ đạo của những người cầm
bút. ÁNH SÁNG là những vẻ đẹp lung linh, kì ảo và có khả năng chiếu
rọi, soi rọi , đó là khả năng kì diệu trong việc tác động vào nhận thức tư
tưởng, tình cảm của con người . Ánh sáng vào trái tim con người là những điều
nhà thơ muốn đưa vào trái tim con người, bạn đọc . Vậy chúng ta thấy được
người nghệ sĩ thông qua tác phẩm được viết nên từ cái tài cái tâm của
mình, đem đến cho bạn đọc những hiểu biết về thế giới xung quanh, giúp bạn
đọc nhận thức sâu sắc về bản chất của cuộc sống, con người, nhận ra những
bài học quý giá về lẽ sống, những tư tưởng triết lý sâu xa, thắp sáng trong trái
tim con người những tư tưởng , tình cảm đẹp đẽ giúp con người sống tốt hơn ,
nhân văn hơn
Trước hết qua bài thơ khi con tu hú nhà thơ đưa đến cho ta một ánh sáng
về lòng yêu cuộc sống sâu sắc, đặc biệt là tình yêu cảnh mùa hè đến với con
người
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín , trái cây ngọt đần
Vườn râm dậy tiếng về ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con điều sáo lượn nhàotưng không
Tiếng chim tú hú gọi bầy lần một âm thanh quên thuộc đối với những đồng quê
ở việt nam, ai cũng có kí ứcthât đẹp về tiếng chim . Tiếng chim tú hú cũng đã
gợi lên cho ta một mùa hè đang đến và nó cũng làm thức tỉnh tâm hồn của
người tú trong khung cảnh mùa hè . Sáu câu thơ với giọng thơ vui tươi, nhộn
nhịp đã mở ra trước chúng ta một chốn mùa hè , câu đầu cho thấy một âm thanh
thiêng liêng, còn năm câu thơ sau là cả một sự sống êm đẹp . Cho dù đây chỉ là
bức tranh được viết ra từ trí tưởng tượng của nhà thơ nhưng nó vẫn hiện lên
sống động vui tươi, tràn ngập những hình ảnh, màu sắc, âm thanh. Có âm thanh
của tiếng chim tú hú, có tiếng ve . Những âm thanh vỡ cùng quên thuộc chúng
kết hợp lại với nhau giúp nhà thơ và chúng ta cảm nhận mùa hè bằng thính
giác. Có nhiều hình ảnh lúa , trái cây , bắp , nắng , trời , điều sáo , nhà thơ đang
bị nhốt trong cảnh tù ngục xung quanh chơi có bốn bức tường nhưng với lòng
yêu cuộc sống của mình thì nhà thơ đã tưởng tượng ra canh mùa hè có đây đủ
màu sắc... bức tranh vẫn có rất nhiều màu sắc : màu vàng của lúa đang chín trên
cánh đồng , của những hạt bắp , màu vàng của nắng , tiếng ve ngân trong vườn ,
vị ngọt của trái chín , đôi điều sáo lượn trên bầu trời. Cho dù không được đứng
trước cảnh mùa hè đó nhưng vậy trí tưởng tượng phong phú của mình thì nhà
thơ cho ta thấy được một bức tranh không cần có Thị giác,xúc giác , ...mà vẫn
cảm thấy được tất cả những thứ bên ngoài . Chúng ta có thể thấy được trí tưởng
tượng của nhà thơ quả thật rất đáng nể , với những từ ngữ lúa chiêm đang
chín trái cây như đần.. thì bức tranh muầ hề đang diễn ra trước mắt nhà thơ
và bạn đọc. Nếu không có niệm gắn bó thiết tha với cuộc đời, không có niềm
khát khao tự do mãnh liệt, không có một tâm hồn tinh tế nhạy cảm và một trí
tưởng tượng lãng mạn vô cùng phong phú thì nhà thơ không thể viết được
những câu thơ tuyệt vời đến như thế, chị với một âm thanh của tiếng chim tu hú
mà nhà thơ đã mở cho ta một thế giới kì diệu về mùa hè. Qua đây nhà thơ cũng
đã cho ta thấy được sự quan trọng của vẻ đẹp thiên nhiên, dự ta thấy trân quý và
biết ơn thiên nhiên biết trân quý những giây phút có thể được ngắm nhìn cảm
nhận được thiên nhiên . Bài thơ cùng chả đưa cho ta một ánh sáng về tình yêu
mãnh liệt của nhà thơ và giúp cho ta hiểu được trực tuyến yêu cuộc sống hiện
tại của mình.
Thông điệp mà nhà thơ Tố Hữu muốn gửi đến cho bạn đọc không chỉ là
ánh sáng về tình yêu cuộc sống mà còn là ánh sáng về tình yêu đất nước ,khát
vọng tự do mãnh liệt .
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngọt Làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Bốn câu thơ lục bát chính là hai câu cảm thán trực tiếp vật ra từ tâm trạng ngột
ngạt, uất ức của người tù . . Cho dù đây lả bốn câu thơ ngắn nhưng gói gpn
trong đó là rất nhiều tâm trạng của nhà thơ . Nhà thơ nghe hè , cảm nhận mùa hè
chỉ qua tiêbg chim tú hú. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi
qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ . Trong lòng
của mình nhà thơ đã cảm nhận được không khi mùa hè ở ngoài trời ở đó có
nhiều hình ảnh màu sắc... còn hiện tqi , kẻ thù đang giày xéo quê hương , biến
nhửng cánh đồng thành hoang mạc , và thực chất không gian tự do mà nhà thơ
khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tu hãm, có sự vật , con
người nhưng cũng trở nên không có hồn . Khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí , là
tâm trạng uất ức , ngột ngạt muốn đạp vỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, hiện
tại thực sự . Với những từ ngữ đanh thép đập tan , chết uất đã cho thấy được
tinh thần yêu đời , yêu nước cháy bỏng . Nếu như ở khổ thơ trước nói về một
bức tranh mùa hè sống động, vui tươi với tình yêu thiên nhiên sâu sắc thì ở khổ
thơ thứ hai nhà thơ cho ta thấy được một hoàn cảnh phải chịu cảnh ngục tù tăm
tối và đồng thời ta thấy được một khát vọng tự do , tình yêu nước mãnh liệt . Ôi
, thôi , làm sao cho thấy một nỗi đau mà nhà thơ phải chịu. Con chim tu hú
ngoài trời cứ kêu như một vũ khí thúc dục nhà thơ quyết tâm đứng dậy tìm lại
sự tự do, làm cho khát vọng tự do càng cháy bỏng , mạnh liệt hơn . Khổ thơ này
đã cho ta cảm nhận rõ hơn ánh sáng về tình yêu đất nước, khát vọng tự do , giúp
ta càng yêu thêm quê hương, đất nước.
Để có thể truyền tới cho ta những ánh sáng thì nhà thơ đã sử dụng thành
công các biện pháp nghệ thuật. Bài thơ khi con tu hú lầ một bài thơ kết hợp hài
hòa giữa cảnh và tình . Cảnh mở ra rạo rực , tha thiết , tình lắng đọng da diết ,
trầm buồn . Thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng nhuần nhuyễn giữa hoán dụ ,
ẩn dụ , liệt kê, đối lập , từ ngữ giàu sức biểu đạt , ngắt nhịp sáng tao , giọng thơ
có lúc nhẹ nhàng, êm ái , vui tươi có lúc dồn dập, mạnh mẽ đanh thép. Với
tâm hồn dân tộc , ngòi bút linh hoạt , mềm mại , tố hữu xứng đáng với danh
hiệu con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng việt nam.
Nhận định “thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim
con người “ là hoàn toàn đúng. Quq bài thơ khi con tu hú nhà thơ TỐ HỮU đã
đem đến cho ta ánh sáng về tình yêu cuộc sống , tình yêu thiên nhiên , ánh sáng
về tình yêu đất nước, khát vọng tự do. Bài thơ đã được viết ra cách đây khá lâu
nhưng giá trị của nó vẫn giữ mãi .

BÀI LÀM SỐ 22
ĐỀ BÀI: Mỗi truyện ngắn phải là một phát hiện bất ngờ về con người. Em
hãy chứng minh ý kiến trên qua một tác phẩm mà em yêu thích

Một nhà văn đã từng nói: “Viết văn thì phải coi trọng văn, coi trọng và cố
gắng bao nhiêu đều không thừa. Giá trị của một cuốn sách được gói gọn không
chỉ trong từng câu chữ, mà còn là những phát hiện về con người”. Đúng vậy,
một tác phẩm không chỉ cần một câu từ sắc bén mà còn cần một phát hiện mới
mẻ , như vậy tác phẩm ấy mới in được vào lòng bạn đọc, mới tồn tại mãi với
thời đại. Những tác phẩm như vậy có thể kể đến là : Cuộc chia tay của những
con búp bê, Chữ người tử tù, Tắt đèn…. Và một trong những tác phẩm xuất sắc
nhất đó chính là tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao. Với tác phẩm, Nam
Cao đã cho người đọc cảm nhận được những bất ngờ bên trong sâu thẳm con
người. Vậy nên khi nhận xét về truyện ngắn có ý kiến cho rằng: “Mỗi truyện
ngắn phải là một phát hiện bất ngờ về con người”.
Vậy trước tiên, chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa của câu nhận dịnh này.
Truyện ngắn là hể loại tự sự có đặc trưng là dung lượng ngắn. Trong đó, truyện
ngắn hướng đến sự cô đọng, hàm súc nhưng có sức biểu hiện lớn lao nhờ việc
chọn lựa những chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa. Phát hiện bất ngờ về con người
chính là phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm tàng ẩn dấu trong từng nhân vật nhưng
bị hoàn cảnh, số phận bi đát, éo le che lấp đi. Vậy câu nói thể hiện đặc trưng của
văn học và truyện ngắn là đều phải có trong đó một phát hiện bất ngờ về con
người, đồng thời cũng thể hiện sứ mệnh cuẩ nhà văn và văn học đó chính là
phải có trái tim bao dung, phải có một tâm hồn biết sẻ chia để có thể đào sâu
trong lớp bụi mù của hoàn cảnh và phát hiện được những vẻ đẹp quý báu của
mỗi nhân vật. Nói cách khác, mỗi tác phẩm truyện ngắn phải là một khám phá
mới mẻ về con người. Qua tác phẩm “Lão Hạc”, Nam Cao đã có những “khám
phá bất ngờ về con người” – vẻ đẹp của nhân tính trong những tình cảnh cùng
cực, trớ trêu nhất, tiêu biểu là nhân vật Lão Hạc.
Trước hết, những khám phá bất ngờ bên trong nhân vật mà nhà văn cảm
nhận được chính là tâm hồn dào dạt yêu thương đáng quý, đáng trọng của người
nông dân. Nhắc đến con trai lão, ta phải nhắc đến lòng yêu thương con sâu sắc
của lão. Vợ mất sớm, gia đình lại khó khăn, lão vừa là người cha, vừa là người
mẹ, vừa là người trụ cột trong gia đình để gánh gồng nuôi đứa con duy nhất,
cũng là tia hi vọng duy nhất của ông để ông tiếp tục cuộc đời nghèo khổ này.
Lão thương con, lão yêu con nhiều lắm, nhưng cuộc đời éo le bất hạnh của ông
luôn dìm ông xuống, khiến cho lão không có đủ tiền, không có đủ điều kiện đẻ
lo lắng cho hạnh phúc của đứa con để nó phải phẫn chí đi đồn điền cao su. Ai
đời làm cha mà không lo nổi hạnh phúc cả đời cho con, để nó phải đi làm đồn
điền cao su? Lão thương con đứt ruột nhưng lại bất lực để con ra đi. Tất cả cũng
chỉ tại những hủ tục của xã hội đương thời : bên nhà gái thách cưới nặng quá,
lão nghèo nên không thể lo nổi, khiến trai gái yêu nhau mà không đến được với
nhau. Lão không cho nó bán vườn đâu phải vì không thương nó, đứa con mới
lớn sao hiểu được sự lo lắng của người cha đã từng trải, suy nghĩ thấu đáo cho
tương lai của con : “ Ai lại bán vườn đi lấy vợ ? Vả lại bán vườn đi thì cưới vợ
về ở đâu? Với lại , nói cho cũng nữa, nếu đằng gái họ cứ khăng khăng đòi như
vậy, thì dẫu có bán vườn đi cũng không đủ cưới”. Con trai lão “thấy bố nói thế
thì thôi ngay”, nhưng trong tiếng thôi ấy có một tiếng thở dài vô hình và tiếc
nuối vì “hai đứa mê nhau lắm”. Trước lúc đi xa, nó không những không giận bố
mà còn biếu bố hẳn 3 đồng bạc. Đối với lão, tất cả những chi tiết ấy như một kỉ
vật thiêng liêng về lòng hiếu thảo luôn in sâu trong tâm trí để rồi lão đem nó ra
để thoả bớt lòng nhớ con mỗi khi nhắc đến nó trong những buổi nói chuyện với
ông giáo. Lão ngậm ngùi trong tiếng nấc , bất lực, cam chịu thấy con ra đi, một
cuộc ra đi dường như không bao giờ trở lại: “ Thẻ của nó, người ta giữ. Hình
của nó, người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người
ta rồi, chứ đâu có còn là con tôi?”. Con trai đi rồi, lão cô đơn nay lại càng cô
đơn hơn. Tình thương con không chỉ thể hiện qua cách ứng xử, vs lão Hạc, nó là
một nguyên tắc sống. Chính lão không cho phép mình động chạm vào thứ mực
thước tinh thần do chính lão đặt ra. Cuộc đời lão như dòng sông bên lở bên bồi.
Lão là bên lở cứ lở mãi để bên bồi của con được bồi đắp thêm phù sa màu mỡ.
tươi tốt Lão âm thầm hi sinh chỉ mong con có một tương lai tốt đẹp .
Để lấp đầy khoảng trống nỗi nhớ con, lão dành cả tình yêu thương cho
con chó được đặt tên là “cậu Vàng” – kỉ vật của người con trai để lại. Cách
lão Hạc đối xử với cậu Vàng càng làm nổi bật tấm lòng nhân hậu của lão. Con
chó như một đứa con, như một báu vật mà đứa con mang cho. Lão chăm sóc nó
như một con người, bắt rận, tắm táp cho nó. Bao nhiêu tình thương của một
người cha , lão dành cho con chó. Trong cái xã hội mà nhiều khi con người còn
đối xử tệ bạc với nhau, liệu có mấy ai yêu thương một con chó như lão Hạc :
“Những buổi tối, khi lão uống rượu thì nó ngồi ở dưới chân. Lão cứ nhắm vài
miếng lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ” ? Con
chó như có một sợi dây liên kết với đứa con, bởi thế, trò chuyện với con chó
cũng là cách lão tâm sự về con : “ Cậu có nhớ bố cậu không hả, cậu Vàng? Bố
cậu lâu lắm không có thư về…” Cứ như vậy, bao nhiêu nỗi niềm, lão kể ra bằng
hết cho cậu Vàng. Cậu con trai duy nhất dứt khỏi vòng tay của cha, lão coi con
chó như con, như cháu.
Nhưng cuộc sống luôn Đau đớn biết bao khi lão phải dứt tình bán cho chó đi!
Không bán cậu Vàng đi lão làm sao nuôi nổi mà không để nó ốm, trong khi lão
cũng đang đói dài “ tính ra cậu Vàng ấy còn ăn khỏe hơn cả tôi”. Không bán cậu
Vàng làm sao lão có đủ tiền để khi nhắm mắt xuôi tay mà không mấy “ liên lụy
đến hàng xóm láng giềng” ? Còn nếu phải bán con chó đi, lão mất đi một nguồn
an ủi. Vợ lão mất, con trai đi bằn bặt, chỉ có mình nó để giải khuây, thiếu nó lão
lấy ai sống cùng? Lão nói nhiều đến việc bán chó khiến ông giáo “ nghe câu ấy
đã nhàm”. Lão nói nhiều bởi lão đắn đo, nhưng rồi suy đi tính lại, lão vẫn phải
quyết định bán nó đi. Cái giá mà lão Hạc phải trả cho việc bán cậu Vàng là quá
đắt. Lão tức tưởi trong sự giày vò, lão day dứt khôn nguôi trong nỗi niềm ân
hận. Tận nơi sâu thẳm của lương tâm, lão Hạc thấy mình như một người mắc
lỗi, một tội lỗi không thể tha thứ. Chẳng vậy mà hôm sau sang nhà ông giáo để
báo tin, mặc dầu vs bộ mặt “ cố làm ra vẻ vui vẻ” nhưng kì thực lòng lão đâu có
vui. Chỉ cần một câu hỏi cho có chuyện của ông giáo : “ Thế nó cho bắt à?” là
nỗi đau trong lòng lão lại dâng lên, tạo nên đột biến trên khuôn mặt: “ Mặt lão
đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra.
Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít.
Lão hu hu khóc”. Lão ân hận vì thương con chó vẫn quấn quít vs mình hàng
ngày ,ân hận vì đã đẩy nó đến cái chết thương tâm . Đôi mắt đầy trách móc của
con chó còn là câu hỏi ám ảnh con người lương thiện ấy đến suốt đời : “ thì ra
tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó”. Hiện thực nghiệt ngã
đã cướp đứa con của lão, đói nghèo lại lấy mất người bạn tri kỉ. Lão như bị đứt
đi từng mảng của cuộc sống, dường như đã thấy trước cái chết của mình. Bao
nhiêu đau đớn, buồn vui như những cơn bão lòng dồn dập ập đến và khi cơn bão
ấy rút đi, nó để lại những vết tích tan hoang, khiến cái gì đó trong lòng lão vỡ ra
nhưng không sao hàn gắn được. Có thể nói: cái đau của lão Hạc là cái đau của
một người giàu lòng yêu thương và có nhân cách.
Những vẻ đẹp bên trong con người mà nhà văn bất ngờ phát hiện được
không chỉ là tình yêu thương con, yêu thương chó mà còn là lòng tự trọng lớn
lao cuả lão với mọi người. lão Hạc vốn túng thiếu nhưng không phiền lụy đến
ai. Cảm thông cho cuộc sống tạm bợ củ khoai củ ráy qua ngày của lão, ông giáo
ngấm ngầm giúp đỡ thì " lão từ chối tất cả.Từ chối đến mức gần như là hách
dịch". Sự giúp đỡ của ông giáo chắc cũng chẳng đáng là bao, nhưng trong cảnh
khốn cùng"một miếng khi đói, bằng một gói khi no" hẳn là rất đáng quý. Vậy
mà lão lại từ chối. Phải chăng lão hiểu rằng nhà ông giáo cũng nghèo, hiểu rằng
bà giáo không thoải mái gì. Ông giáo tốt bụng thật, nhưng lão không thể lợi
dụng lòng tốt của ngơừi khác, không thể để phiền luỵ đến người khác. Lão đã
từng nói với ông giáo "Để phiền cho hàng xóm, chết không nắm mắt được".
Ngay đến cả đám ma của mình, lão cũng gửi tiền lại hờ bà con làm ma cho,lão
thà chết chứ không chịu ăn cắp,ăn trộm của ai,không dám phạm vào tiền để
dành của con một đồng nào.Qua đó,có thể thấy,Lão Hạc là một người giàu lòng
tự trọng,một nhân cách sáng lên trong cảnh bần hàn
Có thể nói câu nhận định trên là hoàn toàn hợp lí. Chỉ khi văn chương
luôn hướng về con người, luôn mang đến những giá trị nhân đạo cao thì văn
chương mới tồn tại được mãi với thời gian. Cảm ơn Nam Cao, cảm ơn những
nhà văn, nhà thơ đã luôn tận tuỵ để cho ra đời những tác phẩm bất hủ đi cùng
năm tháng như câu nói: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống
chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân
hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó.”

BÀI LÀM SỐ 23
Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn là những người tí hon mang trách
nhiệm khổng lồ, làm sáng tỏ qua đoan trích tức nước vỡ bờ .

Không phải ngẫu nhiên mà Văn Hào vĩ đại , người Nga Maxim Gorky
từng phát biểu: chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn. Hơn ai hết, tác giả những
truyện ngắn, tiểu thuyết được viết ra từ cuộc sống, người được coi là: cánh chín
báo bão cuộc cách mạng, là “nhà văn của những người chân đất “ họ mới là
người hiểu rõ tầm quan trọng của chi tiết nghệ thuật. Chi tiết nghệ thuật là một
trong những điều kiện để tạo nên một tác phẩm hoàn hảo, vì thế có ý kiến cho
rằng:”chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn là những người tí hon mang trách
nhiệm khổng lồ “ điều đó được thể hiện sâu sắc qua đoạn trích tức nước vỡ bờ
của tác giả NGÔ TẤT TỐ
Vậy chi tiết nghệ thuật để gì , đó chính là các tiểu tuyết của tác phẩm
mang sức chưa lớn về cảm xúc và tư tưởng , tình cảm, những yếu tố nhỏ lẻ của
tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và từ tượng. Sức chinh phục
của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì góp phần làm trò chuyện hấp
dẫn lôi cuốn hơn. Chi tiết nghệ thuật gắn bó với con người, truyền thống ảnh
văn hóa, nghệ thuật. Truyện ngắn là của việc tái hiện những khoảnh khắc đời
sống những hiện tượng nhân sinh, những cảnh huống trong quan hệ giữa người
với người , truyện ngắn được coi là lát cắt của cuộc sống. . Qua đó chúng ta có
thể thấy được vai trò của những chi tiết trong tấc phẩm , chi tiết là đơn vị nhỏ
nhất cấu thành tp nhưng nó mang trong trách lớn lao , làm nổi bật tính
cách, phẩm chất của nhân vật , chủ để của tác phẩm....và muốn hiểu rõ điều đó
hơn chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về sự quan trọng không thể nào thiếu của
chi tiết qua đoạn trích tức nước vỡ bờ
Trước hết , chi tiết nghệ thuật Xây dựng tính cách nhân vật qua lời nói
và hành động, miêu tả tâm lý nhân vật . Chỉ chưa chưa đây ba trang văn , Ngô
Tất Tố đã xây dựng được hai nhân vật đạt đến mức điển hình bất hủ, đó là tên
Cai lệ và chị Dậu. Cái lê chỉ là một tên tay sai mạt hạng, không có tên riêng
nhưng lại được tác giả tập trung miêu tả nổi bật , trở thành một tính cách điển
hình với đầy đủ những nét chung và riêng. Với sự tàn ác vô nhân tâm của mình
thì tên Cai lệ là hình ảnh đại diện cho bọn tay sai nói riêng và đại diện cho cái
chính quyền thực dân Tàn bạo , bất nhân nói chung.hắn phảng phất bóng đáng
của tất cả những tên tay sai hung hãn ngoài đời như trong các sáng tác hiện thức
lúc bấy giờ . Nhưng tên cai lệ không giống bất cứ tên nào mà chúng ta đã gặp .
Hắn có đặc điểm riêng không thể trốn lẫn và được tô đậm . Đầu tiên ta có
thể được hành động mà chúng chạy sầm sập tới nhà , tay cầm roi song tay
thước.Đây là giọng quát thét hống hách: mày định nói cho cha mày nghe à,
những lời nói xỏ mũi: ông tưởng mày chết đêm qua rồi chứ , và những hành
động hưng hãm :chúng bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch . Và đây ,cái
giọng khàn khàn vì hút nhiều cái cũ, cái thân hình lẻo nhẻo vì nghiện thuốc
phiện, cái tư thế ngã chỏng quèo ...tất cả những chi tiết đó đã tạo nên một tay
sai vừa trắng trợn, tàn ác , vừa đểu giả, vừa đê tiện . Hình ảnh đó đã để lại một
ấn tượng đặc biệt trong lòng độc giả:vừa không bỏ, vừa căm ghét . Còn đối với
chhị Dậu thì tác giả Ngô TẤT TỐ lại miêu tả hóa lên , chị là con người có tính
cách hiền hậu , yêu thương chồng con, có lẽ xây dựng hình ảnh chị Dậu là một
trong những thành công của tác giả . Chi vừa ngỗ nghịch, đanh đá , vừa nhẫn
nhục vừa phản kháng quyết liệt trong đoạn trích chị Dậu là người có nội tâm
khá phong phú . Ngô tất tố đã thể hiện điều đó một cây chân thực từ chỗ phải
chịu nhục , sự khinh bỉ , chịu đựng, thiết tha van xin, đến lúc tức quá không thể
nào chịu đựng được nữa, mà liều mạng cự lại . Từ thái độ tôn vinh, lễ phép với
tên cai lệ, đến chỗ đanh đá , nghiến răng :mày bắt chồng bà đi bà cho mày
xem, rồi bất chấp tất cả để đấu lại với hai tên tay sai , tất cả đều logic với nhau
Cùng với thành công về phương diện xây dựng tính cách nhân vật , chi tiết
nghệ thuật sử dụng ngồi bứt miêu tả rất sinh động và linh hoạt . Chi một vài nét
phác họa, nhà văn đã vẽ ra trước mắt người đọc, những cảnh tượng sống động
khiến họ có cảm giác như đang chứng kiến trước mắt. Tiếng trống và tiêng từ
và đang thủng thẳng đưa nhau từ phía đầu lặng đến đình , tiếng cho sửa
vang cả xóm .Chỉ hai câu văn mà tác giả đã gợi tả được cả cái không khí ngột
ngạt của làng quê việt nam lúc bấy giờ. Đặc biệt là đoạn vn miêu tả cảnh chị
liêu mạng cự lại hai tên tay sai. Dưới ngòi bút thần tính của tác giả, các hoạt
động diễn ra rõ nét : từ hanh động của tên tay sai( tất chị Dậu, đòi trời anh
đậu) , đến việc chị Dậu phải nghiến hai hàm răng rồi túm về chúng đẩy ra cửa
ngã chỏng quèo . Từ việc hai bên giăng co , vật nhau , rồi chị Dậu túm lấy tóc
hắn . T tất cả diễn ra thật nhanh như một pha gây cấn Của Một Cuốn Phim, vừa
được diễn tả bằng truyện, vừa thể hiện được tình cảm, tâm lý nhân vật và sức
sống mạnh mẽ , tinh thần phản kháng tiềm tàng của chị Dậu u, có thể nói Ngô
Tất Tố có óc quan sát rất tinh tưởng. Qua những từ ngữ hành động mà nhà văn
đã thể hiện thì chúng ta có thể thấy được tên Cai Lệ lễ và người nhà lí trường
đại diện cho bọn trâu ngựa, chúng chính là những cơn bão tố, những ngọn hồng
thủy trực tiếp làm cho cái mặt nữa cuộc đời trở nên sóng gió
Và muốn làm cho bạn thích trở nên có ý nghĩa thì chi tiết Nghệ thuật về
ngôn ngữ kể chuyện, dòng thơ và cách sử dụng từ ngữ độc đáo của tác giả cũng
đóng vai trò quan trọng mang trách nhiệm to lớn . Trong ngôn ngữ kể chuyện và
miêu tả tác giả sử dụng rất nhiều từ ngữ vừa giàu sức Thái biểu cảm vừa phù
hợp với nhân vật và các hoạt động. Trong điều bổ của bà lão láng giềng thì Lật
Đật, thăng dần thì vục đầu vừa thôi và vừa húp soàn , anh Dậu thị uốn vai
ngắn, uể oải chống tay , ngân đầu lên run rẩy ....tất cả những ngôn ngữ ấy đều
rất sống động , có hồn . Ngôn ngữ nhân vật vừa đa dạng, độc đáo , một nhân
vật đều có ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của tên Cai Lệ thì thô tục , đểu cáng. Của
tên người nhà lí trường thì mỉa mai Bóng gió.
Những chi tiết nghệ thuật của Ngô Tất Tố đã tạo nên một âm điệu cho tác phẩm.
Ý kiến trên hoàn toàn đúng,một tác phẩm muốn sống mãi với thời gian thì phải
có sự đóng góp của những chi tiết nghệ thuận , cho dù điênđu đó nhỏ nhưng có
trách nhiệm, vai trò rất lớn .

BÀI LÀM SỐ 24:


Đề bài: Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng :
" Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của mình nhân vật, nhà văn
muốn đối thoại với bạn đọc về một vấn đề nhân sinh". Từ đoạn trích Tức
nước vỡ bờ, hãy bày tỏ quan niệm của mình về ý kiến trên.
Bài làm
Truyện ngắn là thể loại được ưa thích với người sáng tác văn xuôi và người
thưởng thức. Mỗi truyện ngắn luôn thể hiện những trăn trở của người nghệ sĩ về
cuộc đời, con người và các truyện ngắn ấy luôn để lại cho người đọc những bài
học qua sự chia sẻ, gửi gắm của nhà văn. Vì vậy, bàn về truyện ngắn, có ý kiến
cho rằng :" Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của mình nhân vật,
nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc về một vấn đề nhân sinh". Đến với tác
phẩm Tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố, ta sẽ hiểu rõ hơn đặc điểm nổi bật của
truyện ngắn cũng như thái độ của người cầm bút khi viết về con người và cuộc
sống.
Ý kiến :" Qua một nỗi lòng, … về một vấn đề nhân sinh" đã khẳng định vai
trò của truyện ngắn: Truyện ngắn tuy khuôn khổ, ít nhân vật, sự kiện chỉ là
những mảnh nhỏ, là lá cắt của đời sống nhưng lại phản ánh những nét bản chất
của đời sống một cách cô đọng và hàm súc, có tính gợi mở,mang ấn tượng sâu
đậm. Tác giả truyện ngắn thường hướng đến phát hiện và khắc họa một hiện
tượng, một nét bản chất nhất trong hệ nhân sinh hoặc trong đời sống tâm hồn
con người. Nhân vật trong truyện ngắn không phải là một cá tính điển hình đầy
đặn và phức tạp. Nhiều khi đó chỉ là một mảnh đời, một khoảnh khắc của một
số phận.
Trước hết, qua tác phẩm Tức nước vỡ bờ, vấn đề nhân sinh mà nhà văn
Ngô Tất Tố muốn đối thoại với bạn đọc là số phận bất công, nghèo khổ của
chị Dậu. Chị là một người rất đáng thương. Nhà chị Dậu là một trong những gia
đình khó khăn nhất trong làng, vì gánh nặng sưu thuế mà phải bán hết gánh
khoai, bán chó và còn bán cả đứa con gái đầu lòng cho ông Nghị Quế nhưng chỉ
đủ nộp sưu cho chồng. Chủ Hợi là anh ruột của anh Dậu chết từ năm ngoái
nhưng cũng không tránh khỏi nộp sưu thuế. Anh Dậu đang ốm nặng, bọn cường
trói anh suốt ngày đêm sai tay vác chân anh về như cái xác chết rũ rượi. Bây
giờ, mọi gánh nặng đổ dồn lên đôi vai của chị. Gánh nặng sưu thuế đã dồn
người nông dân vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đó là giai đoạn với bao nỗi
kinh hoàng khi bọn thực dân phong kiến bất công ra sức bóc lột người nông dân
với đủ mọi thứ thuế. Chị Dậu cũng như bao người nông dân bấy giờ là nạn nhân
trong xã hội ấy.
Vấn đề nhân sinh mà nhà văn Ngô Tất Tố muốn đối thoại với bạn đọc
còn là tình yêu thương chồng con vô bờ của chị Dậu. Dù gia cảnh có nghèo
khổ, sống trong một xã hội bất công, tàn bạo nhưng ngọn lửa tình thương dành
cho chồng , cho con trong trái tim của chị Dậu sẽ không bao giờ bị dập tắt.
Trong cơn nguy kịch, chị Dậu tìm đủ cách để cứu chồng. Khi chông ốm, trước
hàng loạt những tiếng trống thu thuế, chị vẫn khẩn khoản, thiết tha mời chồng:"
Thầy em cố gắng ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Ôi! Lời người đàn bà
sinh ra ở chốn đồng quê mời chồng ăn cháo lúc hoạn nạn chứa đựng bao nhiêu
sự an ủi, vỗ về, thương yêu. Đối với chị, được nhìn thấy người chồng ăn ngon
miệng là hạnh phúc lắm rồi mặc dù chính chị vẫn chưa có gì để lót bụng. Khi
anh Dậu bị tên cai lệ và người nhà Lý Trưởng bắt trói mang ra đình thì chị Dậu
vùng lên quật hai tên cai lệ ngã chỏng quèo. Chao ôi! Một người phụ nữ chân
yếu tay mềm nhưng khi đứng trước hoàn cảnh tính mạng chồng bị đe dọa thì họ
dường như trở nên mạnh mẽ khác thường. Đó không phải là sức mạnh cơ bắp
mà là sức mạnh của tình yêu thương chồng. Bên tai ta còn văng vẳng đâu đây :"
Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem". Chị sẵn sàng đánh đổi cả cuộc đời còn
lại của mình trong nhà tù chứ nhất quyết không để chồng bị hành hạ: Thà ngồi
tù chứ không thể để chúng nó làm tình làm tội mãi thế được. Còn đối với con
cái, có một câu hỏi luôn là thắc mắc của một số bạn đọc. Chị Dậu là một người
mẹ thương con nhưng tại sao lại nỡ bán đi đứa con mình đứt ruột sinh ra? Lí do
không chỉ đơn giản là bán con để nộp tiền sưu cho chồng mà chị bán con mà chị
cũng vì muốn tốt cho con. Khi được bán vào nhà Lý Trưởng, cái Tý sẽ không bị
chết đói, cả nhà sẽ bớt đi một miếng ăn và cuối cùng là để trả tiền sưu cho
chồng. Qua đó, ta thấy chị Dậu không chỉ giàu tình thương yêu chông con mà
còn là một người rất thông minh,sut nghĩ khéo léo.
Vấn đề nhân sinh mà nhà văn Ngok Tất Tố muốn đối thoại với bạn đọc
không chỉ là tình yêu thương chồng con sâu sắc của chị Dậu mà còn là một
người phụ nữ nhẫn nhịn, nhún nhường và có sức mạnh tiềm tàng. Lúc đầu,
khi tên cai lệ và người nhà Lý Trưởng đến thu thuế, chị hạ mình van xin, nài
nỉ :" Hai ông làm phúc nói với ông Lý in cho cháu khất". Chị cư xử như vậy là
bởi vì chị biết hoàn cảnh của mình bấy giờ, vì chị chỉ là một người phụ nữ nông
dân như bao con người khác mà thôi. Lúc này chị không nghĩ được gì ngoài ý
chí sôi sục phải bảo vệ gia đình của mình, bảo vệ người chồng đau ốm cùng
những đứa con thơ dại. Thế nhưng những tên tay sai ấy đâu còn chút tình người
nào. Chúng bỏ ngoài tay lời van xin của chị, chúng gạt chị ra, định tiếp tục trói
anh Dậu dẫn đi, lúc này đây, chị đã phải quỳ xuống cầu xin:"Cháu xin ông, nhà
cháu mới tỉnh được một lúc". Nhưng hắn lại tát chị và một mực đòi xông về
phía anh Dậu vừa mới tỉnh lại trong chốc lát.
Tới đây, chị đã không thể nín nhịn được nữa. Sự phản kháng của chị đi theo
mức độ tăng dần lên. Đầu tiên, chị ngăn bọn chúng lại và nói :" Công tôi đau
ốm, các ông không được phép hành hạ".Chỉ một câu nói thôi nhưng đã như một
lời cảnh cáo của chị về hành động của bọn chúng. Thế nhưng càng nhẫn nhịn thì
bọn chúng lại càng lấn tới. Hắn “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch” rồi “tát vào
mặt chị một cái đánh bốp” rồi vẫn xông về phía anh Dậu. Đến lúc này, chị Dậu
đã không còn giữ được bình tĩnh nữa, chị lao về phía chồng, gạt bọn tay sai ra,
hai tay chống nạnh nói “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”.
Đúng như câu nói “tức nước vỡ bờ”, chị Dậu từ cách xưng hô đầy nhỏ bé,
hèn kém, xưng cháu gọi ông, sau đó chị xưng là “tôi”, và cuối cùng là “bà -
mày”. Có thể có người cho rằng chị Dậu là một người phụ nữ đanh đá thế
nhưng có thể nói rằng, ít ai có thể hành động được như chị. Chị lao vào những
tên muốn bắt chồng chị rồi đánh nhau với chúng. Sức mạnh thật sự của người
phụ nữ trỗi dậy khi họ bắt buộc phải bảo vệ những người thân yêu xung quanh
mình, và cũng có lẽ do chị đã không thể nín nhịn được thêm nữa, chị đã bị buộc
vào bức đường cùng. Thậm chí dù chồng chị có khuyên, chị cũng vẫn đanh thép
làm theo bản năng của chị, chị thà ngồi tù chứ quyết không để bị chèn ép, bị ép
buộc.
Qua hoàn cảnh của chị Dậu, nhà văn muốn đối thoại với chúng ta về
những vấn đề nhân sinh xã hội. Đó là vấn đề kiếp sống con người trong xã hội
phong kiến tàn bạo, bất công. Qua đó, nhà văn muốn phê phán, tố cáo xã hội
thời phong kiến thối nát và muốn độc giả thấy được niềm tin về tương lai tươi
sáng của nhân vật, của dân tộc Việt Nam vào một tương lai đầy đủ, bình an hơn.
Như vậy có thể thấy ý kiến trên về truyện ngắn thật chính xác. Qua tác
phẩm Chị Dậu của Ngô Tất Tố ta hiểu rõ hơn về vấn đề trên. Văn học phản ánh
cuộc sống , vì thế thông qua một truyện ngắn nhà văn cũng muốn đối thoại, chia
sẻ với bạn đọc các vấn đề nhân sinh.

BÀI LÀM SỐ 25
Đề bài :Nhận xét về vai trò của chi tiết nghệ thuật trong truyện,có ý kiến cho
rằng :“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn ”.Hãy làm sáng tỏ nhận định trên
qua văn bản Chiếc lá cuối cùng.
Bài làm
“Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn là những người tí hon mang nhiệm
vụ khổng lồ ”.Chi tiết nghệ thuật tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đối với sự “sống còn” của mỗi tác phẩm văn học cũng như mỗi nhà văn.Nó thể
hiện được tầm vóc tư tưởng,quan điểm,thể hiện được cả sự thăng hoa trong sáng
tạo nghệ thuật và đồng thời cho ta thấy tài năng của người nghệ sĩ.Chính vì
thế,khi nhận xét về vai trò của chi tiết trong truyện ngắn,có ý kiến cho
rằng :“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn ”.Và trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng
nhà văn Mỹ OHen-ri đã để những chi tiết nhỏ ấy trở thành nốt ngân đầy sáng
tạo trong bản hòa tấu văn học.
Vậy,chi tiết nhỏ là gì? Đó là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng
mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng.Nếu sức chinh phục của hình tượng
nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp
dẫn,lôi cuốn người đọc là nhờ chi tiết.Còn người được coi là 1 nhà văn lớn là
ai?Nhà văn lớn là những người sáng tác ra những tác phẩm văn học mang tiếng
vang lớn,có sức truyền tải tình cảm,tư tưởng đến muôn đời.Ý kiến trên nói về
vai trò quan trọng của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự là khả năng thể
hiện,giải thích,làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn,trở thành tiêu
điểm,điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm.Và 1 lần nữa,điều đó được
thể hiện 1 cách sâu sắc qua văn bản Chiếc lá cuối cùng của nhà văn Mỹ
Câu chuyện kể về 2 cô họa sĩ nghèo tên là Xiu và Giôn-xi,họ sống trong 1
căn hộ thuê ở gần công viên Oa -Sinh-Tơn.Còn cụ Bơ-men cũng là 1 họa sĩ
nghèo thuê phòng ở tầng dưới.Lúc ấy vào mùa đông,Giôn-xi bị bệnh sưng
phổi,bệnh tật và nghèo túng khiến cô không muốn sống nữa và cô đã đặt mạng
sống của mình vào Chiếc là cuối cùng trên cây thường xuân bám vào bức tường
bên cửa sổ.Nhưng khi tâm hồn cô đang đi đến ngưỡng cửa của thần chết thì 1
điều kì diệu đã xảy ra,cụ Bơ-men đã hi sinh chính mạng sống của mình trong
đêm mưa tuyết để vẽ Chiếc lá cuối cùng cứu sống Giôn-xi.
Trước hết,nghệ thuật đảo tình huống lần thứ nhất đã trở thành 1 chi
tiết ấn tượng,mang đến cho tác phẩm 1 tiếng vang lớn.Một cú đảo ngược
tình huống đặc biệt khi Giôn-xi đang chuẩn bị để xa lìa cõi đời thì bỗng dưng
khỏe lại và yêu đời như trước.Giôn-xi _vốn là 1 cô gái bất hạnh,đáng thương
khi cái nghèo túng cùng căn bệnh quái ác đã cướp đi của cô tất cả sức lực.Cô
gần như tuyệt vọng,mỗi giây phút đang trôi cô đều tự nhủ bản thân rằng :Chiếc
là thường xuân cuối cùng ấy sẽ chính là sinh mạng của mình!Thật đau đớn biết
bao! Khi 1 con người lại gắn số mệnh của mình với 1 chiếc lá nhỏ bé,mong
manh.Lưỡi hái tử thần cứ ve vảng,đe dọa cô gái trẻ từng ngày khi mỗi chiếc lá
cứ dần rụng xuống.Sự sống mong manh của cô bấy giờ cũng chẳng khác gì
những chiếc lá kia,chỉ cần 1 cơn gió thoảng qua là có thể lìa cành.Diễn biến câu
chuyện làm cho người đọc chợt căng thẳng,hồi hộp,liệu rằng Giôn-xi có chiến
thắng được chính bản thân mình hay không?Liệu quyết định đau lòng ấy của cô
có đang bóp nghẹt trái tim của những người thân yêu của mình không?Ngay
sáng hôm sau Giôn-xi đã thều thào ra lệnh cho Xiu kéo tấm mành lên :“ Kéo nó
lên,em muốn nhìn ”.Câu nói của cô em yếu ớt như 1 nhát dao nhọn đâm thẳng
vào trái tim Xiu,rồi cô sẽ ra sao khi mất đi một nửa còn lại của cuộc đời mình?
Nhưng,ô kìa! Sau trận mưa vùi dập,vẫn còn 1 chiếc lá thường xuân cuối cùng
dũng cảm bám víu lấy cành.Và 1 lần nữa mạng sống mong manh của cô họa sĩ
trẻ lại được thử thách,không một ai có thể rời mắt trước một sự sống nhỏ nhoi
đang dần tiến đến ngưỡng cửa của thần chết.Lần thứ 2 Giôn-xi lại tàn nhẫn ra
lệnh cho Xiu kéo chiếc mành lên mà không hề biết rằng chị của cô_Xiu đang
đau đớn nhường nào khi để em mình tìm đến cái chết trong vô vọng.Thật khó có
thể vui vẻ,lạc quan khi nghĩ mình sắp chết! khi bản thân đang bỏ lỡ tuổi thanh
xuân tươi đẹp nhất của cuộc đời !Cô hiểu và cô nghe thấy những tiếng gọi tha
thiết từ trái tim của Xiu và cụ Bơ-men nhưng cô cũng cô đơn lắm chứ! “ Cái cô
đơn nhất thế gian là 1 tâm hồn đang chuẩn bị cho chuyến đi xa xôi,bí ẩn ”.Cô
đơn “Khi mối dây ràng buộc cô với tình bạn và thế gian cứ lơi lỏng từng sợi
một ”và cũng chính ý nghĩ kì quặc ấy đang dần choán lấy tâm trí cô.Diễn biến
của câu chuyện làm cho người đọc lo sợ,không biết Giôn-xi_cô gái yếu ớt này
sẽ ra sao khi chiếc lá thường xuân cuối cùng lìa cành? Nhưng không!Một phép
màu dường như chỉ có trong truyện cổ tích bấy giờ lại hiện ra trước mắt Xiu và
Giôn-xi.Sau 1 đêm khủng khiếp đã tra tấn và đe dọa tâm hồn cả 3 người họa sĩ
nghèo nhưng chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó,vẫn cố bám trụ trên cành 1 cách
mạnh mẽ khác thường.Giôn-xi đã “ngắm nhìn chiếc lá hồi lâu ”,cái nhìn như
dần sưởi ấm và thắp sáng trái tim yếu đuối, giá lạnh mà đã từng chết 1 lần.Có lẽ
cô đang suy nghĩ và so sánh bản thân mình với sự mạnh mẽ của chiếc lá kia,rồi
cô chợt nhận ra :“Có 1 cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó để
cho em thấy rằng mình đã tệ như thế nào.Muốn chết là 1 tội” .Chiếc lá dũng
cảm ấy đã tạo ra 1 sự hồi sinh kì diệu trong tâm hồn cô họa sĩ trẻ,nó đã cứu lấy
mạng sống yếu ớt,nhỏ nhoi của Giôn-xi khiến ai cũng phải há hốc miệng ngạc
nhiên và vui thay.Đó quả là 1 cú đảo ngược tình huống bất ngờ khi đưa cô gái
trẻ từ cõi chết quay về để tìm lại sự sống cho chính mình.Cuối cùng ta cũng có
thể thở phào nhẹ nhõm trước 1 sự sống mới đang được nhen lên bằng sự động
viên,khích lệ âm thầm của Xiu và cụ Bơ-men.Và 1 lần nữa những mong
muốn,ước mơ lại đến với cô,đó chính là biểu hiện của sự sống con người.Bấy
giờ cô đã có nhu cầu làm đẹp với “chiếc gương tay”,nhu cầu ăn uống khi muốn
được ngồi xem Xiu nấu nướng và đặc biệt đã khơi lên khát vọng muốn vẽ vịnh
Na-Plơ trong tâm hồn cô.Phải chăng,Thượng Đế chí nhân đã rủ lòng thương,đã
cảm động trước tấm lòng của Xiu và cụ Bơ -men,để rồi ban cho cô gái trẻ Giôn-
xi 1 ân huệ. Nhưng không! Không ai biết rằng vị thượng đế ấy có tên là “Bơ-
men”.Chi tiết này đã tạo cho tác phẩm 1 nét đặc biệt,khiến đọc giả ngạc
nhiên,hồi hộp đến vỡ òa cảm xúc.
Và 1 lần nữa,nghệ thuật đảo tình huống lần thứ 2 đã tạo ra 1 chi tiết
đặc biệt, tạo ấn tượng cho tác phẩm và tác giả. Đó là 1 cú đảo ngược tình
huống bất ngờ khi cụ Bơ-men đang khỏe mạnh bỗng dưng lại chết vì căn bệnh
sưng phổi quái ác.Cụ Bơ -men vốn chỉ là 1 họa sĩ già ngoài 60 tuổi,cuộc sống
của chị cũng chẳng hơn gì Xiu và Giôn-xi,nhưng có 1 ước mơ mà từ lâu cụ vẫn
chưa thực hiện được đó là vẽ 1 kiệt tác chân chính,cao đẹp. Ngay từ đầu đoạn
trích,cụ Bơ -men không xuất hiện nhiều nhưng ta có thể tìm thấy 1 tình yêu
thương đặc biệt mà cụ họa sĩ già dành cho Xiu và Giôn-xi.Có lẽ với cụ,2 cô họa
sĩ trẻ này đã trở thành 1 người thân trong gia đình,cùng chia sẻ gánh nặng về
cuộc sống trong những năm tháng tuổi già quạnh hiu.Bởi vậy mà cụ tự coi mình
là con chó xồm đứng canh gác cửa cho họ mỗi ngày.Ông cụ chắc hẳn rất lo lắng
cho bệnh tình của Giôn-xi và càng đau đớn hơn khi biết cô gái trẻ ấy đã gắn
cuộc đời mình vào 1 chiếc lá nhỏ bé,mong manh.Chắc có lẽ giây phút cụ cùng
Xiu“ Sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ,nhìn cây thường xuân.. ”là lúc cụ cảm nhận rõ
nhất hơi thở yếu ớt cùng tâm hồn tuyệt vọng đang dần yếu đi trong con người
Giôn-xi.Và có ai biết rằng đàng sau vẻ im lặng “Chẳng nói năng gì ”là 1 quyết
định đầy táo bạo mà cụ đã ấp ủ trong trái tim.Đây quả thực là 1 tình yêu thương
cao cả nhưng nó còn cao cả hơn gấp bội khi cụ Bơ-men quyết định vẽ chiếc lá
thường xuân cuối cùng trong đêm mưa tuyết phũ phàng để cứu lấy Giôn-xi.Đấy
thật sự là 1 quyết định táo bạo nhưng vô tư và đầy tính nhân văn,chắc hẳn đây là
1 quyết định đúng đắn nhất trong cuộc đời đối với cụ.Nhưng khó có ai biết được
cụ đã làm gì trong 1 đêm khủng khiếp như thế!Cho tới khi giọng kể của Xiu
vang lên 1 cách tha thiết và đầy cảm phục. Một mình cụ cùng với ngọn đèn
bão,bảng màu và chiếc thang chắc rất khó khăn và nhọc nhằn.Phải bền bỉ,kiên
cường,dũng cảm như thế nào mà thân già khổ sở ấy đã chống chọi trong những
tiếng gào thét dữ dội của giông bão.Chiếc lá ấy có thể được xem là 1 kiệt tác
cuối cùng,1 tình thương cuối cùng mà cụ đã trao vào trái tim 2 con người xa lạ
kia trước khi ra đi.Nó đã cứu vớt lấy tâm hồn Giôn-xi,đặc biệt nó được vẽ ra từ
chính tình yêu thương cao thượng và đức hi sinh sến quên mình của cụ Bơ -
men.Và giờ đây nó mở ra 1 con đường mới trong cuộc đời của 2 cô gái nhưng
cũng để lại 1 vết rạn nứt trong trái tim họ và đọc giả.Cụ đã làm tất cả 1
mình,trong im lặng,đó quả là 1 điều không tưởng! Nhưng để đánh đổi với thần
chết cụ đã hi sinh chính mạng sống của chính bản thân mình.Và rồi hình ảnh
hiếm hoi,ít ỏi của cụ họa sĩ già trong tác phẩm sẽ mãi khắc sâu,trở thành biểu
tượng của tình yêu thương trong tâm trí bao người.Tác giả không trực tiếp để sự
việc diễn ra mà lại qua lời kể của Xiu tạo sự bất ngờ,hấp dẫn đến cho người
đọc,đồng thời tô đậm thêm tấm lòng cao cả tựa thánh thần của cụ Bơ-men.Còn
gì cao cả,vĩ đại hơn tình yêu thương nữa! Thật hạnh phúc và tự hào biết bao khi
giữa cuộc đời luôn bon chen chạy theo đồng tiền lại nhen len 1 tia sáng ấm lòng
về tình yêu thương của con người.
Qua những chi tiết đặc sắc trên,không chỉ đánh dấu bước chuyển
mình của tác phẩm mà còn thể hiện tài năng của tác giả.Bằng cách xây dựng
nhiều tình huống bất ngờ,đặc sắc kết hợp với nghệ thuật đảo tình huống 2 lần
cùng cách kể chuyện lí thú,hấp dẫn đã mang đến cho đọc giả những cảm xúc
khó quên, in đậm trong trái tim đọc giả thông điệp về tình yêu thương.Và để rồi
những chi tiết ấy đã “làm nên bụi vàng của tác phẩm ”.
Ý kiến của nhà văn M.Gorki là hoàn toàn đúng đắn và mang ý nghĩa sâu
sắc.Chỉ qua những chi tiết nhỏ nhưng nhà văn đã mang đến 1 bài ca về tình yêu
thương,đức hi sinh vô tư,cao thượng của những con người nghèo khổ.Và qua
đây ta mới thấy được giá trị cũng như vai trò quan trọng của chi tiết nghệ thuật
trong tác phẩm.Dù đã ra đời rất lâu nhưng không chỉ bây giờ mà cho tới muôn
đời sau thì con người vẫn sẽ gọi tên :Vị Thượng Đế _Bơ-men.

BÀI LÀM SỐ 26

Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ,
một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc về một vấn đề
nhân sinh”. Từ truyện ngắn lão Hạc, hãy bầy tỏ quan niệm của mình về ý
kiến trên.
Truyện ngắn luôn là một trong những thể loại, hình thức lý tưởng văn
học đặc sắc để nhà văn bộc bạch, phản ánh những câu chuyện về đời sống
con người. Vì thế, khi bàn về truyện ngắn, đã có ý kiến cho rằng: “Qua một nỗi
lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với
người đọc một vấn đề nhân sinh”. Ta có thể tìm hiểu rõ hơn ở lão Hạc của nhà
văn Nam Cao.
“Qua một nỗi lòng, một cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn
muốn đối thoại với người đọc một vấn đề nhân sinh” được đề cập ở đây: là
những câu chuyện ngắn, ít nhân vật, ít sự kiện nhưng hướng về những vấn
đề, những lát cắt mỏng xoáy quanh đời sống con người. Tác giả của truyện
ngắn thường tập trung khắc họa một hiện tượng, một nét bản chất trong quan hệ
nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Nhân vật trong truyện không
phải là một cá tính điển hình hay phức tạp. Nhiều khi đó chỉ là một mảnh đời,
một khía cạnh của một mảnh đời con người trong xã hội. Hành văn của truyện
ngắn do đó mang nhiều ẩn ý, cô đọng và hàm súc, tạo ra chiều sâu không đáy
cho tác phẩm. Chính những điều đó làm cho người đọc đi mãi không vơi, ngẫm
mãi chẳng hết những điều tác giả gửi vào “người con tinh thần”.
Trước hết, vấn đề nhân sinh mà Nam Cao muốn gửi đến bạn đọc là trái
tim yêu thương, hơi ấm cảm thông và sự ngợi ca, trân trọng của chúng ta đối
với những mãnh đời bất hạnh. Những cảnh đời bất hạnh của con người nói
riêng và lão Hạc nói chung: gia cảnh lão nghèo, người vợ mất khi đứa con còn
nhỏ, một thân lão tối ngày “gà trống nuôi con”. Nghèo là vậy! Khổ là vậy!
Nhưng lão bất hạnh hơn là vì không lo nổi đám cho con trai, làm anh ta phẫn
uất mà bỏ đi làm đồn điền cao su. Người vợ mất sớm, con thì bỏ nhà đi,…chỉ
còn một mình lão cô đơn lẽ bóng cùng với một con chó người con để lại trước
lúc đi. Lão cùng cậu Vàng chui lũi nơi góc hẹp của xã hội, bòn rút những gì ăn
được để sống tạm bợ qua ngày. Trông đến cũng tội vì lão giờ đây đã sắp tuổi
gần đất xa trời nhưng lại không người thân thích, không một điểm tựa mỗi khi
trời trái nắng, trở trời. Niềm vui còn lại của lão chỉ còn gói gọn lại là cậu Vàng
nên lão nâng niu, quý trọng nó như là vật báu. Lão Hạc quả thật là một người
cha ấm áp, một người chủ giàu tình yêu thương Cuộc đời lão càng bất hạnh bao
nhiêu thì tâm hồn lão càng được mài dũa, càng sáng rực bấy nhiêu. Chính từ
hình ảnh ấy, Nam Cao muốn nói với người đọc rằng: dù trong hoàn cảnh nào đi
chăng nữa thì con người chúng ta vẫn phải giữ cho mình một trái tim giàu tình
yêu thương. Hãy là một người sống có lương tâm và trách nhiệm. Đừng vì đói
nghèo, đừng vì miếng ăn mà tha hóa nhân cách, cằn cỗi về tâm hồn. Sống trong
xã hội phong kiến mục nát, miếng ăn đã trở thành nỗi ám ảnh cực độ với người
dân nghèo. Có thể nói lão Hạc của Nam Cao như một ngôi sao sáng đang tỏa
mình trước màu đen u ám của bầu trời đêm.
Ngoài trái tim giàu tình yêu thương thì có một vấn đề về nhân sinh nữa
mà Nam Cao muốn đối thoại với bạn đọc: lòng tự trọng. Tại sao ví lão Hạc
như ngôi sao sáng giữa màn đêm? Vì lão Hạc không vì nghèo mà tha hóa nhân
cách: không rạch mặt ăn vạ như Chí Phèo, không biến chất như Binh Tư, không
vì miếng ăn mà chết vì bội thực như bà cụ Tứ,…lão vẫn giữ tấm lòng tự trọng
của mình ngay cả sau khi chết. Lão Hạc chết là để không tha hóa nhân cách!
Chết là để giữ trọn trọng trách làm cha! Phải chăng là do lão áy náy, day dứt khi
trót lừa một con chó? Sau khi dàn xếp mọi việc ổn thỏa, lão tạm bợ qua ngày
bằng củ sung, củ ráy,…mặc dù lão còn tiền để ăn. Đối với lão, ăn một đồng
cũng là vào tiền của con, tiêu một đồng cũng là vào tiền của con. Lão không
muốn vì sự sống của mình mà làm ảnh hưởng đến trách nhiệm làm cha. Đến cả
khi chuẩn bị chết, lão còn gửi 30 đồng bạc nhờ xóm làng lo hậu sự, sợ vì mình
mà phiền lụy xóm làng. Đứng trước sự sống và cái chết, lão chỉ còn cách là chết
để nhân cách không hoen ố, chết để sau khi nhắm mắt thì không còn áy náy với
người con! Cái chết ấy tuy rùng rợn nhưng ẩn sâu trong đó là một tâm hồn
nguyên sơ, thánh thiện của một người nông dân nghèo khổ, suốt cuộc đời sống
trong phiền ưu! Phải công nhận: lão Hạc quả là rất xứng danh là một hình tượng
tiêu biểu cho tấm gương về lòng tự trọng.
Vấn đề nhân sinh mà Nam Cao muốn gửi đến độc giả còn là tiếng lòng
của lão Hạc nói riêng và nhân dân lúc bấy giờ nói chung: xin đừng thờ ơ
trước sự bất công, tàn bạo của xã hội đương thời. Tuy Nam Cao đề cập đến
không nhiều nhưng qua hình tượng nhân vật, qua tình tiết câu chuyện thì có lẽ
mỗi chúng ta ai cũng nhận ra nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết của lão Hạc
chính là bàn tay mục rửa của bọn thực dân phong kiến. Chính sự tàn ác, lòng
lang dạ thú của chúng đã khiến cho bao nhiêu người dân hiền lành, lương thiện
như lão Hạc phải chọn cái chết để tự giải thoát bản thân.
Đọc truyên ngắn lão Hạc, người đọc còn nhận ra một vấn đề về nhân
sinh nữa mà tác giả không hề nhắc đến: khi đánh giá một người đừng chỉ
nhìn vẻ bề ngoài mà hãy đặt mình vào vị trí của họ để cảm nhận. Nhìn thấy
lão Hạc như vậy, vợ ông Giáo từng quát tháo: “Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền
mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão khổ!...”. Còn Binh Tư cho rằng:
“lão cũng ra phết chứ chả vừa đâu”. Ngay cả ông Giáo, hiểu rõ lão ta đến thế
mà con phải thốt lên: “thì ra đến lúc cùng thì lão cũng có thể làm liều như ai
hết…” Ai cũng cho rằng lão gàn dở, bần tiện, ngu xuẩn nhưng đâu hay tâm hồn
lão lại đẹp đẽ và sáng ngời như vậy. Sao con người chúng ta cứ nhận xét, đánh
giá người khác thế này thế nọ để rồi một ngày nào đó nhận ra sự thật thì đã quá
đỗi muộn màng nhỉ? Thế nên Nam Cao muốn chúng ta chịu khó tìm hiểu họ,
đặt bản thân vào hoàn cảnh của họ để hiểu bản chất thật sự bên trong.
Vấn đề nhân sinh được đề cập đến còn là tài năng và tình cảm của nhà
văn Nam Cao. Qua câu chuyện, ta thấy được rằng Nam Cao là một nhà văn rất
tài hoa, bằng chứng là phần kết thúc truyện, với pha “bẻ lái” vô cùng hoàn hảo
và kịch tính, Nam Cao đã làm cho các độc giả không khỏi tránh khỏi giây phút
hồi hộp và bất ngờ. Chính lời nói và suy nghĩ của Binh Tư và ông Giáo đã làm
người đọc cũng như nhân vật trong truyện không đỗi ngạc nhiên: cứ tưởng lão
Hạc theo gót Binh Tư nhưng ai ngờ là lão dùng bả chó để tự sát. Qua đó bày tỏ
tình yêu của Nam Cao đối với lão Hạc nói riêng và người dân nghèo nói chung.
Họ là những người thấp cổ bé họng, không có tiếng nói trong xã hội, chỉ biết
nghe theo mà không được thỏ thẻ nữa lời. Từ đó hướng con người đến cuộc
sống hạnh phúc, ấm no. Tất cả là hướng về vấn đề nhân sinh mà nhà văn muốn
gửi gắm đến các đọc giả và độc giả cùng sáng tác.
Ý kiến được đề cập đến là vô cùng đúng đắn và mang tính triết lý
cao. Truyện ngắn là một hình thức được giới văn học ưa chuộng vì nó thích hợp
để diễn tả về vấn đề quanh đời sống con người. Truyện ngắn có thể gây tác
động, truyền cảm tốt những suy nghĩ, tâm tư của nhà văn đến bạn đọc thông qua
những dòng chữ mà không bị gò bó quá mức giống như một văn bản thơ. Nó
luôn để lại cho con người nhiều suy nghĩ, nhiều liên tưởng, nhiều giá trị nhân
văn, giá trị nhân đạo hay vấn đề nhân sinh.

BÀI LÀM SỐ 27
Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho răng “Qua môt nỗi lòng, một cảnh ngô một
sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với ban đoc về vấn đề nhân
sinh”. Từ truyện ngắn chiếc lá cuối cùng, hãy bày tỏ quan niêm của mình về
ý kiến trên.
Bài làm
Truyện ngắn luôn là hình thức, một thể loại lý tưởng để tác giả phán ánh
những câu chuyên về đời sông con người. Chính vì thế, thông qua truyên ngắn
nhà văn muốn đối thoai với người đọc về một vấn đề nhân sinh nào đó hoăc là
gửi gắm tâm tư tình cảm. Sức hấp dẫn đặc biệt của thể loai này chính là chiều
sâu nghệ thuật độc đáo của nó. Vì vậy, bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng:
“Qua một nỗi lòng, môt cảnh ngộ môt sư việc của nhân vật, nhà văn muốn đối
thoai với bạn đoc về vấn đề nhân sinh”. Điều đó được thể hiện qua truyện ngắn
chiếc lá cuối cùng của O-Hen-ri.
Ý kiến “Qua một nỗi lòng….vấn đề nhân sinh” có tính chất ước lệ nó chỉ
cái số ít của truyên ngắn so với thế giới phức tạp, bề bộn của tiểu thuyết. Có
nghĩ là truyện ngắn có khuôn khổ ngắn, ít nhân vật, sự việc. Nó chỉ là một mảnh
nhỏ, một lát cắt của đời sống. Tác giả truyện ngắn thường hướng đếm phát hiên
và khắc họa một hiên tương môt nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hoặc đời
sống tâm hồn của con người. Hành văn của truyên ngắn do đó mang nhiều tâm
ý, cô đọng và hàm súc , tạo ra độ sâu không nói hết của tác phẩm.
Trước hết, vấn đè với nhân sinh mà nhà văn O-hen-ri muốn đối thoại với
ban đọc qua tác phẩm chiếc lá cuối cùng là sư cảm thông trước số phận bất
hanh, nghèo khổ của con người. Gion xi và xiu là hai người hoa sĩ nghèo sông
chung trong một căn hộ thuê ở gần công oa-sinh tơn. Cụ Bơ-men cũng là môt
họa sĩ nghèo thuê phòng ở tầng dưới . Vào mùa đông , gion-xi bị bệnh sưng
phổi rất năng, cô đã tư gắn bó số phấn mình vào chiếc lá cuối cùng. Cô rất lo
lắng, sợ hãi với căn bệnh của mình. Tại sao lai ông trời lai bất công như vậy, đã
nghèo rồi lại cònkhoong khỏe mạnh. Gion-xi chỉ sợ chiếc lá thường xuân cuối
cùng rẽ rơi và cô sẽ không còn đươc sống trên cõi đời này. Gion-xi chỉ có một
người chi em kết nghĩa không người thân tích. Cô và xiu chỉ biết yêu thương
đùm bọc nhau, quan tam nhau và sồng. Đấy là cuộc đưofi bất hạnh của gion-xi.
Qua truyện ngắn chiếc lá cuối cùng , vấn đề nhân sinh mà nhà văn O
Hen-ri muốn đối thoai với bạn đoc là tình yêu thương giữa những con ngưofi
nghèo khổ. Đó là tình cảm mà xiu dành cho đứa em kết nghĩa của mình. Tuy
không máu mũ ruôt thịt nhưng xiu luôn dành một tình cảm đặc biệt với đứa em
kết nghĩa của mình. Từ ngày gion-xi mắc bệnh, xiu luôn dành hết tình cảm thời
gian và tâm huyết của mình để chăm sóc quan tâm gion-xi. Xiu coi cô như một
phần đời còn lại của mình, nếu thiếu đi người em này thì xiu tưởng như sư sống
như thế gian này một mình chẳng còn có ý nghĩa. Càng đau lòng hơn khi xiu
biết được em mình lại gắn mạng sống của bản thân vào một chiếc lá thường
xuân cuối cùng trên cây. Gánh nặng tâm tư cứ dề năng lên vai hai cô hoa sĩ
nghèo. Và cứ thế trôi qua, vào một buổi sáng, gion-xi thờ thào ra lệnh cho xiu
kéo tấm mành lên xiu làm theo trong vô vong, chán nản. Vì xiu sợ, thượng đế sẽ
cướp đi sinh mạng của người em. Nhưng rồi giây phút kéo tấm mành lên, ai nấy
đều ngac nghiên và bất ngờ khi biết chiếc là thường xuân cuối cùng ấy vẫn còn
đó mặc dù qua một đêm mưa gió bão bùng. Lúc này, giôn –xi khóc sự vui
mừng. có lẽ chiếc lá ấy như liều thuốc xoa dịu đi nỗi lo của hai chi em. Và nhờ
sư kiên kì của giôn-xi đã khỏi bệnh. Và đây cũng là vân đề nhân sinh mà nhà
văn muốn gửi đến ban đọc.
Nếu như tình cảm mà xiu dành cho ioon-xi luôn bôc trực thì tình cảm mà
cu bơ-men dành cho giôn-xi lại âm thầm, lặng lẽ. Cụ tuy chỉ là đồng nghiệp và
hàng xóm với hai cô họa sĩ trẻ nhưng tình yêu và sư quan tâm mà cụ dành cho 2
cô gái cũng không nhỏ. Cụ bơ-men rất lo lắng khi biết giôn-xi mắc bệnh viêm
phổi nặng và cụ rất buồn khi biết giôn-xi lại đặt số phận mình vào chiếc lá cuối
cùng. Cụ họa sĩ tuy nghèo khổ, thiếu thốn vật chất nhưng lai có một trái tim bao
la, vô bờ bến. Chính tình yêu thương ấy, đã khiến cho cụ quyết đinh sáng tạo
bất ngờ, đó là vẽ một chiếc lá thường xuân giả thay cho chiếc lá cuối cùng. Tuy
tuổi cao sức yêu nhưng cu vẫn bền bỉ, dám chấp nhận đương đầu với cơn mưa
tuyết phủ phàng. Khong biết cu bơ men đã phải dũng cảm kiên cương như thế
nào mới có thể đánh bại sức mạnh to lớn của thiên nhiên? Thế ấy! Chính vì tình
yêu thương, đức hi sinh cao cả của cu bơ men đã đưa giôn-xi tới một tia hi vong
mới đem đến cuộc đời hai cô gái trẻ một kì tích. Chiếc lá cuối cùng của bơ men
vẽ chính là biểu tượng của tấm lòng và đức hi sinh, sự hi sinh thầm lặng. Và
chính điều đó đã nhen lên sự sống cho hai cô gái trẻ bất hạnh.
Vấn đề nhân sinh ấy còn là tài năng và tình cảm của tác giả O Hen-ri.
Mấy trang kết thúc chuyên chiếc lá cuối cùng cũng đủ chứng tỏ được tài năng
xây dưng truyện theo kiểu có nhiều trình tiết hấp dẫn, sắp xếp chặt chẽ và cách
kể chuyên lôi cuốn, đầy tình thương giữa con người nghèo khổ. Kết cấu đảo
tình huống hai lần: đó là giôn-xi từ cõi chết lai trở về với sư sống còn cụ Bơ
men đang khỏe mạnh lại mắc bệnh sưng phổi. và có thể cho tình huống chiếc lá
thương xuân đáng lí đã rơi nhưng cuối cùng lại ở trên tường là một kết cấu đảo
tình huống lần ba. Qua đó ta còn thấy được niềm cảm thông của O Hen-ri trước
số phận bất hạnh khổ đau của tầng lớp hoa sĩ nghèo trong xã hôi phong kiến.
HỌ là những con người nghèo khổ phải đi kiếm sống bằng nghề không có
tương lai, bi khinh thường. Đồng thời, O Hen-ri cũng bày tỏ thái đô trân trong
tình yêu thương của những con người bất hạnh. TUừ đó hướng con người đến
cuôc sông tốt đẹp. Đây chính là vấn đề nhân văn mà nhà văn muốn gửi đến bạn
đọc.
Ý kiến trên hoàn toàn đúng đắn. truyện ngắn có sức mạnh riêng, kì diệu
riêng nhưng có tác đông sâu xa đối vói tâm tư tình cảm của tác giả. Truyên ngắn
luôn đươc moi nhà văn ưa chuộng. Nó kể đúng về cuôc đời cỷa con người từ
nghèo khổ đến hạnh phúc. Nó để lai một vấn đề nhân sinh cho độc giả. Bạn đoc
chỉ cần khám phá hết giá trị văn học gửi gắ vào trong đó và cảm thông số phận
cùng họ.

BÀI LÀM SỐ 28
Đề bài : Bức chân dung của Hồ Chí Minh qua :"Tức cảnh Pác Bó", "Ngắm
trăng","Đi đường ".
BÀI LÀM
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cánh mạng, một vị lãnh tụ vĩ đại mà
còn là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam. Dù phải chịu rất nhiều cảnh
tù đày trong quá trình hoạt động cách mạng, nhưng Người lại không vì thế mà
buồn bã, chán nản, Bác đã tìm đến thơ như một người bạn đồng hành, một đứa
con tinh thần. Những dòng thơ của Người hay những tác phẩm suất sắc lần lượt
được ra đời trong lúc tù túng đều có những nét đẹp riêng, đó là bức chân dung
tuyệt đẹp của Người. Và một lần nữa, bài thơ" Tức cảnh Pác Bó", " Ngắm
trăng","Đi đường "đã thể hiện rõ điều đó .
Trước hết, bức chân dung của Hồ Chí Minh là một tâm hồn đa cảm, đó
là tình yêu thiên nhiên sâu sắc. Thơ Bác cũng đầy ắp hình ảnh thiên nhiên.
Thiên nhiên trong thơ Bác lúc nào cũng tươi đẹp, tràn đầy sức sống , có xu thế
vươn lên ánh sáng. Sự vật được sắp xếp hài hòa trong mối tưởng quan vận động
hợp lí. Ít lời mà nhiều ý , gợi ra được cái quy luật của vũ trụ nhân sinh. Người
không chú trọng khắc họa chi tiết, thơ Bác chú trọng đến sự vận động bên trong
của sự vật. Bài thơ"Tức cảnh Pác Bó "thể hiện sâu sắc quan điểm ấy :
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng"
Trọn vẹn bài thơ không có màu sắc, không có âm thanh, chỉ là sự ghi nhận thực
tại theo đúng trình tự của nó. Ấy thế mà, đọc xong hai câu thơ, trước mắt người
đọc hiện ra một khung cảnh tươi xanh, thắm biếc của núi rừng Pác Bó. Cặp từ
đối lập"sáng ra", "tối vào" gợi nhịp sống đều đặn , nhịp nhàng, nề nếp của
Người, điều đó càng làm cho Bác thêm gần gũi với thiên nhiên, hòa hợp với
thiên nhiên, xem thiên nhiên như một người bạn. Hình ảnh bờ suối, rau măng
gợi ra không gian của cây xanh, núi dốc, của rừng già,vực sâu. Bất chợt đâu đó
vang lẻn tiếng chim kêu gọi bầy , tiếng vượn hú bên nguồn nước và tiếng gió
đại ngàn vi vu thổi. Cả không gian rộng lớn được giấu kín giờ hiển hiện, phô
bày. Điều kì diệu đó chính là do thủ pháp điểm nhãn, lấy ý gợi hình, nắm bắt
được cái thần thái của cảnh vật và quy luật tâm lí con người của Bác.
Với bài thơ Đi đường, hình ảnh thiên nhiên khó khăn, trắc trở. Đôi khi,
thiên nhiên lại cản bước con người. Thế nhưng, đến khi vượt qua cách trở ấy sẽ
nhận được phần thưởng vô giá mà thiên nhiên ban tặng: đó là cảnh vật vĩ đại
nhìn từ trên đỉnh cao:
"Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non"
Người luôn có ý thức trân trọng thiên nhiên và xem thiên nhiên như một người
bạn , đôi khi là một người tri kỉ, chia sẻ tâm tình. Dù là khi còn tự do hay lúc bị
giam cầm, thiên nhiên lúc nào cũng gần gũi, thân tình, hữu ái. Bài thơ Ngắm
trăng đã thể hiện rõ tình cảm ấy:
"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"
Mặc dù trong ngục tù, Người vẫn dành cho thiên nhiên một sự ưu ái lớn lao.
Vầng trăng sáng trên cao là hình ảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống, đang gọi
mời, tâm tình, bày tỏ với người bạn xưa. Trăng cũng có hồn, cũng biết lắng nhìn
và cảm thông. Còn người vượt lên trên nghịch cảnh, vươn tới ánh sáng. Ngục
tối có thể giam hãm thân thể Người nhưng không thể nào giam hãm tinh thần
của Người. Qua đó có thể thấy, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, lúc còn tự do
hay khi bị giam hãm, Người vẫn yêu mến thiên nhiên tha thiết với một tinh thần
lạc quan, yêu đời say đắm. Không có gì có thể cản trở người tìm đến và đắm
mình trong thiên nhiên hiền hòa.
Bức chân dung của Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện tình yêu thiên nhiên
sâu sắc mà còn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước tha thiết . Với bài
thơ"Tức cảnh Pác Bó", tình yêu đất nước được thể hiện qua hai câu thơ sau:
"Bàn đá chông chênh dịch sử đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang"
Đây là hình tượng trung tâm của bài thơ. Cuộc sống ở núi rừng thật gian khổ,
vất vả, thiếu thốn. "Bàn đá " ở đây là phiến đá tự nhiên có mặt phẳng mấp mô,
gồ ghề. Nơi làm việc cũng không lấy gì là thoải mái vì bàn đá chông chênh,
nhưng dáng điệu của Bác vẫn lồng lộng, đường hoàng. Bác say mê với con việc,
tập trung cao độ vì công việc mà chẳng hề quan tâm đến vật chất quanh mình
với mong muốn đất nước được hòa bình, ấm no, hạnh phúc. Sống giữa thiên
nhiên, làm việc giữa đất trời thoáng đãng, Bác càng cảm thấy vui và hăng say
với con việc của mình. Cụm từ"thật là sang" gợi lên sự tự hào của Bác về cuộc
đời cách mạng, nó sang trọng, cao quý. Sang ở đây không phải là vật chất sang
trọng, giàu sang phú quý mà đây là cái thoải mái tinh thần, cuộc sống đầy ý
nghĩa của người cách mạng. Với Bác cứu dân,cứu nước là niềm vui, là lẽ
sống ,là lí tưởng của mình. Hơn nữa, dường như ở Bác luôn sẵn có cái " thú lâm
tuyền": Bác thích sống ở núi rừng, được sống hòa hợp cùng thiên nhiên, cây cỏ.
Tuy nhiên, cái thú vui của Bác không phải là làm một ẩn sĩ mà là một chiến sĩ,
suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Bác chưa bao giờ cảm thấy khỏi vì cuộc đời của Bác là cuộc đời
vì nhân dân, vì đất nước.
Trong bài thơ Đi đường, tình yêu nước thể hiện bằng sự trải nghiệm thấm
thía của chính người đi đường về nỗi nhọc nhằn trên con đường giải tù vô
tận:
" Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng ".
Mới biết gian lao: quả là có đi mới biết, phải bằng chính những thử thách của
mình mới nhận thức được sâu sắc điều đó. Con đường ở đây lại không phải là
con đường bình thường mà là đường núi: lên xuống, gập ghềnh, quanh co, khúc
khuỷu. Điệp từ"núi cao" thể hiện sự khúc khuỷu, trùng trùng điệp điệp những
ngọn núi nối tiếp nhau. Con người ở đây đâu phải được ngồi yên một chỗ ngắm
cảnh núi non, đâu phải đang du ngoạn thảnh thơi bằng các phương tiện hiện đại
mà là một người tù đang bị áp giải và tự bước chân mình phải đo từng bước trên
đường với bao lần lên dốc đá, xuống khe sâu, qua vực thẳm. Từ "lại" không chỉ
diễn tả sự kế tiếp không dứt khoát của núi tiếp núi mà còn nhấn mạnh nỗi gian
khổ, vất vả của Bác. Cái trập trùng núi non ấy có thể làm người ta cảm thấy mệt
mỏi, ngã lòng nhưng Bác lại cố gắng, quyết tâm, vì dân, vì nước, qua đó càng
làm sâu sắc hơn tình yêu quê hương, đất nước của Bác.
Không chỉ có thế, bức chân dung của Hồ Chí Minh còn thể hiện một
phong thái ung dung, tự tại giữa cuộc đời bão tố. Trong khung cảnh Tây Bắc
hùng vĩ, Người hiện lên như một vị tiên ông, ung dung, tự tại, điềm tĩnh vô
cùng:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang'”.
Dù cuộc đời cách mạng với bao hiểm nguy, khó khăn vất vả thế nhưng Bác vẫn
không hề quá lo lắng. Bởi Người luôn nuôi dưỡng khát vọng giải phóng dân tộc.
Dù có bao nhiêu vất vả thì Người vẫn không hề than vãn, kêu ca. Trọn cuộc đời
Người sống vì nhân dân, vì đất nước. Phong thái ung dung, tự tại không phải là
thờ ơ trước cuộc đời mà đó là ý chí sắt đá của người chiến sĩ kiên trung, vượt
lên trên khó khăn thử thách, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Ở bài Đi đường, đường dẫu xa, núi dẫu cao, Người vẫn ung dung bước
tới. Và khi đã lên đến tận cùng thì cảnh vật bao la hiện ra trước mắt, đem lại cho
Người cảm giác hạnh phúc vô biên của người chiến thắng. Với thiên nhiên, Bác
luôn chân thành và nồng nhiệt, thiết tha. Tinh thần ấy được khẳng định mạnh
mẽ hơn trong bài thơ “Ngắm trăng”, được viết lúc người bị giam cầm trong nhà
tù Tưởng GiớiThạch.Không một bản án dành cho Người, không thời hạn để chờ
đợi, tin tưởng. Thế nhưng, trước cảnh đẹp đêm nay đã khiến Người “khó hững
hờ”. Người tù từ trong bóng tối nhìn ra vầng trăng sáng, còn vầng trăng từ bên
ngoài tìm đến nơi người tù. Người và cảnh giao hòa trong trạng thái thanh cao,
đẹp đẽ vô cùng:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.
Hiện lên trong bức tranh tĩnh lặng ấy hình ảnh người tù, người chiến sĩ ung
dung, đĩnh đạc mắt hướng về trăng sáng. Bóng tối của ngục tù và sựu lãnh lẽo
của buồng giam dường như tan biến mất, chỉ còn đây một tiên nhân đang trong
cuộc thưởng du cái đẹp của đất trời.Một đời Bác đã hi sinh vì nước vì dân. Chưa
bao giờ Người nghĩ đến riêng mình. Với thiên nhiên, Người là một người bạn
chân tình, thủy chung. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào Người vẫn dành cho thiên
nhiên một tình yêu tha thiết, với tinh thần lạc quan yêu đời và phong thái ung
dung tự tại, điềm tĩnh rất đáng kính phục
Bức chân dung của Bác dù ở trong hoàn cảnh nào cũng ngời sáng lên
những phẩm chất cao cả của một con người vĩ đại. Chính tâm hồn lãng mạn
cùng tinh thần lạc quan đã tạo nên sức mạnh giúp Bác vượt qua hết khó khăn
này đến khó khăn khác,giữ vững niềm tin bào cuộc sống, vào tương lai tươi
sáng của dân tộc Việt Nam. Và ta hiểu vì sao con người của Bac, nhân cách của
Bác luôn là một niềm tin, một động lực, một tấm gương cho nhân dân sống và
làm theo Bác.
BÀI LÀM SỐ 29
Đề bài : Thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim con
người. Em hãy chứng minh qua bài thơ khi con tu hú của Tố Hữu.
“Đối tượng của văn học vốn là thân phận con người, nên chỉ có kẻ nào đọc
và hiểu nó sẽ hóa thành không phải là một chuyên gia nghiên cứu văn học mà
là một kẻ hiểu biết con người một cách sâu sắc “quả thực con người là nơi bất
đầu và nơi đi đến của văn học . Với mỗi thế giới khác nhau của mỗi tác phẩm
thì chúng ta hiểu thêm về con người, và đồng thời ta thấy trong đó là những
tình cảm ,tâm tư của người nghệ sĩ. Trong môi tác phẩm thì người nghệ sĩ đóng
vai trò quan trọng , vì thế có ý kiến cho rằng:”Thiên hướng của người nghệ sĩ là
đưa ánh sáng vào trái tim con người “ điêu đó được thể hiện sâu sắc qua bài thơ
khi con tu hú của nhà thơ TỐ HỮU .
Vậy thiên hướng là gì , thiên hướng chính là khuynh hướng thiện về
những điều có tính chất tự nhiên , thiên hướng của người nghệ sĩ là mục đích,
con đường mà một người nghệ sĩ muốn đưa những tâm tư , tình cảm của mình
đến bạn đọc , con người , khuynh hướng chủ đạo của những người cầm
bút. ÁNH SÁNG là những vẻ đẹp lung linh, kì ảo và có khả năng chiếu
rọi, soi rọi , đó là khả năng kì diệu trong việc tác động vào nhận thức tư
tưởng, tình cảm của con người . Ánh sáng vào trái tim con người là những điều
nhà thơ muốn đưa vào trái tim con người, bạn đọc . Vậy chúng ta thấy được
người nghệ sĩ thông qua tác phẩm được viết nên từ cái tài cái tâm của
mình, đem đến cho bạn đọc những hiểu biết về thế giới xung quanh, giúp bạn
đọc nhận thức sâu sắc về bản chất của cuộc sống, con người, nhận ra những
bài học quý giá về lẽ sống, những tư tưởng triết lý sâu xa, thắp sáng trong trái
tim con người những tư tưởng , tình cảm đẹp đẽ giúp con người sống tốt hơn ,
nhân văn hơn
Trước hết qua bài thơ khi con tu hú nhà thơ đưa đến cho ta một ánh sáng
về lòng yêu cuộc sống sâu sắc, đặc biệt là tình yêu cảnh mùa hè đến với con
người
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín , trái cây ngọt đần
Vườn râm dậy tiếng về ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con điều sáo lượn nhàotưng không
Tiếng chim tú hú gọi bầy lần một âm thanh quên thuộc đối với những đồng quê
ở việt nam, ai cũng có kí ứcthât đẹp về tiếng chim . Tiếng chim tú hú cũng đã
gợi lên cho ta một mùa hè đang đến và nó cũng làm thức tỉnh tâm hồn của
người tú trong khung cảnh mùa hè . Sáu câu thơ với giọng thơ vui tươi, nhộn
nhịp đã mở ra trước chúng ta một chốn mùa hè , câu đầu cho thấy một âm thanh
thiêng liêng, còn năm câu thơ sau là cả một sự sống êm đẹp . Cho dù đây chỉ là
bức tranh được viết ra từ trí tưởng tượng của nhà thơ nhưng nó vẫn hiện lên
sống động vui tươi, tràn ngập những hình ảnh, màu sắc, âm thanh. Có âm thanh
của tiếng chim tú hú, có tiếng ve . Những âm thanh vỡ cùng quên thuộc chúng
kết hợp lại với nhau giúp nhà thơ và chúng ta cảm nhận mùa hè bằng thính
giác. Có nhiều hình ảnh lúa , trái cây , bắp , nắng , trời , điều sáo , nhà thơ đang
bị nhốt trong cảnh tù ngục xung quanh chơi có bốn bức tường nhưng với lòng
yêu cuộc sống của mình thì nhà thơ đã tưởng tượng ra canh mùa hè có đây đủ
màu sắc... bức tranh vẫn có rất nhiều màu sắc : màu vàng của lúa đang chín trên
cánh đồng , của những hạt bắp , màu vàng của nắng , tiếng ve ngân trong vườn ,
vị ngọt của trái chín , đôi điều sáo lượn trên bầu trời. Cho dù không được đứng
trước cảnh mùa hè đó nhưng vậy trí tưởng tượng phong phú của mình thì nhà
thơ cho ta thấy được một bức tranh không cần có Thị giác,xúc giác , ...mà vẫn
cảm thấy được tất cả những thứ bên ngoài . Chúng ta có thể thấy được trí tưởng
tượng của nhà thơ quả thật rất đáng nể , với những từ ngữ lúa chiêm đang
chín trái cây như đần.. thì bức tranh muầ hề đang diễn ra trước mắt nhà thơ
và bạn đọc. Nếu không có niệm gắn bó thiết tha với cuộc đời, không có niềm
khát khao tự do mãnh liệt, không có một tâm hồn tinh tế nhạy cảm và một trí
tưởng tượng lãng mạn vô cùng phong phú thì nhà thơ không thể viết được
những câu thơ tuyệt vời đến như thế, chị với một âm thanh của tiếng chim tu hú
mà nhà thơ đã mở cho ta một thế giới kì diệu về mùa hè. Qua đây nhà thơ cũng
đã cho ta thấy được sự quan trọng của vẻ đẹp thiên nhiên, dự ta thấy trân quý và
biết ơn thiên nhiên biết trân quý những giây phút có thể được ngắm nhìn cảm
nhận được thiên nhiên . Bài thơ cùng chả đưa cho ta một ánh sáng về tình yêu
mãnh liệt của nhà thơ và giúp cho ta hiểu được trực tuyến yêu cuộc sống hiện
tại của mình.
Thông điệp mà nhà thơ Tố Hữu muốn gửi đến cho bạn đọc không chỉ là
ánh sáng về tình yêu cuộc sống mà còn là ánh sáng về tình yêu đất nước ,khát
vọng tự do mãnh liệt .
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngọt Làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!
Bốn câu thơ lục bát chính là hai câu cảm thán trực tiếp vật ra từ tâm trạng ngột
ngạt, uất ức của người tù . . Cho dù đây lả bốn câu thơ ngắn nhưng gói gpn
trong đó là rất nhiều tâm trạng của nhà thơ . Nhà thơ nghe hè , cảm nhận mùa hè
chỉ qua tiêbg chim tú hú. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi
qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ . Trong lòng
của mình nhà thơ đã cảm nhận được không khi mùa hè ở ngoài trời ở đó có
nhiều hình ảnh màu sắc... còn hiện tqi , kẻ thù đang giày xéo quê hương , biến
nhửng cánh đồng thành hoang mạc , và thực chất không gian tự do mà nhà thơ
khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tu hãm, có sự vật , con
người nhưng cũng trở nên không có hồn . Khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí , là
tâm trạng uất ức , ngột ngạt muốn đạp vỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, hiện
tại thực sự . Với những từ ngữ đanh thép đập tan , chết uất đã cho thấy được
tinh thần yêu đời , yêu nước cháy bỏng . Nếu như ở khổ thơ trước nói về một
bức tranh mùa hè sống động, vui tươi với tình yêu thiên nhiên sâu sắc thì ở khổ
thơ thứ hai nhà thơ cho ta thấy được một hoàn cảnh phải chịu cảnh ngục tù tăm
tối và đồng thời ta thấy được một khát vọng tự do , tình yêu nước mãnh liệt . Ôi
, thôi , làm sao cho thấy một nỗi đau mà nhà thơ phải chịu. Con chim tu hú
ngoài trời cứ kêu như một vũ khí thúc dục nhà thơ quyết tâm đứng dậy tìm lại
sự tự do, làm cho khát vọng tự do càng cháy bỏng , mạnh liệt hơn . Khổ thơ này
đã cho ta cảm nhận rõ hơn ánh sáng về tình yêu đất nước, khát vọng tự do , giúp
ta càng yêu thêm quê hương, đất nước.
Để có thể truyền tới cho ta những ánh sáng thì nhà thơ đã sử dụng thành
công các biện pháp nghệ thuật. Bài thơ khi con tu hú lầ một bài thơ kết hợp hài
hòa giữa cảnh và tình . Cảnh mở ra rạo rực , tha thiết , tình lắng đọng da diết ,
trầm buồn . Thể thơ lục bát truyền thống, sử dụng nhuần nhuyễn giữa hoán dụ ,
ẩn dụ , liệt kê, đối lập , từ ngữ giàu sức biểu đạt , ngắt nhịp sáng tao , giọng thơ
có lúc nhẹ nhàng, êm ái , vui tươi có lúc dồn dập, mạnh mẽ đanh thép. Với
tâm hồn dân tộc , ngòi bút linh hoạt , mềm mại , tố hữu xứng đáng với danh
hiệu con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng việt nam.
Nhận định “thiên hướng của người nghệ sĩ là đưa ánh sáng vào trái tim
con người “ là hoàn toàn đúng. Quq bài thơ khi con tu hú nhà thơ TỐ HỮU đã
đem đến cho ta ánh sáng về tình yêu cuộc sống , tình yêu thiên nhiên , ánh sáng
về tình yêu đất nước, khát vọng tự do. Bài thơ đã được viết ra cách đây khá lâu
nhưng giá trị của nó vẫn giữ mãi .

BÀI LÀM SỐ 30
Đề bài: Qua một số phận con người, ta nhận ra bóng dáng của một thời đại, nhận
ra bức tranh xã hội đương thời. Chứng minh qua một tác phẩm đã học.
Bài làm
Văn chương có hai loại: "Loại đáng thờ và loại không đáng thờ, loại không
đáng thờ là loại chuyên chú vè văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú về
con người". Đúng vậy! Một tác phẩm muốn sống mãi với thời gian, năm tháng,
đi cùng với bạn đọc thì nhà văn phải hướng đến con người và phục vụ con
người. Vì vậy, có ý kiến cho rằng:" Qua một số phận con người, ta nhận ra bóng
dáng của một thời đại, nhận ra bức tranh xã hội đương thời". Điều đó được thể
hiện sâu sắc qua tác phẩm Chị Dậu.
Trước hết, số phận của chị Dậu qua tác phẩm Tức nước vỡ bờ của Ngô
Tất Tố ta nhận ra bức tranh xã hội phong kiến đương thời, nhận ra số phận
bất hạnh của người nông dân. Bối cảnh trong tác phẩm là hình ảnh của làng
Đông Xá trong những ngày đang bị bọn lí chủ, cường hào đi thúc giục sưu thuế
cho bọn chúng. Mà nhà chị Dậu lại là một trong những gia đình khó khăn nhất
trong làng. Vì không thể trả nổi mức thuế cao vô lí mà anh Dậu đã bị bọn chúng
bắt trói lại, đánh đập dã man. Cực chẳng đã, chị Dậu đã phải bán đi đàn chó mẹ,
chó con cùng đứa con gái lớn nhất cho nhà Nghị Quế với mức giá rẻ mạt để có
tiền cứu chồng ra khỏi bàn tay sát nhận của bọn cường hào. Qua đây, chúng ta
có thể thấy được hình ảnh của một người phụ nữ nông dân tuy thất học nhưng
luôn hết lòng vì chồng, phải gánh vác công việc mà đáng lẽ ra dành cho người
đàn ông trong gia đình.
Mở đầu đoạn trích là hình ảnh anh Dậu bị trói trên cây cột giữa sân đình,
đang thoi thóp, kiệt quệ, không thể chống đỡ được sự đau đớn, mỏi mệt cả về
thể xác và tinh thần. Khó khăn lắm, chị Dậu mới có được chút tiền bạc để nộp
sưu. Ấy vậy mà bọn cường hào, tay sai của “ông Lý” lại lôi anh Dậu ra vứt ở
ngoài sân, trao trả lại cho chị và đòi chị phải nộp thêm thuế đinh của người em
trai chồng đã mất từ năm ngoái. Đó là một điều đòi hỏi vô lí, thế nhưng chị vẫn
phải nhẫn nhục. Đau khổ là thế, lo lắng là thế nhưng chị vẫn cố dằn lòng, cố
gắng đưa cho chồng bát cháo loãng, dù chính mình còn chưa có gì ăn. Chị chỉ
nhẹ nhàng bảo với chồng: "Thầy em cố gắng dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”.
Lời của người đàn bà nhà quê tuy mộc mạc nhưng lại mang biết bao tâm tư, tình
cảm mà ít ai sánh được. Thậm chí, chị còn bế cái Tửu ngồi cạnh chồng để nhìn
xem anh ăn có được hay không, có ngon miệng không. Tình cảm của chị phải
son sắt, giàu đức hi sinh như thế nào mới có thể được như vậy trong lúc hoàn
cảnh khó khăn, đầy ngang trái như vậy. Và có lẽ chính tình yêu thương bao la
ấy đã tạo cho chị sức mạnh phi thường chống lại bọn tay sai khi chúng tiến vào,
định cưỡng ép tới bức đường cùng hoàn cảnh của anh chị.
Đám tay sai khi tiến vào cùng roi da, gậy gộc, điều làm đầu tiên của chị là
nghĩ tới người chồng đáng thương của mình. Chị lo lắng anh không thể chịu nổi
bất cứ trận đánh nào nữa. Anh đã hoàn toàn kiệt sức sau đêm qua. Chị chỉ có thể
cầu xin bằng giọng nói run run, đầy hèn mọn, nài nỉ: "Hai ông làm phúc nói với
ông Lý xin cho cháu khất”. Chị cư xử như vậy là bởi vì chị biết hoàn cảnh của
mình bấy giờ, vì chị chỉ là một người phụ nữ nông dân như bao con người khác
mà thôi. Lúc này chị không còn nghĩ được gì ngoài ý chí sôi sục phải bảo vệ gia
đình của mình, bảo vệ người chồng đau ốm cũng những đứa con thơ dại. Thế
nhưng, những tên tay sai ấy đâu còn chút tình người nào. Chúng bỏ ngoài tai lời
van xin của chị, chúng gạt chị ra, định tiếp tục trói anh Dậu dẫn đi, lúc này đây,
chị đã phải quỳ xuống cầu xin: "Cháu xin ông, nhà cháu mới tỉnh được một
lúc”. Nhưng hắn lại tát chị và một mực đòi xông về phía anh Dậu vừa mới tỉnh
lại trong chốc lát.
Tới đây, chị đã không thể nín nhịn được nữa. Sự phản kháng của chị đi theo
mức độ tăng dần lên. Đầu tiên, chị ngăn bọn chúng lại và nói “chồng tôi đau
ốm, các ông không được phép hành hạ”. Chỉ một câu nói thôi nhưng đã như một
lời cảnh cáo của chị về hành động của bọn chúng. Thế nhưng càng nhẫn nhịn thì
bọn chúng lại càng lấn tới. Hắn “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch” rồi “tát vào
mặt chị một cái đánh bốp” rồi vẫn xông về phía anh Dậu. Đến lúc này, chị Dậu
đã không còn giữ được bình tĩnh nữa, chị lao về phía chồng, gạt bọn tay sai ra,
hai tay chống nạnh nói “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”.
Đúng như câu nói “tức nước vỡ bờ”, chị Dậu từ cách xưng hô đầy nhỏ bé,
hèn kém, xưng cháu gọi ông, sau đó chị xưng là “tôi”, và cuối cùng là “bà -
mày”. Có thể có người cho rằng chị Dậu là một người phụ nữ đanh đá thế
nhưng có thể nói rằng, ít ai có thể hành động được như chị. Chị lao vào những
tên muốn bắt chồng chị rồi đánh nhau với chúng. Sức mạnh thật sự của người
phụ nữ trỗi dậy khi họ bắt buộc phải bảo vệ những người thân yêu xung quanh
mình, và cũng có lẽ do chị đã không thể nín nhịn được thêm nữa, chị đã bị buộc
vào bức đường cùng. Thậm chí dù chồng chị có khuyên, chị cũng vẫn đanh thép
làm theo bản năng của chị, chị thà ngồi tù chứ quyết không để bị chèn ép, bị ép
buộc. Cũng như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nói: "Trên cái tối trời, tối đất của
xã hội ngày xưa, hiện lên một chân dung lạc quan của chị Dậu. Bản chất của chị
Dậu rất khỏe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra..".
Câu nói:" Qua số phận một con người, ta nhận ra bóng dáng của một thời
đại, nhận ra bức tranh xã hội đương thời " là một ý kiến đúng đắn. Qua số phận
của chị Dậu trong đoạn trích " Tức nước vỡ bờ" đã miêu tả lại sâu sắc hình ảnh
đầy màu sắc hiện thực của xã hội Việt Nam thời kì trước cách mạng, một bức
tranh xã hội đương thời bất công, tàn bạo, vô nhân tính . Cùng với nó, hình ảnh
chị Dậu cũng được khắc họa một cách rõ nét, dung hòa hai tính cách khác nhau,
đối với những người thân yêu bên cạnh, chị luôn dịu dàng, sẵn sàng hi sinh bất
cứ điều gì, thế nhưng với những kẻ xấu, chị bất chấp tất cả để chiến đấu cùng
chúng. Đó cũng có lẽ là một sự thay đổi lớn trong hình ảnh của người phụ nữ cả
về khí chất và tính cách.

BÀI LÀM SỐ 31
Đề bài: So sánh nỗi buồn của Thế Lữ trong “ Nhớ rừng” và Vũ Đình Liên
trong “ Ông Đồ”
Bài làm :
“Thơ ca là dòng chảy tâm hồn của nhà thơ”.Một bài thơ muốn hay, muốn
chiếm được vị trí trong lòng của độc giả thì ngoài những câu thơ ra, cảm xúc
cũng đóng một vai trò rất lớn. Nếu như một bài văn chỉ có vẻ ngoài hào nhoáng,
tráng lệ mà nhà văn không đặt cảm xúc của mình vào tác phẩm,nó sẽ trở nên
khô khan, nhạt nhẽo.Vậy nên khi “Nhớ rừng” và “Ông đồ” được sáng tác, Thế
Lữ và Vũ Đình Liên đều đặt vào trong đó một tâmm tư, một nỗi buồn man mác
len lõi giữa những giọt thơ.Hai bài thơ này tuy có sự giao thoa về nỗi buồn của
một thời đại đã đi xa nhưng cũng mở ra hai cõi thơ riêng biệt nhưng đi vào lòng
người.
Trước hết,hai bài thơ Ông đồ và Nhớ rừng có sự giao thoa đặc biệt về nỗi
buồn trong quá khứ, đều mang một nỗi buồn man mác nhớ nhung về thời quá
khứ vàng son lẫy lừng. Cả hai bài thơ đều được sáng tác trong phong trào thơ
mới , cùng viết về đề tài nỗi lòng của con người.Đều là tâm sự đau lòng của
những con người ở thực tại luôn khắc khoải nhớ nhung về một thời đị xưa- một
thời đại tự do, huy hoàng.Cảnh nước mất , cảnh nền văn hóa của dân tộc bị biến
mất trở thành một nỗi đau khắc khoải, triền miên, dai dẳng trong sâu thẳm trái
tim của Thế Lữ và Vũ Đình Liên , cũng như con người phải chịu chung hoàn
cảnh lúc bấy giờ. Để xoa dịu, để thời đại xưa được sống lại, cả hai nhà thơ đã
tìm về , nhớ nhung, hoài niệm quá khứ huy hoành, vàng son, tốt đepn trước đây.
Có một điều đặc biệt, cả hâi quá khứ , hai kí ức còn sót lại của ông đồ con hổ
cũng như nhà thơ đều là những quá khứ tốt đẹp, tự do, không vướng bận như
hiện tại, cái tàn ác của xã hội đã đàn áp, vứt khỏi dân tộc việt nam.Cả hai nhà
thơ Thế Lữ và Vũ Đình Liên qua đó, thể hiện lòng yêu nước thầm kìn của mình,
yêu nét đẹp văn hóa truyền thống , căm tức giặc ngoại xâm và tiếc nuối cho vẻ
đẹp của đất nước.
Tuy hai bài thơ có sự giao thoa là như vậy! Nhưng hai bài thơ lại mang hai
nỗi buồn khác nhau, mở ra hai số phận , hoàn cảnh riêng biệt. Bài thơ Nhớ rừng
mở ra một hoàn cảnh bi thương của con hổ khi bị giam cầm trong xiềng xích.
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
.......
Với cặp bào chuồng bên vô tư lợi “
Con hổ bị giam cầm “ trong cũi sắt”, mất đi sự tự do của bản thân, nó căm tức ,
uất ức đã chất chứa thành”khối”, từ một vật vô hình , không thể thấy được lại
trở thành hữu hình trước mặt con hổ . Nó “ gậm “ mãi nỗi căm tức đấy mà
chẳng tan, càng cay đắng , chỉ còn biết “ nằm dài” bất lực , đau khổ, ngày ngày
trông ngày tháng dần qua trong sự chán chường, nhạt nhẽo. Bởi vậy, nó tỏ thái
độ khinh ghét mọi thứ xung quanh, căm tức vì bản thân từ một chúa tể bây giờ
lại bị lũ người ngạo mạn chế giễu, làm thứ đồ chơi mua vui. Hơn nữa, phải chịu
“ ngang bầy”cùng bọn gấu , bọn báo thấp kém, thật là tủi nhục biết nhường nào
khi bản thân bị hạ thấp nhưng vẫn không thể làm gì cả .Không những vậy , con
hổ còn cảm thấy những thuws mà con người tạo ra đều tầm thường, giả dối.
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không thể nào thay đổi
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u
Trong mắt con hổ, con người tạo ra những thứ này để giúp con hổ đỡ buồn chán
, cảm thấy như đang ở trong rừng vậy, nhưng thực chất những thứ đó còn làm
con hổ thê, khinh ghét con người , ôm niềm uất hận ngàn thâu. “Hoa chăm, cỏ
xén, lối phẳng, cây trồng” làm sao có thể so sánh được với rừng cây xanh cao
ngát, rậm rạp, hoang vu của chốn rừng xanh .” Dải nước đen giả suối,những mô
gò thấp kém, dăm vừng lá hiền lành”tất cả mọi thứ đều bắt chước vẻ hoang vu,
rậm rạp của chốn rừng xanh . Nhưng con hổ cảm thấy khinh ghét , cho rằng
những thứ đó tầm thường giả dối, không thể nào thay đổi do lũ người ngạo mạn
bày ra, hổ lại day dứt, nhớ không nguôi “ cảnh nước nom hùng vĩ” tự do ngày
nào Đó là một nét tâm trạng điển hình đầy bi kịch của chúa sơn lâm. Trong
hoàn cảnh bài thơ ra đời (1934) thì nỗi tủi nhục , căm hờn của con hổ cũng là bi
kịch của nhân dân ta trong xiềng xích nô lệ tăm tối
Con hổ phải chịu hoàn cảnh mất đi sự tự do của mình , ngày ngày ôm
niềm uất hận , còn ông đồ cũng đang đau đầu trước hoàn cảnh thực tại:
“ Nhưng mỗi năm một vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
Từ “ nhưng” vang đêm đã trở thành một tiếng nấc thay đổi cuộc đời của ông đồ.
Mọi năm ông đồ được mọi người đến mua, thuê viết rất nhiều , nhưng năm nay
đã vắng dần, không còn cảm giác nhộn nhịp, đông đúc trong những dịp xuâm về
. “ Người thuê viết nay đâu” , họ đâu rồi? Bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành
còn đây, câu đối đỏ đâu rồi, ? Môt câu hỏi mà chính ông đồ cũng đang thắc mắc
nhưng sao không ai trả lời. Một câu hỏi vang lên và biến mất ttong không trung
một cách vô hình.Nếp cũ đã thay đổi. Chữ Nho đã trở thành hàng ế khônga i ưa
chuộng nữa . Trong xu thế chung không thể cưỡng lại ấy, tình cảm ông đồ trở
nên ngao ngán, đáng thương . Hẳn vì” Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” mà
nỗi buồn của ông đồ đã tác động đến cả đồ vật.
“ Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
Giấy và mực là đồ dùng quan trọng để tạo nên những nét vẽ tài hôa của ông đồ.
Có lẽ, giấy và mực dêud buồn cho sự vắng khách của ông đồ, nỗi buồn làm cảm
động tợi cả những vật vô tri , vô giác , khiến chũng cũng phải buồn theo. Giấy
đỏ mà không thắm, không được viết lên những câu đối hay , ý nghĩa , mực mài
rồi nhưng không được dùng đến, đọng lại trong nghiên như nỗi buồn chất chữa
nỗi buồn vậy. Vắng khách đã đành rồi, bây giờ “ ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua
đường không ai hay” ông ngồi đấy, ông vẫn hy vọng có người nhớ tới mình,
nhưng sự hy vọng ấy không ai biết cả , họ không quan tâm , không để ý, bỏ mặc
lòng kiên trì , nhẫn nại của ông. Đến mực thiên nhiên cũng phải rung động , rơi
lệ “lá vàng roui trên giấy/ ngoài giời mua bụi bay” cảnh vâth cũng trở nen
thương xót, đìu hiu trước nỗi buồn sâu thẳm.
Nét riêng biêth đó không chỉ là nỗi buồn của thực tại, mà hai bài thơ còn
riêng biệt về thời quá khứ của mình.Quá khứ của con hồ là một quá khứ hoai
hùng, uy nghi:
“ Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thưở tung hoành hống hách những ngày xưa
.......
Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng”
Cảm giác của người đọc chúng ta là con hổ đang ngược thời gian, bou trong
dòng hoauf niệm miên mân quá khứ.Đau đớn trước thực tại, con hổ chỉ biết đưa
mình trở về thời quá khứ của bản thân .Chính tác giả cũng nói”ta sống mãi trong
tình thương nỗi nhớ” có thể thấy dù đang ở trong cũi sắt, nhưng tâm hồn nó
luôn luôn hướng về rừng xanh,ngôi nhà của nó. Năm tháng dần troi qua, chúa
sơn lâm có bao giờ nguôi được nỗi nhơz rừng. Nhớ” thuở tung hoành hống hạch
những ngày xưa” nhớ vương quốc “miền đất thiêng” mà “ ta “ ngụ trị.
Cách xưng hô “ta” thể hiện cái tôi của bản thân , là nét đặc biệt trong phong
trào thơ mới. Nó nhớ tư thế cao sang, oai hùng, một cái bước chân, một tấm
thân lượn sóng, một cái vờn bóng,... Tất cả đều”dõng dạc, đường hoàng” . Một
chứ “ ta “vang lên đầu kiêu hãnh và tự hào của một chúa sơn lâm. Quyên uy của
“ta” là tuyệt đối. Mọi vật đều phải khiếp sợ, phải “im hơi” khi “ mắt thần ta đã
quắc”. Ta biết giữa chốn thảo hoa “ta chúa tể cả muôn loài”. Nỗi nhớ rừng
thiêng liêng, nhớ quyền uy... của chúa sơn lâm chính là nhớ những năm tháng
không thể nào quên . Nỗi nhớ ấy chính là khát vọng sống, khát vọng tự do cháy
bỏng.
Nếu như con hổ có một quá khứ huy hoàng thì ông đồ cũng có một quá
khứ vàng son, tốt đẹp.
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”
Cấu trúc mỗi.. lại cho ta thấy ông đồ chính là 1 hình ảnh vô cùng quen thuộc với
người dân Việt Nam vào mỗi dịp tết đến xuân về. Cùng với màu thắm của hoa
đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tàu và sự đông vui, náo nhiệt
của ngày tết thì hình ảnh ông đồ đã trở nên không thể thiếu được trong bức
tranh mùa xuân. Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm 1 góc
nhỏ trên lề phố nhưng trong bức tranh thơ thì ông đồ lại chính là trung tâm, ông
đã hòa hết mình vào cái không khí nhộn nhịp của ngày tết với những tài năng
mình có:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Từ “bao nhiêu” cho người đọc thấy được nghề cho chữ đã từng được mọi người
rất yêu mến. Sự có mặt của ông đồ đã thu hút sự chú ý của mọi người, ông
chính là trung tâm của sự kính nể và ngưỡng mộ. Hạnh phúc không chỉ là có
nhiều người thuê viết mà còn được tấm tắc ngợi khen tài - Bởi ông có tài viết
chữ rất đẹp. Ba phụ âm 't' cùng xuất hiện trong 1 câu như 1 tràng pháo tay giòn
giã để ca ngợi cái tài năng của ông. Giữa vòng người đón đợi ấy ông hiện lên
như 1 người nghệ sĩ đang say mê, sáng tạo, trổ hết tài năng tâm huyết của mình
để rồi ông được người đời rất ngưỡng mộ. Biện pháp so sánh “ như phượng múa
rồng bay” gọi lên sự tài hoa của ông đồ , tay của ông như có đủ tất cả hoa tay
khi viết ra những .dòng chữ đẹp như vậy khiến tác giả cũng phải thán phục. Với
sự ngưỡng mộ đó thì Vũ Đình Liên còn thể hiện 1 lòng tự hào về truyền thống
tốt đẹp của dân tộc là chơi câu đối chữ, ông tiếc nuối cho nét văn hóa truyền
thống đó đang dần bị quên lãng do chế độ khoa thi thay đổi, chữ nho không còn
được đề cao nữa.Một nét văn hóa đẹp đến thế bây giờ lại bị lãng quên dần đi ,
không ai nhớ tới cả, từng rất được ưa chuộng rồi dần dần mất hút, khiên cho
người ta cảm thấy nuối tiếc, thương xót biết bao.
Hai bài thơ “Ông đồ”và “ Nhớ rừng” đều có những nỗi buồn giống nhau,
nhưng mỗi tác phẩm lại có tâm tư, nỗi buồn hoàn cảnh và tình cảm khác nhau .
Nhưng qua hai bài thơ, độc giả giúp chũng ta hiểu rõ hơn về nỗi khổ riêng của
thi nhân. Với những câu văn đậm nỗi buồn, cả hai bài thơ đã rất xuất sâc khi
bộc lộ cảm xúc và tính cách riêng của mỗi nhà văn. Xin cảm ơn Vũ Đình Liên
và Thế Lữ đã mang đến cho thế hệ chúng ta hai bài thơ mang đậm nỗi buồn sâu
thẳm , để ta hiểu thêm về nỗi lòng các nhà thơ. Dù đã ra đời hơn một nửa thế kỉ
nhưng vẫn luôn được độc giả đón nhận và sẽ tồn tại theo thời gian, năm tháng.

Đề 23-9: Nghị luận về giá trị của bản thân.


Bạn đã từng suy nghĩ về giá trị của bản thân chưa? Có nhiều lúc bạn
thấy mình sống trên đời này thật có giá trị! Nhưng cũng sẽ có đôi lúc bạn cảm
thấy bản thân mình thật vô dụng, những lúc như thế hãy tự nhủ rằng “chắc chắn
mỗi người trong chúng ta đều được sinh ra với những giá trị có sẵn và chính bạn
hơn ai hết, trước ai hết phải hết mình phải nhận ra những giá trị đó”, “giá trị có
sẵn” là những giá trị bản thân vốn có và để nhận ra nó. Con người chúng ta sinh
ra thì chẳng có ai thật sự hoàn hảo. Bạn có thể không được trời phú cho bộ não
thông minh thì bù vào đó lại có được sự kiên trì và chịu khó, ta có thể hát không
hay nhưng lại nấu ăn ngon, ta không được xinh đẹp thì tính nết ta hiền lành,…
Cuộc sống luôn rất công bằng, bạn có thể không có những khả năng đặc biệt,
những năng khiếu trời phú nhưng ẩn sâu bên trong bạn là những giá trị tốt đẹp
và trước ai hết bạn phải sớm nhận ra nó để có thể phát huy thật tốt những điểm
mạnh của mình. Nguyễn Ngọc Ký - Nhà giáo ưu tú của Việt Nam, dù bị bại liệt
cả hai tay nhưng nhận ra rằng đôi chân mình cũng có thể viết được, thầy đã kiên
trì, cố gắng rất nhiều. Bằng trí thông minh cùng những thầy nỗ lực không ngừng
nghỉ, thầy đã chạm được đến niềm đam mê rực lửa trong tim. Và rồi tên của
thầy, cái tên nghe thật đẹp, thật long lanh: Nguyễn Ngọc Ký đã trở nên quen
thuộc, đã sáng rực trong bao con người, bao thế hệ. Tuy nhiên, trong thực tế
không phải ai cũng có thể nhận ra những giá trị sẵn có của bản thân, những
người chỉ biết than thân trách phận, nghĩ mình vô dụng mà không biết tìm kiếm
những giá trị ấy. Trong cuộc sống, đã có rất nhiều người cảm thấy tự ti, buồn tủi
chỉ vì nhận thấy mình không có giá trị như người khác mà không hay biết rằng
mình cũng có những giá trị riêng, những giá trị khác người ta. Những người có
suy nghĩ lệch lạc như vậy cần phải được lên án. Bản thân mỗi người hãy tự
mình tìm đến và phát triển giá trị mà bản thân sẵn có. Là một học sinh đang
ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta hãy cố gắng học tập, phát huy thật tốt những
giá trị của bản thân trong những công việc và trong cuộc sống hàng ngày.

Phần đọc hiểu : “Khoảng trời hố bom” – Lâm Thị Mỹ Dạ.


Câu 1: các phép tu từ:
+ tự sự
+biểu cảm
+miêu tả
Câu 2: biện pháp tu từ đặc sắc:
+ nhân hóa: “Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương”
Câu 3: Theo em, ngọn lửa được nhắc đến ở đoạn trích chính là nhiệt huyết, là
trái tim một lòng hướng đến nền hòa bình của non sông nước nhà. Lấy sự an
nguy của tổ quốc đặt lên vai, coi đó là trọng trách để người con gái mở đường
“cháy rực” niềm tin, tin về một kháng chiến thắng lợi toàn phần của nước nhà.
Câu 4:
+ Nhân vật: Phương Định
+ Tác phẩm: những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê.
Đề: Trình bày suy nghĩ của em về tình yêu tổ quốc của người em gái mở
đường trong đoạn thơ trên bằng một bài văn ngắn. Qua đó, hãy thể hiện thái
độ của bản thân mình về tình yêu tổ quốc của giới trẻ ngày nay.
Con đường Trường Sơn huyền thoại thời kháng chiến chống Mĩ không
chỉ có những chàng trai ra trận “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà còn in dấu
chân của các cô gái thanh niên xung phong dũng cảm, trách nhiệm, hồn nhiên
trong sáng. Qua tác phẩm “Khoảng trời hố bom”, Lâm Thị Mỹ Dạ đã dựng lên
bức tượng đài nữ thanh niên xung phong hiên ngang, sừng sững giữa đất trời
bằng ngôn từ, nghệ thuật đặc sắc, đi sâu vào lòng người. Trong đoạn trích, hình
ảnh các cô gái làm nhiệm vụ phá bom, mở đường hiện ra vừa gần gũi, vừa đáng
khâm phục.
Trước hết, với tổ quốc, với những người chiến sĩ, cô gái mở đường đã
“sáng rực” như một vì sao, hiến thân mình cho sự nghiệp đất nước:
“Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường
Ðể cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Ðánh lạc hướng thù, hứng lấy luồng bom...”
“Chuyện kể rằng” nói nghe sao nhức nhối, làm con tim bao chiến sĩ rơi lệ. bao
nhiêu người đã khóc trong u sầu khi nhắc đến tên em – người em gái quả cảm,
quên thân mình để đất nước bình yên. “Em” đã xả thân để cứu con đường, giữ
vững mạch máu giao thông cách mạng: “cho đoàn xem kịp giờ ra trận”. Dũng
cảm, mưu trí và anh hùng biết bao! Em tự giác, tự nguyện chấp nhận hi sinh:
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình để thắp lên ngọn lửa “Đánh lạc hướng
thù, hứng lấy luồng bom”. Em đã được điều như em mong muốn, ngọn lửa
trong tim em thắp lên đã đánh lừa được lũ giặc lái Hoa Kì, con đường “khỏi bị
thương”, nhưng thật buồn là em đã hi sinh. “Hứng” là đón lấy, em gái mở
đường đã “hứng lấy luồng bom” do bọn địch thả xuống, san bằng Trường Sơn.
Sao không phải là bom vô tình rơi trúng người con gái quả cảm ấy? Mà lại là do
em tự “hứng”? Phải chăng em làm vậy vì giờ đây trong tâm trí em chỉ thấy mỗi
Tổ quốc, phải chăng vì em thấy Tổ quốc đang sáng ngời trước mắt em? Hành
động của em diễn ra một cách thầm lặng, vô cùng cao cả và anh hùng. Ngọn lửa
mà cô gái thanh niên xung phong thắp sáng lên trong đêm tối để đánh lừa máy
bay giặc Mĩ bằng một thứ nhiên liệu đặc biệt "Tình yêu Tổ Quốc". Đúng như
nhà thơ Xuân Diệu đã nói:
“Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi, bờ sông
Những lúc tột cùng là dòng huyết chảy”
Chỉ một câu thơ tám chữ, Lâm Thị Mỹ Dạ đã khắc vào tâm trí những
người chiến sĩ, những đọc giả hình tượng một người em gái anh dũng, thông
minh và quả cảm: “Đánh lạc hướng thù, hứng lấy luồng bom”. Cô gái mở
đường "đêm ấy" đã hi sinh cực kì anh dũng. Sự hi sinh cao cả của em được
quyện lại trong đất trời bao la, trong dòng suối, trong hương thơm ngất ngây của
cỏ cây hoa lá. Em vẫn ở đó, vẫn từng ngày, từng ngày nhìn đất nước có được tự
do, lớn mạnh và giàu đẹp về sau. Chắc nơi ấy em đang vui lắm nhỉ! Bởi lẽ em
đã vì Tổ quốc mà chọn hi sinh tính mạng của mình. Em thật quả cảm!
“Đơn vị tôi hành quân qua con đường mòn
Gặp hố bom nhắc chuyện người con gái...”
Tố Hữu nói: “Có cái chết hóa thành bất tử”, phải chăng câu nói ấy là dành cho
em – người mở đường trong cuộc chiến chống Mĩ đầy gian khổ nơi chốn
Trường Sơn ghập ghềnh núi đá. Người con gái anh dũng ấy đã vĩnh viễn ra đi,
chỉ còn lại chứng tích "Hố bom". Những người chiến sĩ luôn tưởng nhớ mỗi lần
đi qua con đường ấy vì lúc hi sinh em còn quá trẻ, còn ngây thơ, hồn nhiên
nhưng trong em vẫn đỉnh đạc, chính chắn. Nhớ đến em là cách thể hiện sự
thương tiếc cũng như lòng cảm phục của những người chiến sĩ, những thế hệ
sau này đối với em. Tuy rằng đã không còn thấy xác, thấy da thịt nhưng em đã
quyện với thiên nhiên ngay sau khi ngã xuống, linh hồn em, trái tim em vẫn
luôn lấp ló ở đâu đó trong bầu trời bao la, rộng lớn này. "Tâm hồn em" chẳng
bao giờ phai mờ, nó vẫn sáng ...đêm đêm, như những "vì sao chói ngời lung
linh".
“Em” với Tổ quốc thật anh hùng. Và giới trẻ ngày nay với Tổ quốc cũng
anh dũng như em. Tuy rằng ngày nay không cần súng bom ra chiến trường như
ngày trước nhưng các em vẫn bày tỏ tình yêu của mình đến tổ quốc một cách
sâu sắc. Điều đó thể hiện ở chỗ: học sinh nổ lực học tập làm rạng danh đất
nước; chấp thuận và làm theo những luật lệ do nước nhà đưa ra nhằm củng cố
lại nền dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc. Tình yêu Tổ
quốc ấy còn thể hiện qua những tình cảm giản dị như tình yêu gia đình, tình yêu
thiên nhiên, tình cảm gắn bó giữa người với người. Đó còn là niềm kiêu hãnh, là
niềm tự hào về bản sắc dân tộc: cho ra đời những áng thơ văn ngợi ca quê
hương, bày tỏ tình cảm với tổ quốc; lưu giữ những đồ dùng trong thời kì cách
mạng như cách bày tỏ tình cảm đến những người đã ngã xuống vì thế hệ ngày
nay và mai sau… Đó là cách để giới trẻ ngày nay bày tỏ tình cảm với Tổ quốc.
Nhưng đâu đó trong xã hội này vẫn còn nhiều thành phần như bán rẻ đất nước,
coi thường, lăng mạ những người đã vì ta mà ngã xuống. Những người có thái
độ sống như vậy cần phải lên án, răn đe nền an ninh nước nhà có tính kỉ cương
hơn, để những con người ấy phải thay đổi cách suy nghĩ, hành động của bản
thân.
Tổ quốc rất to lớn, rất thiêng liêng đối với mỗi con người chúng ta. Việc
yêu Tổ quốc phải được bắt nguồn và hình thành từ bản thân mỗi con người.
Giống như người em gái mở đường vậy, “em ấy” thật “đẹp”! Cảm ơn Lâm Thị
Mỹ Dạ đã đưa những thế hệ con người trở về ngày cách mạng, trở về ngày
người con gái anh dũng đã ra đi, để lại chiến tích lớn vang mãi đến về sau. Đó
quả thật là một hình tượng “đẹp”! Một hình tượng đáng được trân trọng, đáng
được gìn giữ!

I.Phần đọc hiểu


Câu 1:Theo tác giả bài viết,người nghèo nhất không phải là người không có 1
xu dính túi mà là người không có lấy một ước mơ.
Câu 2:Nội dung :
-Qua văn bản trên tác giả đã thể hiện sự khâm phục,ngưỡng mộ trước niềm tin
vào bản thân và ý chí,lòng quyết tâm thực hiện ước mơ của cậu bé phụ hồ
nghèo.Đồng thời tác giả cũng đưa ra lời khuyên của mình đối với mọi người,đặc
biệt là các bạn trẻ rằng :Ai cũng cần có ước mơ và hoài bão,phải luôn theo
đuổi,cố gắng thực hiện ước mơ của bản thân mình.Từ đó,tác giả giục giã,kêu
gọi mọi người :Hãy tìm ra ước mơ cháy bỏng nhất của mình..
Câu 3:Tác giả cho rằng “Sống một cuộc đời cũng giống như vẽ một bức tranh
vậy ”,vì:
-Người họa sĩ muốn vẽ nên 1 bức tranh thì phải cần sự chủ động,sáng tạo từ ý
tưởng đến màu sắc và chất liệu.. Cũng giống như sống một cuộc đời,chúng ta
phải hoàn toàn chủ động tạo dựng,vẽ nên cuộc sống của chính mình.
-Nếu chúng ta không chủ động,nó sẽ là những màu sắc mà người khác thích,là
bức tranh mà người khác thấy đẹp chứ không phải bạn.
Chuộc đời chúng ta chính là 1 bức tranh đa sắc màu mà ta vẽ nên trong suốt cả
1 hành trình,vì vậy để bức tranh ấy trở nên đẹp đẽ,để cuộc sống của ta thực sự
có ý nghĩa,1 trong những điều ta cần làm ngay là biết đánh thức ước mơ trong
trái tim.
Câu 4:Thông điệp có ý nghĩa nhất đối với em là:
-Câu chuyện mang đến cho ta 1 thông điệp ý nghĩa đó là:Luôn đặt niềm tin vào
bản thân khi thực hiện ước mơ,luôn biết nuôi dưỡng và không ngừng theo đuổi
ước mơ của bản thân mình dù gặp trở ngại,khó khăn.
-Vì nó giúp cho mỗi bạn đọc nhận thức đúng đắn về vai trò của ước mơ đối với
mỗi con người.Nó cứu sống,thức tỉnh những con người có suy nghĩ sai
trái,không có ước mơ tìm được con đường mới mẻ,đúng đắn cho bản thân mình.
II.Phần làm văn
Câu 1:Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ)trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý
kiến được nêu trong đoạn trích ở phần đọc hiểu :“Người nghèo nhất không
phải là người không có 1 xu dính túi mà là người không có lấy 1 ước mơ ”.
Bài làm :
Trong cuộc sống muôn hình vạn trạng,có ai đó biết định nghĩa về người nghèo
nhất không?Còn tôi đã từng nghe ai đó nói rằng :“Người nghèo nhất không
phải là người không có 1 xu dính túi mà là người không có lấy 1 ước mơ ”. Câu
nói đề cao ước mơ,đề cao vai trò,giá trị,ý nghĩa của ước mơ trong đời sống con
người.Vậy!vì sao con người ai cũng phải có một ước mơ? Nếu có ước mơ,con
người sẽ có sức mạnh,có động lực để vượt qua những gian lao,thử thách của
cuộc sống và có thêm niềm tin vào tương lai,cố gắng theo đuổi những khát vọng
cao đẹp.Chính việc theo đuổi và nuôi dưỡng ước mơ sẽ khiến chúng ta trở nên
giàu có về tâm hồn,tình cảm lẫn tri thức,được mọi người coi trọng và ngưỡng
mộ.Chỉ có ước mơ mới giúp ta tạo dựng được tương lai,tìm lại được bản thân
mình,lắp đầy khoảng trống của cuộc sống thực tại.Ước mơ không phải là là cái
gì sẵn có,cũng không phải là cái gì không thể có,ước mơ giống như 1 con đường
chưa có nhưng con người sẽ khai phá và vượt qua nó bằng sự nỗ lực.Hoài
bão,ước mơ quan trọng và có ý nghĩa với con người như thế,vậy thử hỏi nếu
không có ước mơ họ sẽ sống ra sao?Không có lấy 1 ước mơ,cuộc đời sẽ trở nên
tẻ nhạt và vô nghĩa,tâm hồn sẽ trở nên nghèo nàn và cằn cỗi.Người không có
ước mơ,không muốn bay cao để thoát khỏi thực tế chỉ tồn tại dưới đáy xã hội,bị
coi thường,khinh bỉ và sẽ không bao giờ có cơ hội nhìn thấy bản thân mình.Vì
bởi lẽ,cơ hội chẳng đến với người không đứng lên và hành động,có ai mang
sung đến miệng cho người lười biếng? Nhưng đôi khi ước mơ của họ chỉ mãi là
mơ ước nếu không hành động mỗi ngày và dần dần họ chỉ mãi là con người của
thực tế chứ không phải tương lai.Đây không phải chỉ là 1 định nghĩa trên trang
sách mà thực tế trong cuộc sống có biết bao nhiêu người luôn nuôi dưỡng ước
mơ dù khó khăn để rồi đi đến thành công,như cậu bé phụ hồ nghèo trong câu
chuyện,chắc chắn niềm tin và nghị lực của cậu sẽ chiến thắng cuộc sống thực
tại.Hay thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí,dù bản thân bị liệt cả 2 tay nhưng bằng đam
mê và niềm tin mãnh liệt thầy đã chinh phục ước mơ của chính mình.Cuộc sống
sẽ thực sự tốt đẹp khi trên đời chỉ tồn tại những con người như vậy,nhưng bên
cạnh đó vẫn còn những con người không có ước mơ,sợ thất bại hoặc không đủ ý
chí,nghị lực để nuôi dưỡng ước mơ,ta cần phải phê phán gay gắt đến xã hội. Vì
thế,đừng bao giờ từ bỏ ước mơ của mình! Hãy tự tiến bước! Hãy sống 1 cuộc
đời mà bạn đã mường tượng!.

Đề bài: Bài học về cuộc sống mà em rút ra từ câu chuyện lớn lên trong trái
tim của mẹ( Bùi Xuân Lộc)
Bài làm
Cuộc sống là chuỗi ngày tự hoàn thiện mình. Mỗi ngày là một bài học vô giá
ta nhận được từ cuộc sống. Trong quá trình hoàn thiện chính mình không được
gục ngã, bỏ cuộc trước những khó khăn trong cuộc đời mà thay vào đó ta cần
phải biết chấp nhận những thử thách để có thể đứng vững trong cuộc sống. Và
đó cũng là bài học tôi rút ra được khi đọc câu chuyện Lớn lên trong trái tim của
mẹ.
Đầu tiên ta thấy trong câu chuyện, Bùi Xuân Lộc có nhắc đến hai chữ ''hạt
cát''.Vậy" hạt cát ở "đây là gì? Đó là biểu tượng cho những khó khăn và những
biến cố thất thường có thể xảy ra đến với con người bất kì lúc nào. Câu"Con trai
quyết định đối phó bắng cách tiết ra một chất dẻo bọc quanh hạt cát, biến hạt cát
gây ra những nỗi đau cho mình thành viên ngọc trai lấp lánh tuyệt đẹp , biểu
tượng cho con người biết chấp nhận thử thách để đứng vững, biết vượt lên hoàn
cảnh, tạo ra những thành quả đẹp cống hiến cho cuộc đời, luôn làm chủ hoàn
cảnh và luôn suy nghĩ tích cực, lạc quan. Câu chuyện tuy ngắn gọn nhưng trở
thành bài học sâu sắc về thái độ sống tích cực, phải có ý chí và bản lĩnh mạnh
dạn đối mặt với khó khăn, gian khổ. Luôn luôn làm chủ hoàn cảnh và chinh
phục hoàn cảnh để đạt được kết quả tốt đẹp mới.
Trong cuộc sống, những khó khăn, thử thách luôn luôn rình rập với chúng
ta , vượt qua gian tính , dự định của con người. Lúc đó ta sẽ đầu hàng hay gục
ngã, bỏ cuộc hay thất bại , nhưng bỏ cuộc , đầu hàng chỉ là những suy nghĩ tiêu
cực, không có ý chí. Nhưng ngược lại, nếu lúc đó ta biết đứng dậy, quyết tâm
đánh bại những khó khăn, thử thách trước mắt thì chúng ta đã biết tự hoàn thiện
mình và trưởng thành hơn. Vì vậy, mỗi người phải đối mặt, chấp nhận thử thách
để đứng vững, phải hình thành cho mình nghị lực, niềm tin, sức mạnh để vượt
qua. Vậy, tại sao chúng ta cần phải biết vượt qua những khó khăn , gian khổ?
Chắc đây cũng là thắc mắc của một số người. Khó khăn, gian khổ cũng là điều
kiện thử thách và tôi luyện ý chí, là cơ hội để mỗi người khẳng định mình. Khi
đó, con người sẽ trưởng thành hơn, sống có ý nghĩa hơn. Và câu hỏi ngược lại,
nếu trong xã hội tồn tại những người hèn yếu, thiếu ý chí quyết tâm, bỏ cuộc
trước những khó khăn, thử thách thì sẽ xảy ra điều gì? Những người như vậy sẽ
bị người khác khinh bỉ, ghét bỏ và quan trọng hơn là họ sẽ làm cho quá trình
hoàn thiện bản thân, cuộc đời sẽ bị ảnh hưởng lớn. Những người ngoại quốc hay
khác du lịch vào nước ta gặp được những người có ý chí cầu tiến thì sẽ khen
ngợi, tán dương và mối quan hệ giữa các nước sẽ trở nên lành mạnh, tốt đẹp
hơn. Nhưng nếu xã hội tồn tại nhiều nhân tố xấu như mới gặp khó khăn sẽ bỏ
cuộc, đất nước của chúng ta sẽ không được phát triển mà còn bị các bạn bè
cường quốc chê cười, khinh bỉ. Nếu mỗi người có ý chí , nghị lực vượt qua
những trở ngại trong cuộc sống thì họ sẽ được mọi người yêu mến, góp phần
xây dựng tương lai tươi sáng cho đất nước. Trong cuộc sống vẫn có những con
người vượt lên số phận và làm đẹp cho cuộc đời, không ai khác đó là Bác Hồ, vị
lãnh tụ vĩ đại của đất nước Việt Nam. Trong hành trình tìm đường cứu nước,
Bác gặp phải rất nhiều những nguy hiểm, trắc trở nhưng Bác không đầu hàng
hay gục ngã mà thay vào đó là Bác dũng cảm, quyết tâm để vượt qua nó và
người đã giải phóng hoàn toàn dân tộc, cho chúng ta một đất nước độc lập, tự
do như bây giờ. Hay người con trai trong câu chuyện lớn lên trong trái tim của
mẹ cũng vậy, đã cố gắng nỗ lực, không tống được hạt cát ra ngoài thì nó đối phó
bằng cách tiết ra chất dẻo bọc quanh hạt cát.
Nhưng xã hội ngày nay, ngoài những tấm gương biết kiên trì, quyết tâm,
vượt lên số phận , đứng vững trong cuộc sống thì vẫn còn tồn tại những người
có lối sống hèn nhát, thối chí, mới gặp chút gian khổ đã chấp nhận đầu hàng,
buông xuôi, hơn nữa họ lại còn đổ lỗi cho số phận không công bằng với họ và
còn nảy sinh lòng đố kị với những tấm gương thành công hơn mình. Ta cần phải
phê phán những người có lối sống như vậy và học hỏi những người có ý chí,
quyết tâm vượt khó.
Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng, thuận buồm xuôi
gió mà luôn có những khó khăn, thử thách chờ đợi chúng ta. Phải có ý thức
sống và phấn đấu, không được đầu hàng, mà hãy khắc phục nó để tạo nên thành
quả cho cuộc đời , cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn .
Câu chuyện Lớn lên trong trái tim của mẹ đã mang đến cho tôi một bài học
sâu sắc. Mỗi người hãy biết chấp nhận những gian nan, khó khăn để có thể đứng
vững hơn trong cuộc sống . Bản thân tôi là một học sinh ngồi trên ghế nhà
trường sẽ giữ cho mình một ý chí dũng cảm, quyết tâm như những gì mà tôi đã
nói với các bạn, góp một phần nhỏ bé của mình để giúp cho xã hội ngày càng
tốt đẹp hơn như câu thơ:
"Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công".

I Phần đọc hiểu


Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm
Câu 2:
Biện pháp tu từ:
+ so sánh: “như ta tin ở tuổi 25; tuổi 25 chúng ta là tuần trăng rằm”
+ liệt kê: dám khám phá, bay cao, tự tay mình bẻ lái
Tác dụng:
Tác giả sử dụng thành công biện pháp tu từ so sánh và liệt kê. Tố Hữu đã so
sánh niềm tin về sức mình như tin ở tuổi 25 là tuần trăng rằm để thấy được niềm
tin của tuổi trẻ vào chính mình, hành động, lý tưởng và cả ước mơ. Chính bởi
vậy, biện pháp tu từ liệt kê làm sâu sắc thêm, nhấn mạnh tâm huyết, niềm tin
dâng hiến đấu tranh bảo vệ dân tộc. Liêt kê niềm tin dám khám phá, bay cao, tự
tay mình bẻ lái gợi lên khí chí dũng cảm, kiên quyết quyết định cuộc đời mình.
Đồng thời cũng như một lời nhắc nhở đến bạn trẻ, thế hệ sống phải có lý tưởng
sống cao đẹp, niềm tin vào chính mình bà mọi người để tạo nên những trang sử
hào hùng cho dân tộc.
Câu 3:
Em đồng ý với ý kiến trên. Vì con người chúng ta phải biết suy nghĩ, không nên
dựa dẫm vào người khác. Vàng bạc không thể làm ra chân lí, cũng khó có thể
đưa ta đến thành công. Mà cái có thể giúp ta sáng ngời chỉ có trí óc, do chính
bản thân nên không thể tùy tiện mượn vay, nhờ vã. Thay vào đó hãy tự sũy nghĩ
bằng chính trí óc của mình để đạt được mong muốn, ước mơ.
II. Phần làm văn
Câu 1:
Đề bài: “ Thử thách lớn nhất của đời người là lúc thành công rực rỡ”.
Bài làm
Cuộc sống luôn đặt ra cho ta những thử thách, ai cũng từng biết hay được
dạy rằng, bất cứ rào cản nào cũng cần bản lĩnh để vượt qua, chiến thắng chính
bản thân mình để vượt qua khó khăn. Nhưng, đã có ai vượt qua sự thành công
của mình? Đứng trước vinh quang cũng không mất phương hướng? Nói tới điều
này, G Welles từng nói: “thử thách lớn nhất của đời người là lúc thành công rực
rỡ”.
Vậy thử thách là gì? Là những khó khăn, cản trở do cuộc sống, công việc
đặt ra trên con đường tìm kiếm thành công. Vậy còn “ thành công rực rỡ” có
nghĩa là gì? Là thành công lớn đem lại cả danh tiếng và lợi ích đáng để tự hào
và kiêu hãnh. Câu nói trên đòi hỏi ở người ý chí, bãn lĩnh vượt qua khó khăn và
cũng không ngủ quên trong thành công. Hãy đặt mục tiêu tiếp theo để tiến xa
hơn, để hoàn thiện nhân cách bản than hơn.
Tại sao thử thách lớn nhất của đời người là lúc thành công rực rỡ? Ai
cũng biết, con đường đi đén thành công không bao giờ suôn sẻ, không bao giờ
trải đầy hoa hồng. Điều đó khiến chúng ta phải kiên trì vượt qua thử thách để
đạt được ước mơ. Nhưng khi thành công, con người chúng ta sẽ cảm thấy thõa
mãn, tự hài lòng chính bản thân mình dẫn đến sự chơi bời và sẽ sa ngã thêm lần
nữa. Đối mặt với thành công lại là một thách thức vô cùng lớn. Đó là chúng ta
dễ ngủ sau chiến thắng mà quên rằng “thất bại là thành công’’nhưng “ thành
công cũng sẽ thất bại”. Chúng ta thành công nhất thời không có nghiaax là
thành công mãi mãi. Có nhiều khi thành công sẽ mắc bệnh ngôi sao dễ bị xa
lánh, bỏ rơi, cô lập. Bên ngòai thế giới vẫn khống ngừng thay đổi, không biết
bao thành công tiếp tục nở rộ, liệu ta có ngủ quên trong thành công này không?
Ta thành công không có nghĩa là người khác không thành công. Ta sẽ cho bản
thân tự tin nhưng không vì thế mà tự phụ. Cho nên thành công hay không thành
công cũng vậy, quan trọng là bãn lĩnh trước khó khă, thành công.
Và đây cũng là 1 tấm gương sáng chói để chúng ta học tập. Thầy Nguyễn
Ngọc Kí, nói đến thầy ta cũng phải tán phục trước nghị lực kiên cường của thầy.
Thầy đã bị liệt 2 tay, phải viết bằng chân năm bảy tuổi. Cả chặng đường tuổi thơ
thầy chỉ ước mơ duy nhất là quyết chí học. Và thầy cũng đã vượt lên số phận
đó, trở thành nhà giáo ưu tú viết bằng chân. Cũng đôi chân ấy mà thầy đã viết
sách, dạy học,...để vẽ nên một huyền thoại. Không có gì là không thể mà là bạn
có dám đối đầu với thách thức hay không.
Làm thế nào để vượt qua thách thức ấy? Chúng ta cần bãn lĩnh, sự tỉnh
táo trong nhận thức để nhìn rõ cơ sở dẫn đến thành công. Nhiêu đó không đủ mà
phải không ngưng phấn đấu, học tập, tu dưỡng dù thất bại hay là lúc thành công
rực rỡ. Và phải đặt ra mục tiêu mới, lên kế hoạch hành động đr không phải lãng
phí thời gian, tiếp tục phấn đấu và nhanh chóng thoát ra khỏi giấc ngủ say đó.
Thái độ sống không muốn phấn đấu, không kiên quyết,...cần được phê
phán. Từ đó rút ra được bài học quý giá cho bản thân mình. Mỗi chúng ta nên
học tập, không ngừng phấn đấu dù thất bại hay là thành công rực rỡ. Bản thân
em là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường sẽ luôn phấn đấu học tập để sau
này trở thành người công dân có ích cho xã hội và dân tộc.
Câu nói của G Welles là hoàn toàn đúng đắn với mỗi người. Câu nói giúp
ta tỉnh táo hơn trước thành công của chính mình, giúp ta nhìn nhận lại hành vi
của bản thân và rèn luyện ngày một tốt hơn, để luôn chiến thắng chính mình.
Cho dù là thành công nhưng nên nhớ đừng bao giờ ngủ quên trong giấc ngủ ấy,
trong ánh hào quang sáng ngời. Hãy tỉnh giấc và tiếp tục phấn đấu để thành
công mãi mãi, thành công cả cuộc đời.

You might also like