You are on page 1of 238

Phân tích sâu các tác phẩm

văn học 12

1
ĐỀ BÀI: PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM TRẠNG
BÀ CỤ TỨ TRONG ĐOẠN TRÍCH: “BÀ LÃO
CÚI ĐẦU NÍN LẶNG…U THƯƠNG QUÁ”. TỪ
ĐÓ NHẬN XÉT TÌNH CẢM CỦA TÁC GIẢ
GIÀNH CHO NGƯỜI NÔNG DÂN.
BÀI LÀM
Nhà văn Nam Cao đã từng khẳng đinh “nghệ
thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật
không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ
2
là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than”. Vì
vậy, mỗi nhà văn muốn đứa con tinh thần của mình
bám rễ vào mảnh đất văn chương, ghi lại dấu ấn
trong lòng độc giả thì không đơn thuần chỉ là phản
ánh cuộc sống, làm hiện lên một bức tranh về cuộc
đời muôn màu muôn vẻ mà trước hết phải là một
nhà nhân đạo từ trong cốt tủy. Là một nhà văn chân
chính như thế, Kim Lân-người con đẻ của đồng
ruộng đã gửi trái tim của mình cho cuộc đời, để gom
nhặt những mảnh đời bất hạnh thêu dệt nên một bài
ca thấm đẫm tinh thần nhân đạo mang tên “vợ nhặt”.
Vợ nhặt vừa là bức tranh miêu tả thảm cảnh của
người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi niềm tin và sức sống
của họ: ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng
về sự sống, khao khát tổ ấm gia đình và yêu thương
đùm bọc lẫn nhau. Viết về những người nông dân
khốn khổ ấy, nhà văn đã tập trung xây dựng hình
tượng nhân vật “bà cụ Tứ” một người mẹ thương
con với biết bao nỗi niềm của người từng trải. Và
những nỗi niềm ấy được kim lân thể hiện rõ nét qua
đoạn trích “bà lão cúi đầu…u thương quá”.
3
Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc của
văn học hiện đại việt nam. Nhắc đến ông là nhắc đến
người con đẻ của đồng ruông, một lòng đi về với
đất, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông
thôn (Nguyên Hồng), nhắc đến một mảng văn học
mang đậm hơi thở nông thôn mà đặc biệt là đồng
bằng bắc bộ bởi ông thường gửi ngòi bút của mình
vào cuộc sống và con người nông thôn khó khăn vất
vả nhưng vẫn lạc quan, hóm hỉnh và tài hoa. Những
trang viết của ông đâu đâu cũng là đất, là nếp sống,
hương vị của làng quê Việt Nam phả vào một cách
dung dị, chân thật. Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu cho
phong cách ấy, một phong cách rất đỗi Kim Lân.
Vợ nhặt được gợi cảm hứng từ nạn đói năm
1945, cái năm mà thần chết đem cái đói gõ cửa từng
nhà, len lỏi vào từng ngõ ngách, cõi âm hòa vào cõi
dương, tạo nên một khung cảnh ảm đạm và thê
lương, cái chết tràn lan khắp nơi, sự sống trở nên leo
lét và nhỏ bé, cuộc sống của con người đứng trên vờ
vực của sự tàn lụi “Những gia đình từ những vùng
Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt
díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm
4
ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ.”.
Nhưng điều kì diệu là khi cận kề bên cái chết, con
người Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng về ánh sáng, sự sống và khao khát tình
thương.. Tiền thân của “vợ nhặt” là tiểu thuyết “xóm
ngụ cư” nhưng do chiến tranh giang dở, nhà văn bị
thất lạc bản thảo nên đến năm 1954 nhà văn mới có
cơ hội quay lại bản thảo cũ và rút tiểu thuyết thành
truyện ngắn.
Trước tiên, bà cụ Tứ hiện lên là một người nông
dân nghèo với thân phận ngụ cư, cuộc sống của hai
mẹ con bà chỉ dựa vào những đồng phu xe ít ỏi của
Tràng “căn nhà bà ở mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại”. Bà chính là hiện thân của nỗi khổ con người ,
khổ vì đói, vì nghèo, vì ngụ cư và vì bà không thể
làm tròn trách nhiệm của một người mẹ. Bằng vài
nét phác họa, nhà văn đã cho người đọc cảm nhận
được bề ngoài khổ sở, tiều tụy của người mẹ già ấy
“húng hắng ho”, “lọng khọng đi vào”. Việc Tràng
cưới vợ hay nói đúng hơn là nhặt vợ đã gây nên bao
thay đổi trong tâm trạng bà.

5
Trước hạnh phúc của con trai lòng bà ngổn
ngang nhiều tâm trạng, vừa vui, vừa buổn, vừa
thương vừa tủi. Mà trước hết nhà văn đã để nhân vật
của mình bộc lộ nỗi niềm xót xa, chạnh lòng, chua
cay trước việc con trai nhặt vợ. “Bà lão cúi đầu nín
lặng” câu văn rất ngắn nhưng đủ để lột tả hết bao
cảm xúc, nỗi niềm của người mẹ nghèo. Đằng sau sự
cúi đầu ấy là sự đầu hàng trước số phận, là sự tủi
nhục của một người mẹ không làm tròn trách nhiệm
với con. Trạng thái “nín lặng” để lại cho người đọc
bao nỗi ám ảnh và xót thương. Khi nhận ra cơ sự,
giường như bà uất nghẹn, nghẹ ngào trong sự dằn
vặt không thể nói ra. Vậy tại sao con trai tìm được
hạnh phúc mà lòng bà lại đau dến vậy? Bà tự độc
thoại “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con
là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh
con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Từ
“chao ôi”được đặt đầu câu như một lời than vãn, nhà
văn đã bỏ lửng suy nghĩ của bà bằng dấu ba chấm.
Sau dấu ba chấm ấy có lẽ bao nỗi uất nghẹ, bao tâm
sự của một người mẹ “lực bất tòng tâm”. Từ xưa đến
nay, cưới hỏi là việc hệ trọng của cuộc đời, là lúc
6
trong nhà ăn nên làm nổi, đời người chỉ có một lần
mà con bà lại phải đi nhặt vợ như nhặt một cọng rơm
cạng rác ngoài đường, ngoài chợ, bà không xót sao
được. Có lẽ chính cái đói, cái nghèo đã bóp đi cái
gọi là trách nhiệm của một người mẹ, bao nhiêu sự
đau đớn, tủi hờn đổ dồn lên dấu ba chấm, thể hiện
bao nỗi lòng của người mẹ “có tâm nhưng không đủ
lực”. Là người mẹ trải đời, bà hiểu rằng “ người ta
có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy
được con mình”. Bà hiểu hơn ai hết một đứa một
đứa dở hơi, xấu xí lại nghèo như tràng sẽ không bao
giờ có được vợ, chỉ khi gặp cô gái gặp bước đường
cùng này, cô ta mới lấy Tràng mà Tràng mới có
được vợ như có một món đồ. Để rồi, những uất
nghẹn ấy tạo thành những giọt nước mặt “trong kẽ
mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.
Đó là lúc lí trí không thắng nổi con tim, là lúc mọi
đau đớn, xót xa dâng trào đến đỉnh điểm.Bà khóc vì
thương con, khóc vì số phận bạc bẽo của con trai
mình. Kim lân đã như một nhà quay phim tài ba khi
lia ống kính của mình chớp lấy những giọt nước mắt
đau khổ ấy. Đó là những thước phim cận cảnh, làm
7
hiện lên đôi mắt hằn in dấu chân chim gió sương,
mưa nắng của một người mẹ, giọt nước mắt chảy ra
từ kẽ mắt nứt nẻ theo thời gian. Nỗi niềm của bà cụ
Tứ còn được thể hiện qua ánh mắt “ Bà lão đăm
đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt.
Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh
đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người
chết theo gió thoảng vào khét lẹt.”Mọi nỗi niềm của
bà đều được chứa đựng ở con mắt ấy, mắt bà nặng
trĩu những nỗi lo nỗi buồn, nặng trĩu những đau khổ
của quá khứ mà bà phải trải qua. Màu sắc chủ đạo
trong con mắt ấy là màu đen đặc của bóng tối, không
chỉ là bóng tối của màn đêm,mà còn là bóng tối của
cái đói, cái nghèo, cực khổ bao trùm lên cuộc đời
của bà, là bóng tối của bao nỗi chết chóc, ám ảnh
qua nỗi nhớ của những người đã khuất là chồng và
người con gái. Bóng tối đè nặng lên ánh nhìn, đè
nặng lên tấm lòng của người mẹ nghèo để rồi trong
bà trào dâng một nỗi xót xa cho số phận mình nhưng
hơn hết là lo lắng cho sự tồn tại, tương lai của các
con. Qua cách miêu tả qua ánh nhìn ấy, nhà văn như
đang xoáy sâu, nhập thân làm một với bà cụ Tứ để đi
8
vào ngõ ngách sâu kín, những uẩn khúc của tâm lí
nhân vật. “Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài”đây là
những xúc cảm chất chứa trong lòng không thể nói
ra, thở dài không phải là trách mắng hay khinh bỉ
người con dâu kia mà là tiếng thở dài của bao lo toan
chất chứa cả một đời. Không chỉ là xót thương cho
người con trai máu mủ, xót thương cho cuộc đời của
mình mà bà còn xót thương cho người đàn bà theo
Tràng về làm vợ “bà lão nhìn người đàn bà lòng dầy
thương xót”bà xót cho thân phận của Thị, người phụ
nữ vì cái đói, cái nghèo mà trở nên tiều tụy, rẻ mạt,
phải bán đi cái gọi là “liêm sỉ”để theo Tràng tìm một
mái ấm. Bà cúi đầu xót xa cho Thị, bà hiểu Thị về
làm con dâu của bà là một sự thiệt thòi “Kể ra có
được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình
nghèo, cũng chả ai chấp nhặt chi cái lúc này.”bà biết
rằng đám cưới lẽ ra phải có ông mai, bà mối, phải có
vài ba mâm cơm mời hai bên gia đình nhưng nhà bà
nghèo, cái ăn còn chưa có nói gì là một cái đám
cưới, bà biết Thị thiệt thòi đủ kiểu. “ Nó bây giờ là
dâu là con trong nhà rồi”bà không hề coi khinh
người đàn bà “mang tiếng theo trai kia”, ngược lại
9
bà còn thương yêu, trân trọng, biết ơn người vợ nhặt.
Như vậy, bằng vài chi tiết tiêu biểu, nhà văn đã làm
nổi bật tâm trạng xót xa, chạnh lòng của người mẹ
nghèo khi nhận ra cơ sự. Qua đó, nhà văm đã tìm ra
“hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn”(Nguyễn
Minh àng ) là một người phụ nữ sâu sắc, thương con,
vị tha, nhân hậu phía sau vẻ bề ngoài già cả và tiều
tụy. Đó là vẻ đẹp của bà cụ Tứ nói riêng cũng là vẻ
đẹp của người phụ nữ Việt Nam nói chung. Ta cũng
có thể bắt gặp nét đẹp ấy ở người đàn bà hàng chài
trong tác phẩm chiêc thuyền ngoài xa của nhà văn
Nguyễn Minh Châu, họ đều là những người “áo rách
nhưng lòng vàng“ đáng được trân trọng và ngợi ca.
Đặc biệt 2 người phụ nữ ấy có tình yêu với các con
vô bờ bến và tấm lòng nhân ái sâu sắc: Nếu người
đàn bà hàng chài thể hiện tình yêu ấy bằng cách xin
ngừoi chồng vũ phu đưa chị lên bờ để đánh nhằm
tránh cho các con khỏi bị tổn thương bởi bạo lực gia
đình, chị cảm thông cho hành động vũ phu của anh
chồng do áp lực cuộc sống dồn nén ; thì bà cụ tứ lại
bộc lộ qua những nỗi lo lắng, xót xa cho Tràng, đặc
biệt là sự bao dung, vị tha cho thân phận của Thị.
10
Tấm lòng cao cả đó của người mẹ khiến cho người
đọc thật cảm động. Họ là tiêu biểu cho hình ảnh
người mẹ Viêt Nam với những phẩm chất tốt đẹp!
“Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm
đói người ta hay nghĩ đến con người chỉ nghĩ đến cái
chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề với cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết
mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở
tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con
người”. Đó là những chia sẻ của Kim Lân về “Vợ
nhặt”. Chính vì vậy mà khi khắc họa tâm trạng bà cụ
Tứ, nhà văn không chỉ viết về cái buồn, cái xót xa
mà đằng sau cảm xúc xót xa ấy, ông viết về tâm
trạng vui mừng, lạc quan của người mẹ già trước
tình huống trớ trêu “Tràng nhặt vợ”. Bà nhẹ nhàng
nói với người con dâu “ ừ thì các con đã phải duyên
phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Từ “mừng
lòng” nói lên hết cảm xúc của bà lúc này “mừng
lòng” chứ không phải là “bằng lòng” bởi “bằng
lòng” nói đến sự gượng ép, miễn cưỡng, đối với sự
11
xuất hiện của Thị bà cụ Tứ bà không miễn cưỡng
chấp nhận hay khinh rẻ, ngược lại bà còn trân trọng,
xem Thị là người đồng hành cùng mình bao khó
khăn phía trước. “Mừng lòng” chứ không phải là
“vui lòng” bởi niềm vui có lớn đến đâu cũng không
thể quên đi thực tại ngoài kia, nạn đói vẫn đang
hoành hành, cái chết như ngả rạ vẫn đang tiếp diễn,
đem người vợ nhặt về nhà cũng đồng nghĩa với việc
đêm một miệng ăn về nhà. Có thể nói “mừng lòng”
diễn tả một niềm vui vừa phải, niềm vui trong nạn
đói, không quá sung sướng, không không quá gượng
ép. Bà vui vì từ nay vì từ nay đứa con xấu xí của bà
đã có vợ, gia đình bà có thêm một người phụ nữ để
lo toan. Dù đang cận kề bên cái chết, cái đói nhưng
người mẹ ấy vẫn tin tưởng, lạc quan vào cuộc sống,
đưa ra những lời khuyên cho đôi vợ chồng mới cưới
“nhà ta thì nghèo các con ạ.......về sau”bà đặt niềm
tin vào các con, bà khuyên hai đứa con bảo ban nhau
mà làm ăn rồi vượt qua tao đoạn khó khăn mà mở
mày mở mặt sau này. Bà lão đã tùng một câu tục
ngữ(không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời)để răn
dạy các con. Sự lạc quan của bà cụ Tứ cũng là nội
12
dung mà tác giả muốn truyền tải đến thế hệ bạn đọc,
dùng cận kề bên cái chết, con người Việt Nam vẫn
luôn lạc quan, yêu đời, trân trọng cuộc sống. Đó là
thứ diệu kì của con người Việt Nam mà kim lân đã
tìm được.
Cuối cùng, nhà văn đã khắc họa tâm trạng lo
lắng của bà cụ Tứ qua nỗi lo, nỗi trăn trở về tương
lai. Dù có hạnh phúc đến đâu, sung sướng đến mấy
bà cũng không thể quên hiện thực ngoài kia, cái chết
vẫn đang tiếp diễn, dòng người chết đói đang chất
thành đống ngoài kia, biết đâu ngày mai người nằm
ngoài kia lại là bà, là hai đứa con của bà, bà không
lo sao được. Bao nhiêu câu hỏi dồn dập trong đầu bà
“biết rằng...không?’’ “vợ chồng chúng nó lấy
nhau...không” bà lo liệu vợ chồng Tràng có vượt qua
được giai đoạn này hay lại lặp lại cuộc đời của bà,
lặp lại cái cuộc đời đau khổ, tủi cực mà bà từng trải
qua. Như vậy, với tâm trạng lo lắng, Kim Lân đã
hoàn thành bức tranh tâm trạng của bà cụ Tứ, nhà
văn như hóa thân vào nhân vật để khám phá, tìm tòi
lần lượt những nỗi niềm, cảm xúc của người mẹ “áo
rách nhưng lòng vàng”
13
“Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát minh về
hình thức, một phát hiện mới về nội dung” Vợ nhặt
của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm như thế khi
vừa gửi đến cho độc giả nội dung sáng tạo, mới lạ
vừa là sự độc đáo trong nghệ thuật. Trước tiên, phải
nói đến tình huống truyện éo le, trớ trêu, dở khóc dở
cười “Tràng nhặt vợ”, nếu ví cả tác phẩm là một
dòng sông thì tình huống ấy là một xoáy nước, bởi
nó là nút thắt của câu chuyện, là hoàn cảnh để mọi
nhân vật bộc lộ cảm xúc và phẩm chất trong đó có
bà cụ Tứ. Nhà văn xây dựng tình huống ấy không
phải là để mua vui, mà để làm nổi bật vẻ đẹp phẩm
chất của các nhân vật, cùng làm nổi bật giá trị tư
tưởng của tác phẩm. Khác với những nhà văn khác,
văn của Kim Lân giản dị, mộc mạc như những con
người dân quê, chính vì vậy mà từ ngữ trong Vợ
nhặt cũng như thế mộc mạc và đời thương, gần gũi
với cuộc sống nông thôn. Từ ngữ, hình ảnh trong tác
phẩm không quá trau chuốt, mượt mà nhưng lại
mang lại hiệu biểu đạt cao. Nhắc đến truyện, ta
không thể không nhắc đến nghệ thuật xây dựng nhân
vật. Với bà cụ Tứ, Kim Lân đã không dùng ngòi bút
14
của mình để miêu tả chân dung, mà tập trung miêu tả
nội tâm nhân vật. Nhà văn đã lột tả đầy đủ mọi tâm
trạng của một người mẹ nghèo trước hạnh phúc của
người con trai, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp khuất lấp
bên trong người mẹ già. Cuối cùng, đoạn văn còn là
cách kể chuyện linh hoạt, giản dị, tự nhiên và chân
thật.
“Nói đến giá trị nhân đạo là nói đến thái độ của
người nghệ sĩ giành cho con người mà hạt nhân căn
bản là lòng yêu thương”(từ điển văn học). Với vợ
nhặt cũng vậy, Kim Lân đã gửi gắm giá trị nhân đạo
của tác phẩm và tình cảm giành cho bà cụ Tứ nói
riêng và người nông dân nghèo nói chung. Nhà văn
bày tỏ sự trân trọng, ca ngợi, cho những người
nghèo khổ nhưng sáng ngời phẩm chất tốt đẹp. Đọc
những trang văn mộc mạc của Kim Lân, ta biết được
một bà cụ Tứ nghèo khổ, nhưng đằng sau ngoại hình
ấy lại là người phụ nữ thương con, giàu lòng bao
dung và nhân hậu. Dù cái đói vẫn đang bám riết
nhưng bà vẫn dang rộng vòng tay chào đón người vợ
nhặt, vẫn trân trọng, yêu thương người đàn bà theo
con trai về làm vợ. Có thể nói, đây là vẻ đẹp ngàn
15
đời của người phụ nữ Việt Nam: yêu chồng, thương
con, giàu đức hi sinh và nhân hậu. Ngòi bút của Kim
Lân còn ca ngợi tinh thần lạc quan cùng sự sâu sắc
của người nông dân nghèo khổ. Họ biết quên đi nạn
đói, dù trong hoàn cảnh cùng cực nhất vẫn lạc quan,
tin tưởng vào đảng, vào cuộc đời. Không chỉ ca
ngợi, nhà văn còn đồng cảm, xót thương đối với
những người dân nghèo khổ. Ông xót xa với người
mẹ nghèo, không thể lo cho đứa con trai một cái
đám cưới, xót xa cho nỗi lòng chua xót, quặn thắt
của người mẹ nghèo, bất lực trước hoàn cảnh. Nhà
văn Nam Cao đã từng nói “hãy sống rồi hãy viết,
hãy hòa vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân” đọc
đoạn trích ta thấy Kim Lân như sống cùng những
người dân nghèo để hiểu, để cảm nhận những nỗi
lòng, những khó khăn của họ. Sự ca ngợi, đồng cảm,
xót xa cũng là những giá trị nhân đạo của Vợ nhặt,
đó cũng là cái làm nên giá trị ngàn đời của tác phẩm
“Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui
của người dẫn tới xứ sở cái đẹp” với “vợ nhặt’’ Kim
Lân đã hoàn thành xuất săc sứ mệnh của mình, khi
dẫn người đọc đến xứ sở cái đẹp. Cái đẹp ấy không
16
phải là cái đẹp ở bức tranh thiên nhiên, càng không
phải cái đẹp ở bức chân dung con người mà là cái
đẹp ở tâm hồn người lao động”: nhân hâu, sâu sắc,
lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống. Vợ nhặt đã khép
lại nhưng giá trị của tác phẩm, hình ảnh bà cụ Tứ sẽ
vẫn còn vẹn nguyên trong lòng độc giả. Xin được
mượn một câu danh ngôn để thay cho lời kết này
“trên đời có lắm kì quan, kì quan đẹp nhât là trái tim
người mẹ”

17
18

Đáp án tham khảo Thanh Hóa


Tóm tắt bài văn:
A.Mở bài
B.Thân bài
1.Giới thiệu tg, tp, đoạn trích
2. Giới thiệu khái quát bà cụ Tứ
- Hoàn cảnh
- Ngoại hình
- Hoàn cảnh, tình huống để bà bộc lộ tâm
trạng
3. Tâm trạng chạnh lòng, xót xa
- Cúi đầu nín lặng
-chao ôi....thì...
- rỉ xuống 2 dòng nước mắt
- Ánh mắt
19
- tủi thân cho số phận của con trai “người ta..”
-xót xa cho số phận người vợ nhặt
Thương con, bao dung, nhân hậu
4. Tâm trạng vui mừng, lạc quan
5. Tâm trạng lo lắng
6. Đánh giá nghệ thuật
7. Tình cảm tác giả
- Trân trọng, ca ngợi
- Xót xa, cảm thông
C. Kết bài.

20
Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng
trong đoạn trích “sáng hôm sau..tu sửa lại căn nhà”.
Từ đó, nhận xét sự thay đổi của Tràng.
Bài làm
Đến với mảnh đất văn chương, nếu Nguyễn
Công Hoan coi “đời là mảnh ghép của những nghịch
cảnh”; Thạch Lam ví “đời là miếng vải có nhiều lỗ
thủng, nhiều vết ố nhưng vẫn nguyên vẹn”; và Nam
Cao thì coi “cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi từ
cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận”, thì
Kim Lân lại không nhìn đời bằng con mắt “đau
thương” như thế. Là nhà văn nhân đao, ông đã để
cuộc đời phả gió vào trái tìm mình, để cảm nhận, để
viết nên những trang văn đầy xúc động về những
người nông dân tuy khốn khổ, thiếu thốn nhưng vẫn
lạc quan và chan chứa tình người. Điển hình cho
phong cách ấy là tác phẩm “vợ nhặt”. Vợ nhặt vừa là
bức tranh miêu tả thảm cảnh của người nông dân
nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là
bài ca ca ngợi niềm tin và sức sống của họ: ngay trên
bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khao
khát tổ ấm gia đình và yêu thương đùm bọc lẫn
21
nhau. Viết về những người nông dân khốn khổ ấy,
nhà văn đã tập trung xây dựng hình tượng nhân vật
“Tràng”. Và bài ca ấy được nhà văn gửi gắm ở nhân
vật Tràng thông qua việc miêu tả sự thay đổi về tâm
trạng của anh trong đoạn trích “sáng hôm sau..căn
nhà”.
Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc của
văn học hiện đại việt nam. Nhắc đến ông là nhắc đến
người con đẻ của đồng ruông, một lòng đi về với
đất, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông
thôn (Nguyên Hồng), nhắc dến một mảng văn học
mang đậm hơi thở nông thôn mà đặc biệt là đồng
bằng bắc bộ bởi ông thường gửi ngòi bút của mình
vào cuộc sống và con người nông thôn khó khăn vất
vả nhưng vẫn lạc quan, hóm hỉnh và tài hoa. Những
trang viết của ông đâu đâu cũng là đất, là nếp sống,
hương vị của làng quê việt nam phả vào một cách
dung dị, chân thật. Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu cho
phong cách ấy, một phong cách rất đỗi Kim Lân.
Vợ nhặt được gợi cảm hứng từ nạn đói năm
1945, cái năm mà thần chết đem cái đói gõ cửa từng
nhà, len lỏi vào từng ngõ ngách, cõi âm hòa vào cõi
22
dương, tạo nên một khung cảnh ảm đạm và thê
lương, cái chết tràn lan khắp nơi, sự sống trở nên leo
lét và nhỏ bé, cuộc sống của con người đứng trên vờ
vực của sự tàn lụi “Những gia đình từ những vùng
Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt
díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ.”.
Nhưng điều kì diệu là khi cận kề bên cái chết, con
người Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng về ánh sang, sự sống và khao khát tình
thương.. Tiền thân của “vợ nhặt” là tiểu thuyết “xóm
ngụ cư” nhưng do chiến tranh giang dở, nhà văn bị
thất lạc bản thảo nên đến năm 1954 nhà văn mới có
cơ hội quay lại bản thảo cũ và rút tiểu thuyết thành
truyện ngắn.
Trước hết, Tràng xuất hiện là một anh nông phu
nghèo với thân phận ngụ cư, cuộc sống của mẹ con
anh chỉ dựa vào những đồng phu xe ít ỏi. Đã vậy,
anh còn là một sản phẩm không hoàn hảo của tạo
hóa, “hai mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra, lưng vập vạp
như con gấu” đã vậy anh còn dở hơi “hay ngửa mặt
lên trời cười hềnh hệch”. Có thể thấy, anh hội tụ đủ
23
mọi nguy cơ ế vợ :nghèo, thân phận thấp kém, xấu
xí, dở hơi. Thế nhưng, Kim Lân đã đặt anh vào một
tình huống éo le, ngang trái “Tràng nhặt vợ”chỉ bằng
vài ba câu nói bông đùa. Thế là giữa nạn đói, Tràng
dẫn một cô gái về làm vợ mà nói đúng hơn là nhặt
vợ như nhặt một cọng rơm, cọng rác ngoài đường
ngoài chợ. Điều đó đã gây nên sự thay đổi trong tâm
trạng của bà cụ Tứ, người dân xóm ngụ cư và cả
chính bản thân Tràng.
“Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm
đói người ta hay nghĩ đến con người chỉ nghĩ đến cái
chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề với cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết
mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở
tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con
người”. Đó là những chia sẻ của Kim Lân về “Vợ
nhặt”. Chính vì vậy, sau khi mieu tả cảnh chết chóc,
không gian bi thương của nạn đói và con người năm
đói, Kim Lân đã thổi vào nhân vật sự sung sướng,
phấn chấn và choáng ngợp. Không còn là anh cu
24
Tràng với vẻ mặt đăm đăm, mệt mỏ nữa mà sau đêm
tân hôn, ta bắt gặp một anh Tràng hoàn toàn khác:
vui vẻ và sung sướng. “Mặt trời lên bằng con sào
Tràng mới trở dậy” anh như bị cuốn vào giấc mơ có
vợ, anh như chìm đắm, say sưa vào giấc mơ ấy.
Nhưng một điều bất ngờ là Tràng trở dậy với dáng
vẻ khoan khoái lạ thường “trong người êm ái, lửng
lơ như vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Từ êm ái, lửng lơ
kết hợp với biện pháp tư từ so sánh tô đậm tâm trạng
hân hoan tột độ của anh Tràng khờ khệch ngày nào.
Anh vừa bước ra từ một câu chuyện cổ tích, anh mất
trọng lượng lửng lơ giữa cõi ảo, cõi mơ. Có thể nói,
tình yêu như một liều thuốc tinh thần cho những
người nông dân nghèo khổ. Sau khi có được tình
yêu, Tràng như biến thành một con người hoàn toàn
khác, mang một niềm vui to lớn. Có lẽ đấy là cảm
xúc của người đã lâu không có được tình yêu nay lại
đến một cách đột ngột trong nạn đói. “ hắn ngỡ
ngàng như không phải”. Anh ngờ ngợ về việc mình
đã có vợ, đó cũng là cảm xúc bình thường bởi tình
yêu đến với anh một cách quá đột ngột mà chính
Tràng cũng không định hình được. bước ra giấc mơ
25
này, Tràng lại đi vào một giấc mơ khác, Tràng đi
ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi chứng kiến
sự thay đổi của cảnh vật xung quanh mình. “Hăn
chắp hai tay lửng thửng bước ra ngoài sân’’ không
còn là bước đi mệt mỏi luồn qua xóm ngụ cư hay cái
dáng vạt áo một bên vai nữa mà sau sáng hôm sau,
Tràng trở nên oai phong, mang phong thái rất ung
dung. Đập vào mắt Tràng lúc này là không gian vô
cùng trong lành, thoáng đãng, mang đúng ý nghĩa
của một ngôi nhà “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều
được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy
chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi
niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai
cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín
nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối
đi đã hót sạch”. Ngôi nhà có bàn tay của người phụ
nữ như được mặc một chiếc áo mới, trở nên có sinh
khí, có sự sống, khiến Tràng không khỏi bất ngờ.
Mới hôm qua, anh vừa thanh minh vừa gửi gắm
trách nhiêm lên Thị “nhà cửa không có người đàn bà
nó thế đấy”hôm nay anh đã được chứng kiến một
khung cảnh vô cùng mới mẻ, ấm áp, gọn gàng, mang
26
hởi thở của sự sống. Nếu nhà văn Nam Cao khẳng
định sự hoàn lương của Chí Phèo sau đêm tình với
Thị Nở bằng việc tỉnh rượu đến tỉnh ngộ, hắn cảm
nhận được âm thanh quen thuộc: tiếng chim hót,
tiếng của những người đàn bà đi chợ thì Kim Lân lại
để Tràng thức dậy với tâm trạng ngỡ ngàng tột độ về
khung cảnh sống. Như vậy, bằng vài ba nét bút, hình
ảnh, Kim Lâ đã tô đậm tâm trạng vui mừng, sung
sướng, ngỡ ngàng, choáng ngợp của Tràng sáng hôm
sau.
Văn học là tiếng nói của tình cảm, là thư kí
trung thành của trái tim, chính vì vậy mà ngòi bút
của Kim Lân đã diễn tả một cách sinh động và chân
thật cảm xúc, tâm trạng của Tràng sau đêm tân hôn,
sau khi chứng kiến cảnh tượng bình dị trước mắt.
“Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi
cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng
chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng
thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất
thấm thía cảm động”.Khung cảnh ấy ngày nào chẳng
có, trước đây anh đã phớt lờ đi nhưng hôm nay anh
mới thấm thía cảm động. Người ta chỉ cảm động với
27
những gì diễn ra hằng ngày khi trong họ có sự thay
đổi lớn và ngay hôm nay, ta bắt gặp sự thay đổi lớn,
quyết định cả số phận sau này của anh. Vậy tại sao
trước khung cảnh quen thuộc, Tràng lại cảm động?
Suốt chặng đường dài đằng đẵng của bà cụ Tứ,
Tràng đã không gửi được niềm vui nào vào cuộc đời
của mẹ, anh đã không thể lo cho mẹ một cuộc sống
no đủ nên anh cảm động, anh thấy xót xa, có lỗi.
Còn cô vợ nhặt kia, mới hôm qua thấy ả chao chát,
chỏng lỏn, hôm nay lại chốc dịu dàng đến laj, tiếng
chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất rồi đi thẳng
vfao lòng Tràng. Từ sự cảm động ấy dẫn đến việc
anh thấy “yêu thương, gắn bó với căn nhà này lạ
lùng’’ không còn là anh cu Tràng khờ khạo, vô lo
nữa mà anh yêu ngôi nhà này vô cùng, đối với anh,
ngôi nhà này k chỉ là ngôi nhà che mưa, che nắng
mà còn là nơi của những yêu thương, bao hạnh phúc.
Cuộc đời là vậy, người ta thường chỉ tìm kiếm hạnh
phúc ở những chân trời xa xôi, mà quên đi hạnh
phúc ngay cạnh mình, và Tràng sau khi thức tỉnh,
anh nhận ra yêu thương ở ngay chính ngôi nhà của
mình. Đó cũng là chìa khóa thay đổi cả cuộc đời của
28
Tràng sau này, biến anh trở thành một người đàn
ông trưởng thành, có trách nhiệm hơn trong hôn
nhân, “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái
nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng” dù nạn đói
đang hoành hành ngoài kia, cái chết vẫn tràn lan
khắp đầu làng, cuối ngõ nhưng anh vẫn muốn sinh
con, đẻ cái, đó là một suy nghĩ rất người, anh muốn
vượt qua mọi nghịch cảnh để tạo ra một gia đình
đúng nghĩa. “ Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người,
hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con
sau này”, chữ “nên ngươi’’ nghe mà cảm động biết
bao, bây giờ Tràng mới là con người bởi trước đây
anh chỉ tồn tại chứ không được sống, anh sống một
cuộc đời tẻ nhạt, thiếu thốn tình yêu tưg người cha,
anh vô tình quên đi hạnh phúc bên người mẹ già và
lúc này đây anh mới thấy mình là người, là “nên
người”. Để rồi, anh biết trách nhiệm của mình là
phải lo cho vợ, cho con, đó là suy nghĩ thật đáng
khen ngợi. Dù Thị là người anh nhặt về, nhưng anh
không hề khinh rẻ người đàn bà mang tiếng theo trai
kia ngược lại anh vẫn luôn cảm ơn, trân trạng Thị.
Anh đâu phải là thằng cười hềnh hệch ngày hôm qua
29
mà là người đàn ông trưởng thành trong suy nghĩ, có
trách nhiệm với hôn nhân và khao khát hạnh phúc
mãnh liệt. Những tình cảm, cảm xúc của anh được
trải dài trong những trang văn vô cùng thấm thía,
cảm xúc. Sự cảm động ây không dành cho anh cu
Tràng dở hơi, mừng khi mẹ đi chợ về mà đến từ một
người đàn ông có trách nhiệm với gia đình, với hôn
nhân. Không chỉ trưởng thành trong suy nghĩ mà sự
trưởng thành ấy còn đến từ hành động “Hắn xăm
xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc
gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Xăm xăm khác với
dáng vẻ đăm đăm, mệt mỏi của chiều hôm qua, anh
muốn tu sửa lại căn nhà nghĩa là anh muốn làm trọn
trách nhiệm của người đàn ông trong gia đình, của
một người chồng, người con trai, tu sửa lại văn nhà
là lời tuyên chiến với nạn đói năm 1945. Giữa mùi
gây của xác người, của phông nền u ám và xám xịt,
ta vẫn cảm nhận được mùi hương được chưng cất
của niềm tin và hi vọng, của tình thương. Cái ước
muốn,cảm xúc của Tràng có sự đồng điệu với ước
mơ của Chí Phèo trong buổi sáng ngày hôm sau. Sau
đêm tình với Thị Nở, Chí thèm được lương thiện,
30
“Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia
đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng.
Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm." Tràng và
Chí sau khi có được hạnh phúc đều thức tỉnh, đã
thay đổi. Nhưng mỗi nhà văn đến vơi thi đàn văn
học có một tiếng nói riêng, tiếng nói ấy vừa phụ
thuộc vào quan điểm cá nhân, vừa bị chi phối bởi
hoàn cảnh thời đại. Chính vì vậy mà số phận của
Tràng khác với Chí Phèo, lão Hạc, họ đều tìm đến
cái chết như một cách để chấm dứt mọi khổ đau
nhưng Kim Lân đã để Tràng thay đổi rồi kết thúc
bằng một cái kết mở “Trong óc Tràng vẫn thấy đám
người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Nhà văn đã
soi vào nhân vật ánh sáng của đảng, của thời đại, đó
cũng là nội dung mà nhà văn gửi đến độc giả: dù cận
kê....người việt nam vẫn....
“Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát minh về
hình thức, một phát hiện mới về nội dung” Vợ nhặt
của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm như thế khi
vừa gửi đến cho độc giả nội dung sáng tạo, mới lạ
vừa là sự độc đáo trong nghệ thuật. Trước tiên, phải
31
nói đến tình huống truyện éo le, trớ trêu, dở khóc dở
cười “Tràng nhặt vợ”, nếu ví cả tác phẩm là một
dòng sông thì tình huống ấy là một xoáy nước, bởi
nó là nút thắt của câu chuyện, là hoàn cảnh để mọi
nhân vật bộc lộ cảm xúc và phẩm chất trong đó có
anh cu Tràng. Nhà văn xây dựng tình huống ấy
không phải là để mua vui, mà để làm nổi bật vẻ đẹp
phẩm chất của các nhân vật, cùng làm nổi bật giá trị
tư tưởng của tác phẩm. Khác với những nhà văn
khác, văn của Kim Lân giản dị, mộc mạc như những
con người dân quê, chính vì vậy mà từ ngữ trong Vợ
nhặt cũng như thế mộc mạc và đời thương, gần gũi
với cuộc sống nông thôn. Từ ngữ, hình ảnh trong tác
phẩm không quá trau chuốt, mượt mà nhưng lại
mang lại hiệu biểu đạt cao. Nhắc đến truyện, ta
không thể không nhắc đến nghệ thuật xây dựng nhan
vật. Với nhân vật Tràng , Kim Lân đã không dùng
ngòi bút của mình để miêu tả chân dung, mà tập
trung miêu tả nội tâm nhân vật. Nhà văn đã lột tả
đầy đủ mọi tâm trạng của Tràng sau khi có được vợ,
từ đó tìm thấy hạt ngọc trong tâm hồn của anh cu

32
Tràng. Cuối cùng, đoạn văn còn là cách kể chuyện
linh hoạt, giản dị, tự nhiên và chân thật.
“Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát minh về
hình thức, một phát hiện mới về nội dung” Vợ nhặt
của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm như thế khi
vừa gửi đến cho độc giả nội dung sáng tạo, mới lạ
vừa là sự độc đáo trong nghệ thuật. Trước tiên, phải
nói đến tình huống truyện éo le, trớ trêu, dở khóc dở
cười “Tràng nhặt vợ”, nếu ví cả tác phẩm là một
dòng sông thì tình huống ấy là một xoáy nước, bởi
nó là nút thắt của câu chuyện, là hoàn cảnh để mọi
nhân vật bộc lộ cảm xúc và phẩm chất trong đó có
bà cụ Tứ. Nhà văn xây dựng tình huống ấy không
phải là để mua vui, mà để làm nổi bật vẻ đẹp phẩm
chất của các nhân vật, cùng làm nổi bật giá trị tư
tưởng của tác phẩm. Khác với những nhà văn khác,
văn của Kim Lân giản dị, mộc mạc như những con
người dân quê, chính vì vậy mà từ ngữ trong Vợ
nhặt cũng như thế mộc mạc và đời thương, gần gũi
với cuộc sống nông thôn. Từ ngữ, hình ảnh trong tác
phẩm không quá trau chuốt, mượt mà nhưng lại
mang lại hiệu biểu đạt cao. Nhắc đến truyện, ta
33
không thể không nhắc đến nghệ thuật xây dựng nhan
vật. Với bà cụ Tứ, Kim Lân đã không dùng ngòi bút
của mình để miêu tả chân dung, mà tập trung miêu tả
nội tâm nhân vật. Nhà văn đã lột tả đầy đủ mọi tâm
trạng của một người mẹ nghèo trước hạnh phúc của
người con trai, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp khuất lấp
bên trong người mẹ già. Cuối cùng, đoạn văn còn là
cách kể chuyện linh hoạt, giản dị, tự nhiên và chân
thật.

“Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát minh về


hình thức, một phát hiện mới về nội dung” Vợ nhặt
của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm như thế khi
vừa gửi đến cho độc giả nội dung sáng tạo, mới lạ
vừa là sự độc đáo trong nghệ thuật. Trước tiên, phải
nói đến tình huống truyện éo le, trớ trêu, dở khóc dở
cười “Tràng nhặt vợ”, nếu ví cả tác phẩm là một
dòng sông thì tình huống ấy là một xoáy nước, bởi
nó là nút thắt của câu chuyện, là hoàn cảnh để mọi
nhân vật bộc lộ cảm xúc và phẩm chất trong đó có
bà cụ Tứ. Nhà văn xây dựng tình huống ấy không
phải là để mua vui, mà để làm nổi bật vẻ đẹp phẩm
34
chất của các nhân vật, cùng làm nổi bật giá trị tư
tưởng của tác phẩm. Khác với những nhà văn khác,
văn của Kim Lân giản dị, mộc mạc như những con
người dân quê, chính vì vậy mà từ ngữ trong Vợ
nhặt cũng như thế mộc mạc và đời thương, gần gũi
với cuộc sống nông thôn. Từ ngữ, hình ảnh trong tác
phẩm không quá trau chuốt, mượt mà nhưng lại
mang lại hiệu biểu đạt cao. Nhắc đến truyện, ta
không thể không nhắc đến nghệ thuật xây dựng nhan
vật. Với bà cụ Tứ, Kim Lân đã không dùng ngòi bút
của mình để miêu tả chân dung, mà tập trung miêu tả
nội tâm nhân vật. Nhà văn đã lột tả đầy đủ mọi tâm
trạng của một người mẹ nghèo trước hạnh phúc của
người con trai, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp khuất lấp
bên trong người mẹ già. Cuối cùng, đoạn văn còn là
cách kể chuyện linh hoạt, giản dị, tự nhiên và chân
thật.
Đọc đoạn văn ta cảm nhận được sự thay đổi của
Tràng về tâm trạng cũng như tính cách, từ tâm trạng
lo lắng, bối rối Sang tâm trạng vui mừng và xúc
động,từ một con người ngô nghê chấp nhận cuộc
sống tạm bợ thành một người đàn ông trưởng thành
35
có trách nhiệm với gia đình, muốn xây dựng cuộc
sống. Đó là quá trình chuyển biến sâu sắc của một
con người và nguyên nhân của sự biến đổi ấy là cô
vợ nhặt. Hay nói đúng hơn tình yêu thương, mái ấm
gia đình đã biến anh chàng dở hơi thành một người
đàn ông trưởng thành. Tình yêu có một sức mạnh to
lớn đến thế có thể thay đổi được cả tính cách của
một con người. Điều đó ta cũng có thể cảm nhận
được trong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam
Cao. Chí Phèo và Tràng đều là những nhân vật tiêu
biểu cho người nông dân nghèo bì dồn đến bước
đường cùng, Tràng- một anh nông dân ngụ cư lại
hơi, Chí Phèo một anh nông phu bị xã hội khinh rẻ,
bị biến đổi nhân hình lẫn nhân tính. Hai nhân vật
đều được tình yêu thương cảm hóa, Nếu Chí Phèo từ
khi gặp Thị Nở, hắn thèm được lương thiện, thèm
làm hòa với mọi người thì Trạng khi có được tình
yêu đã thay đổi chóng ván, anh đã chuẩn bị cho một
cuộc đấu tranh chống lại nạn đói. Vậy mới thấy tình
yêu có sức mạnh vô hình làm thay đổi cả một con
người. “ cái cốt lõi của văn học là tính nhân
đạo”(Nguyên Ngọc) thông qua việc miêu tả sự thay
36
đổi trong tâm lý nhân vật Tràng ,nhà văn muốn gửi
đến một giá trị nhân đạo sâu sắc, ông ca ngợi, trân
trọng và đặt niềm tin vào con người họ sẽ vượt qua
được khó khăn thử thách họ sẽ cùng nhau chiến đấu
với nạn đói.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” đọng lại trong lòng độc
giả vô số những ấn tượng khác nhau: từ cách miêu tả
khung cảnh ngày đói một cách chân thực đến biễn
biến tâm lý bậc thầy của Kim Lân, nhưng có lẽ cái
đọng lại cuối cùng vẫn là cách nhìn đời, nhìn người
đầy xót xa và thương yêu của nhà văn, là niềm tin
mà dường như ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta
qua thiên truyện: Rằng, dù cuộc sống có bi thảm đến
đâu thì cái cội nguồn nhân bản lưu giữ trong nhân
dân vẫn là bất diệt; rằng con người không có khao
khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như
một con người, được nên người.

Cảm nhận diễn biến tâm trạng của Tràng


trong buổi sáng đầu tiên Tràng có vợ, từ
đó nhận xét về sự thay đổi của nhân vật 5.0
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25

37
Có đủ mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài
nêu được vấn đề. Thân bài
triển khai được vấn đề. Kết bài khái quát
được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận 0,25
Cảm nhận về sự thay đổi của nhân vật
Tràng trong buổi sáng hôm sau.
c. Triển khai vấn đề nghị luận 1.0
Vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn
chứng.
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề 0,5
nghị luận
Diễn biến tâm trạng của Tràng trong buổi 2,0
sáng hôm sau:
- Sáng hôm sau tỉnh dậy, Tràng hạnh 1,5
phúc, sung sướng, ngỡ ngàng,
không dám tin vào việc mình đã có vợ.
Anh nhận ra sự thay đổi mới
mẻ của căn nhà, cảm nhận được không khí
gia đình đầm ấm, vui vẻ. Từ
đó, anh có sự chuyển biến trong tình cảm
và thay đổi trong nhận thức:
thấy yêu thương, gắn bó với ngôi nhà; ý
thức được trách nhiệm và bổn
38
phận của mình với gia đình; mong muốn
biến cảm xúc tích cực thành
hành động cụ thể.
- Trong bữa cơm ngày đói, Tràng có cảm 0,5
giác tiếc rẻ, vẩn vơ khi nghe
người vợ kể về việc ở Thái Nguyên, Bắc
Giang người ta phá kho thóc
Nhật chia cho người đói; cảm giác được
thôi thúc hành động để thay
đổi số phận (Trong óc Tràng vẫn thấy đám
người đói và lá cờ đỏ bay
phấp phới ...).
Nhận xét về sự thay đổi của Tràng: 0,5
- Từ một người vô tâm, trở thành một
người đàn ông trưởng thành
trong suy nghĩ, biết yêu thương, quan tâm
có trách nhiệm với gia đình.
- Từ một người đi bên lề của cuộc đấu
tranh, đã bước đầu có suy nghĩ
về hành động tham gia cách mạng để có
cuộc sống ấm no.
- Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi: sự
đầm ấm của hạnh phúc gia đình
đã đem đến sức sống mới cho người đàn
ông đang bên bờ vực của cái
39
đói và cái chết.
- Ý nghĩa sự thay đổi: thể hiện niềm tin và
sự trân trọng của nhà văn
Kim Lân vào sức sống của người lao động.
Nghệ thuật 0,5
Đặt nhân vật vào tình huống truyện độc
đáo, vừa bất ngờ, vừa éo le;
xây dựng nhân vật chân thực, sống động
qua bút pháp miêu tả tâm lý
tinh tế; ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên...
d. Chính tả, ngữ pháp 0,25
Đảm bảo chuẩn chính tả ngữ pháp tiếng
Việt.
e. Sáng tạo 0.5
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị
luận, có cách diễn đạt mới
Tham khảo đáp án môn văn tỉnh Vĩnh Phúc

40
Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong
đêm tình mùa xuân. Từ đó, phân tích giá trị nhân
đạo trong tác phẩm.
Bài làm
Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân
Đó là những vần thơ dạt dào của nhà thơ Chế Lan
Viên khi viết về Tây Bắc- vùng đất trời mây non
nước, sớm sương muối, trưa sương mù, trưa hoe hoe
nắng, tối tù mù mây. Tầy bắc đã trở thành nơi gửi
gắm tâm tình của biết bao trái tim nghệ sĩ, Tô Hoài
đã từng thốt lên rằng “đất và người Tây Bắc từ đã để
thương để nhớ trong tôi”niềm thương, nỗi nhớ ấy đã
41
tạo nên những áng văn lay động bao trái tim độc giả
và Vợ Chồng A Phủ là một tác phẩm như thế. Một
tác phẩm viết về mảnh đất Tây Bắc rộng lớn lấp
lánh vẻ đẹp của con người ở vùng núi cao không
cam chịu sự chà đạp của bọn chúa đất vùng lên
giành lại tự do, hạnh phúc sức sống ấy được Tô Hoài
truyền tại rõ nét ở nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân.
Tô Hoài là nhà văn lớn của văn học hiện đại
Việt Nam. Nhắc đến ông là nhắc đến một mảng văn
học mang đậm phong tục tập quán của nhiều vùng
trên đất nước, đặc biệt là vùng núi Tây Bắc. Ông còn
là nhà văn hấp dẫn người đọc bởi trần thuật hóm
hình của người từng trải. Vợ chồng A Phủ là tác
phẩm tiêu biểu phong cách tô hoài, được sáng tác
năm 1952, là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ, thu đước
trong chuyến đi thực tế của nhà văn Tô Hoài cùng
bộ đội, giải phóng đến Tây Bắc hùng vĩ. Ở đó, nhà
văn được ăn, ở, làm việc với đồng bào dân tộc nơi
đây và ông đã viết vợ chồng A Phủ như một cách để
trả toàn sâu nghĩa nặng cho họ.

42
Trước tiên, Mị xuất hiện la bông hoa ban thơm
ngát của núi rừng Tây Bắc. Nhà văn đã không dùng
một mĩ từ nào để diễn tả vẻ đẹp ấy nhưng ông đã
miêu tả gián tiếp thông qua chi tiêt “trai đứng nhẵn ở
chân vách đầu buồng Mị”. Không chỉ đẹp, Mị còn
tài năng “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi
sáo”. Mọi vẻ đẹp nội tâm của Mị thể hiện ở câu nói
thiết tha, khẩn khoản với người cha già “Con đã biết
cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô trả nợ thay
cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.” Câu nói toát
lên khí chất của một con người, cô không chấp nhận
cuộc hôn nhân không hạnh phúc, câu nói thể hiện Mị
là người khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Cứ
tưởng,một cô gái như Mị sẽ được hưởng hạnh phúc
nhưng bi kịch của cô bắt đầu từ lúc bị A Sử lừa bắt
về làm vợ dưới hình thức “con dâu gạt nợ”. Ở đó,
Mị sống cuộc sống của một “xác người trong kiếp
súc sinh”. Mị bị biến thành cỗ máy lao động cho cha
con nhà nhà Thống Lí, thân phận còn thấp hơn con
trâu, con ngựa. Không chỉ bị đày đọa về thể xác, cô
còn bị lăng nhục về tinh thần, tê liệt tinh thần phản
kháng cùng khao khát được sống, được hạnh phúc.
43
Như vậy, có thể thấy chính cha con Thống Lý, chính
hoàn cảnh sống, bọn thực dân, lang chúa đất đã cướp
đi tuổi thanh xuân dạt dào của Mị, khiến cô “còn
sống mà như đã chết”
Cứ tưởng cô Mị ngày nào đã chết đi, nhà văn sẽ
để cho nhân vật trượt dài trên con đường đau khổ ấy
nhưng là nhà văn nhân đạo, Tô Hoài đã đến gõ cửa
tâm hồn Mị, để cô Mị ngày nào hồi sinh. Trước hết,
sự hồi sinh thể hiện ở tâm trạng “thiết tha, bổi hổi”
khi nghe tiếng sáo “Mị nghe tiếng sao vọng lại, thiết
tha bổi hổi”. Đây là tâm trạng đánh dấu cho sự hồi
sinh đầu tiên của Mị sau bao tháng ngày sống như
một cái bóng, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa
thì ngay lúc này chính không khí ngày xuân ở Hồng
Ngài đã đánh thức tâm hồn Mị để cô thiết tha khi
nghe tiếng sáo: “Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu".

44
. Bài hát ấy đã lâu Mị không hát, điệu sáo ấy đã lâu
Mị không thổi nhưng Mị vẫn nhớ nghĩa là Mị không
vô cảm, nói đúng hơn sự vô cảm chỉ là lớp vỏ bên
ngoài mà ẩn sâu trong sự vô ảm ấy là một sức sống
tiềm tàng mãnh liệt, nó như một tàn đám hồng trên
thanh củi, chỉ cần một cơn gió thổi qua nó có thể
bùng cháy dữ dội bất cứ lúc nào, nó có thể bị vùi dập
chứ không thể bị tiêu tàn. Và chính tiếng sáo trong
đêm tình mùa xuân là tác nhân gây nên sự thay đổi
lớn ấy. Tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật độc đáo, có
sức lay đông lớn đổi với Mị. Tiếng sáo như một cơn
gió thổi bay đi lớp tro tàn nguội lạnh bao phủ lấy
tâm hồn Mị bao năm nay, là sợi dây kết nối Mị với
cuộc sống. Tiếng sáo xuất hiện còn là phương tiện
để Mị trở về với quá khứ tươi đẹp mà Mị vô tình
lãng quên. Tiếng sáo còn thôi thúc Mị hành động,
phản kháng để đạp đổ sự áp bức, bóc lột của bọn
chúa đất miền núi. Có thể nói, nhà văn đã rất tinh tế
khi xây dựng chi tiết tiếng sáo mà không phải là một
chi tiết khác bởi tiếng sáo gắn liền với phóng tụ tâp
quán của đồng bào Tây Bắc, gắn liền với tuổi trẻ,
thanh xuân , tài năng của Mị, chỉ có tiếng sáo mới
45
mở cửa được tâm hồn đã đóng chặt của cô gái người
Mèo, mới phá bỏ được bức tường ngăn cách Mị với
thế giới bên ngoài. Hình ảnh âm thanh tiếng sáo
khao khát trong Mị ta chợt nhớ đến những mơ ước
của Liên trong tác phẩm hai đứa trẻ khi đêm nào
cũng thức chờ đợi lắng nghe âm thanh, ngắm ánh
sáng của đoàn tàu từ Hà Nội về, cả hai đều có khát
vọng thoát khỏi hiện thực tối tăm nhưng Liên thì vẫn
chìm trong "bóng tối" còn Mị được giải thoát sau
đêm đông cởi trói cho A Phủ ở cuối truyện.
Sức sống tiềm tàng của Mị còn được nhà văn Tô
Hoài tô đậm ở chi tiết “Mị lén lấy hũ rượu, uống ực
từng bát”. Uống ực không phải cách mà người ta
nhâm nhi, thưởng thức, mà uống để nuốt cay, nuốt
đắng, uống để quên đi thực tại đau khổ để sống trọn
với quá khứ tươi đẹp trước kia. Mị lấy men say để
quên đi cay đắng cuộc đời, uống rượu Mị hồi tưởng
về quá khứ vàng son trước kia, để rồi “Mị uốn chiếc
lá trên môi...thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Sau khi
uống rượu Mị thấy “phơi phới trở lại, trong lòng đột
nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước. Mị
trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Lần đầu
46
tiên Mị thấy phơi phới như thế sau bao nhiêu năm
câm lặng trong nỗi cô đơn, sức trẻ bỗng nhiên phơi
phới trong Mị như những đêm tết trước kia. Lần này,
sự hồi sinh ấy không chỉ le lói hay nhen nhóm nữa
mà nó đã cháy mạnh mẽ, Mị đã tìm lại được tuổi trẻ,
thanh xuân, và tìm lại được chính mình, tìm lại được
một cô Mị yêu đời, yêu vui của ngày xưa. Chính vì
thế mà Mị không cam chịu sống trong căn buồng có
cửa sổ bằng bàn tay, không biết ngày hay đêm, là
sương hay là nắng nữa “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ,
Mị muôsn đi chơi’’ câu nói sử dụng biên pháp điệp
cấu trúc tô đậm khát khao tự do mãnh liệt của cô gái
người Mèo, câu nói ấy đánh dấu cho quá trình
chuyển biến về nhận thức của Mị: từ cô gái chỉ biết
phó mặc cuộc đời của mình cho người khác, mặc kệ
sự dày vò, chà đạp của cha con nhà thống lí, Mị giờ
đây đã nhận thức được tuổi trẻ của chính mình: Mị
còn trẻ, mà còn trẻ là còn được đi chơi, được tự do
bay nhảy... Mị độc thoại với chính mình “nếu có
nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”cái chết chính là
sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt nhất với hoàn
47
cảnh sống, Mị chọn cái chết lúc này để kết thúc
chuỗi ngày khổ sở, nhục nhã, cái chết vào lúc này để
sống với một thế giới tốt đẹp.
Sức sống tiềm tràng của Mị trong đêm mùa xuân
ở Hông Ngài còn thể hiện ở hành động của Mị khi A
Sử trở về nhà “ Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ xắn một
miếng...cho sáng’. Mị đã hành động như một con
người tự do, Mị thắp sáng cho căn phòng cũng chính
là thắp sáng cho cuộc đời chính mình. Lần này, Mị
mạnh mẽ, cương quyết hơn những lần trước “Mị đi
chơi, Mị cũng sắp đi chơi, Mị quấn lại tóc, Mị vội
thay cái váy hoa vắt ở phía trong vách’’. Mị đang
chuẩn bị cho một cuộc nổi loạn, Mị đang chuẩn bị
bước ra căn buồng nhỏ hẹp đó để rong ruổi với cuộc
vui ngoài kia. Nhưng cái lúc mà Mị đang hồi sinh thì
A Sử đến “nắm Mị....đươc nữa”. A Sử một lần nữa
xuất hiện là tác nhân gây nên nỗi đau về thân xác và
tinh thần của Mị. Khi Mị thắp sáng cuộc đời mình,
cũng là lúc mà a sử kéo mây đen về cuộc đời của
Mị, tiếp tục giam cầm Mị trong cuộc sống của một
con vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không
biết mình bị trói, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo
48
những cuộc chơi “em không...pao nào’’. A Sử có thể
trói được thể xác Mị nhưng không thể trói được tâm
hồn Mị. Tâm hồn tươi trẻ của cô đang ở ngoài kia,
ngoài những cuộc vui ấy, nơi có tiếng sáo rập rờn.
“Mị vùng bước đi nhưng chân không cựa quậy
được” đây là chi tiết để lại cho người đọc nhiều cảm
xúc, Mị đã trỗi dậy, đã hồi sinh nhưng bọn thổ ty
miền núi lợi dùng cường quyền để trói buộc Mị, sau
bao khát khao tự do mãnh liệt, Mị vẫn phải ở lại
trong căn buồng chật hẹp ấy.
Như vậy, trong đêm tình mùa xuân, ta bắt gặp
một cô Mị bạo dạn, mạnh mẽ hơn bao giời hết, bắt
gặp một cô Mị phơi phới, tràn trề tuổi trẻ nhưng có
phản kháng đến đâu, Mị vẫn không được đi chơi,
không thể bước ra cánh cửa nhà thống Lý, Mị vẫn bị
giam hãm, kìm kẹp trong căn buồng tối tăm, không
biết là mưa hay là nắng. “một tia lửa hôm nay là tín
hiệu cho đám cháy ngày mai (Lỗ Tấn), có thể nói
chính đêm tinhf mùa xuân là tiền đề, bước đệm cho
hành động cắt dây trói và chạy theo A Phủ trong
đêm mùa đông, để tự giải thoát cho cuộc đời của
minh.
49
Với cách xây dựng nhân vật điển hình, cùng tài
năng trong cách miêu tả nội tâm nhân vât, Tô Hoài
đã làm nổi bật sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong
tâm hồn Mị. Nhà văn đã tái hiện bức tranh về tâm
trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài
để người đọc cảm nhận được nội tâm mạnh mẽ,
cùng khao khát tự do chays bỏng của cô. Bên cạnh
đó là cách kể chuyện linh hoạt, tự nhiên đầy bất ngờ
cùng nhiều chi tiết nghệ thuật độc đáo mà phải kể
đến như chi tiết tiếng sáo hay chị tiết Mị vùng bước
đi mang ý nghĩa cho sức phản kháng. Ngôn ngữ
được nhà văn trau chuốt, gọt dũa vô cùng tỉ mỉ.
“Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả
cuộc sống chỉ để miêu tả nếu nó không phải là tiếng
thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không
đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”.
Thật vậy, một tác phẩm sẽ không có ý nghĩa nếu nếu
“nghệ thuật vị nghệ thuật”, nếu nó không phải là lời
ca tụng hay tiếng thét khổ đau hay nói đúng hơn là
nếu nó không đem đến giá trị nhân đạo sâu sắc. Với
VCAP, thông qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và
hành động của Mị tromng đêm tình mùa xuân, nhà
50
văn bày tỏ sự xót thương, đồng cảm cho những
người nông dân lao động vùng cao, họ là những con
người khốn khổ, bị bọn thực dân, chúa đất kìm kẹp,
giam hãm trong cuộc sống mụt mù. Đồng thời, ông
còn ca ngợi, trân trọng những người dân vùng cao
như Mị, dù bị chà đạp, dù bị thần quyền và cường
quyền trói buộc, họ vẫn mạnh mẽ, mang trong mình
một sức sống tiềm tàng, mà chỉ cần một cơn gió,
ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy một cách mạnh mẽ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắn nhủ với các nghệ sĩ “
văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, không chỉ là nâng
niu, trân trọng vẻ đẹp của con người mà văn học còn
là vũ khí đấu tranh lại cái ác, cái xấu, ngôn ngữ
chính là vũ khí, trí tuệ chính là vũ khí, tình cảm chân
chính chính là vũ khí. Vì thế, trong VCAP, mượn
ngòi bút, Tô Hoài đã phê phán bộ mặt thú dữ của
bọn thực dân và thổ ty miền núi, chúng thẳng tay tra
tấn, chà đạp những người dân nghèo khổ bằng
cường quyền và thần quyền hủ tục.
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết là để làm
công việc như kẻ nâng giấc cho những người cùng
51
đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn
đến chân tường (…) để bênh vực cho những con
người không còn có ai để bênh vực”. Với VCAP và
nhân vật Mị, Tô Hoài đã trở thành một nhà văn như
thế, một nhà văn nhân đạo, vì con người mà cất lên
tiếng nói yêu thương, cất lên tiếng hát đau buồn,
căm hận, ngợi ca cuộc sống con người. Chính điều
đó đã khiến tác phẩm vượt qua mọi băng hoại của
thời gian, trở thành biểu tượng cho tình yêu thương,
và khát vọng sống của con người.

Đề bài: Sức sống tiềm tàng của Mị trong đoạn


trích:lúc ấy đã khuya... chạy xuống dốc nú’’. Qua
đó, phân tích giá trị nhân đạo mới mẻ của tác phẩm.
Bài làm

52
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng đinh
“Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm –
mà tâm điểm là con người”. Bao giờ cũng thế, văn
học – cuộc sống – con người là những yếu tố không
thể tách rời nhau để tồn tại riêng biệt. Dường như có
một sợi dây vô hình buộc chặt văn học và cuộc sống,
tạo nên mối quan hệ vô cùng mật thiết và sâu sắc
như lời phát biểu của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Hai vòng tròn văn học và đời sống không tách rời
nhau mà chúng cùng xuất phát từ một tâm điểm,
nghĩa là hình ảnh, bóng dáng của triệu triệu sự vật,
hiện tượng trong cuộc đời và trên những trang văn
học là một. Như một quy luật của tạo hóa, văn học
và đời sống luôn luôn tồn tại trong mối tương quan
hòa quyện vào nhau, hỗ trợ cho nhau để cùng “sống“
mãi. Là một nhà văn hay một thi sĩ, bao giờ cũng
phải đắm mình vào cuộc sống, lắng nghe hơi thở và
nhịp đập của đời sống biến đổi từng giây để chắt lọc
những gì tinh túy nhất đem vào trang viết của mình.
Xuất phát từ cuộc sống khốn khổ của những người
dân lao động vùng cao Tây Bắc, Tô Hoài đã nhào
nặn nên một câu chuyện về những người dân lao
53
động Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa
đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối
tăm đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do
mang tên “Vợ chồng A Phủ”. Và sự phản kháng
mạnh mẽ ấy được nhà văn thể hiện rõ nét qua sức
sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm mùa đông
cởi trói cho A Phủ “lúc ấy đã khuya..chạy xuống dốc
núi”
Tô Hoài là nhà văn lớn của văn học hiện đại
Việt Nam. Nhắc đến ông là nhắc đến một mảng văn
học mang đậm phong tục tập quán của nhiều vùng
trên đất nước, đặc biệt là vùng núi Tây Bắc. Ông còn
là nhà văn hấp dẫn người đọc bởi trần thuật hóm
hình của người từng trải. Vợ chồng A Phủ là tác
phẩm tiêu biểu phong cách tô hoài, được sáng tác
năm 1952, là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ, thu đước
trong chuyến đi thực tế của nhà văn Tô Hoài cùng
bộ đội, giải phóng đến Tây Bắc hùng vĩ. Ở đó, nhà
văn được ăn, ở, làm việc với đồng bào dân tộc nơi
đây và ông đã viết vợ chồng A Phủ như một cách để
trả toàn sâu nghĩa nặng cho họ.

54
Trước tiên, Mị xuất hiện la bông hoa ban thơm
ngát của núi rừng Tây Bắc. Nhà văn đã không dùng
một mĩ từ nào để diễn tả vẻ đẹp ấy nhưng ông đã
miêu tả gián tiếp thông qua chi tiêt “trai đứng nhẵn ở
chân vách đầu buồng Mị”. Không chỉ đẹp, Mị còn
tài năng “mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi
sáo”. Mọi vẻ đệp nội tâm của Mị thể hiện ở câu nói
thiết tha, khẩn khoản với người cha già “con nay đã
lớn....con nhà giàu” câu nói toát lên khí chất của một
con người, cô không chấp nhận cuộc hôn nhân
không hạn phúc, câu nói thể hiện Mị là người khao
khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Cứ tưởng,một cô
gái như Mị sẽ được hưởng hạnh phúc nhưng bi kịch
của cô bắt đầu từ lúc bị A Sử lừa bắt về làm vợ dưới
hình thức “con dâu gạt nợ”. Ở đó, mị sống cuộc sống
của một “xác người trong kiếp súc sinh”. Mị bị biến
thành cỗ máy lao động cho cha con nhà Thống Lí,
thân phận còn thấp hơn con trâu, con ngựa. Không
chỉ bị đày đọa về thể xác, cô còn bị lăng nhục về
tinh thần, tê liệt tinh thần phản kháng cùng khao
khát được sống, được hạnh phúc. Như vậy, có thể
thấy chính cha con Thống Lý, chính hoàn cảnh sống,
55
bọn thực dân, lang chúa đất đã cướp đi tuổi thanh
xuân dạt dào của Mị, khiến cô “còn sống mà như đã
chết”. Nhưng là một nhà văn nhân đạo, Tô Hoài
trong đêm tình mùa đông đã đến gõ cửa và đánh
thức tâm hồn tê tái bao năm của Mị. Trong đêm
xuân rực rỡ ở Hồng Ngài, Mị đã trở lại, đã thoát
khỏi cái xác của con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa, đã
rở nên bạo dạn hơn bao giờ hết, đã nhận thức tuổi trẻ
của bản thân. Tuy nhiên, giữa cái lúc Mị hồi sinh,
cũng là lúc A Phủ đến kéo mây đen về cuộc đời của
Mị. Dù đã hồi sinh nưng Mị vẫn không được đi
chơi, không thể bước ra cánh cửa nhà thống Lý, Mị
vẫn bị giam hãm, kìm kẹp trong căn buồng tối tăm,
không biết là mưa hay là nắng. Nhưng có thể nói
chính đêm tình mùa xuân là tiền đề, bước đệm cho
hành động cắt dây trói và chạy theo A Phủ trong
đêm mùa đông, để tự giải thoát cho cuộc đời của
minh.
Nếu trong đêm tình mùa xuân, không khí ngày
xuân rộn ràng ở Hồng Ngài chính là tác nhân gây
nên sự trỗi dậy của Mị thì lần này, giọt nước mắt của
A Phủ là nguyên nhân làm bùng dậy sức sống tiềm
56
tàng mạnh mẽ của cô gái Tây Bắc. “Mị lé mắt trông
sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại”. Đó là giọt nước mắt của một kẻ đang hấp hối,
của một thân phận nô lệ đang đau đớn, bất lực trước
hoàn cảnh, giọt nước mắt ấy không chỉ chảy xuống
hai hõm má mà còn chảy xuống trái tim của Mị. Sau
đêm tình mùa xuân, trái tim Mị dường như đã héo
úa, Mị từ cô gái trẻ, khao khát hạnh phúc thành cô
gái vô cảm đến tàn nhẫn, linh hồn của Mị sớm đã lụi
tàn, chết héo trong nhà Thông Lý. Nhưng giọt nước
mắt của người đàn ông xa lạ kia có lẽ đã làm tan
chảy tảng băng lạnh buốt trong tâm hồn Mị bấy lâu.
“Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị
cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước
mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi
được.”. Mị cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng nỗi
đau của chính mình, không còn là cô gái trơ lì đến
lạnh lùng nữa, Mị đồng cảm trước số phận của người
đàn ông kia, cô đặt mình vào hoàn cảnh của A Phủ,
cô hiểu hơn ai hết nỗi đau nhục mạ, hành hạ đến
chết. Không còn là cô gái u muội, phó mặc cuộc đời
57
của mình cho kẻ khác, Mị đã thức tỉnh, nhận ra tội
ác của cha con nhà Thống Lý : “Trời ơi, nó bắt trói
đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi,
nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở
cái nhà này. Chúng nó thật độc ác”. Mị hiểu rằng:
Mọi nỗi đau của Mị và A Phủ đều do cha con nhà
Thống Lý Pá Tra mang lại, chính cha con nhà nó đã
đẩy cuộc đời của Mị và người đàn ông kia xuống
vực thẳm. Mị xót xa cho số phận của A Phủ “Cơ
chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau,
chết đói, chết rét, phải chết”nhịp điệu câu văn dồn
dập cùng biện pháp điệp cấu trúc nhấn mạnh cảm
xúc thương xót của Mị cho A Phủ, cùng nỗi căm hận
bọn chúa đất miền núi tột độ. “Ta là thân đàn bà, nó
đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà
phải chết thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như
vậy”. Mị cho rằng: Việc Mị chết là điều tất yếu bởi
Mị đã bị ma nhà Thống Lý nhận mặt nhưng A Phủ
việc gì phải chết như thế, trong đầu Mị dồn dập
những câu hỏi về số phận, cuộc đời của A Phủ”

58
Từ nỗi thương người ấy, Mị đã có những sự thay
đổi về tâm lí lẫn hành động. Trước tiên, Mị tưởng
tượng cảnh A Sử sẽ trói Mị trên cái cột ấy, Mị phải
chết trên cái cột ấy. Mị sợ hãi, trong hoàn cảnh ấy ai
mà không sợ cơ chứ, tình thương người trong Mị đã
trỗi dậy. Mị xót thương cho A Phủ nhưng Mị vẫn sợ,
nhưng ngay lập tức, không chút do dự “Mị rút con
dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Vậy là sau bao
nỗi sợ , nỗi suy tư, Mị vẫn quyết định cởi trói cho A
Phủ, đó là lúc mà nỗi thương người lớn hơn nỗi
thương thân và tình thương người chiến thắng mọi
nỗi sợ hãi. Mị đã sợ, đã lo, đã suy nghĩ nhưng quyết
định cuối cùng của cô chính là cắt dây trói cho người
đàn ông không hề quen biết kia, nghĩa là Mị chấp
nhận cái chết, chấp nhận chết thay cho A Phủ, Mị đã
nhường hết phần sống của mình cho anh. Đó là chi
tiết minh chứng cho tâm hồn cao đẹp, cùng lòng
nhân ái của cô gái Tây Bắc. Dù biết là sẽ chết, chết
đau, đến đói, chết rét trên cái cọc ấy nhưng cô vẫn
chấp nhậ để giải thoát cho A Phủ. Mị thì thào “đi
ngay”, đó vừa là mệnh lệnh đối với A Phủ vừa là sự
kiên quyết với quyết định của mình, kiên quyết cho
59
sự lựa chọn chết thay cho người đàn ông kia. “Mị
đứng lặng trong bóng tối” câu văn nằm chơi vơi giữa
những dòng chữ ngổn ngang, đằng sau hành động
đứng lặng ấy là bao nỗi chơi vơi, lo lắng, sợ hãi, có
lẽ hàng ngàn câu hỏi xuất hiện trong đầu Mị: đi hay
ở, tự do hay nô lệ, sống hay chết. Trước bản án tử
hình ấy, ngọn lửa của lòng ham sống, của khao khát
hạnh phúc như cháy vụt mạnh mẽ trong Mị. “Mị
bỗng vụt chạy ra’’, Mị trở nên bản lĩnh, bạo dạn hơn
bao giời hết. Nội tâm mạnh mẽ của cô gái Tây Bắc
được nhà văn miêu tả bằng hàng loạt những động từ
mạnh liên tiếp: vụt chạy, băng đi, lăn, chạy. Trời tối
lắm, tối như cuộc đời của Mị nhưng Mị vẫn băng đi,
có lẽ ánh sáng của tự do, của hạnh phúc, của lòng
ham sống đã soi sáng cho con đường Mị chạy, thôi
thúc cô Mị yếu đuối ngày nào bỗng mạnh mẽ, băng
đi trong bóng tối. Mị nói, thở trong cơn gió thốc “
cho tôi đi, ở đây thì chết mất”. Từ cô gái vô cảm,
sống trong vô hình, gần như quyên cả tiếng nói mà
lúc này đây câu nói đầu tiên của Mị với A Phủ là câu
nói đòi tự do, đòi hạnh phúc, câu nói thể hiện lòng
ham sống mạnh mẽ của cô gái trẻ. Vậy là Mị đã có
60
một quyết định đúng đắn là rời khỏi Hồng Ngài –
nơi niềm vui, hạnh phúc thì ít mà khó khăn, khổ đau,
tủi nhục thì chất chồng. Tác giả Tô Hoài cũng đã
từng chia sẻ “hành động cởi trói và chạy theo A phủ
chỉ xảy ra trong choóc lát nhưng có ý nghĩa quyết
định và tồn tại đời đời”. Dù hành động cởi trói cho
A Phủ chỉ là hành động tự phát, xảy ra trong khoảng
thời gian rất ngắn nhưng lại quyết định, thay đổi
cuộc đời của Mị. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng
chính là cắt dây trói cho cuộc đời mình, tự giải thoát
cho cuộc sống áp bức, bị đè nén báy lâu nay. Việc
Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ như một bản lề
đóng, mở hai trang sách, đóng lại trang sách của sự
đau thương, tủi nhục, mở ra một trang mới của ánh
sáng, tự do và hạnh phúc. Nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã từng khẳng định “nhà văn tồn tại trên đời
trước hết phải làm việc của kẻ nâng giấc cho kẻ bị
cùng đường tuyết lộ”. Thật vậy, với đoạn kết thúc
không thể hoàn hảo hơn,, nhà văn Tô Hoài như kéo
vớt số phận đen tối mà bọn thực dân, chúa đất đem
đến cho Mị, mở ra cho cô cuộc sống của tự do. Chi
tiết, Mị lao theo A Phủ giúp ta nhớ đến chị Dậu.
61
Trong văn học, ta cũng bắt gặp một chị Dậu lao ra
ngoài “chị lao ra ngoài đêm tối- tối như cái tiền đồ
của chị”, bóng tối đó không chỉ là bóng tối của màn
đêm mà còn là bóng tối của tiền đồ, tương lại phía
trước của chị, là bóng tối của ngõ cụt, là sự bế tắc
của người nghèo, người phụ nữ, người nông dân.
Tuy nhiên, vẫn là cái chạy ấy nhưng cái chạy của Mị
theo A Phủ lại là cái chạy để đến với ánh sáng, hạnh
phúc, là nới có đích đến rõ ràng, đây chính là nét
mới trong văn Tô Hoài và của văn học sau 1945.
Với cách xây dựng nhân vật điển hình, cùng tài
năng trong cách miêu tả nội tâm nhân vât, Tô Hoài
đã làm nổi bật sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong
tâm hồn Mị. Nhà văn đã diễn tả trọn vẹn thế giới nội
tâm phong phú của nhân vật Mị, đó là cảm xúc xót
xa khi nhìn thấy gioitj nước mắt của A Phủ, sợ hãi
khi cắt dây trói và mạnh mẽ, dứt khoát khi chạy theo
A Phủ khỏi Hồng Ngài. Nhà văn như nhập thân làm
một với nhân vật, sống cùng nhân vật để đi vào ngõ
ngách sâu kín, những uẩn khúc của tâm lí nhân vật.
Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào tình huống
thử thách, để nhân vật bộc lộ rõ vẻ đẹp nội tâm. Bên
62
cạnh đó, nhà văn còn hấp dẫ người đọc bởi cách kể
chuyện linh hoạt, tự nhiên đầy bất ngờ cùng nhiều
chi tiết nghệ thuật độc đáo mà phải kể đến như chi
tiết giọt nước mắt A Phủ và chi tiết Mị cắt dây trói
và chạy theo A Phủ. Để làm nổi bật nội tâm mạnh
mẽ của nhân vật, Tô Hoài đã dùng câu văn ngắn,
ngắt dòng đột ngột, giàu hình ảnh và đặc biệt nhà
văn sử dụng câu trần thuật nửa trực tiếp, nửa gián
tiếp, lời của tác giả xen lẫn lời độc thoại của nhân
vật.
Nhà văn Nam Cao đã từng nói “ sống đã rồi hãy
viết, hãy hòa mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân
dân”. Nhà văn Tô Hoài đã bước vào cuộc sống đau
khổ của người dân miền núi, viết nên những nỗi đau,
tủi cực mà họ phải chịu đựng. Ở đó, ta bắt gặp niềm
cảm cảm thông sâu sắc của tác giả đối với những
dân lao động vùng cao như Mị và A Phủ. Đó là giá
trị nhân đạo đầu tiên mà nhà văn thể hiện ở VCAP.
Không chỉ cảm thông sâu sắc, mà thông qua việc
miêu tả nội tâm mạnh mẽ của Mị trong đêm đông
cới trói cho A Phủ, nhà văn đã viết nên một bài ca ca
ngợi sức sống của họ: dù bị bao thế lực bủa vây, kìm
63
kẹp nhưng họ vẫn sống, vẫn khát khao,vẫn manh mẽ
đứng lên đạp đổi mọi bức tường mà bọn thực dân,
chúa đất miền núi xây lên cho họ để đi tìm hạnh
phúc, tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắn nhủ
với các nghệ sĩ “ văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt
trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, không
chỉ là nâng niu, trân trọng vẻ đẹp của con người mà
văn học còn là vũ khí đấu tranh lại cái ác, cái xấu,
ngôn ngữ chính là vũ khí, trí tuệ chính là vũ khí, tình
cảm chân chính chính là vũ khí. Vì thế, trong VCAP,
mượn ngòi bút, Tô Hoài đã phê phán bộ mặt thú dữ
của bọn thực dân và thổ ty miền núi, chúng thẳng tay
tra tấn, chà đạp những người dân nghèo khổ bằng
cường quyền và thần quyền hủ tục. Nam Cao đã
từng nói: "Văn chương không cần những người thợ
khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn
chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết
tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo
những cái gì chưa có..." (Đời thừa). Tô hoài là một
nhà văn như thế, khi viết “vcap”, đã văn đã dựng
nên bức tranh về cuộc sống người dân trong xã hội
cũ. Thế nhưng đây không phải bà bức tranh mà ta đã
64
từng gặp trong văn học trước 1945 ở nhân vật lão
Hạc, Chí Phèo hay cái Tí. Nếu như ở cuối truyện,
lão Hạc ăn bã chó để kết thúc cuộc đời đau khổ của
mình, để giữ lại của cải cho con, để gìn giữ bản chất
tốt đẹp, Chí Phèo cả đời thèm khát sự lương thiện
nhưng kết thúc truyện lại chết quằn quại bên vũng
máu hay cái Tí chết tức tưởi vì ngẹn thì khi viết
VCAP Tô Hoài đứng ở một ốc đảo riêng, cất lên một
tiếng nói riêng khi soi vào nhân vật ánh sáng của
thời đại, của đảng, thổi vào linh hồn tác phẩm một
làn gió mới. Tô Hoài đã không để Mị có kết thúc
như chị Dậu, lão hạc hay cái Tí mà để cô trốn khỏi
Hồng Ngài để sau này tham gia kháng chiến ở Giềng
Sa. Đó là nét mới trong giá trị nhân đạo trong truyện
ngắn VCAP, nhà văn đã tìm ra một con đường mới
cho nhân vật, đó là điểm mới trong VCAP nói riêng
và văn học sau 1945 nói chung.
“Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui
của người dẫn tới xứ sở cái đẹp”. Với VCAP, Tô
Hoài đã hoàn thành xuất săc sứ mệnh của mình, khi
dẫn người đọc đến xứ sở cái đẹp, cái đẹp nơi tâm
hồn những người dân lao động vùng cao mà điển
65
hình là nhân vật Mị, dù bị chà dạp, giam hãm nhưng
sức sống tiềm tàng của họ luôn mãnh liệt, dù đứng
bên bờ vực của cái chết họ vẫn nhân hậu, luôn
nhường phần sống của mình cho người khác. Chính
điều đó đã khiến tác phẩm vượt qua mọi băng hoại
của thời gian, trở thành biểu tượng cho tình yêu
thương, và khát vọng sống của con người.

66
Người lái đó sông Đà
(Nguyễn Tuân)

Đề bài: phân tích hình tượng người lái đò sông


Đà trong đoạn trích “mặt nước hò la...lúc ngừng
chèo”. Từ đó, nhận xét quan điểm về con người của
tác giả Nguyễn Tuân.
Bài làm:
Nguyễn Tuân là nhà trí thức giàu lòng yêu nước,
giàu tinh thần dân tộc, là người nghệ sĩ tài hoa và
uyên bác. Nhưng hơn hết, ông là nhà văn “duy mĩ’’
suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông làm
say lòng người đọc bởi về đẹp ở quá khứ, vẻ đẹp của
những nho sĩ đã “một thời vang bóng”. Sau cách
mạng, ông lại gửi ngòi bút của mình vào cuộc đời
của hiện tại, đó là vẻ đẹp của những người dân lao
động bình dị, mộc mạc nhưng dũng cảm và tài hoa.
Người lái đò sông Đà là tác phẩm in đậm phong
cách Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng 8, đây vừa

67
là một bản hùng ca cũng như tình ca ca ngợi vẻ đẹp
vừa hùng vĩ, hung bạo vừa thơ mộng trữ tình của
thiên nhiên Tây Bắc. Đặc biệt, nó còn là bức tranh
lao động giản dị, chất phác nhưng gân guốc, dũng
cảm của con người nơi đây. Viết về con người Tây
Bắc, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã tập trung xây
dựng hình tượng người lái đò sông Đà.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, nhà văn đã không
đặt cho nhân vật của mình một cái tên cụ thể nào,
mà chỉ gọi đi, gọi lại bằng cái tên “nhà đò”, “ông
lái”, “người lái đò sông Đà’’. Đó không phải sự vô
tình, hay nhà văn nghèo ngôn ngữ đến nỗi không đặt
cho nhân vật một cái tên nào mà đó là cách nhà văn
xây dựng nhân vật điển hình- nhân vật vừa xa lạ
nhưng lại quen biết. Qua việc xây dựng nhân vật
điển hình như thế, ta có thể hiểu rằng: người lái đò
chỉ là một trong hàng trăm, hàng ngàn con người
như thế, đang ngày ngày dũng cảm, tài hoa chiến
đấu với thiên nhiên trong thời gian miền Bắc đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội.

68
Đọc văn của Nguyễn Tuân trước và sau cách
mạng, ta thấy ông không hề tập trung miêu tả ngoại
hình của nhân vật và người lái đò cũng vậy, cần lắm
ông mới miêu tả vài ba chi tiết “đôi tay dài lêu
ngêu”, “hai chân khuỳnh khuỳnh”, “giọng nói ào ào
sóng nước”. Dấu ấn nghề nghiệp in đậm lên ngoại
hình cao to của ông lái đò. “Gần 70 tuổi thân hình
thân hình ông lái đò vẫn đẹp như pho tượng cẩm
thạch’’, “cái đầu ngàn thước của ông ... chất sừng,
chất mun”. Với nhiều hình ảnh so sánh, liên tưởng
độc đáo, nhà văn phần nào vẽ nên trước mắt người
đọc một hình ảnh người lái đò vạm vỡ, mạnh mẽ,
mang vẻ đẹp hùng dũng như một vị tướng cầm quân.
Đối với mỗi nhà văn, cách để nhân vật xuất hiện
hay giới thiệu nhân vật như thế nào là một điều vô
cùng quan trọng. Nếu như Tô Hoài để Mị xuất hiện
lặng lẽ bên tảng đá, với dáng vẻ đơn độc, lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa, Nam Cao để Chí Phèo
trong âm thanh ám ảnh của tiếng chửi, của sự cô độc
và ghẻ lạnh từ những người xung quanh thì Nguyễn
Tuân đã để nhân vật ông đò xuất hiện trong trận
đánh gay go, ác liệt và đối lập – đối lập giữa thần
69
sông, thần đá có đủ binh đông, tướng dữ với người
lái đò gần bảy mươi tuổi chỉ với chiếc thuyền nan và
sáu chiếc cán chèo. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân
muốn tô đậm vẻ đẹp tài ba, trí dũng của người lái đò
sông Đà. Để làm nổi bật vẻ đẹp ấy, nhà văn đã miêu
tả trọn vẹn ba trùng vi thạch trận mà ông lái đò phải
trải qua. “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa
vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình.
Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà
đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc
chúng đội cả thuyền lên”, mới vào trận địa mà sông
Đà đã dữ dằn đến thế, nó như một tên đòi nợ xuýt
gắt gao và tàn bạo. Trong trận địa này có bốn cửa tử
và một cửa sinh, nước đóng vai trò chính trong việc
tiêu diệt con thuyền. Sóng nước như vừa đánh nhau,
như vừa hớp sức xô đẩy tạo nên một khung cảnh dậy
sóng, dậy gió, thúc vào bụng và hông thuyền, có khi
đội cả con thuyền lên. Sóng nước như đang la hét để
làm phân tâm kẻ địch. Nhà văn đã có hai hình ảnh so
sánh sóng nước nơi đây rất độc đáo “Nước bám lấy
thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh ba não bạt”,
70
“Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất,
cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ
người lái đò”. Nước sông như một tên đô vật hung
hăng, hiếu chiến đòi lật ngửa chiếc thuyền. Nước ở
đây còn như một tên võ sĩ mạnh bạo, khôn khéo,
đánh vào miếng đòn hiểm nhất của ông lái đò. Trước
thiên nhiên hung bạo như thế, hình ảnh người lái đò
vẫn xuất hiện với tư thế hiên ngang, bản lĩnh. Dù bị
thương, ông lái đò vẫn bình tĩnh “ông đò cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, ông đò
không hề run sợ, trước âm thanh cuồng nộ của nước
sông Đà, ông vẫn bình tĩnh xử lí con sông Đà hung
ác này: thiên nhiên hùng vĩ đến thế, to lớn đến vậy
nhưng vẫn hiện lên hình ảnh người cầm quân –
người lái đò sông Đà “Nhưng trên cái thuyền sáu bơi
chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo
của người cầm lái”. Dù tương quan lực lượng chênh
lệch nhưng hình ảnh ông lái dũng cảm, hiên ngang
vẫn ghi đậm giữa bức tranh thiên nhiên sông Đà. Ở
trùng vi thứ hai, sông Đà trở nên hung bạo, dữ dằn
hơn, không còn là đô vật hay võ sĩ nữa mà ở trận địa
này, nó như một tên quái vật, muốn vồ chết con mồi.
71
“dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế manh trên
sông Đà’’ câu văn tuy ngắn nhưng miêu tả trọn vẹn
sự tàn ác con sông Đà. Từ “hồng hộc” và “tế manh”
tô đậm sự cuồng nộ của thiên nhiên Tây Bắc. Nếu ví
sông Đà lúc này như hổ thì người lái đò lúc này như
Võ Tòng trong tiểu thuyết Thủy Hử ngày xưa. Sông
Đà lần này tăng thêm nhiều cửa tử để lừa bắt chết
con thuyền. Nhưng không có gì có thể làm khó được
ông lái giàu kinh nghiệm này. Ông hiểu quy luậ của
thần sông, thần đá hơn ai hết, “ông cưỡi lên thác
sông Đà như cưỡi hổ’’. Hàng loạt những động từ
mạnh được nhà văn sử dụng liên tiếp để diễn tả sự
tài ba, trí dũng của ông lái “nắm chặt”, “ghì cương
lái”, “bám chắc lấy luồng sóng”, “phóng
nhanh”,..Trước con giận dữ của sông Đà, ông lái vẫ
dũng cảm, chỉ huy con thuyền với những động tác
dứt khoát, mạnh mẽ. Nhưng thạch trận này quyết
không tha cho ông lái “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa
ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào
tập đoàn cửa tử’’ nhưng “ Ông đò vẫn nhớ mặt bọn
này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì
ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến” ông
72
lái quả là người chỉ huy tài ba, mưu lược, khó khăn
đến đâu, ông vẫn dùng bản lĩnh để vượt qua, thiên
nhiên có hung dữ đến đâu, khó khăn đến mấy vẫn
thua cuộc trước ông lái đò gần 70 tuổi, vẫn phải “tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã
đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy.”. Vậy là với tài
trí, ông lái đã dễ dàng vượt qua trùng vi thứ 2 với
dáng vẻ oai phong, chủ động trước thiên nhiên Tây
Bắc. Vừa mới vượt qua ải nước thứ hai, ông đã phải
đối mặt với trùng vi thứ 3, lần này sông Đà quyết bắt
chết con thuyền và trùng vi thứ 3 cũng là trùng vi mà
tài năng của bậc thầy ngôn ngữ Nguyễn Tuân thể
hiện đậm đặc nhất. “Cứ phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa
trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh
qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn
được”, người lái đò như đang cưỡi môt con tuấn mã
bay lượn trong không gian, 1 loạt động từ mạnh:
phóng, chọc, vụt, xuyên được sử dụng liên tiếp cùng
cách ngắt nhịp vụn để tô đậm không khí dồn dập
như một cuộc thủy chiến dậy sóng, dậy gió. Nhà văn
73
đã sử dụng từ “vút” hai lần cùng động từ “phóng’’
để tô đậm tốc độ nhanh, mạnh của con thuyền dưới
sự chỉ huy của người lái đò tài ba, nó như mũi tên tre
xuyên nhanh qua các cửa ải hiểm trở, từ “tự đông”
lại khẳng định sự tài ba, dẻo dai, sự chủ động, tài chỉ
huy của vị tướng cầm quân. Với trùng vi thứ 3,
người lái đò như một chiến tướng phát huy hết tài
năng quân sự, hiên ngang lồng lộng giữa gió núi Tây
Bắc. Vậy là kết thúc trận chiến sinh tồn giữa con
người và thiên nhiên, giữa sự gan dạ và dữ dằn, và
cái chiến thắng vẫn là sự tài ba, trí dũng của con
người. Trận đánh ấy được nhà văn miêu tả như một
bộ phim hành độngt tua nhanh, dưới bàn tay nhào
nặn của người nghệ sĩ, bộ phim ấy trở nên hấp dẫn,
kịch tính đến tận giây phút cuối cùng, và kết thúc bộ
phim ấy chiến thắng nghiêng về con người. Như
vậy, bằng nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ, cách ngắt
nhịp nhanh, gấp cùng từ ngữ sáng tạo nhà văn
Nguyễn Tuân đã khắc tạ nên bức tượng đài người
lao động với vẻ đẹo trí dũng, tài ba, dũng cảm, mang
tầm vóc của một vị tướng cầm quân phi thường.

74
Trong ba trùng vi, nhà văn tập trung miêu tả vẻ
đẹp tài ba, trí dũng nhưng ta vẫn bắt gặp một ông lái
đò tài hoa và nghệ sĩ. Đối với tác giả, vẻ đẹp tài hoa
không chỉ có ở những người hoạt động nghệ thuật
mà có ở bất kì ngành nghề nào miễn là họ có tài
năng, đạt đến trình độ điêu luyện. Và trong hai trùng
vi, ta bắt gặp một ông đò với dáng vẻ ung dung, tự
tin của một người nghệ sĩ. Dù sông Đà có hung
hăng, gắt gao đến đâu, chưa một lần ta bắt gặp sự lo
lắng, sợ hãi của ông lái đò. Bảy mươi tuôi nhưng đối
mặt với con thủy quái sông Đà, ông vẫn điềm tĩnh
mà chiến đấu. Đồng thời, ông còn đạt đến trình độ
mà người ta gọi là “tay lái ra hoa’’, ông như vẫy
những nét vẽ trên bức tranh sông nước “miết một
đường chéo về phía cửa đá ấy’’, nhà đò như người
nghệ sĩ đang chơi ngông với thiên nhiên, lái đò vô
cùng điêu luyện như một nghệ sĩ biểu diễn.
Cuối cùng, nhà văn đã hoàn thiện cho bức tranh
về vẻ đẹp của người lái đò là vẻ đẹp giản dị của một
tâm hồn thanh cao. Nếu như trong trận đánh giao
tranh với sông Đà, ông lái hiện lên giống như một vị
tướng tài ba, mưu lược thì khi quay về với cuộc sống
75
đời thường, ông lại làm một con người bình dị, nếu
như vượt qua ải nước ông Đà cho ta một kì tích đáng
nhớ, lẽ ra ông lái đò phải tự hào nhưng khi cuộc
chiến kết thúc cũng là lúc ông quên đi chiến tích ấy
để quay về với cuộc sống thanh bình, ông xem đó là
một chuyện bình thường mỗi ngày “Cũng chả thấy ai
bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua
nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc
sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà
dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay
những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp
đáng nhớ.’’. Nó thật khác với người thường bởi mỗi
khi gặp nguy hiểm, con người ta thường lo sợ, hồi
hộp mỗi khi nhớ về. Đó là chất nghệ sĩ ở mỗi con
người bình thường luôn ung dung, thanh thản sau
những thác lũ. Cái phi thường thành cái bình
thường, chất chiến sĩ hòa quyện với phong thái của
một nghệ sĩ. Sau cuộc chiến, “nhà đò đốt lửa trong
hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá
anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá
mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá
túa ra đầy tràn ruộng.’’, tiếng thác đã bị đánh tan
76
trong cuộc chiến vừa qua, sau giây phút vượt thác,
đó không phải là điều gì quá bất ngờ, bởi cuộc sống
của họ ngày nào cũng thế, ngày nào cũng phải giành
lại sự sống cho những con thác. Ông thả hồn mình,
quên đi cái trận chiến vừa rồi để sống trọn với
khoảnh khắc sinh hoạt đời thường. Nếu như những
đoạn văn miêu tả trận đánh, nhà văn sử dụng giộng
văn gấp gáp, nhắt nhịp dồn dập, sử dụng ngôn ngữ
đa dạng để miêu tả sự gay go, ác liệt của trận chiến,
thì đến đoạn này giọng văn thay đổi trở nên nhẹ
nhàng. Như vậy, bằng vài ba câu miêu tả cuộc sống
đời thường của ông lái đò, nhà văn đã tôn vinh vẻ
đẹp của người lao động, đồng thời khặng định: thiên
nhiên càng khắc nghiệt bao nhiêu, càng khẳng định
sức manh, vẻ đẹp của con người bấy nhiêu.
Qua việc nhà văn xây dụng hình tượng nhân vật
người lái đò, nhà văn đã tìm một nhân vật mới, đó
không phải là nhân vật thuộc tầng lớp đài các, mang
vẻ đẹp phi thường, không phiat là tầng lớp tri thức,
các nho sĩ cuối mùa mà là con người trong cuộc
sống lao động thường ngày, giản dị, mộc mạc nhưng
dũng cảm, tài trí và tài hoa. Nguyễn Tuân đã tìm ra
77
chủ nghĩa anh hùng mới: người anh hùng không chỉ
có trong chiến đấu, mà còn có ở trong cuộc sống lao
động thường ngày, họ là những người anh hùng
đang ngày ngày chiến đấu với thiên nhiên hung dữ
để xây dựng cuộc sống trong những năm miền Bắc
đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, việc
xây dựng hình tượng ông lái đò còn thể hiên phong
cách nghệ thuật độc đáo của tác giả Nguyễn Tuân –
tài hoa và uyên bác.
Dù trước hay sau cách mạng, văn của Nguyên
Tuân luôn khắc họa con người ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ
sĩ. Trước cách mang, vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ được
nhà văn tìm thấy ở tầng lớp tri thức, đó là các nho sĩ
đã vang bóng một thời hay các ông đồ đã bị lãng
quên, sau cách mạng ông cũng đi tìm vẻ đẹp tài hoa
ấy nhưng tìm ở hiện tại, ở những con người lao động
bình thường nhưng mang phong thái của một người
nghệ sĩ. Cũng như nhân vật Huấn Cao trước cách
mạng, nhân vật người lái đò cũng được nhà văn xây
dựng bằng nét tài hoa, nghệ sĩ. Sự tài hoa ấy không
chỉ có ở những người hoạt động nghệ thuật mà còn
có ở bất kì ngành nghề nào miễn là họ đạt đến sự
78
điêu luyện và khéo léo. Cứ tưởng, nhà văn sẽ không
khắc họa ông lái đò ở phương diện của một nghệ sĩ
vẫn tìm ra được vẻ đẹp ấy ở nhà thể hiện ở phong
thái ung dung trên mặt trận lao động.
Nhắc đến người lái đò sông Đà ta không thể
quên nghệ thuât đọc đáo trong cách viết của bậc kì
tài Nguyễn Tuân. Khi khai thác hình tượng sông Đà,
nhà văn đã nhặt nhân vật vào tình huống thử thách,
đó là trong cuộc chiến đấu giành lạ sự sống với sông
Đà. Với ca tính phóng túng, mãnh mẽ không cho
phép ông xây dựng một tình huống nhẹ nhàng, xuôi
chèo mà với chất “ngông’’ Nguyễn Tuân đã đặt
nhân vật vào thế khó, vào mối tương quan đối lập để
nhờ đó nhân vật bộc lộ mọi vẻ đẹp cũng như tài
năng. Nhà văn balzac đã từng khẳng định ““Bản chất
của con người thường bị bánh xe của số phận che
đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc
lộ.” thật vậy, nhờ bão tố mà tác giả Nguyễn Tuân
xây nên mà vẻ đẹp, bản lĩnh của nhà đò mới thể hiện
một cách rõ nét. Gọi nhà văn Nguyễn Tuân là một
nhà văn uyên bác bởi văn của ông luôn có sự kết hợp
nhiều kiến thức của nhiều lĩnh vực và khi viết về
79
ông lái đò cũng vậy, tác giả đã sử dụng kiến thức
của nhiều ngành như văn học, quân sự,.. để làm tăng
sự kịch tính, hấp dẫn cho cuộc chiến. Bên cạnh đó,
đoạn văn còn là sự xuất hiện của các từ ngữ giàu
tính tạo hình, độc đáo, đó là những động từ mạnh
khi nhà văn miêu tả trận thủy chiến, chứng minh biệt
tài “người thợ kim hoàn của chữ” của tác giả. Cuối
cùng, đoạn văn còn là giọng văn lúc mạnh mẽ, dứt
khoát, lúc yên ắng nhẹ nhàng cùng cách ngắt nhịp
linh hoạt.
“Thế giới không chỉ được tạo lập một lần mà
mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là thế giới
lại được tạo lập”. Cuộc sống quanh ta luôn vận động
với theo vòng quay của đất trời, nhưng suy cho cùng
ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và gió vẫn thổi,
nhưng chính Nguyễn Tuân đã mang đến cho ta một
thế giới mới, tinh khôi và kì diệu. Song, ông cũng là
một nhà văn góp phần sáng tạo lại thế giới. Văn
chương của ông đã mang đến cho chúng ta một chân
trời huyền bí, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời
của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác.

80
Sự chuyển biến trong pcnt của Nguyên Tuân
trước và sau cách mạng (có thể áp dụng trong phần
đánh giá)
Trước cách mạng Sau cách mạng
Quan -Quan niệm cái đẹp -cái đẹp có cả ở quá
niệm về chỉ có trong quá khứ khứ hiện tại và
cái đẹp gọi là “Vang bóng tương lai; và tài hoa
một thời” và tài hoa có thể có ở cả nhân
nghệ sĩ chỉ có ở dân đại chúng
những con người xuất -
chúng như Huấn Cao,
các ông cử, ông
đồ,thuộc thời trước
còn vương sót lại
- con người Nguyễn
Tuân hướng tới và ca
ngợi là những “con
người đặc tuyển,
những tính cách phi
thường

Cái gây - thích chơi “ngông”, - Tìm những hình


81
ấn mắc bệnh ham mê tượng gây cảm giác
tượng thanh sắc, thích mạnh ở những
mạnh chiêm ngưỡng, chắt phong cảnh đẹp,
mẽ chiu cái Đẹp và nhấm hùng vĩ của thiên
nháp những cảm giác nhiên, đất nước và
mới lạ. Tìm cảm giác ở những thành tích
mạnh ở quá khứ của nhân dân trong
“Vang bóng một chiến đấu và xây
thời” ở “Chủ nghĩa xê dựng
dịch”, ở “Đời sống
trụy lạc” (rượu, thuốc
phiện,..)

Thể tùy Sử dụng thể văn tuỳ Vẫn dùng thể văn
bút bút, thiên về diễn tả tuỳ bút, nhưng có
nội tâm của cái tôi pha chất ký với bút
chủ quan pháp hướng ngoại
để phản ánh hiện
thực, ghi chép
thành tích chiến đấu
và xây dựng của
nhân dân
82
NGHỆ THUẬT VỊ NGHỆ THUẬT
NGHỆ THUẬT GẮN LIỀN VỚI
CUỘC ĐỜI CON
NGƯỜI, QUẦN
CHÚNG NHÂN
DÂN TRONG
CÔNG CUỘC
MƯU SINH

83
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp con sông Đà trong đoạn
trích “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác
đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách
thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt
trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một
cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần
vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào
vừa tắt phụt đèn điện.

Lại như quăng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hang cây
số nước xô đá, đá xô song, sóng xô gió. Cuốn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã
thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng
nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van
xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con
84
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm
thét với đàn trâu da cháy bùng bùng
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn
cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say
sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã
xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng
nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ
nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của
Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa,
lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực
bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng
Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con
sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên
Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
’’ Từ đó, nhận xét nét độc đáo trong phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Bài làm
85
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu
Đó là những vần thơ dạt dào của nhà thơ Chế Lan
Viên khi viết về Tây Bắc- vùng đất trời mây non
nước, sớm sương muối, trưa sương mù, trưa hoe hoe
nắng, tối tù mù mây. Tây bắc đã trở thành nơi gửi
gắm tâm tình của biết bao trái tim nghệ sĩ trong đó
có nhà văn Nguyễn Tuân. Thế nhưng Nguyễn Tuân
lại đứng ở một ốc đảo riêng, nhìn tây bắc bằng con
mắt tài hoa, nghệ sĩ để cho ra đời những trang văn
rất riêng, rất độc đáo không lẫn vào đâu được mang
tên “người lái đò sông Đà”. “Người lái đò sông Đà”
là một bản hùng ca cũng như tình ca ca ngợi vẻ đẹp
vừa hùng vĩ, hung bạo vừa thơ mộng trữ tình của
thiên nhiên Tây Bắc. Đặc biệt, nó còn là bức tranh
lao động giản dị, chất phác nhưng gân guốc, dũng
cảm của con người nơi đây. Viết về thiên nhiên Tây
Bắc, ngòi bút của Nguyễn Tuân đã tập trung xây
dựng hình tượng sông Đà – con sông dữ dằn với bao
vẻ đẹp hung bạo.
86
Nguyễn Tuân là nhà trí thức giàu lòng yêu nước,
giàu tinh thần dân tộc, là người nghệ sĩ tài hoa và
uyên bác. Nhưng hơn hết, ông là nhà văn “duy mĩ’’
suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông làm
say lòng người đọc bởi về đẹp ở quá khứ, vẻ đẹp của
những nho sĩ đã “một thời vang bóng”. Sau cách
mạng, ông lại gửi ngòi bút của mình vào cuộc đời
của hiện tại, đó là vẻ đẹp của những người dân lao
động bình dị, mộc mạc nhưng dũng cảm và tài hoa.
Người lái đò sông Đà là tác phẩm in đậm phong
cách Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng 8, được
sáng tác năm 1960 là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ
mà Nguyễn Tuân thu hoạch được từ chuyến đi thực
tế gian khổ, hào hùng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa
xôi, không chỉ để thỏa mãn cái thú tìm đến những
miền đất lạ cho thỏa niềm khao khát “xê dịch”, mà
chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng
“thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn những
con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông
hùng vĩ và thơ mộng đó.
Trước hết, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa vẻ
đẹp hung bạo, kĩ vĩ của con sông Đà ở cảnh đá bờ
87
sông dựng vách thành “ mặt sông chỗ ấy chỉ lúc
đúng ngọ mới có mặt trời”, gần như ánh sáng không
thể chiếu xuống con sông lắm chứng, nhiều tật này
bởi hai thành đá, khiến nơi đây trở nên ngột ngạt và
u ám. Để diễn tả độ hẹp của lòng sông, nhà văn đã
có một sự liên tưởng vô cùng táo bạo “Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu”lòng
sông ở đây bị đá đè đến mức nghẹt thở, lòng sông
nhỏ hẹp như một cái yết hầu. “Đứng bên này bờ nhẹ
tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai
con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia’’lòng
sông hẹp, quãng sông còn hẹp hơn, thật hiếm con
sông nào ở Việt Nam nhỏ đến vậy, nhỏ đến nỗi một
con nai, con hổ có thể nhảy vọt qua. Như vậy, bằng
nhiều hình ảnh, liên tưởng, những chi tiết tưởng như
bâng quơ nhưng nhà văn đã gợi ra một dòng sông
Đà với độ hẹp của lòng sông, độ cao của vách đá,
qua đó ông gián tiếp miêu tả lưu tốc dòng chảy lớn
của dòng sông ở miền Tây Bắc tổ quốc. Nhà văn đã
có một sự liên tưởng độc đáo về cuộc sống để diễn
tả cảm xúc, cảm giác của một người đi đò về sự
hùng vĩ của con sông “đang mùa hè mà cũng thấy
88
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng
nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.’’nhà văn đã
huy động cả thị giác và xúc giác để cảm nhận khi đi
trên sông. Với hình ảnh liên tưởng đầy bất ngờ, nhà
văn tô đậm sự lạnh lẽo, rơn ngợp như đang đứng ở
một ngõ mà tự dưng tắt phụt đèn điện. Với năng lực
quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, độc đáo,
nhà văn trước tiên đã vẽ nên một sông đà hùng
vĩ,tráng lệ.
Tuy nhiên, sông Đà trong con mắt của Nguyễn
Tuân không chỉ hùng vĩ mà còn là hung bạo và dữ
dằn khi nhà văn chạm mặt mặt ghềng lát loóng. Đập
vào mắt tác giả, sông Đà như một kẻ đòi nợ xuýt gắt
gao và tàn bạo, như đang cuồng nộ, giận dữ sẽ bắt
chết người nào đi ngang qua đây “nước xô đá, đá xô
song, sóng xô gió’’, nhà văn đã dùng một câu văn rất
ngắn cùng biện pháp điệp cấu trúc, ngắt nhịp nhanh
để tạo nên một cảnh tượng dậy sóng, dậy gió, cùng
không khí, gập gáp khẩn trương. Âm thanh của gió,
sóng, nước tạo nên một bản hợp xướng đang ầm ầm
lao tới, đó như bản hùng ca ngàn năm của thác nước.
89
Nước, đá, sóng như vừa xô đẩy, đấu đá nhau vừa
hợp sức chống lại người lái đò, tạo nên một không
gian sống động, mặt nước sông Đà như sôi lên, từ
“cuồn cuộn” kết hợp với từ tượng thanh “gùn ghè’’
tô đậm nên một không khí rùng rợn đến lạnh người.
Với tham vọng đem đến cho người đọc một cảm
giác chân thật nhất, sinh động nhất về sự hùng vĩ của
Đà Giang, nhà văn đã tung ra một đội quân hùng
hậu: từ ngữ, hình ảnh vô cùng độc đáo mà ta chỉ bắt
gặp được trong văn của bậc thầy ngon từ Nguyễn
Tuân. Bằng trí tưởng tượng phong phú, cùng việc
tinh tế trong việc quan sát, nhà văn đã đem hết
những gì mới lạ vào những trang văn của mình, để
người đọc cũng cảm thấy ghê sợ. “Còn xa lắm mới
đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần
mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là
oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là
khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.’’, hàng loạt
những âm thanh của nước được nhà văn miêu tả một
cách cụ thể và sinh động. Đủ mọi sắc thái của sông
Đà được nhà văn nhân hóa một cách sinh động như
một sinh thể thực thụ, có linh hồn, đang giận dữ, làm
90
mình làm mẩy. Sự giận dữ ấy nằm ở tiếng thác.
Những câu văn khi miêu tả thác nước đều ngắt nhịp
khá nhanh, nhịp điệu dồn dập, gấp gáp cùng biện
pháp tăng tiến diễn tả đủ mọi sắc thái của sông Đà,
từ oán trách, rồi van xin, rồi khiêu khích và chế
nhạo, tất cả đó diễn tả sự cuồng nộ của thiên nhiên
ngày càng lớn cùng khoảng cách ngày càng gần giữa
ông lái đò với thác sông Đà. Thế nhưng, âm thanh
đập mạnh vào vào tâm trí người đọc nhất, diễn tả sự
cuồng nộ nhất phải kể đến hình ảnh “thế rồi nó rống
lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông
rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da
cháy bùng bùng.”, có lẽ, đây là hình ảnh hay nhất
trong tác phẩm, một loạt động từ được nhà văn sử
dụng liên tiếp:rống lên, lồng lộn, phá tuông, gầm
thét, cháy bùng bùng. Một loạt việt ngữ được nhà
văn sử dụng vô cùng linh hoạt, hình ảnh so sánh
cùng nhiều động từ mạnh tạo nên một khung cảnh
vô cùng man rợ, khiến người đọc như được xem một
bộ phim hành động kịch tính. Tiếng thác như tiếng
gầm, tiếng thét của hàng ngàn con trâu mộng, gợi
91
cho người đọc âm thanh man rợ, bản năng của loài
động vật tìm lối thoát thân. Nó tạo nên một khung
cảnh vô cùng hùng vĩ và nguy hiểm. Đoạn văn còn
là sự liên tưởng và cộng hưởng âm thanh, lần đầu
tiên có nhà văn lấy lửa để tả nước, lấy hai nguyên
cốt đối lập đặt trong một câu tưởng vô lí nhưng lại
vô cùng hợp lí, nó tô đậm âm thanh của thác nước,
một âm thanh cuồng nộ như hàng trăm con trâu đang
điên cuồng, gào thét, điên loạn tìm con đường sống
khi bị giam hãm trong một không gian bị lửa thiêu
rụi.
Nhắc đến người lái đò sông Đà ta không thể
quên nghệ thuât độc đáo trong cách viết của bậc kì
tài Nguyễn Tuân. Đoạn văn đã chứng minh tài năng,
sự xuất chúng trong cách dùng từ của “người thợ
kim hoàn của chữ”- Nguyễn Tuân. Ngôn ngữ trong
cả tác phẩm nói chung và đoạn văn nói riêng rất
phong phú, điêu luyện và giàu tính tạo hình. Chỉ có
trong văn của Nguyễn Tuân ta mới bắt gặp những từ
ngữ độc đáo, sáng tạo như thế, những động từ mạnh
được sử dụng nhiều đến vậy. Điều đó, thể hiện cá
tính mạnh mẽ, phóng khoáng trong con người của
92
chính tác giả. Sự mạnh mẽ, dứt khoát trong phong
cách Nguyễn Tuân còn là ở cách ngắt nhịp ngắn,
dồn dập như sóng đánh tạo nên một không gian dồn
dập, gấp gáp như một trận đánh. Nhà văn Nam Cao
đã từng nhận định về sự sáng tạo trong văn học rằng
“Văn chương không cần những người thợ khéo tay,
làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi,
khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những
cái gì chưa có..." (Đời thừa), Nguyễn Tuân là một
người thợ như thế, ông không đi theo một lối mòn đã
vạch sẵn mà luôn tìm tòi cái mới, khơi nguồn những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có,
điều đó được chứng minh trong những hình ảnh, sự
liên tưởng mà tác giả sử dụng trong đoạn văn, hiếm
khi mà ta thấy một nhà văn nào lấy cái yết hầu để
miêu tả độ hẹp của lòng song, lấy hình ảnh hàng
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để miêu tả sự
cuồng nộ của con thác và cũng hiếm nhà văn nào có
nhiều sự liên tưởng, tưởng tượng đến vậy. Chính cái
nghệ thuật đấy đã làm nên một “người lái đò sông
Đà” sống mãi trong lòng độc giả và minh chứng cho
93
tài năng xuất chúng của “ bậc thầy ngôn từ” Nguyễn
Tuân.
Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học
nước nhà một kiệt tác vô cùng độc đáo, một phong
cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa. Khép
lại những trang văn của tùy bút “Người lái đò sông
Đà”, ta vẫn không nguôi cảm xúc lâng lâng trong
tâm hồn mình, có chăng, đó là những điều đẹp đẽ
nhất mà văn học đã mang lại, khơi gợi trong lòng
mình những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng lớn. Thật
cảm ơn Nguyễn Tuân, một người nghệ sĩ suốt đời đi
tìm cái đẹp để nâng niu những giá trị vững bền của
đời sống lao động và của dân tộc.
Đọc thêm: Vẻ đẹp đẹp trữ tình sông Đà qua đoạn
trích: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời
tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn
cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say
sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã
xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng
nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ

94
nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của
Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì rượu bữa,
lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực
bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng
Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con
sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên
Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.”
 Qua con mắt của người thi sĩ, sông Đà không chỉ
hung bạo,, hiểm ác, không chỉ có “dòng thác
hùm beo” mà nó còn mang vẻ đẹp thơ mộng, trữ
tình, thanh bình và yên ả
 Trôi về hạ lưu, với góc nhìn từ trên cao, bậc du
tử tài hoa đã lấy bút ra vẽ một bức tranh thủy
mặc vương vấn lòng người
 Dòng sông mang vẻ đẹp của một thiếu nữ Tây
Bắc vừa yêu kiều, vừa hoang dại, đầy sức hấp
dẫn,
 Nhà văn đã sử dụng 1 câu văn rất dài, hạn chế
ngắt ngoãng để gợi tả độ dài của con sông như
mái tóc của người thiếu nữ Tây Bắc.

95
 Nhà văn sử dụng biên pháp so sánh: sông đà như
áng tóc trữ tình vắt qua núi rừng hùng vĩ -) đây
là 1 chi tiết nghệ thuật rất độc đáo, sự so sánh
đầy chất thơ, chất họa, chẳng những phô ra được
nét dịu dàng mà con bộc lộ chất trữ tình, phong
lưu của người nghệ sĩ
 Điệp từ “tuôn dài” cùng với nhịp điệu nhẹ
nhàng,mềm mại -) vừa gợi ra nét uyển chuyển,
thướt tha, vừa miêu tả độ dài vô tận của sông
Đà. Mái tóc Đà Giang như nối dài đến vô tận,
trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của
núi rừng.
 “áng”: gắn liền với áng thơ, áng văn nay nhà văn
lại dùng “áng tóc” chứ k phải là mái tóc =)sông
Đà trở nên quyến rũ, tràn trề nhựa sống
 Qua lăng kính của người nghệ sĩ sông Đà không
chỉ kiều diễm, dịu dàng như mái tóc của người
thiếu nữ mà còn mang vẻ đpej tình tứ, e ấp,
hoang dại
 Cảnh sắc Tây Bắc được nhà văn miêu tả rát
riêng, rất lạ, rất thơ. Sông Đà ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc tháng 2 với hoa ban, hoa gạo đang
96
bung nở và khói núi Mèo đang cuồn cuộn trên
mây trời Tây Bắc.
 “bung nở”+ “cuồn cuộn’’=) vừa gợi nên sức
sống mãnh liệt vừa gợi nên vẻ đẹp huyền ảo của
mây trời Tây Bắc
=)mái tóc của người phụ nữ như được đan cài
thêm hoa ban, hoa gạo=) tô đậm sông Đà với vẻ
đpej kín đáo, hư ảo và tình tứ
=) Tây Bắc muôn đời vẫn đẹp, sông Đà có hung
bạo đến đâu, cũng có lúc kiều diễm như 1 cô gái
trẻ bùng cháy sắc xuân. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ
mộng, trữ tính ùa về và thức giấc trong văn của
Nguyễn Tuân- người thợ kim hoàn của chữ(
Hoài Thanh)
=) Như vậy, với nhiều hình ảnh so sánh độc đáo,
ngôn ngữ giàu tính tạo hình cùng nhịp điệu nhẹ
nhàng, du dương như một bản nhạc êm ái tạo
nên sông Đà- 1 bức tranh thủy mặc nhẹ nhàng,
xao động lòng người
 Cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng đã làm nhà văn
say sưa và mê đắm “Tôi đã nhìn say sưa làn mây
mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua
97
đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước
Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ
nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến
của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà
lừ lừ chín đỏ như da mặt một nguời bầm đi vì
rượu bữa”. Chỉ 1 câu văn ngắn nhưng đã lấy đi
của Nguyễn Tuân 4 mùa thời gian, mỗi mùa lại
đem đến cho ông những cảm xúc, ấn tượng
riêng: xanh ngọc bích gợi sự trong sáng, trẻ
trung, đầy sức sống, màu đỏ chứa đựng sự tiềm
tàng bên trong hàm lượng phù sa lớn, bồi đắp
đôi bờ sông
 Sự thay đổi màu sắc làm cho sông Đà luôn tươi
mới, mang vẻ đẹp vừa thực vừa ảo, rất duyên
dáng, dịu dàng=)đem đến cho người độc một cái
nhìn đa dạng, toàn diện về vẻ đẹp con sông.
 Nhà văn còn khẳng đinh sông Đà không phải là
có màu đen như TD Pháp đã đổ mực tàu vào mà
gọi bằng cái tên “con sông đen’’
=) thể hiện tình yêu qhuong, đất nước của tác giả
=)Nguyễn Tuân đã gom tất cả những gì đẹp
nhất, thơ mộng nhất, huyền ảo nhất của sông Đà,
98
của Tây Bắc để đưa vào những trang văn của
mình

99
Chiếc thuyền ngoài xa
(Nguyễn Minh Châu)

Đề bài: Phân tích vẻ đẹp người đàn bà hàng Chài


trong đoạn trích: “ Lát sau mụ lại nói tiếp...không có
cách mạng về”. Từ đó, nhận xét về tư tưởng nhân
đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
BÀI LÀM
Nhà văn Thạch Lam đã từng khẳng định: “Công
việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không
ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật,
để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng
thức.” Thật vậy, văn chương là gì nếu không viết về
cái đẹp, văn chương là gì nếu không phải là bức
tranh tái hiện sự sống, khắc họa cuộc đời ở từng
100
ngóc ngách bí ẩn, khám phá những số phận, đào xới
từng mảnh đời để tìm ra cái đẹp khuất lấp trong
những mảnh đời ấy. Công việc của người nghệ sĩ là
dùng ngòi bút sắc nhọn của mình lách sâu, mổ kỹ
từng ngóc ngách của cuộc sống, khám phá ra những
nét đẹp của con người, có vậy thì tác phẩm văn học
của nhà văn ấy mới có thể thoát khỏi sự băng hoại
của thời gian, sống mãi trong lòng độc giả. Có thể
nói, trong tác phẩm “chiếc thuyền ngoài xa” nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh
của người cầm bút khi đã đi sâu vào từng ngõ ngách
của nhân vật người đàn bà hàng chài để tìm ra vẻ
đẹp khuất lấp của người phụ nữ ấy. Và vẻ đẹp ấy
được nhà văn thể hiện rõ nét qua đoạn trích “ Lát sau
mụ lại nói tiếp...không có cách mạng về”.
"Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc
những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng
là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài
năng sau này" (Nguyễn Khải), là cây bút tiên phong
của văn học Việt Nam thời kì đổi mới, là nhà văn
suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha thiết tìm kiếm
“hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”.
101
Trước 1975, sáng tác của ông mang đậm tính sử thi,
sau cách mạng, ngòi bút của ông lại tập trung khám
phá nghệ thuật ở bình diện đạo đức, tâm điểm khám
phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc sống
lao động, trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc và
hoàn thiện nhân cách. “Chiếc thuyền ngoài xa”được
sáng tác năm 1987 là tác phẩm tiêu biểu cho phong
cách của Nguyễn Minh Châu sau 1975- tự sự và triết
lí, là hành trình khám phá vào tầng chìm, vào chiều
sâu của cuộc sống và con người của tác giả. Chiếc
thuyền ngoài xa ghi lại chuyến đi thực tế của một
nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm của anh
về nghệ thuật và cuộc sống.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, nhà văn đã không
đặt cho nhân vật 1 cái tên cụ thể nào, mà chỉ gọi đi
gọi lại bằng “người đàn bà hàng chải’’, “mụ”, “chị
ta”,... Đó không phải là một sự vô tình, hay nhà văn
thiếu ngôn từ đến nỗi không đặt được cho nhân vật
một cái tên mà đó là cả một dụng ý nghệ thuật, đó là
cách nhà văn xây dựng nhân vật điển hình. Người
đàn bà hàng chài chỉ là một trong hàng trăm, hàng
ngàn người phụ nữ như thế, chịu nhiều khốn khổ,
102
đau thương, sống trong cuộc sống cơ cực, bần hàn
nhưng vẫn sáng ngời vẻ đẹp của người phụ nữ Việt
Nam: sâu sắc, bao dung, đặc biệt là tình yêu con vô
bờ.
Đối với mỗi nhà văn, cách để nhân vật xuất hiện
hay giới thiệu nhân vật như thế nào là một điều vô
cùng quan trọng. Nếu như Tô Hoài để Mị xuất hiện
lặng lẽ bên tảng đá, với dáng vẻ đơn độc, lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa, Nam Cao để Chí Phèo
xuất hiện trong âm thanh ám ảnh của tiếng chửi, của
sự cô độc và ghẻ lạnh từ những người xung quanh
thì NMC để người đàn bà xuất hiện trong một hoàn
cảnh trớ trêu, đó là trong trận bạo hành. Khác với
những người phụ nữ trong văn của Nguyễn Minh
Châu trước 1975 mang vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết
như Nguyệt trong “mảnh trăng cuối cùng” hay Quỳ
trong “người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”,
người đàn bà trong CTNX được miêu tả một cách dị
biệt, một sản phẩm mà tạo hóa chạm khắc một cách
vội vàng. Chỉ bằng vài nét miêu tả, người đàn bà đã
hiện lên trước mắt người đọc với dáng vẻ xấu xí,
tiều tụy “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một
103
thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn
với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn
mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái
ngắt và dường như đang buồn ngủ”, đã vậy mặt còn
chằng chịt những nốt rỗ do di chứng của bệnh đậu
mùa. Ngoại hình ấy còn tiều tụy, xơ xác hơn bởi
cuộc sống mưu sinh vất vả, lam lũ “tấm lưng áo bạc
phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. Đã
vậy, người đàn bà còn là nạn nhân khốn khổ của nạn
“bạo lực gia đình’’ “3 ngày 1 trận nhẹ, 5 ngày 1 trận
nặng”, chị phải chịu sự tra tấn, bạo hành của gã
chồng độc giữ và vũ phu. Mỗi lúc bực bội, hắn lại
đem chị ra đánh để giải tỏa mà chị vẫn không có
chút phản kháng, chỉ biết quỳ xuống khóc lóc.
Dù là trước hay sau 1975, NMC luôn giữ quan
điểm sáng tác “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi
tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn
con người”, chính vì vậy phía sau việc miêu tả ngoại
hình xấu xí, thô kệch, bi kịch của người đàn bà hàng
chài, ông lần lượt miêu tả vẻ đẹp nội tâm khuất lấp
của chị. Trước hết, chị hiện lên với người phụ nữ sâu
sắc, trải mọi hỉ - nổ - ái - ố. Chứng kiến hoàn cảnh
104
khốn khổ của người đàn bà ấy, Phùng và Đẩu đề
xuất giải pháp li hôn nhưng điều mà Đẩu, phùng lẫn
người đọc cảm thấy khó hiểu là chị nhất mực từ
chối. Có lẽ, nhiều người sẽ thấy nực cười cho người
đàn bà ngờ nghệch ấy nhưng đằng sau những lời giãi
bày của chị, ta mới vỡ lẽ được nhiều điều và thầm
cảm phục sự sâu sắc của chị. “Mong các chú cách
mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở
thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo
chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một
sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa.” Bỏ
chồng có thể chị sẽ được tự do, sẽ không phải chịu
cảnh đánh đập, hành hạ của lão chồng độc giữ,
nhưng bỏ chồng sẽ đẩy cuộc sống của chị và chục
đứa con đến chỗ thê thảm cuộc sống. Đến đây, một
thực tế hiện ra trước mắt chúng ta: Nếu không có sự
tồn tại của người đàn ông khỏe mạnh, thành thạo
nghề, một người phụ nữ và chín, mười đứa con
không thể nào chèo chống được con thuyền nhất là
khi bão tố ập về. Bỏ chồng chị sẽ được giải phóng?
Có thể là vậy nhưng sắp con của chị biết phải sống
sao? chúng cần một người cha để nuôi nấng, bảo vệ,
105
chở che. Hơn nữa, chị hiểu rằng khi gia đình chia
lìa, người khổ nhất không phải là chị, càng không
phải gã chồng mà là những đứa con tội nghiệp, đứa
có cha thì mất mẹ, có mẹ thì vắng cha, chia đàn xẻ
nghé. Rõ ràng khi đề xuất giải pháp li hôn, Phùng và
Đẩu đã dùng kinh nghiệm non trẻ của mình để đặt
vào hoàn cảnh của người phụ nữ, dù họ đã là những
người lính dũng cảm trên chiến trường, những người
có học thức nhưng đứng trước sự sâu sắc của người
đàn bà kia, họ cũng trở nên thật nhỏ bé, giờ đây
người đàn bà như một vị chánh án đang xét xử Đẩu
và Phùng. Đẩu là người có lòng tốt, là người biết
đứng lên bảo vệ công lí nhưng đang rời xa thực tế,
thiếu sự trải nghiệm, nhìn từ xa để quan sát chưa đặt
mình vào hoàn cảnh của người đàn bà kia để hiểu,
để đưa ra giải pháp thiết thực. Lòng tốt là đáng trân
trọng, pháp luật là cần thiết nhưng có lẽ chưa đủ để
giúp cho con người thoát khỏi vòng vây của cái khổ,
mà muốn có được giải pháp thỏa đáng, lòng tốt,
pháp luật cần thực tế hơn, phải đặt vào hoàn cảnh
của người trong cuộc. Một lí do nữa khiến chị không
chấp nhận giải pháp li hôn của Đẩu là vì “ trên chiếc
106
thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống
hòa thuận, vui vẻ”, chị thật sâu sắc, biết chắt chiu
hạnh phúc nhỏ nhoi, dù hạnh phúc chỉ đôi chút, đôi
lát nhưng cũng đủ để chị xoa dịu nỗi đau về thể xác
và tinh thần, đủ để chị quên đi những trận roi vọt của
gã chồng, đủ để chị bằng lòng chấp nhận cuộc sống
bạo hành. Hạnh phúc ấy thật tội nghiệp, và nhỏ bé
nhưng đối với chị nó thật thiêng liêng, đáng chị chị
đánh đổi, đánh đổi những trật bạo hành, roi vọt để
đổi lại những bữa sum họp gia đình, những buổi gia
đình hòa thuận vui vẻ. Dù cuộc sống tăm tối là vậy
nhưng chị vẫn cảm nhận được không khí gia đình
hòa thuận, vui vẻ, quả thực chị là người biết “gạn
đục khơi trong”. Cho dù có lẽ những khoảnh khắc ấy
là không nhiều trong cuộc sống của chị, nó như
những ánh sao băng vụt sáng qua bầu trời trong
thoáng chốc để rồi nhường chỗ lại cho sự thăm
thẳm, mờ mịt của vũ trụ. Song người đàn bà hàng
chài ấy vẫn cứ nhớ, vẫn cứ nâng niu như là điểm tựa
tinh thần bình yên cho chị để sống và nuôi đàn con.
Như vậy, bên trong vẻ xấu xí, thô kệch, nhếc nhác
kia lại là người phụ nữ sâu sắc, trải đời, người phụ
107
nữ khiến độc giả phải vỡ lẽ vì nhiều triết lí cuộc
sống cùng nhiều bài học nhân sinh.
Đi vào vào trong con người của người đàn bà,
nhà văn còn tìm ra vẻ đẹp khuất lấp phía sau người
đàn bà ấy là vẻ đẹp của người mẹ với tình yêu
thương con vơ bờ và đức hi sinh cao cả. Tôi bị ảm
ảnh bởi một câu nói của người phụ nữ kia, nó làm
tôi thổn thức, trăn trở không ngừng về đức hi sinh,
tình yêu con của một người mẹ. Khi được Phùng hỏi
về hạnh phúc “Cả đời chị có một lúc nào thật vui
không?” chị đã trả lời mà cần có một sự do dự “Có
chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi
chúng nó được ăn no...”. Người phụ nữ ấy đã quên
đi hạnh phúc của chính bản thân mình, niềm hạnh
phúc của chị không phải là được ăn sung mặc sướng,
được tự do, được thoát khỏi lão chồng tàn độc kia
mà niềm vui của chị gửi gắm ở đàn con thơ nheo
nhóc, con vui, con no là chị thấy hạnh phúc. Chị khổ
mấy cũng được, bị đánh đập thế nào chị cũng cam
chịu được chỉ có duy nhất điều mà chị không thể là
nhìn đàn con thơ đói khát. Niềm vui duy nhất của
chị là nhìn các con ăn no, không phải đói khát triền
108
miên như những ngày biển động phải ăn xương rồng
luộc chấm muối. Đàn con ấy là động lực, là điểm tựa
tinh thần quý giá để chị tin tưởng, hi họng mà sống
tiếp. Trong những câu nói của chị, chưa bao giờ là
chị nhắc tới bản thân mình, chưa bao giờ chị nghĩ
cho bản thân, có thể khẳng định chị xem con cái như
sinh mạng của mình. “Ông trời sinh ra người đàn bà
là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho
nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng
tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
như ở trên đất được”, đối với chị, thiên chức của một
người mẹ là sinh con ra để nuôi con trưởng thành, dù
có khó khăn, vất vả đến đâu. Chị sẵn sàng gánh lấy
cái khổ cái đau đớn, để bao bọc, nuôi dạy con cái
trưởng thành. Chị - một người mẹ không hề sống vì
mình mà sống vì con, sống để hoàn thành trách
nhiệm của một người mẹ, chị giường như quên đi
cuộc sống của bản thân để che chở cho con. Chị
không chấp nhận giải pháp li hôn cũng một phần
cũng vì những đứa con tội nghiệp. “Các chú đừng
bắt tôi bỏ nó!” chị như đang van xin chánh án Đẩu,
lời van lơi ấy không phải để van xin cho chị, cũng
109
không phải van xin cho gã chồng kia mà chính là
van xin cho những đứa con tội nghiệp kia, chị biết
những đưa con ấy cần có cha, cần có bàn tay mạnh
khỏe của người cha che chở. Chính tình mẫu tử
thiêng liêng cao thượng đã chắp cánh cho chị, đưa
đàn con bay vút lên trên sự cơ cực, đói kém, nhọc
nhằn và lam lũ. Đã từng trải qua những giông tố của
cuộc đời, từ cuộc tình dang dở, cuộc sống mưu sinh
đầy bấp bênh, khó nhọc đến bi kịch khổ đau trước sự
hành hạ của người chồng, có lẽ hơn ai hết, người
phụ nữ miền biển này đã quá thấu hiểu: Cuộc đời
này vốn dĩ không đơn giản mà chứa đựng biết bao
hiểm nguy và cạm bẫy, đe dọa, rình rập con người.
Như con chim sợ cành cây cong, chị như con gà mái
mẹ đang xòe đôi cánh vững chãi chở che cho đàn
con của mình. Lo cho chúng từ miếng ăn, giấc ngủ,
người phụ nữ ấy biết chắt chiu, giữ gìn những hạnh
phúc đời thường.Tình yêu thương con của người đàn
bà hàng chài mang bóng dáng của triệu triệu phụ nữ
Việt Nam. Ta đã từng biết đến bà Tú trong tác phẩm
“thương vợ” của nhà thơ Tú Xương, một người phụ
nữ tần tảo, đảm đang, giàu đức hi sinh “nuôi đủ năm
110
con với một chồng”, nay lại bắt gặp một người đàn
bà hàng chài với nét khổ sở nhưng ẩn sâu trong
ngoại hình xấu xí ấy lại là bao nét đẹp mà sáng ngời
hơn hết là hi sinh, và tình yêu đối với con. Có thể
nói, họ đều là những người “áo rách nhưng lòng
vàng” đáng được trân trọng và ngợi ca. Họ là tiêu
biểu cho hình ảnh người mẹ Việt Nam với những
phẩm chất tốt đẹp!. Cuối cùng, tình yêu con của
người đàn bà ấy thể hiện ở tình yêu đặc biệt đối với
thằng Phác. Trận đòn cay nghiệt từ lão chồng không
có gì kỳ lạ vì nó vẫn là hình ảnh quen thuộc được
tính theo chu kỳ “ba ngày, năm ngày” nhưng kỳ lạ là
ở thái độ người đàn bà. Trước đòn roi, chị vẫn lặng
im chịu đựng, vẫn lặng yên cam chịu như một thói
quen: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn
nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng
không tìm cách chạy trốn”. Đặc biệt, phía sau trận
đòn ấy người đàn bà không hề rơi một giọt nước
nước mắt, thể xác bị chà đạp, tinh thần bị lăng nhục
nhưng chị không khóc. Đó không phải là sự vô cảm,
lãnh cảm hay mẫn cảm với đòn roi mà phía sau đó là
cả một tấm lòng, một đức hi sinh, vị tha cao thượng
111
của người vợ, người mẹ. Tuy nhiên, khi hỏi đến
thằng Phác – đứa con mà vì thương chị mà làm
những chuyện trái đạo lí thì nước mặt chị đã tuôn ra
“Người đàn bà đã khóc khi tôi nhắc đến thằng
Phác”, dòng nước mắt của người đàn bà ấy là biểu
hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt
lòng, khi chồng đánh không hề có bất kì phản ứng
nào, nhưng khi nhắc đến thằng con khiến chị như bị
một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi đau
tận cùng. Đó là lúc nỗi đau dâng trào đến đỉnh điểm
khi chị nhớ đến cái cảnh thằng Phác vì thương chị,
chứng kiến cảnh bạo lực mà đánh lại cả cha nó.
Nguyễn Minh Châu đã như một nhà quay phim tài
ba khi lia ống kính của mình chớp lấy những giọt
nước mắt đau khổ ấy. Đó là những thước phim cận
cảnh, làm hiện lên đôi mắt hằn in dấu chân chim gió
sương, mưa nắng của một người mẹ, giọt nước mắt
chảy ra từ kẽ mắt nứt nẻ theo thời gian. Và giọt nước
mắt ấy ta cũng đã bắt gặp ở hình ảnh bà cụ Tứ trong
tác phẩm “ Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân “ Trong
kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước
măt”. Đó đều là hạt bụi vàng của tác phẩm, chi tiết
112
nhỏ làm nên nhà văn lớn, giọt nước mắt chứa đựng
tình yêu sâu sắc của những người mẹ từng trải. Nếu
như giọt nước mắt của bà cụ Tứ là giọt nước mắt của
sự tủi nhục, nước mắt của một người “có tâm nhưng
không đủ lực” không đủ để lo cho con một cái đám
cưới, giọt nước mắt của sự “mừng lòng” khi đứa con
xấu xí, dở hơi lại nghèo của mình lấy được vợ giữa
nạn đói, giọt nước mắt của sự lo lắng về tương lai
các con giữa nạn đói người chết như ngả rạ, thì giọt
nước mắt của người đàn bà hàng chài là giọt nước
mắt đau từ can tâm, giọt nước mặt của sự nhục nhã
và xấu hổ khi thằng con dại dột của mình vì thương
mẹ mà đánh cha. Suy cho cùng, đó đều là những
dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn
cảnh nghèo đói và khốn khổ; đều là “giọt châu của
loài người”, giọt nước mắt chan chứa tình người trào
ra từ tâm hồn những người mẹ giàu lòng vị tha, đức
hi sinh; đều góp phần thể hiện giá trị hiện thực và
nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực xã hội
trong những thời điểm khác nhau; thể hiện tấm lòng
thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân
trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả.
113
Một tác phẩm thực sự thành công, thoát khỏi sự
phai mờ, sự tàn phá của thời gian thì tác phẩm đấy
phải có sự có sự thành công không chỉ về mặt nội
dung mà còn ở nghệ thuật. Có thể nói, “Chiếc
thuyền ngoài xa” nói chung và đoạn trích nói riêng
không chỉ mang nội dung ý nghĩa mà còn thành
công trong nghệ thuật. Trước tiên phải kể đến nghệ
thuật xây dựng tình huống truyên, đó chính là tình
huống truyên nhận thức. Đoạn văn là quá trình
chuyển biến nhận thức của Phùng và Đẩu về người
đàn bà hàng chài, từ việc nhìn chị bằng con mắt
đáng thương, một người phụ nữ thô kệch, nhếch
nhắc, khờ khạo sang con mắt cảm phục trước sự sâu
sắc, thấu tình đạt lí, sự bao dung cùng đức hi sinh,
lòng thương con bao la của chị. Đó là còn là tình
huống truyện nghịch lí: đằng sau cái đẹp là cái ác,
cái sự thực trần trụi, đằng sau các xấu xí lại là cái
đẹp, là hạt ngọc mà tác giả luôn luôn tìm kiếm, đằng
sau tri thức, lòng tốt của Phùng và Đẩu lại là sự non
trẻ, cách làm trên lí thuyết, chưa đặt mình vào hoàn
cảnh của người trong cuộc. Toàn bộ tác phẩm, ta
không hề thấy người đàn bà kia có một cái tên cụ thể
114
nào, phải chăng nhà văn nghèo ngôn từ đến nỗi
không đặt cho nhân vật một các tên cụ thể? Đó chính
là cách mà nhà văn xây dựng nhân vật điển hình, chị
là hiện thân của hàng trăm, hàng nghìn người phụ
nữ, người dân lao động đang chiến đấu với cái đói,
cái nghèo, cái khổ nhưng vẫn mang trong mình vẻ
đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Diễn biến tâm lí
của các nhân vật được nhà văn khắc sâu qua ngôn
ngữ kể chuyện dung dị, mộc mạc song gợi điệu trần
thuật và giàu triết lí cùng cách kể chuyện sinh động,
tự nhiên, giàu sức thuyết phục.
Nguyễn Khải đã từng khẳng định “Giá trị của
một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư
tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở
các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng
nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm
của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau
cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn”. Thật
vậy, giá trị nhân đạo của một tác phẩm thể hiện đầu
tiên ở tình cảm, cảm xúc của người cầm bút đối với
nhân vật, với tiếng thét đau khổ hay lời ca tụng hân
hoan của nhân vật đó. Đối với nhà văn Nguyễn
115
Minh Châu, ông bày tỏ lòng xót thương, sự đồng
cảm đối với người dân lao động sau chiến tranh mà
tiêu biểu là người đàn bà hàng chài, đồng cảm cho
cuộc sống nghèo khó, chật chội, đông con, nhiều lần
biển động phải ăn xương rồng chấm muối, xót xa
cho nỗi đau mà chị phải chịu đựng, nỗi đau thể xác
khi chị bị người chồng xem như công cụ để giải tỏa
áp lực, bế tắc trong cuộc sống bằng những trận roi
vọt mang tính quy luật “ba ngày một trận nhẹ, năm
ngày một trận nặng”, nỗi đau về tinh thần khi phải
chứng kiến cảnh thằng Phác vì thương mẹ mà đánh
cha. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắn nhủ với các
nghệ sĩ “ văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận.
Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, không chỉ
là nâng niu, trân trọng vẻ đẹp của con người mà văn
học còn là vũ khí đấu tranh lại cái ác, cái xấu, ngôn
ngữ chính là vũ khí, trí tuệ chính là vũ khí, tình cảm
chân chính chính là vũ khí. Vì thế, trong “chiếc
thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã mượn ngòi
bút của mình để lên án gay gắt nạn bạo lực gia đình,
hành động vũ phu, thô bạo của người chồng, hắn
vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm gây nên nỗi bất
116
hạnh, nỗi đau của các thành viên trong gia đình.
Hành động đánh vợ ấy cần lên án dù có trăm ngàn lí
do để bào chữa, giải thích hay ngụy biện. Đồng thời,
ctnx còn là bản cáo trạng đanh thép lên án chiến
tranh, suy cho cùng hoàn cảnh nghèo đói dẫn đến
nạn bạo lực gia đình chính là kết quả của chiến
tranh. Dovtopxki từng nói “ cái đẹp cứu chuộc thế
giới”, đúng vậy muôn đời văn học nghệ thuật chính
là văn học tôn vinh con người, văn học luôn tìm
kiếm hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người.
Muốn vậy, người nghệ sĩ trước hết phải là người dấn
thân, biết đạp lên những định kiến của xã hội để
nhìn con người một cách con người nhất. Trong
cuộc ngụp lặn vào thế giới sâu kín của tâm hồn nhân
vật với những biến thái tinh vi phức tạp, bằng sự
nhảy cảm thiên bẩm, một trái tim hừng hực yêu
thương, nhà văn NMC đã phát hiện, nâng niu, ca
ngợi và trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn,
phẩm chất cao đẹp của nhân vật. Ông ca ngợi vẻ đẹp
của tình mẫu tử thiêng liêng, của một người phụ nữ
sâu sắc, trải đời, cam chịu, biết chắt chiu hạnh phúc
giai đình đằng sau vẻ ngoài xấu xí, tiều tụy và thô
117
nháp. Nhà văn Ý Claudio Magrid từng nói “Văn
chương không cần những câu trả lời mà nhà ăn đem
lại, văn chương cần những câu hỏi mà nhà văn đặt
ra”. Qua một tác phẩm, nhà văn phải bày tỏ quan
điểm của mình về một vấn đề nào đó, đề xuất giải
pháp, hoặc chí ít gợi ra được những vấn đề cấp thiết
của xã hội. Với ctnx nhà văn NMC đã đặt ra những
vấn đề sâu xa của xã hội: Làm cách nào để giải
phóng con người khỏi bi kịch cuộc sống?
“Thiên chức của nhà văn cũng như những chức
vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để
trong đời có nhiều công bằng, thương yêu
hơn.”(Thạch Lam). Với ctnx, nhà văn NMC đã hoàn
thành thiên chức của mình khi đã ngụp sâu, len lỏi
vào cuộc đời để tìm ra vẻ đẹp khuất lấp phía sau
người đàn bà hàng chài, vẻ đẹp thiêng liêng ấy sẽ
sống mãi với thời gian, sống mãi trong lòng mọi độc
giả. Vẻ đẹp ấy được đúc kết từ tình yêu tha thiết với
con người cùng khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tôn
vinh những vẻ đẹp trong cốt cách con người. Khép
lại những trang văn kể về cuộc đời người đàn bà
hàng chài vô danh nơi vùng biển, dư âm của nó vẫn
118
còn day dứt, ám ảnh trong lòng độc giả mãi tận hôm
nay và mãi mãi về sau.
Đề bài : Phân tích vẻ đẹp người đàn bà hàng
chài ở tòa án huyện.
BÀI LÀM
Nguyễn Văn Siêu đã từng khẳng đinh “Văn
chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại
không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn
chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con
người”. Thật vậy, văn chương là gì nếu không nói về
con người, về nhân sinh? Văn chương đâu cần đến
những người thợ mà văn chương chỉ cần những khối
óc của những “kĩ sư tâm hồn”. Văn chương mà chỉ
như những đóa hoa hữu sắc vô hương, thì đầu còn là
văn chương nữa. Một nhà cầm bút muốn tác phẩm
của mình trở nên “đáng thờ’’, thoát khỏi sự băng
hoại, hủy diệt nghiệt ngã của thời gian, thì tác phẩm
ấy phải chuyên chú về con người, phải là thét đau
khổ thoát ra từ kiếp lầm than, phải là ca tụng hân
hoan về vẻ đẹp của con người lao động. “Chiếc
thuyền ngoài xa’’ của nhà văn Nguyễn Minh Châu là
119
một tác phẩm đáng thờ như thế khi đã miêu tả trọn
vẹn mọi vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài phía sau
bức chân dung xấu xí và thô kệch.
Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong của
văn học Việt Nam thời kì đổi mới, là nhà văn suốt
đời đi tìm cái đẹp và cái thật, tha thiết tìm kiếm “hạt
ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Trước
1975, sáng tác của ông mang đậm tính sử thi, sau
cách mạng, ngòi bút của ông lại tập trung khám phá
nghệ thuật ở bình diện đạo đức, tâm điểm khám phá
nghệ thuật của ông là con người trong cuộc sống lao
động, và trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc và hoàn
thiện nhân cách. “Chiếc thuyền ngoài xa” là tác
phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Minh
Châu sau 1975- tự sự và triết lí, là hành trình khám
phá vào tầng chìm, vào chiều sâu của cuộc sống và
con người của tác giả. Chiếc thuyền ngoài xa ghi lại
chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và
những chiêm nghiệm của anh về nghệ thuật và cuộc
sống.

120
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, nhà văn đã không
đặt cho nhân vật 1 cái tên cụ thể nào, mà chỉ gọi đi
gọi lại bằng “người đàn bà hàng chải’’, “mụ”, “chị
ta”,... Đó không phải là một sự vô tình, hay nhà văn
thiếu ngôn từ đến nỗi không đặt được cho nhân vật
một cái tên mà đó là cả một dụng ý nghệ thuật, đó là
cách nhà văn xây dựng nhân vật điển hình. Người
đàn bà hàng chài chỉ là 1 trong hàng trăm, hàng ngàn
người phụ nữ như thế, chịu nhiều khốn khổ, đau
thương, sống trong cuộc sống cơ cực, bần hàn nhưng
vẫn sáng ngời vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam:
sâu sắc, bao dung, đặc biệt là tình yêu con vô bờ.
Đối với mỗi nhà văn, cách để nhân vật xuất hiện
hay giới thiệu nhân vật như thế nào là một điều vô
cùng quan trọng. Nếu như Tô Hoài để Mị xuất hiện
lặng lẽ bên tảng đá, với dáng vẻ đơn độc, lùi lũi như
con rùa nuôi trong xó cửa, Nam Cao để Chí Phèo
xuất hiện trong âm thanh ám ảnh của tiếng chửi, của
sự cô độc và ghẻ lạnh từ những người xung quanh
thì NMC để người đàn bà xuất hiện trong một hoàn
cảnh trớ trêu, đó là trong trận bạo hành. Khác với
những người phụ nữ trong văn của Nguyễn Minh
121
Châu trước 1975 mang vẻ đẹp thanh cao, tinh khiết
như Nguyệt trong “mảnh trăng cuối cùng” hay Quỳ
trong “người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”,
người đàn bà trong CTNX được miêu tả một cách dị
biệt, một sản phẩm mà tạo hóa chạm khắc một cách
vội vàng. Chỉ bằng vài nét miêu tả, người đàn bà đã
hiện lên trước mắt người đọc với dáng vẻ xấu xí,
tiều tụy “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một
thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn
với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn
mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái
ngắt và dường như đang buồn ngủ”, đã vậy mặt còn
chằng chịt những nốt rỗ do di chứng của bệnh đậu
mùa. Ngoại hình ấy còn tiều tụy, xơ xác hơn bởi
cuộc sống mưu sinh vất vả, lam lũ “tấm lưng áo bạc
phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng”. Đã
vậy, người đàn bà còn là nạn nhân khốn khổ của nạn
“bạo lực gia đình’’ “3 ngày 1 trận nhẹ, 5 ngày 1 trận
nặng”, chị phải chịu sự tra tấn, bạo hành của gã
chồng độc giữ và vũ phu. Mỗi lúc bực bội, hắn lại
đem chị ra đánh để giải tỏa mà chị vẫn không có
chút phản kháng, chỉ biết quỳ xuống khóc lóc.
122
Dù là trước hay sau 1975, NMC luôn giữ quan
điểm sáng tác “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi
tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn
con người”, chính vì vậy phía sau việc miêu tả ngoại
hình xấu xí, thô kệch, bi kịch của người đàn bà hàng
chài, ông lần lượt miêu tả vẻ đẹp nội tâm khuất lấp
của chị. Trước hết, chị hiện lên với người phụ nữ sâu
sắc, thấu hiểu lẽ đời. Khi chánh án Đẩu gợi ý cho chị
“li hôn’’ để thoát khỏi gã chồng độc giữ ấy, chị nhất
mực từ chối cùng những lời cầu xin tha thiết “Quý
tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,
đừng bắt con bỏ nó...”, đến đây nhiều người sẽ thấy
nực cười cho người đàn bà ngờ nghệch ấy nhưng
đằng sau những lời giãi bày của chị, ta mới vỡ lẽ
được nhiều điều và thầm cảm phục sự sâu sắc của
chị. Lí do mà chị từ chối li hôn là bởi chị cần gã
chồng để chèo lái con thuyền “đám đàn bà hàng chài
ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để
chèo chống phong ba” và chị cần gã chồng để chung
tay nuôi nấng đàn con 9, 10 đứa. Bỏ chồng có thể
chị sẽ được tự do, sẽ không phải chịu cảnh đánh đập,
hành hạ của lão chồng độc giữ, nhưng bỏ chồng sẽ
123
đẩy cuộc sống của chị và chục đứa con đến chỗ thê
thảm cuộc sống. Đến đây, ta mới vỡ lẽ : chị không
cam chịu một cách vô lí, ngờ nghệch mà chị là con
người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cùng với những
lời giãi bày, chị cũng đưa ra những lời nhận xét của
người từng trải “ Là bởi vì các chú không phải là đàn
bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất
vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có
đàn ông...”, chánh án Đẩu, Phùng là người có học,
có kinh nghiệm nhưng đứng trước người đàn bà lại
trở nên nhỏ bé vô cùng, giờ đây người đàn bà như
một vị chánh án đang xét xử Đẩu và Phùng. Đẩu là
người có lòng tốt, là người biết đứng lên bảo vệ
công lí nhưng đang rời xa thực tế, thiếu sự trải
nghiệm, nhìn từ xa để quan sát chưa đặt mình vào
hoàn cảnh của người đàn bà kia để hiểu, để đưa ra
giải pháp thiết thực. Lòng tốt là đáng trân trọng,
pháp luật là cần thiết nhưng có lẽ chưa đủ để giúp
cho con người thoát khỏi vòng vây của cái khổ, mà
muốn có được giải pháp thỏa đáng, lòng tốt, pháp
luật cần thực tế hơn, phải đặt vào hoàn cảnh của
người trong cuộc. Một lí do nữa khiến chị không
124
chấp nhận giải pháp li hôn của Đẩu là vì “ trên chiếc
thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống
hòa thuận, vui vẻ”, chị thật sâu sắc, biết chắt chiu
hạnh phúc nhỏ nhoi, dù hạnh phúc chỉ đôi chút, đôi
lát nhưng cũng đủ để chị xoa dịu nỗi đau về thể xác
và tinh thần, đủ để chị quên đi những trận roi vọt của
gã chồng, đủ để chị bằng lòng chấp nhận cuộc sống
bạo hành. Dù cuộc sống tăm tối là vậy nhưng chị
vẫn cảm nhận được không khí gia đình hòa thuận,
vui vẻ , chị là người biết “gạn đục khơi trong”. Như
vậy, bên trong vẻ xấu xí, thô kệch, nhếc nhác kia lại
là người phụ nữ sâu sắc, trải đời, người phụ nữ khiến
độc giả phải vỡ lẽ vì nhiều triết lí cuộc sống cùng
nhiều bài học nhân sinh.
Đi vào vào trong con người của người đàn bà,
nhà văn còn tìm ra vẻ đẹp khuất lấp phía sau người
đàn bà ấy là vẻ đẹp của người phụ nữ nhân hậu, bao
dung và giàu đức hi sinh. Nếu như tất cả mọi người
đều nhìn lão chồng như một tội nhân và tìm cách
loại bỏ, Đẩu đề xuất giải pháp li hôn, Phùng chạy
vào dạy cho hắn ta một bài học, kể cả thằng Phác
đứa con máu mủ của hắn xăm xăm con dao định lao
125
đến, sẵn sàng đánh hắn để bảo vệ mẹ nó thì chị lại
nhìn hắn bằng con mắt bao dung và nhân từ. “ Lão
chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng
hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.”, chị cho
rằng bản chất người đàn ông hằng ngày đánh đập chị
kia không xấu mà hắn cũng chính là nạn nhân của
hoàn cảnh. Vì cuộc sống mưu sinh, vì ghánh nặng
cơm, áo, gạo tiền đã biến hắn từ một người đàn ông
cục tính thành con quỷ dữ vũ phu và bạo lực. Chị
thông cảm cho hắn ta vì chính hắn có lẽ không muốn
làm con người như vậy, hoàn cảnh bức bí đã buộc
hắn phải đánh vợ để giải tỏa những bực dọc. Dù hắn
là hung thủ gây nên bao thương tích, đau đớn cho
chị nhưng chị vẫn có cái nhìn đa chiều, bao dung về
người chồng của mình. Chị mang vẻ đẹp truyền
thống của người phụ nữ Việt Nam bao dung và giàu
đức hi sinh. Và sự hi sinh ấy nằm ở chỗ chị nhận
trách nhiệm về bản thân của mình “Giá tôi đẻ ít đi
hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng
hơn”, chị không hề đổ một lỗi lầm nào cho anh
chồng mà nhận hết lỗi lầm về mình đẻ quá nhiều gây
nên áp lực cho người chồng. Như vậy, bằng những
126
câu văn xúc động, NMC đã một lần nữa giúp chúng
ta hiểu hơn về vẻ đẹp nội tâm của người đàn bà hàng
chài: người phụ nữ bao dung và giàu đức hi sinh.
Hoàn thành bức tranh về vẻ đẹp nội tâm người
đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã để nhân vật
hiện lên là người phụ nữ thương con sâu sắc. “Ông
trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con
cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ.
Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ
không thể sống cho mình như ở trên đất được”, đối
với chị, thiên chức của một người mẹ là sinh con ra
để nuôi con trưởng thành, dù có khó khăn, vất vả
đến đâu. Chị sẵn sàng gánh lấy cái khổ cái đau đớn,
để bao bọc, nuôi dạy con cái trưởng thành. Chị - một
người mẹ không hề sống vì mình mà sống vì con,
sống để hoàn thành trách nhiệm của một người mẹ,
chị giường như quên đi cuộc sống của bản thân để
che chở cho con. Chị không chấp nhận giải pháp li
hôn cũng một phần cũng vì những đứa con tội
nghiệp, chị hiểu rằng li hôn người khổ nhất không
phải là anh hàng chài, không phải là chị mà là những
đứa con nheo nhóc kia, người có mẹ thì mất cha,
127
người có cha thì thiếu mẹ, chia đàn xẻ nghé. Cái tình
thương con của chị còn thể hiện ở niềm khi khi nhìn
các con được ăn no “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn
con tôi chúng nó được ăn no”, đó không phải là
niềm vui về vật chất mà là niềm vui về tinh thần, vui
vì được nhìn các con ăn no. Như vậy, với câu
chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện,
Nguyễn Minh Châu đã tìm ra hạt ngọc ẩn dấu trong
tâm hồn người đàn bà hàng chài. Đúng như balzac
đã viết “bản chất của con người thường bị bánh xe
số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay
xấu nó sẽ tự bộc lộ”, bằng việc đặt nhân vật vào tình
huống éo le, nhà văn đã để nhân vật tự bộc lộ mọi vẻ
đẹp của mình, một vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ
nữ Việt Nam: sâu sắc, bao dung, và tình yêu con vô
bờ. (có thể liên hệ với bà cụ Tứ đã phân tích bà cụ
Tứ ơ trên)
Nghệ thuật :
1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện:
 Tình huống truyện nhận thức : câu
chuyện về người đàn bà ở tòa án huyện
128
là quá trình nhận thức của phùng và Đẩu
về người đàn bà hàng chài: từ việc nhìn
chị là người phụ nữ thô kệch, nhếch
nhác, sang nhìn chị bằng con mắt cảm
phục.
 Tình huống truyện nghịch lí : người đàn
bà có vẻ ngoài xấu xí, thô kệch nhưng
bên trong lại là người phụ nữ sâu sắc,
thấu tình đạt lí. Phùng và Đẩu là người
có học, giàu kinh nghiệm nhưng lại nhìn
sự vật một cách đơn giản, làm việc trên
lí thuyết mà chưa đặt mình vào hoàn
cảnh của người dân để cảm nhận
2. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật
điển hình: người đàn bà
3. Nghệ thuật kể chuyện: tự nhiên, sinh đông
4. Ngôn ngữ: dung dị, mộc mạc song gợi điệu
trần thuật đầy triết lí
(dựa vào ý làm thành đoạn văn)
Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo

129
1. Giá trị hiện thực: phơi bày bức tranh cuộc sống
khó khăn của người nông dân sau chiến tranh
2. Giá trị nhân đạo
- Ca ngợi, trân trọng người đàn bà hàng
chài(ca ngợi vẻ đẹp gì?)
- Cảm thông cho số phận của người phụ nữ,
người lao động mà điển hình là người đàn
bà hàng chài..
- Phê phán...
- Đặt ra câu hỏi: làm cách nào để giải phóng
con người khỏi bi kịch cuộc sống?

130
Đề bài: Quá trình chuyển biến nhận thức của Phùng
ở tòa án huyện. Từ đó, hãy rút ra bài học nhân sinh
sâu sắc
Phân tích quá trình chuyển biến nhận
thức của nhân vật Phùng
trong đoạn trích. Từ đó, đánh giá bài học
về cách nhìn nhận cuộc
sống và con người của nhà văn Nguyễn
Minh Châu.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: có đủ
các phần mở bài, thân bài, kết
bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài
triển khai được vấn đề, kết bài kết
luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
phân tích quá trình chuyển biến
nhận thức của nhân vật Phùng trong
đoạn trích. Từ đó, đánh giá bài học
nhân sinh của nhà văn Nguyễn Minh
Châu.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các
luận điểm; thể hiện sự cảm nhận
sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập
luận (đặc biệt là thao tác phân
131
tích, so sánh); kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ
và dẫn chứng.
Thí sinh có thể triển khai bài làm theo
nhiều cách nhưng phải đảm bảo
những nội dung chính sau:
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác
phẩm:
- Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989) là
một trong những cây bút tiên
phong của văn học Việt Nam thời kì đổi
mới với phong cách nghệ thuật
mang tính tự sự - triết lí.
- Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” in
đậm phong cách tự sự - triết lí
của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ
dung dị đời thường, truyện kể lại
chuyến đi thực tế của nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng và những chiêm nghiệm
sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc
đời. Truyện ngắn lúc đầu được in
trong tập “Bến quê” (1985), sau được
đưa vào tuyển tập truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” (1987).
- Phùng là một trong những nhân vật
chính của tác phẩm. Đây là kiểu
132
nhân vật tư tưởng, có quá trình thức tỉnh,
bừng ngộ về nhận thức. Đoạn
trích kể về câu chuyện của người đàn bà
hàng chài tại toà án huyện và
quá trình suy tư, chiêm nghiệm của nhân
vật Phùng. Từ đó thể hiện
những nhận thức sâu sắc, đa chiều của
người nghệ sĩ về nghệ thuật, cuộc
sống, con người.
2. Phân tích quá trình chuyển biến nhận
thức của nhân vật Phùng
trong đoạn trích
Ban đầu, ở toà án huyện, khi người đàn
bà hàng chài từ chối sự giúp
đỡ, cũng như mới nghe một phần câu
chuyện, Phùng đã bộc lộ cái
nhìn đơn giản, phiến diện, chưa thực sự
thấu hiểu hết về cuộc sống,
con người. Nhưng sau đó, tiếp tục lắng
nghe câu chuyện, lời kể, lí lẽ
của chị, Phùng đã bừng ngộ về nhận
thức, có cái nhìn đa chiều và
những chiêm nghiệm sâu sắc, tiệm cận
đến chân lí về nghệ thuật, cuộc
đời, con người.
133
- Về người đàn bà hàng chài:
+ Ban đầu, trong những khoảnh khắc khi
chị mới đến toà án huyện, hiện
lên trước mắt Phùng là một người đàn bà
cam chịu, nhẫn nhục, lạc hậu,
thiếu hiểu biết. Với bộ điệu, dáng vẻ
lúng túng, đầy sợ sệt, người đàn bà
không chỉ cầu xin không phải bỏ chồng
mà chị còn kể lại hoàn cảnh sống
của mình: “Bất kể lúc nào thấy khổ quá
là lão xách tôi ra đánh, cũng
như đàn ông thuyền khác uống rượu...
Giá mà lão uống rượu... thì tôi
còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi
mới xin được với lão... đưa tôi
lên bờ mà đánh...”. Thoạt đầu mới nghe,
Phùng đã thốt lên không thể
nào hiểu được. Đó là sự cam chịu đến
mức vô lí, mù quáng của người
đàn bà hàng chài mà anh không thể giải
thích và chấp nhận được. Điệp
khúc không thể nào hiểu được lặp lại hai
lần cho thấy sự ngạc nhiên cao
độ, sự bất bình của Phùng trước những
điều vô lí trong hành động của
134
người phụ nữ bất hạnh.
+ Sau đó, Phùng tiếp tục lắng nghe, suy
ngẫm về những tâm tư, lí lẽ, lời
giải thích của người đàn bà hàng chài:
các chú không phải là đàn bà,
chưa bao giờ các chú biết như thế nào là
nỗi vất vả của người đàn bà
trên một chiếc thuyền không có đàn ông;
đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để
chèo chống khi phong ba, để
cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con
nhà nào cũng trên dưới chục
đứa; đàn bà ở thuyền chúng tôi phải
sống cho con chứ không thể sống
0,75

cho mình như ở trên đất được; ở trên


chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng
con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
=> Từ đó, anh đã có sự chuyển biến,
bừng ngộ trong nhận thức:
. Phùng hiểu ra nguyên nhân vì sao chị
135
không chịu bỏ chồng, vì sao chị
cam chịu, nhẫn nhục khi bị bạo hành. Sự
thừa nhận đầy chua chát của
Đẩu “Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, -
bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở
dài đầy chua chát, - trên thuyền phải có
một người đàn ông... dù hắn
man rợ, tàn bạo?”cũng chính là sự thức
tỉnh, bừng ngộ của Phùng. Giờ
đây, anh đã hiểu ra rằng chị cần một
người đàn ông chèo chống khi
phong ba bão tố, để làm ăn nuôi nấng
đàn con; anh nhận thức được
những nghịch lí, bất công trong cuộc đời
mà người đàn bà hàng chài phải
chấp nhận.
. Phùng phát hiện ra vẻ đẹp khuất lấp,
hạt ngọc lấp lánh ẩn sâu trong tâm
hồn người đàn bà hàng chài. Đằng sau
một người phụ nữ nghèo khổ, thô
kệch, cam chịu, nhẫn nhục là vẻ đẹp cao
quý của người mẹ giàu đức hi
sinh, có tình thương con vô bờ bến; vẻ
đẹp của một người vợ vị tha, bao
dung, độ lượng; vẻ đẹp của người phụ
136
nữ sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ
đời, có bản lĩnh sống khoẻ khoắn kiên
cường và biết chắt chiu từng
khoảnh khắc hạnh phúc bình dị đời
thường.
- Về lão đàn ông hàng chài:
+ Ban đầu, trong nhận thức của Phùng,
hắn là một người chồng vũ phu,
tàn bạo. Phùng đã lí giải tính cách, hành
động độc ác của lão ta với cái
nhìn phiến diện, mang tính thiên kiến
giai cấp khi cho rằng đó là sản
phẩm, tàn dư của lính nguỵ . Anh đã hỏi
một câu như lạc đề: “Lão ta
trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy
không?”. Câu hỏi đó bộc lộ quan
điểm, cái nhìn đơn giản, thậm chí chưa
đúng đắn về con người và hiện
thực cuộc sống vốn dĩ đầy phức tạp.
+ Sau đó, khi nghe lời bênh vực của
người đàn bà hàng chài đối với
chồng, Phùng có cái nhìn đa chiều, đúng
đắn hơn. Anh hiểu ra rằng:
nguyên nhân tạo nên tính cách vũ phu,
căn nguyên dẫn đến hành động
137
bạo hành vợ là do hoàn cảnh gia đình
túng quẫn, nghèo đói triền miên,
thuyền chật con đông, vất vả cực nhọc
với cuộc sống mưu sinh. Vì vậy,
người đàn ông hàng chài không chỉ là
thủ phạm tàn ác đáng bị lên án mà
còn là một nạn nhân của hoàn cảnh sống
đầy bộn bề, ngổn ngang thời
hậu chiến.
- Về cuộc sống:
+ Ban đầu
. Phùng chưa thấu hiểu hết cuộc sống
mưu sinh vất vả của người dân
hàng chài trên biển cả đầy sóng gió. Anh
nhận thức rất đơn giản về hiện
thực cuộc sống. Ở đây, tác giả đã để cho
nhân vật Đẩu hỏi người đàn bà
hàng chài: “Vậy sao không lên bờ mà
ở”. Sự nhận thức của Đẩu cũng
chính là nhận thức của Phùng. Họ cứ
nghĩ rằng lên bờ ở cố định một chỗ
sẽ thoát khỏi sóng gió biển khơi, thoát
khỏi cảnh nghèo khổ, túng quẫn,
bấp bênh.
. Phùng và Đẩu tin rằng li hôn là giải
138
pháp tốt nhất giúp người đàn bà
hàng chài thoát khỏi khổ đau; tình
thương, thiện chí, pháp luật sẽ bảo vệ
được chị, sẽ đem lại sự công bằng cho xã
hội.
+ Nhưng sau đó

0,25

0,5

. Khi nghe chị trải lòng “Làm nhà trên


đất ở một chỗ đâu có thể làm
được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày
cách mạng về, cách mạng đã
cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không
bỏ nghề được!”, Phùng đã nhận
ra những khó khăn trong quá trình tìm
con đường, cách thức để giúp
người dân hàng chài thoát khỏi đói
nghèo, lạc hậu.
. Phùng cũng hiểu ra li hôn không phải là
giải pháp tốt nhất lúc này; tình
139
thương, thiện chí, pháp luật chưa thể
giúp người đàn bà hàng chài thoát
khỏi bi kịch gia đình. Lời khẩn cầu của
chị “Các chú đừng bắt tôi bỏ
nó” một lần nữa đã giúp Phùng nhận
thức rõ hơn hiện thực đời sống đầy
trái ngang. Cuộc sống vốn dĩ phức tạp,
chứa đầy nghịch lí mà con người
phải chấp nhận để tồn tại; đằng sau cái
tưởng chừng vô lí là cái có lí.
. Qua câu chuyện của người đàn bà hàng
chài, Phùng cũng nhận ra rằng
cuộc sống của chị hay của người dân lao
động không chỉ có toàn khổ
đau, bất hạnh, éo le, mà cũng có lúc
được vui vẻ, hoà thuận. Dẫu có đau
khổ, nhọc nhằn nhưng chị vẫn tìm tấy
niềm vui, hạnh phúc bình dị để
trân trọng, nâng niu. Như vậy, cuộc sống
thật phong phú, phức tạp và
được tạo nên từ nhiều mảnh ghép, mảng
màu khác nhau.
- Về nghệ thuật:
+ Ban đầu, khi con thuyền ở ngoài xa,
tức là nghệ thuật và người nghệ
140
sĩ còn cách xa với đời sống thì Phùng
mới chỉ thấy được cái hình thức
bên ngoài với vẻ đẹp nên thơ, sự tuyệt
mĩ của nó. Đó là thứ nghệ thuật
thuần tuý, duy mĩ, chưa gắn với đời,
chưa vì con người. Nhưng lúc ấy,
anh tưởng mình đã khám phá được chân
lí của sự toàn thiện. Điều đó
cho thấy quan niệm đơn giản, phiến diện
của phùng về nghệ thuật.
+ Sau đó, khi con thuyền vào gần bờ,
đặc biệt con thuyền qua câu chuyện
của người đàn bà hàng chài ở toà án
huyện, tức là nghệ thuật và người
nghệ sĩ đã đến gần với cuộc đời thì lúc
đó nghệ thuật mới khám phá được
chiều sâu, những góc khuất mảng tối của
đời sống con người, nhận thức
được bản chất của các hiện tượng và
tiệm cận đến những chân lí. Phùng
nhận thức sâu sắc hơn về sứ mệnh của
nghệ thuật và trách nhiệm, lương
tâm của người nghệ sĩ: hãy vì con người,
vì cuộc đời...
- Về bản thân và về nhân vật Đẩu: Qua
141
câu chuyện của người đàn bà
ở toà án huyện, Phùng đã nhận thức
được cái nhìn ban đầu của mình và
của Đẩu về cuộc đời, con người, nghệ
thuật còn đơn giản, phiến diện,
thậm chí chưa đúng đắn. Lúc này anh
hiểu ra rằng: họ là những người
sành về nghệ thuật, am hiểu về pháp
luật, về lí thuyết sách vở song lại
ngây thơ, non nớt, thiếu hiểu biết trước
sự phức tạp của cuộc sống mưu
sinh, trước thực tế đời sống thời hậu
chiến, trước con người lao động.
Từ đó, Phùng đã bừng ngộ để tiệm cận
đến chân lí, để thấu hiểu nhiều
hơn, có những chiêm nghiệm sâu sắc
hơn, nhận thức rõ về trách nhiệm
của bản thân – trách nhiệm của người
nghệ sĩ...
* Đặc điểm về nghệ thuật: cốt truyện,
kết cấu độc đáo; xây dựng nhân
vật Phùng với quá trình chuyển biến,
thức tỉnh về nhận thức; sáng tạo
tình huống truyện nghịch lí có ý nghĩa
nhận thức; các chi tiết tiêu biểu,
142
hình ảnh giàu tính biểu tượng; ngôn ngữ
đời thường, dung dị, song giọng
điệu trần thuật đầy tính triết lí...

3. Đánh giá bài học nhân sinh của nhà


văn Nguyễn Minh Châu.
- Qua quá trình chuyển biến nhận thức
của nhân vật Phùng, nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã mang đến bài học
đúng đắn, sâu sắc, toàn diện,
mới mẻ về nhân sinh:
+ Cuộc sống, con người vốn dĩ phong
phú, kì diệu song phức tạp và đầy
nghịch lí. Vì vậy, hãy có cái nhìn đa
diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản
chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện
tượng; không thể nhìn đơn giản,
sơ lược, một chiều mang tính lí tưởng
hoá.
+ Nghệ thuật và người nghệ sĩ hãy đến
gần với cuộc đời, với con người;
người nghệ sĩ không chỉ cần có tài năng
mà còn cần có tấm lòng yêu
thương, dũng cảm đấu tranh chống lại sự
143
bất công, sẵn sàng bảo vệ
những con người bất hạnh và đem lại giá
trị tốt đẹp cho cuộc sống... Đó
chính là nghệ thuật vị nhân sinh, nghệ
thuật chân chính, cái tạo nên giá
trị đích thực của một tác phẩm, và khẳng
định tầm vóc của một tác giả.
- Bài học về cách nhìn nhận cuộc sống
và con người của nhà văn đã tạo
nên một truyện ngắn xuất sắc, có chiều
sâu nhận thức, có giá trị phát
hiện bằng những nghịch lí, có quan niệm
mới mẻ. Với triết lí nhân sinh
đó, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là
người mở đường tài năng, tinh anh
cho văn học Việt Nam thời kì đổi mới;
xứng đáng là cây bút bản lĩnh,
tài hoa.
d. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo,
thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới
mẻ về vấn đề nghị luận.
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo
quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Tham khảo đáp án ĐH Vinh

144
-

- Trái tim người mẹ được ví như kì quan đẹp nhất


của thế giới, bởi nó được xây bằng tình thương
yêu vô điều kiện, bằng lòng nhân hậu, bao dung,
đức hi sinh đặc trưng của thiên tính nữ. Hiện
thân cho vẻ đẹp đó ta có nhân vật bà cụ tứ trong
tác phẩm “Vợ nhặt” và nv người đàn bà hàng
chài trong tp “Chiếc thuyền ngoài xa”, họ đều là
những người “áo rách nhưng lòng vàng“ đáng
được trân trọng và ngợi ca. Đặc biệt 2 người phụ
nữ ấy có tình yêu với các con vô bờ bến: Nếu
người đàn bà hàng chài thể hiện tình yêu ấy
bằng cách xin ngừoi chồng vũ phu đưa chị lên
bờ để đánh nhằm tránh cho các con khỏi bị tổn
thương bởi bạo lực gia đình; thì bà cụ tứ lại bộc
lộ qua những câu chuyện làm ăn gia cảnh, những
triết lí nhân sinh sâu sắc, giúp cho vợ chồng con
trai có niềm tin hơn trong hoàn cảnh đói khổ
trước mắt. Tấm lòng cao cả đó của người mẹ
145
khiến cho người đọc thật cảm động. Họ là tiêu
biểu cho hình ảnh người mẹ Việt Nam với
những phẩm chất tốt đẹp!
- Hình ảnh Mị chạy theo A Phủ: Ngay lúc đó Mị
đã bước ra khỏi 2 ngục tù là cường quyền và
thần quyền miền núi .Mị đã thôi làm con rùa lùi
lũi ở xó cửa cô như cánh chim chao mình vào
bầu trời mùa xuân của cuộc đời mới . Mị cũng
giống như chị Dậu của Ngô Tất Tố vùng lên đấu
tranh giữa đêm đen.Nhưng nếu chị dậu kết thúc
trong bất lực bế tắc vì con đường tối như cái tiền
đồ của chị thì Mị đã được nhà văn vẽ cho con
đường đến với tương lai tươi sáng , đến với bình
minh , thoát khỏi " thung lũng đau thương " đến
với "cánh đồng vui " .
- Văn của Nam Cao và Tô Hoài đều là những áng
văn phản ánh hiện thực đau khổ và bi thảm nhất.
Số phận các nhân vật của Nam Cao trước sau
đều kết thúc một cách rất đau đớn: cái chết vật
vã của Lão Hạc, cái chết ai oán của bà cái Tí, cứ
dội lên như từng tiếng nấc, những tiếng thở dài
não nuột. Trong những ngày còn sống, cuộc đời
146
đã dành cho họ biết biết bao cay đắng, lúc qua
đời thì họ lại phải nhận một cái chết thê thảm.
"Đáng thương thay cho những kiếp người muốn
bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất". Tô
Hoài cũng là ngòi bút hiện thực, nhưng ông hoạ
nên cho nhân vật mình một lối đi khác: được
giải thoát, được hi vọng, tin tưởng vào tương lai,
cụ thể hơn là tin tưởng vào Đảng và cách mạng.
Và rằng ở cái giai đoạn mà nhân dân chỉ biết tới
cái đói cái nghèo, thì Đảng là ánh sáng đưa con
người ta thoát khỏi chốn địa ngục trần gian ấy.
Đó chính là nét độc đáo của nhà văn Tô Hoài,
một nhà văn luôn dùng cái tâm của mình cho
nghề cầm bút.
- Đám cưới của Tràng tuy thiếu thốn vật chất,
xung quanh toàn mùi gây gây của xác chết
nhưng chất chứa tình yêu thương, Đám ma trong
HP của 1 tang gia thì đầy đủ vật chất nhưng
thiếu tình thương gd, những giọt nước mắt giả
tạo, được xem như buổi diện quần áo của thành
viên trong gd

147
- Tràng liên hệ với Chí Phèo. Nếu như Chí Phèo
bước vào trang văn với dáng vẻ say ngật ngưỡng
và tiếng chửi đời thì Tràng bước vào trang văn
của Kim Lân với cái lưng to như lưng gấu và
dáng đi lững thững đầy mệt mỏi. Cái giây phút
Thị cười với Tràng 1 cách tình tứ. Chưa có ai
cười với Tràng như vậy cả cái nụ cười của Tràng
làm ra nhớ tới giây phút mà Chí Phèo nhận bát
cháo hành từ tay Thị Nở 1 chút hạnh phúc nhỏ
nhoi của số phận đã đủ để làm những con người
ấy dâng trào hạnh phúc.
- Tràng liên hệ chí phèo cả hai đều có vẻ bề ngoài
xoàng xĩnh, nhưng ẩn chưa trong hai con người
này là tâm hồn luôn khát khao hạnh phúc. Trong
họ đều là những vẻ đẹp mà nhà văn hay độc giả
phải đào sâu, hay tìm tòi mới thấy được"sợi chỉ
đỏ" đằng sau sự đẽo gọt xấu xí ấy.
- Bà cụ tứ thì liên hệ với người đàn bà hàng chài.
Họ đều là những người mẹ nông dân nghèo khổ
nhưng có phẩm chất cao quý tốt đẹp, cả hai đều
yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời. Hai
nhà văn đều mang trong ngòi bút của mình tư
148
tưởng nhân đạo giống nhau, nhưng mỗi cái hay,
cái đặc sắc riêng của mỗi nhà văn là tạo ra một
tình huống truyện. Ở người đàn bà là tình yêu
thương dành cho con đó là sự chịu đựng, hy sinh
nhẫn nhục v.v.... Thì tình yêu của bà cụ Tứ là sự
vị tha, bao dung
- Bà cụ Tứ với Thị Nở qua chi tiết “nồi cháo cám”
và “bát cháo hành”. Giữa nồi cháo cám và bát
chào hành là hai món ăn vô cùng bình thường,
hầu như người phụ nữ vào cũng có thể nấu. Đây
là hai món ăn với các nguyên liệu khác nhau,
nhưng cụ Tứ và Thị Nở đều nêm vào đấy chút
gia vị tình thương, lòng bao dung dành cho Thị
và Chí Phèo. Chỉ với một mục đích đơn giản
Đối với Thị đây là nồi cháo chứa đựng tình yêu
thương vô bờ bến, nồi chào đong đầy tình mẹ;
giữa cái đói nghèo cùng cực nhưng giá trị mà
nồi cháo mang lại là tình yêu thương luôn vĩnh
cửu, bất diệt, hi vọng một viễn cảnh tươi sáng
nhất trước mặt Tràng và Thị. “Bát chào hành”
giúp Chí thức tỉnh, Chí cảm nhận được những

149
giá trị của cuộc sống mà khát vọng được quay
trở lại làm người
- Mị liên hệ với nàng Kiều của Nguyễn Du khi bị
dấn thân vào cuộc đời ô nhục, bán thân để trả nợ
cho cha nhưng Kiều bị đày đoạ 15 năm còn Mị
thì không biết đến bao giờ nếu không tự giải
thoát cho mình
- Mị chạy vụt đi trong đêm tối có thể liên hệ với
chị Dậu : Mị chạy đi là để đến với ánh sáng,
hạnh phúc, là nơi có đích đến rõ ràng còn chị
Dậu là chạy trong bóng tối, mờ mịt không định
hướng thể hiện cho sự cùng đường, quẫn bách
của nông dân giai đoạn 1930-1945.
- Tràng liên hệ với Chí Phèo : cả hai đều có sự
biến đổi tâm trạng dù có khốn cùng đến đâu họ
vẫn thương yêu, đùm bonc lẫn nhau, luôn khát
khao hạnh phúc, mái ấm gia đình và niềm tin
vào ngày mai. Nhưng do thời điểm sáng tá khác
nhau nên tư tưởng nhân đạo có những điểm khác
nhau:

150
+Chí Phèo: khát vọng bị chặn đứng, tự kết liễu
đời mình-> sự bế tắc trong tư tưởng của nhà văn
trc CMT8.
+Tràng: vững vàng hơn, trưởng thành hơn, nhìn
về tương lai->được giác ngộ CM, thay đổi cuộc
đời do được viết sau khi kháng chiến chống TD
Pháp thắng lợi.
- Bà cụ Tứ liên hệ với người đàn bà hàng chài:
đều là người mẹ nghèo, tần tảo, vất vả nhưng
luôn hi sinh và dành những điều tốt đẹp nhất cho
con mình -> người phụ nữ, người mẹ Việt Nam
lý tưởng.
- " rồi mị vụt chạy ra " có lẽ phải am hiểu nội tâm
của nhân vật lắm thì Tô Hoài mới có thể diễn tả
suy nghĩ của Mị chợt Lóe lên Rồi nhanh chóng
rồi biến thành hành động tự giải thoát bản thân
một cách hợp lý và logic đến thế . Nếu như nam
Cao đẩy chí phèo đến bờ vực của sự bế tắc, túng
quẫn phải giết kẻ thù rồi tự kết liễu bản thân hay
Ngô Tất Tố đẩy chị dậu đến một cái tiền đồ Tối
đen như mực, thì ở Tô Hoài, nhà văn đã mở ra
cho nhân vật của mình một con đường sống, con
151
đường đến với tự do với hạnh phúc mà mị hằng
mơ ước thông qua hình ảnh " rồi mị vụt chạy ra
" , Các nhà văn lớn họ gặp nhau ở tư tưởng và
niềm tin về giá trị Con người nhưng cách mở ra
Con đường cho từng nhân vật của mỗi nhà văn
không giống nhau hành động " rồi mị vụt chạy
ra " ấy của Mị ,vừa là minh chứng của một sức
sống tiềm tàng mạnh mẽ, khao khát được hạnh
phúc của mị vừa khẳng định ảnh hưởng tích cực
của chủ nghĩa cách mạng về số phận và tương
lai của nhân vật .
- Các nhà văn thời trước thường không tìm ra lối
thoát cho nhân vật , dồn họ vào bế tắc .Trong “
Tắt Đèn “ của Ngô Tất Tố ta bắt gặp chị dậu
chạy ra trong đêm tối mịt mờ , nó giống như
chính tương lai mờ mịt tối tăm của chị vậy hay
trong tác phẩm “ Phí Phèo “ cái kết đầy ám ảnh
khi Thị Nở ôm cái bụng nhìn vào cái lò gạch cũ ,
như thể nếu xã hội này còn tiếp diễn sẽ sản sinh
nhiều chí phèo tiếp theo .. tất cả đều không có
cái kết thoả đáng .Nhưng ở “ VCAP” ta thấy
được điểm sáng , Tô Hoài đã thổi một luồng gió
152
mới vào trong tác phẩm khi mị chạy ra khỏi đêm
tối mịt mờ , thoát ra khỏi kiếp nô lệ lầm than
.Những bước chân của mị như đạp đổ tất thảy
những thủ tục phong kiến , những cường quyền
thần quyền đàn áp lên mị .Càng sáng lên tư
tưởng muôn đời “ ở đâu có áp bức , ở đó có đấu
tranh “
(Nguồn : Diễn đàn khối D)

153
1. “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng
cảm với những khát vọng rất người của con người,
cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của của
con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao
trùm.” (Hoài Thanh)

2. “Đối với tôi văn chương không phải là cách đem


đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại
văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực
mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái
thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc
thêm trong sạch và phong phú hơn…” (Theo dòng,
Thạch Lam)

3. “Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo


trong cốt tuỷ.” (Sê-khốp)

4. “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời


đại.” (Ban-dắc)

5. “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh


154
sáng.” (CharlesDuBos)

6. “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc
ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi
phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (Ai-ma-tốp)
8. “Văn học giúp con người hiểu được bản thân
mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm
nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí.”
(M. Go-rơ-ki)
9. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối,
nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ
thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ
những kiếp lầm than.” (Trăng sáng, Nam Cao)
10. “Văn chương có loại đáng thờ và loại không
đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên
chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú
ở con người.” (Nguyễn Văn Siêu)
11. “Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một
nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên trái
đất.” (Béc-tôn Brếch)

155
12. “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận
mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.” (Thạch Lam)
13. “Sống đã rồi hãy viết, hãy hoà mình vào cuộc
sống vĩ đại của nhân dân.” (Nam Cao)
14. “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn
ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân
dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo,
không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ
thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy
nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và
kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như
nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ
nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh
hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp
khớp…” (Nguyễn Tuân)
15. “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là
ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được
rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư
tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình
cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau

156
cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.”
(Nguyễn Khải)
16. “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình
thức và khám phá mới về nội dung.” (Lê-ô-nít Lê-ô-
nốp)
17. “Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi
nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là
cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình.”
(Ivan Tuốc-ghê-nhép)
18. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó
không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có
giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ.”
(Sê-khốp)
19. “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh
ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc
đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ
đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với
nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở
thành nhà thơ.” (Raxun Gamzatốp)

157
20. “Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã,
nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng
người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn
những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt
hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối
với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí
tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người.” (Sô-lô-
khốp)
21. “Văn học làm cho con người thêm phong phú,
tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con
người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)
22. “Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết
không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu
hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải
cuộc sống.” (Gioóc-giơ Đuy-a-men)
23. “Văn học không quan tâm đến những câu trả lời
do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi
do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này, luôn luôn
rộng hơn bất kì một câu trả lời cặn kẽ nào.” (Claudio
Magris – Nhà văn Ý)

158
24. “Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của
tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì
một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn
thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt
những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của
mình cho nhân loại.” (L. Tôn-xtôi)
25. “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức
vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để
trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.”
(Thạch Lam)
26. “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở
chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp
của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn
và thưởng thức.” (Thạch Lam)
27. “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình
cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.”
(Lê Ngọc Trà)
28. “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất
cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung
cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn
lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca
159
tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó
làm cho người gần người hơn.” (Nam Cao)
29. “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự
bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương
thì thật là đê tiện.” (Đời thừa, Nam Cao)
30. “Tôi khuyên các bạn nên đọc truyện cổ tích…
thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca dao… Hãy đi sâu vào
vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu
vào những câu hài hoà cân đối trong các bài ca,
trong truyện cổ tích… Bạn sẽ thấy ở đó sự phong
phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị của sức
mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của
những định nghĩa… Hãy đi sâu vào sáng tác của
nhân dân, nó trong lành như nước nguồn ngọt ngào,
tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra…” (M. Go-rơ-
ki)
31. “Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng
tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô
độc của chính mình.” (Selly)
32. “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu
chuyện do chính cuộc sống viết ra.” (An-đéc-xen)
160
33.“Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để
khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội.” (Phạm Văn
Đồng)
34. “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa
đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của
nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương,
lòng thương người”. (Lê Trí Viễn)
35. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo
đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng
tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con
người.” (Đặng Thai Mai)
36. “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.”
(Pautôpxki)
37. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của
văn học.” (Tố Hữu)
38. “Nhà văn là người cho máu.” (Enxa Triole)
39. “Văn học là nhân học.” (M. Go-rơ-ki)
40. “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng
riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng

161
đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn
tượng đó có những hình thức riêng.” (M. Go-rơ-ki)
41. “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó
đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ,
thu hút người đọc.” (Phương Lựu)
42. “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng
nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có
mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt
đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu
hiệu vô hình không thể tẩy xoá được của mình.”
(Sách Lí luận văn học)
43. “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự
sống nhiều hình mới vẽ ra.” (Hê-ghen)
44. “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang
cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện
khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác
phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp
tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm,
như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không
bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.” (Ai-ma-tốp)

162
45. “Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự
kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là
sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người.”
(Nguyễn Minh Châu)
46. “Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải
là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt,
nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện,
con người vào trong sách một cách thụ động, giản
đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một quá
trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo ra
một thế giới hấp dẫn, sinh động… Thể hiện những
vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã
hội con người… Nhân vật trong tác phẩm của một
thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người
ngoài đời, bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển
hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp,
một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt
lên khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu
sống mãi với thời gian…” (Sách Lí luận văn học)

163
47. “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi
và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu
thuyết là thực sự ở đời.” (Vũ Trọng Phụng)
48. “Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số
phận cho tác phẩm là độc giả.” (M. Go-rơ-ki)
49. “Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến
các nhà khoa học, họ xứng đáng hơn ai hết được
hưởng sự kính trọng của con người.” (Einstein)
50. “Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu
nhất của tôi, những ước mong nhức nhối của tôi.”
(Nguyên Hồng)
51. “Mỗi tác phẩm đều có ít nhiều nhà văn.” (Thạch
Lam)
52. “Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên.” (Pu-
skin)
53. “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất
cánh bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất…”
(Sống mòn, Nam Cao)
54. “Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của
những nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại
164
học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã
hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau
đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận
đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và
những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó
chính là cái hơi thở, cái sức sống của những tác
phẩm vĩ đại.” (Đặng Thai Mai)
55. “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy
đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật,
tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của
mình.” (Sách Văn học 12)
56. “Đồng tiền lăn tròn trên lưng con người. Đồng
tiền làm cho trái hoá phải, đen hoá trắng và người
đàn bà goá phụ trở thành cô dâu mới.” (Giá trị của
đồng tiền trong Truyện Kiều, Sếch-xpia)
57. “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công
cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện
tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học.” (M.
Go-rơ-ki)
58. “Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính
xác, từ ngữ phải được chọn lọc kĩ càng. Chính các
165
tác giả cổ điển đã viết bằng một ngôn ngữ như vậy,
đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỉ này sang thế kỉ
khác.” (M. Go-rơ-ki)
59. “Ngôn ngữ nhân dân là “tiếng nói nguyên liệu”
còn ngôn ngữ văn học là “tiếng nói đã được bàn tay
thợ nhào luyện”…” (M. Go-rơ-ki)
60. “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả
cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng
thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không
đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó.”
(Biêlinxki)
61. “Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế
và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm
biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái
nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.” (Trích
trong Nhật kí của Nguyễn Văn Thạc)
62. “Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng
để yêu thương, cảm thông và chia sẻ.” (Đô-xtôi-ép-
xki)

166
63. “Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là
những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại
phía sau khi ra đi.” (Albert Schweitzer)
64. “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn
giấu trong bề sâu tâm hồn của con người.” (Nguyễn
Minh Châu)
65. “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công
việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị
cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi
dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn
và thể xác bị hắt hủi và đoạ đày đến ê chề, hoàn toàn
mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn
tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người
không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu)
66. “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng
tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương.”
(Bạch Cư Dị)
67. “Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử
của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có
thể được dựng lên hay san bằng. Nhưng những tác
phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hoá
167
hoặc ngôn ngữ cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản
của nó. Có thể màu sắc, quốc kì, ngôn ngữ hay màu
da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có
màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối
cùng là viết về trái tim con người.” (Maxin Malien)
68. “Tôi muốn tác phẩm của tôi giúp mọi người trở
nên tốt, có tâm hồn thuần khiết, tôi muốn chúng góp
phần gợi dậy tình yêu con người, đồng loại và ý
muốn đấu tranh mãnh liệt cho những lí tưởng của
chủ nghĩa nhân đạo và sự tiến bộ của loài người.”
(Sô-lô-khốp)
69. “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của
người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn
bản là lòng yêu thương con con người.” (Từ điển
văn học)
70. “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình
yêu.” (L. Tôn-xtôi)
71. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo
đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng
tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con
người.” (Đặng Thai Mai)
168
72. “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa
đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của
nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương,
lòng thương người.” (Lê Trí Viễn)
73. “Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái
cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo của lòng
người.” (Sê-khốp)
74. “Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương.
Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người.”
(Hoài Chân)
75. “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng
cảm với những khát vọng rất người của con người,
cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của con
người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao
trùm.” (Hoài Thanh)
76. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi.
Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo.”
(Nguyên Ngọc)
77. “Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm
hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói

169
cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu,
một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách
miêu tả phải cao cả.” (Nguyễn Đình Thi)
78. “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh
sáng.” (Charles DuBos)
79. “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm
trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi
phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (Ai-ma-tốp)
80. “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận
mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.” (Thạch Lam)
81. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó
không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có
giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ.”
(Sê-khốp)
82. “Văn học làm cho con người thêm phong phú,
tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con
người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)
83. “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng
nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có
mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt
170
đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu
hiệu vô hình không thể tẩy xoá được của mình.”
(Sách Lí luận văn học)
84. “Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự
kiện diễn ra có phẩn bất ngờ nhưng cái quan trọng là
sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người.”
(Nguyễn Minh Châu)
85. “Nếu như Nguyễn Công Hoan đời là mảnh ghép
của những nghịch cảnh, với Thạch Lam đời là miếng
vải có lỗ thủng, những vết ố, nhưng vẫn nguyên vẹn,
thì với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả
tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số
phận.” (Nguyễn Tuân)
86. “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ
thuật trước hết phải là nghệ thuật.” (Nguyễn Tuân)
87. “Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào
tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mở ấy nó triển
khai thành một hình thức xác định, thành các hình
tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.”
(Biêlinxki)

171
88. “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn
mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc
sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu
này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say
mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối
quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của
những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình
yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm
thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của
người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng
hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc
sống.” (Nguyễn Minh Châu)
89. “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm
mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học
chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời
sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi
đến cõi hoàn thiện.” (Nguyễn Minh Châu)
90. “Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao
giờ kết thúc ở trang cuối cùng.” (Con tàu trắng, Ai-
ma-tốp)
91. “Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng

172
hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” (Sê-
đrin, Nga)
92. “Văn học là tấm gương lớn di chuyển dọc theo
đường đời.” (Xtăng-đan)
93. “Một chữ tình để duy trì thế giới/ Một chữ tài để
tô điểm càn khôn.” (Trương Trào, Trung Quốc)
94. “Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra
lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác
phẩm.” (Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp)
95. “Văn học là phương thức tồn tại của con người,
giữ cho con người mãi mãi là con người, không sa
xuống thành con vật, hay thành ông Thánh vô
duyên, vô bổ. Văn học là sự vươn tới, sự hướng về,
sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái
cốt lõi của văn học là tính nhân đạo.” (Nguyên
Ngọc)
96. “Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc
sống chỉ để miêu tả… nếu nó khôg là tiếng thét khổ
đau hay là lời ca tụng hân hoan; nếu nó không đặt ra

173
những câu hỏi và không trả lời những câu hỏi ấy.”
(Biêlinxki)
97. “Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ cây đời mãi
mãi xanh tươi.” (Gớt)
98. “Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ
nhất trên thế giới.” (Pau-tốp-xki)
99. “Chỉ có tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt cho
mọi người những tình cảm mới mà họ chưa từng thể
nghiệm thì mới là tác phẩm nghệ thuật đích thực.”
(Lép-Tôn-xtôi)
100. “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh
chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.” (Hồ Chí Minh)
( nguồn thích văn học)

174
(Quang Dũng )

Đề bài: Phân tích khổ 1 của bài thơ Tây Tiến. Từ


đó, nhận xét về bút pháp hiện thực và lãng mãn
trong thơ Quang Dũng.
Bài làm
“Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ
cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay. (Raxun
Gamzatôp). Thật vây, thơ ca chính là tình yêu, là nỗi
nhớ, là sự khổ đau được cảm nhận bằng trái tim của
người nghệ sĩ. Thơ chính là tiếng lòng, là tiếng hát
của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần. Với tình
yêu, nỗi nhớ Tây Tiến da diết, nhà thơ Quang Dũng
đã xây nên một tuyệt tác mang đậm tính bi tráng
mang tên “Tây Tiến”. Tây Tiến là một bản hùng ca
cũng như tình ca về hình ảnh người lính Tây Tiến
trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ
và dữ dội. Điều đó, được nhà thơ thể hiện rất rõ qua
khổ thơ đầu của tác phẩm: “Sông Mã.....”.

175
Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài : làm thơ,
viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc, nhưng hơn hết ông
là nhà thơ với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng
mạn và tài hoa. Nhắc đến ông là nhắc đến một hồn
thơ với tình yêu mãnh liệt với Tây Tiến và xứ Đoài,
những vần của ông đâu đâu cũng là đất, là hương vị,
nếp sống, là tình cảm đối với Tây Tiến và xứ Đoài
phả vào một cách dung dị, mộc mạc mà sâu sắc, oai
hùng. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ
Quang Dũng, thể hiện đậm phong cách nghệ thuật
của “người con xứ Đoài”. Tây Tiến được sáng tác
năm 1948, khi nhà thơ rời đơn vị cũ chưa lâu và ấp ủ
trong mình nỗi nhớ đồng đội sâu sắc.
Bước vào không gian của bài thơ Tây Tiến, ta
thấy nguồn cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ, nỗi nhớ
được cất lên ngay từ câu thơ đầu tiên làm ta vừa bất
ngờ nhưng cũng vừa náo nức, một tiếng gọi làm nao
lòng người, làm sống dậy cả một miền kí ức. Nỗi
nhớ như nén chặt bỗng trào dâng, bật lên thành tiếng
gọi tha thiết, tiếng gọi như vọng ra từ những vách đá
núi rừng Tây Bắc, từ nỗi nhớ ngàn trùng:

176
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ” làm cho
người đọc cảm nhận câu thơ như một tiếng gọi cất
lên từ trái tim của người lính, câu thơ hàm chứa nỗi
nhớ bồng bềnh, dài trải như một dải lua, vương vấn
trong lòng người đọc mãi khôn nguôi. Hình tượng
con sông Mã mở đầu cho hoài niệm về Tây Tiến như
một sự khẳng định âm hưởng hào hùng, bi tráng của
những tháng năm Tây Tiến không thể mờ phai trong
tâm trí không phải chỉ mỗi những người lính Tây
Tiến mà của cả dân tộc, cả đất nước. Và con sông ấy
cũng chính là dòng sông cảm xúc của nhà thơ khi
viết về Tây Tiến – một thời quá khứ oanh liệt, hào
hùng, đầy niềm kiêu hãnh và tự hào. Vậy là sông Mã
không đơn thuần là một con sông – nơi đã từng là
địa bàn hoạt động của đòan quân Tây Tiến – mà nó
đã trở thành một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc
đời người lính Tây Tiến với bao niềm vui, nỗi buồn.
Vì thế sông Mã là người bạn đồng hành khăng khít
với những người lính Tây Tiến. Quang Dũng đã gắn

177
tên đòan quân với sông Mã cùng núi rừng miền Tây
cũng có nghĩa là chừng nào còn dòng sông Mã, còn
núi rừng miền Tây thì người ta còn nhắc về binh
đòan Tây Tiến. Sức nặng của của thơ đổ dồn lên hai
chữ “xa rồi” bởi binh đòan Tây Tiến đã xa nhân vật
trữ tình cả về không gian và thời gian. Khi ông nói
“xa rồi” là lúc những hình ảnh của một quá khứ đang
ập tới, nhấc bổng ông khỏi mảnh đất thực tại để lửng
lơ, chơi vơi trong nỗi nhớ. Nhà thơ như để tiếng gọi
yêu thương “Tây Tiến ơi!” vọng về trong thời gian
khổ ải nhưng nghĩa tình, đầy sự gắn bó và cũng
không ít những hi sinh mất mát, vọng về một miền
đất xa xôi, vọng tới những người đồng đội của mình
dù đã nằm lại nơi biên cương hay đang chiến đấu ở
những chiến trường khác. Âm hưởng của thơ có sức
vọng mạnh mẽ làm cho tiếng lòng của Quang Dũng
như xoáy vào tâm hồn người đọc những cảm xúc
bâng khuâng khó tả. Sau khúc dạo đầu ấy là tất cả
những kỉ niệm được hiện về trong nỗi nhớ mang một
màu sắc lung linh, đẹp một cách lạ thường. Kỉ niệm
về một thời chinh chiến với dòng sông Mã thân
thương và khoảng trời miền Tây theo thời gian cứ
178
lần lượt hiện về. Thông thường, khi nhớ về một điều
gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại
dấu ấn sâu sắc, khó quên. Điều đầu tiên Quang Dũng
nhớ đến là núi rừng. Bởi núi rừng là nơi xưa kia ông
và đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu, kề vai sát
cánh bên nhau; ở đó in đậm bao nỗi khổ, bao niềm
vui của những người chiến sĩ. Kỉ niệm sống dậy,
tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ một nỗi niềm nhớ
tiếc, nhớ những tháng ngày hành quân, nhớ quá khứ
đã xa, giờ đây chỉ còn là hoài niệm. Tính từ “chơi
vơi” kết hợp với điệp từ “nhớ” mang nhịp điệu của
điệp khúc, làm cho nỗi nhớ thêm da diết, sâu lắng.
Ta cũng từng bắt gặp cấu trúc thơ này trong thơ của
Chế Lan Viên: “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây
phủ”. Nỗi nhớ ở đây được vật chất hóa, tưởng như
đang cất lên ở lưng chừng trời, có thể khiến người
đọc muốn rời chân khỏi mảnh đất thực tại mà tham
dự vào một cuộc viễn chinh đầy khao khát. Nỗi nhớ
của Quang Dũng là nhớ “chơi vơi” - một nỗi nhớ
không có hình, không có lượng, hình như nhẹ tênh
mà nặng vô cùng; nó vừa tạo âm hưởng cho câu thơ
vừa tạo sự vang vọng trong lòng người đọc. Bởi nó
179
không đo được, không cân được, chỉ biết nó lửng lơ
mà đầy ắp, mênh mông, nó chập chờn giữa hai bờ
hư – thực trong không gian bao la, nỗi nhớ trơ trọi,
chên vênh, không có điểm tựa, nỗi nhớ rất rõ nhưng
lại rất đỗi mơ hồ trong thời gian xa xăm, lưu luyến
đầy nhớ thương. Nỗi nhớ “chơi vơi” ấy ta cũng từng
bắt gặp trong cái tương tư chiều của nhà thơ Xuân
Diệu “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi với”.
Với ông hoàng thơ tình thì nỗi nhớ chơi vơi ấy là
tương tư, là nỗi nhớ vượt không gian vô hạn, còn
Quang Dũng thì nỗi nhớ chơi vơi gắn liền với tinh
thần đồng đội, gắn liền với tình yêu quê hương, đất
nước, nhớ cảnh, nhớ người, nhớ về một thời oanh
liệt chỉ còn trong kí ức. Cách gieo vần “ơi” của
Quang Dũng càng làm cho âm hưởng câu thơ ngân
dài, lan tỏa, cho thấy nỗi nhờ trải dài, miên man, da
diết và vang vọng. Có lẽ ở đây Quang Dũng đã học
tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao: “Ra về nhớ
bạn chơi vơi”, nhưng không phải nhớ bạn yêu mà là
nhớ rừng núi, nhớ tháng ngày kháng chiến. Như vậy,
nỗi nhớ “chơi vơi” hẳn là nỗi nhớ mà nhà thơ đặt
180
mình vào thế giới của miền kí ức rộng lớn trong nơi
sâu thẳm tâm hồn. Hai câu thơ đầu xác định rõ hai
khoảng không gian khác nhau: không gian của thực
tại và không gian hồi tưởng. Nó mang cái bâng
khuâng hoài niệm để gọi về những gì thân thuộc
đáng nhớ nơi tâm tưởng nhà thơ về một thời Tây
Tiến. Nỗi nhớ vừa được khơi lên thì hàng loạt hình
ảnh những ngày cùng Tây Tiến hành quân ập tới mà
không cần sự dẫn dắt dềnh dàng. Tất cả hiện ra trong
nỗi nhớ rừng núi, nơi thử thách cũng là nơi bao bọc,
che chở đòan quân. Bằng cách sử dụng câu cảm thán
và thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, câu thơ trở nên đẹp
diệu kì. Do đó, “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên một
đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn ‚tri
âm tri kỉ để nhà thơ giãi bày tâm sự.
Từ bức tranh toàn cảnh của nỗi nhớ “chơi vơi”,
kỉ niệm như ống kính quay phim làm hiện lên những
chặng đường đã qua. Với 6 câu thơ tiếp theo, Quang
Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hũng vĩ, dữ
dội song cũng thơ mộng, trữ tình:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

181
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Tây Bắc là vùng đất “phương xa xứ lại”, lắm khói
nhiều sương, sớm sương muối, trưa sương mù, trưa
hoe hoe nắng, tối tù mù mây, vùng đất hoang sơ gây
nên nhiều hiểm nguy cho đoàn binh Tây Tiến:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Nhớ về Tây Tiến, nhà thơ không thể nào quên được
những khó khăn, gian khổ suốt chặng đường hành
quân. Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc
hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời của người
lính. Tác giả nhắc đến hai cái tên Sài Khao,
Mường Lát là những địa danh cụ thể, quen
thuộc trong kí ức, những miền đất ấy vời vợi nghìn
trùng, đã một thời từng gắn bó máu thịt với binh
182
đòan Tây Tiến, từng in dấu chân đòan chiến binh
Tây Tiến. Nó là những cái tên mang hơi thở của
rừng núi hoang vu. Và cũng chính nơi hoang vu đó,
kí ức dồn dập xô về, một màn sương trắng mờ nhòe
phủ kín lối đi, che lấp cả đòan quân mỏi mệt. Sương
bồng bềnh, giá buốt làm trơn trượt những con
đường, làm tê lạnh da người đi trong sương. Mặc dù
cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ
chú trọng phác họa nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra
cái khắc nghiệt của núi rừng. Nói đến sương, đã có
nhiều vần thơ viết về nó bởi nó mang đậm hơi thở
của núi rừng, như trong “Tiếng hát con tàu” nhà thơ
Chế Lan Viên từng viết “Nhớ bản sương giăng, nhớ
đèo mây phủ”, tuy nhiên sương trong thơ của Chế
Lan Viên có gì đó rất mơ mộng, trữ tình, làm cho
con người say đắm, tuy nhiên sương trong Tây Tiến
lại làm hiện lên con đường hành quân đầy chông gai,
thử thách, là hiện thực khắc nghiệt mà đoàn binh
phải đương đầu. Thế nhưng, với trái tim trẻ trung
của người thanh niên Hà Thành, các anh vẫn tìm
thấy cái đẹp, cái lãng mạn trong cái gian truân, vất
vả ở hình ảnh “hoa về”. “Hoa” đấy là ngọn đuốc hoa
183
của những người dân vùng biên giới đi đón bộ đội
giữa rừng trong đêm khuya chăng? Hay đó là những
bông hoa rừng lung linh? Đó cũng có thể là những
đóa-hoa-người? Những cô gái trẻ vùng biên cương
lặng lẽ và hân hoan đón những chàng lính trẻ về với
rừng, với bản? Có lẽ Quang Dũng đã nói tất cả, câu
thơ của ông, sự sáng tạo ấy đã bao hàm và ôm chứa
tất cả những ý nghĩa đó. Câu thơ “ Mường Lát hoa
về trong đêm hơi” được gieo toàn thanh bằng lại
càng làm cho câu thơ thêm phần nhẹ nhàng, tạo cảm
giác thoải mái và sâu lắng. Cái hay ở đoạn thơ này
chính là cùng một lúc xuất hiện hai hình ảnh, hai
trạng thái tình cảm đối lập nhưng thống nhất, hài hòa
với nhau: vừa gợi sự mịt mù, lạnh lẽo của miền đất
lạ cùng sự khó khăn, vất vả của người lính Tây Tiến,
đồng thời gợi lên vẻ độc đáo, bí ẩn của Tây Bắc.
Thêm một chữ “mỏi”, cái mĩ lệ, lãng mạn biến mất,
câu thơ nặng trĩu khung cảnh hiện thực trần trụi.
Đòan quân không gợi một chút nào cái oai
hùng sân khấu mà mệt mỏi vì đường xa, vì
những gian khổ. Vẻ đẹp ở đây là vẻ đẹp hiện thực
chứ không phải sự hào nhoáng thoáng qua. Ngày nối
184
ngày, đêm nối đêm, “đoàn quân mỏi” giữa cái
biển sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân
mỏi” tưởng như bị lấp đi, bước chân trùng xuống
trong mệt mỏi, gian truân. Nhưng khi xuất hiện
“hoa về trong đêm hơi”, cái mỏi mệt, cái gian khổ
như đã tiêu tan bởi hình ảnh đẹp lung linh như trong
cõi mộng ấy. Đây là hình ảnh đầy sáng tạo, một hình
ảnh thơ mang đậm tâm hồn thi nhân. Người lính
như thả hồn vào cõi mộng của “đêm hơi” giữa núi
rừng, tận hưởng hương thơm của hoa rừng. Tưởng
chừng như thiên nhiên đang ban thưởng cho người
lính hương hoa để có sức mạnh vượt đèo, leo dốc,
cố gắng gượng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Tiếp tục cảm hứng lãng mạn, khung cảnh núi rừng
miền Tây với thác lúc mưa nguồn cùng con đường
hành quân cheo leo trên dốc núi, trong sương mờ,
bên vực thẳm cứ lần lượt hiện ra như một thước
phim quay chậm, mở ra theo bước chân hành quân
của người lính:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời

185
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Có lẽ đây là bốn câu thơ gây ấn tượng mạnh nhất đối
với độc giả. Bút pháp lãng mạn xây đắp hình ảnh núi
non nên nhạc, nên họa, mà đúng như lời cổ nhân
nói: “Thi trung hữu họa”, “Thi trung hữu nhạc”. Đất
nước ta với đặc điểm địa hình 3/4 là đồi núi, nhưng
qua những lời thơ đậm chất tạo hình của Quang
Dũng, tưởng chừng như bao dãy núi, ngọn đồi đều
đã đổ bộ, tập trung hết lên vùng Tây Bắc này,
phủ đặc những cung đường của binh đòan Tây
Tiến. Núi rừng Tây Bắc đẹp, hùng vĩ mà dữ dội,
một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc
nghiệt. Thiên nhiên cứ cố tình giăng ra biết bao thử
thách, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng bẻ gãy ý chí của
con người. Người lính Tây Tiến cứ thầm lặng dấn
thân, cứ dần vượt qua hiểm trở của lộ trình oai linh
nơi rừng thiêng nước độc. Quang Dũng đã dựng lên
được một không gian ba chiều khiến hình ảnh thơ
được chạm nổi lên thành bức phù điêu hùng vĩ của
núi rừng Tây Bắc trên mặt phẳng trang thơ.

186
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Trong ba câu thơ, nhà thơ sử dụng chủ yếu thanh
trắc mang đến cho người đọc một con đường hành
quân nặng nề, chênh vênh, trúc trắc, vô cùng nguy
hiểm. Điệp từ “dốc” được nhắc lại hai lần, cùng với
việc sử dụng nhiều tính từ là từ láy tạo hình: “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”,... hòa hợp với tiết
tấu nhịp điệu, âm thanh cùng cách ngắt nhịp 4/3 tất
cả như để nhấn mạnh hơn sự hiểm trở, dữ dội của
núi rừng Tây Bắc. Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi
bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với
vẻ đẹp vừa đa dạng, vừa độc đáo. Dốc rồi lại dốc,
khúc khuỷu, gập ghềnh đường lên, rồi lại thăm thẳm,
hun hút đường xuống. Thiên nhiên chênh vênh,
dựng đứng chính là lời thách thức bước chân chinh
phục của người lính Tây Tiến. Dốc dựng đứng giữa
trời, khi chinh phục được tưởng chừng con người
đang bồng bềnh đứng giữa biển mây. Lắng nghe âm
điệu của những câu thơ tả dốc, ta thấy dội lên hơi
thở nặng nhọc của người lính Tây Tiến. Trong tưởng
187
tượng của người đọc, hình ảnh đòan quân như đang
trèo trên những cồn mây, mũi súng chạm tới đỉnh
trời. Nó gợi ta nhớ đến thơ cổ của Lí Bạch:
“Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây”
Những người lính đột nhiên xuất hiện ở tầm cao
đỉnh trời trong tiếng cười lạc quan với chi tiết “Heo
hút cồn mây súng ngửi trời”, câu thơ thật độc đáo
khi Quang Dũng lấy súng để đo độ cao của trời
xanh. Thông thường, ta sẽ dùng là “chạm trời” tuy
nhiên, nếu dùng từ “chạm” sẽ khiến câu thơ yếu đi,
không thể lột tả hết độ cao của địa hình, có thể nói
cách dùng từ độc đáo và táo bạo này làm cho câu thơ
thêm phần sinh động, chính vì vậy ngay cả khi có cơ
hội tái bản lại ông cũng không hề có ý định sửa lại.
“Ngửi trời’’là một hình ảnh nhân hóa ẩn dụ, được
dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa có chất
tinh nghịch của người lính. Ta lại chợt nhớ đến câu
thơ trong bài “Đồng chí” của Chính Hữu: “Đầu súng
trăng treo” thú vị mà ngỗ nghĩnh. Hình ảnh ấy được
hiện ra từ cái nhìn của những người lính trẻ - những
188
người đã vượt qua muôn trùng con dốc để vươn tới
tận trời. Ta hiểu đây không chỉ là đỉnh cao của
thiên nhiên mà còn là đỉnh cao của sự chiến
thắng, của nghị lực người chiến sĩ. Nó cho ta thấy
bên cạnh thiên nhiên hiểm trở là hình ảnh người lính
với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu.
Song ở câu thơ của Quang Dũng, người lính thật hồn
nhiên và lãng mạn, vừa thật, vừa khái quát, vừa giàu
ý nghĩa tượng trưng. Ta như nghe thấy tiếng cười rũ
sạch mọi mệt nhọc gian nan, rũ sạch cả “Bụi trường
chinh phai bạc áo hào hoa”. Mũi súng của họ như
đang “ngửi” để thăm dò, nhận biết, để thưởng thức
hương vị mát lành của mây trời. Nhờ đó mà thiên
nhiên trở nên gần gũi với con người và người lính
được nâng lên một tư thế rất đỗi tự hào. Đó là tư thế
chiến thắng của con người tươi trẻ, lạc quan, yêu
đời. Tuy nhiên cần phải thấy thơ Quang Dũng có
một điểm rất nổi bật, đó là những hình ảnh tương
phản có giá trị nâng đỡ lẫn nhau về mặt cảm xúc.
Cho nên những “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo
hút” đã trở thành vô nghĩa trong sự thử thách của
thiên nhiên đối với con người. Vì sau tất cả những
189
thử thách ấy, là một cảm xúc đầy kiêu hãnh của
người lính, họ bất chấp mọi khó khăn để vươn tới
một tầm cao lồng lộng giữa đỉnh trời “Áo vải chân
không đi lùng giặc đánh” Hình ảnh ấy gợi nhớ đến
những dòng thơ trong “Lên Tây Bắc” của Tố Hữu:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
Có thể thấy, thời nào cũng vậy người bộ đội cụ Hồ
vẫn sáng ngời vẻ đẹp anh dũng, kiêu hãnh, gian khổ
không thể làm tắt đi ngọn lửa yêu nước đang hừng
hực của các anh, càng gian khổ bao nhiêu ta lại càng
thấy quyết tâm, “chí cao hơn đèo” của các anh bấy
nhiêu. Thiên nhiên có lúc vụt hiện ra từ những câu
thơ giàu giá trị tượng hình, có những nét thật táo
bạo, câu thơ như bẻ gãy làm đôi: “Ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống”, hai vế của của thơ tạo thành
cặp tiểu đối hoàn chỉnh, dấu phẩy giữa dòng chia
câu thơ làm hai nửa cân xứng tạo ấn tượng về một

190
địa hình gấp gãy giữa không gian. Thế núi như vút
lên, dựng đứng rồi lại đột ngột đổ xuống bất ngờ.
Nhà thơ đã đặt một chữ “cao” vào giữa sự đối lập
của “ngàn thước lên” và “ngàn thước xuống”. Chính
cấu trúc ngữ nghĩa ấy tạo nên đỉnh cao nghìn thước
giữa câu thơ. Chẳng những thế, với hai chữ “lên” và
“xuống” còn gợi ra hình ảnh trập trùng của đòan
binh Tây Tiến đang cố gắng vượt dốc cao, vực thẳm;
làm nổi bật tư thế và bản lĩnh của người chiến binh
Tây Tiến trên bước đường hành quân gian nan
nhưng vẫn lạc quan, yêu đời. Cảnh tượng chiến
trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu
chỉ có mưa ngàn, muỗi rừng, vắt núi, mà còn có biết
bao thử thách của rừng thiêng, nước độc. Nếu ở mấy
câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc
mênh mông qua không gian hùng vĩ, thơ mộng của
những cơn mưa rừng, với độ cao chạm đến mây trời
của đỉnh núi Tây Bắc, thì đến với hai câu thơ sau
thiên nhiên lại được khám phá theo chiều của thời
gian:“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

191
Thiên nhiên Tây Bắc như rùng mình trong bản giao
hưởng của đại ngàn với tiếng thác gầm và tiếng chân
cọp dữ. Với rừng núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều ta
lại nghe thác “gầm thét” đổ xuống từ trên cao và cứ
mỗi đêm lại nghe tiếng cọp gầm gừ. Điều đó như là
một sự liên tục, tuần hòan khép kín thông qua hai
trạng từ chỏ thời gian “chiều chiều” và “đêm đêm’’.
Đó là những âm thanh dữ dội, bí hiểm, man rợn như
khúc hòa tấu của chốn oai linh. Cũng là danh từ
riêng nhưng Mường Lát lãng mạn bao nhiêu, thơ
mộng bao nhiêu thì Mường Hịch dữ dằn, đầy sát khí
bấy nhiêu. Tên địa danh Mường Hịch đọc lên có
cảm giác nặng nề như tiếng chân cọp rậm rịch đi
trong đêm. Rừng núi mang một không khí rờn rợn,
nguyên vẹn vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi, con
người lần đầu đặt chân đến, khi mà thiên nhiên vẫn
đang làm chủ thì khó khăn chắc chắn còn tăng thêm
gấp bội lần. Những nguy hiểm vẫn rập rình đâu đó,
đó là sự quyết liệt mà binh đòan Tây Tiến đã một
thời vượt qua. Vị chúa rừng xanh ấy như đang trêu
đùa trước những nỗi sợ của những chàng trai trẻ Hà
Thành. Từ “trêu” là cách nói dí dỏm, hài hước, đẩy
192
nỗi sợ hãi của người lính lùi xa, dù khó khăn là vậy,
rừng thiêng nước độc có thể cướp đi mạng sống của
các anh bất cứ lúc nào nhưng các anh vẫn chỉ xem
đó là một trò đùa để che dấu đi nỗi sợ hãi trước thiên
nhiên Tây Bắc, qua đó thể hiện sự bản lĩnh, cùng nét
tinh nghịch của những chàng trai Hà Thành. Mỗi vần
thơ để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian
nan tột cùng mà cũng can trường tột bậc. Với những
sự đe dọa từ mọi phía phong tỏa, chúng ta thêm một
lần nữa càng thấm thía những khó khăn, vất vả của
người lính Tây Tiến khi phải sống và chiến đấu ngơi
nước độc, rừng thiêng. Dù cho có bao nhiêu khó
khăn, thử thách đi chăng nữa thì đoàn quân vẫn tiến
bước, người nối người băng lên phía trước. Uy lực
thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người
được nâng lên một tầm vóc mới. Trong đoạn thơ
này, Quang Dũng có lẽ đã nói quá lên về cái ghê
gớm của núi rừng chỉ là để làm bật lên vẻ đẹp hào
hùng của con người chứ không phải để hạ thấp nó.
Như vậy, bằng cách dùng từ độc đáo cùng bút pháp
tả thực chân thật, Quang Dũng đã vẽ ra trước mắt
người đọc bức tranh đậm mùi gian khổ của chiến
193
tranh, như mang đến cho người đọc một bộ phim về
chiến tranh chân thực hết sức.
Tuy nhiên, trong con mắt của người thi sĩ Quang
Dung, thiên nhiên Tây Bắc không chỉ có sương lấp,
dốc lên khúc khuỷu, heo hút cồn mây hay tiếng gầm
gào cuả thác dữ và chúa sơn lâm, mà ở đó còn là bức
tranh thiên nhiên thơ mộng và yên bình. Ném vào
trong khung cảnh ấy là một bức tranh thủy mặc hiện
đại làm xao động lòng người: “Nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi” Giữa âm điệu gồ ghề của những thanh
trắc, của thơ thả xuống toàn thanh bằng, tạo một dấu
lặng đột ngột của khúc quân hành, mở ra nét nhạc
bâng khuâng man mác hồn người. Cũng chính vì thế
mà câu thơ đã trả cho người đọc trạng thái cân bằng,
lâng lâng. Hình ảnh ấy tạo sự tương phản gay gắt
trong diện mạo thẩm mĩ của vùng đất này. Âm
hưởng nhịp nhàng, nhè nhẹ của những thanh bằng
cùng với cách ngắt nhịp 2/2/3 như kéo dài âm điệu
mượt mà trong lời thơ, vẽ ra trước mắt ta một không
gian mênh mông, bao la. Không gian ấy được thu
vào tầm mắt người lính một thế đứng rất “lính’’. Tuy
rằng những cơn mưa rừng bất chợt mang đến cho
194
người lính Tây Tiến sự giá rét, nhưng khi đưa ánh
mắt sang ngang, xa xa, lẫn trong màn mưa núi,
sương rừng, người lính thấy bản làng mờ ảo, thấp
thóang trong thung lũng, lúc ẩn, lúc hiện. Nhà thơ đã
rất sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa
xa khơi”. Hình ảnh thơ với cấu trúc ngôn từ lạ, táo
bạo: “xa khơi” vốn là hình ảnh tả không gian biển,
nay được Quang Dũng sử dụng để tả cảnh không
gian núi rừng miền Tây. Hình ảnh này khép dòng
thơ làm cho câu thơ đẹp như một bức tranh lụa mềm
mại, rất nên thơ. Âm điệu thơ nhẹ nhàng, thư thể
giúp người đọc hình dung những ngôi nhà đang
bồng bềnh giữa biển khơi. Nó gợi lên một cái gì đó
rất kì bí, hoang sơ giữa trốn núi rừng. Thiên nhiên
hùng tráng được miêu tả bằng hình, bằng âm, bằng
nhịp điệu và đặc biệt là bằng cảm hứng lãng mạn để
sự hiểm trở của thiên nhiên khơi gợi cảm hứng chinh
phục trong con người. Vượt lên gian khổ, hi sinh,
hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của
tình quân dân:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

195
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ cuối đoạn gợi cảm giác tươi mát, ngọt
ngào về cuộc sống thanh bình thoáng bắt gặp trên
đường hành quân. Đằng sau vẻ hoang dại, bí ẩn của
đại ngàn hiện lên hình ảnh con người với vẻ đẹp thật
thơ mộng, lãng mạn. Bút pháp của Quang Dũng biến
ảo: đang gân guốc, dữ dằn thoắt đã tinh vi, e ấp.
Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào
hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và đằm
thắm tình người. Chữ “nhớ” đứng ở đầu câu thơ như
kết tụ lại bao tình cảm nhớ thương, bao bồi hồi, xao
xuyến vấn vương. Câu thơ giống như tiếng gọi
thoảng thốt ngân lên từ trong tiềm thức.“Nhớ ôi” là
một câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng
lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau
một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được
dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng,
một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp, khói
cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Khung
cảnh ấy mới đầm ấm làm sao! Nó cho ta thấy tình
cảm của tác giả được hướng vào nội tâm như tiếng
gọi hoài niệm, xao xuyến, cháy bỏng trong trái tim
196
nhà thơ. Và nỗi nhớ ấy không kìm nén được nữa để
rồi phải thốt lên thành lời. Nhớ “cơm lên khói”, nhớ
“thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc,
nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào
người dân Tây Bắc. Bữa cơm đầu lên khói tỏa lan
mùi nếp xôi gợi cái không khí gia đình ấm áp, xua
tan đi cảm giác trống vắng trong tâm hồn những
người chiến sĩ. Lúc đó, đồng đội quây quần bên
nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi
lại vào một góc khuất, nhường chỗ cho cảnh sinh
hoạt tươi vui. Chữ “mùa” ở đây là một mốc thời gian
đã trở thành dấu ấn in sâu trong trái tim người chiến
sĩ. Tác giả không dùng “mùa vụ” mà lại sử dụng từ
“mùa em” – một từ ngữ sáng tạo, độc đáo - thể hiện
tình yêu, nỗi nhớ trở thành hoài niệm. “Mùa em”
không phải là một trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông
của đất trời mà là mùa của riêng Quang Dũng khi
nhớ về Tây Tiến, nhớ về nơi đã đi qua, ghi lại những
kỉ niệm thời trẻ của mình, nó là mùa của kỉ niệm,
của những hồi ức. Đọng lại trong hai câu thơ là hình
ảnh người con gái Mai châu cần cù, tần tảo và có vẻ
đẹp tâm hồn trong sáng, là một sáng tạo độc đáo về
197
con người trong ngôn ngữ thi ca, tứ thơ hàm chứa
bao tình thương nỗi nhớ, nhịp thơ vì thế trở nên uyển
chuyển, mềm mại. Giữa cái khổ đau, đoạn thơ bỗng
khép lại bằng một kỉ niệm thật ấm áp, như một tiếng
hát vui bỗng vút lên. Cái tình cảm thắm thiết ấy, sự
hào hoa, nét lãng mạn ấy được bồi đắp trong tâm
hồn người chiến sĩ, có lẽ bởi đó là tâm hồn của
những chàng trai, “thanh lịch’’ xuất thân từ Hà
thành. Đây là đoạn thơ có sức tạo hình hết sức độc
đáo. Cảm hứng lãng mạn đã làm cho hình tượng
người lính trở nên rực rỡ. Hình tượng nghệ thuật vừa
bám sát hiện thực lại có sức bay bổng trong tâm
tưởng của người đọc.
Có thể nói, bức tranh thiên nhiên mà nhà thơ
Quang Dũng tái hiện là một phông nền cho sự xuất
hiện của người lính Tây Tiến. Không thi vị hóa hiện
thực, ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn thẳng vào
những tổn thất tất yếu của con người trong cuộc
chiến tranh tàn khốc. Cái chết vẫn là một mối đe
dọa, một sự thật đáng ngại rất bi thảm, nhưng qua
ngòi bút của Quang Dũng ta lại thấy được ý chí dấn
thân của người lính Tây Tiến. Có thể nói ngay cái
198
chết cũng rất đỗi hào hùng, người lính Tây Tiến dù
có chết cũng không rời vũ khí, không xa đồng đội:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Nhắc đến hai tiếng “chiến tranh” thì phải nhắc đến
từ “mất mát” và “hi sinh” và những người lính Tây
Tiến cũng không thể tránh khỏi quy luật ấy. Nếu ví
cả bài thơ như một bản nhạc thì hai câu thơ này là
nốt trầm xao xuyến lòng người. Hai tiếng “anh bạn”
được đặt ở đầu câu thơ như một tiếng nấc nghẹn
ngào, tiếng khóc thầm cho sự mất mát về người và
tinh thần của người lính, một tiếng gọi của sự gắn
bó, của tình đồng đội, của tình người. “Anh bạn”
chứ không phải là “người bạn” bởi đối với tác giả,
những người lính ấy không chỉ là bạn bè mà con là
anh em, là ruột thịt, là người cùng sinh ra tử, họ đã
xem nhau như người thân và rồi ai mất đi cũng là
một sụ mất mát to lớn. Đi kèm sau đó là “dãi dầu”,
dãi dầu với bom đạn, dãi dầu với nắng mưa, đã lột tả
hết sự khốc liệt trong chiến đấu khiến cho người
chiến sĩ không còn sức để bước tiếp. Sự dãi dầu thân
199
xác nhiều khi chạm tới giới hạn cuối cùng, khiến
bước chân các anh cứ chậm dần, chậm dần để rồi
dừng lại hẳn và toàn thân đổ gục xuống. Cụm từ
“không bước nữa” như là lời khẳng định chấm dứt
một hoạt động, không thể tiếp tục được nữa, nó là
một dẫn chứng rõ nét cho sự hi sinh của người lính.
Ngay sau đó là hành động “gục lên súng mũ” rất dứt
khoát. “Gục” là một động từ mạnh miêu tả động
thái rất nhanh, mệt mỏi không còn sức chịu đựng,
gian khổ tưởng như đã vượt lên giới hạn chịu đựng
của con người. Điều đó cũng có nghĩa là các anh đã
cố gượng dậy nhưng không còn đủ sức nữa rồi.
Điểm nhấn của đoạn thơ chính là câu thơ ấy - “gục
lên súng mũ bỏ quên đời”- nó thể hiện sự hi sinh vô
cùng hào hùng, tả một giấc ngủ ngàn thu: các anh
ngã xuống, gục xuống khi súng còn cầm trên tay, mũ
còn đội trên đầu, các anh đã hi sinh trong tư thế hành
quân. Điều ấy phù hợp với chất bi tráng của cuộc đời
người lính Tây Tiến: chết mà vẫn ngang tàn, vẫn giữ
khí phách. Nói chính xác, trước lúc “gục lên súng
mũ”, người lính ấy đã dành cả tuổi trẻ cho tổ quốc
và nền độc lập, đã quyết hi sinh tuổi thanh xuân của
200
mình. Có lẽ ở đoạn này, không ít người hiểu hình
ảnh đó là sự dừng chân nghỉ ngơi của người chiến sĩ,
người lính mệt mỏi “gục lên súng mũ” – vẫn với tư
thế chủ động – quên hết thảy sự đời. Nếu như vậy, ta
có thể thấy Quãng Dũng cảm thông sâu sắc với đồng
đội của mình khi quá mệt mỏi phải ngủ gục trên
đường hành quân như để tạm quên đi bao nỗi nhọc
nhằn, vất vả của hiện tại. Cách hiểu đó tuy không
sai, nhưng nó sẽ làm mất đi vẻ hào hùng, khí phách
đẫm chất bi tráng của những người lính trẻ. Với ba
chữ cuối dòng thơ: “bỏ quên đời”, thể hiện tinh thần,
thái độ của người lính trước cái chết: một sự bất cần,
xem cái chết là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng.
Đến đây, ta liên tưởng đến cái chết nhàn hạ, nhẹ tênh
của người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu: “Tôi nhớ
thương người bạn cũ/Miệng cười mắt nhắm nghìn
thu”, một sự ra đi quá đỗi nhẹ nhàng như việc đắm
mình vào giấc ngủ. Các anh đã lên đường, đến với
núi rừng miền Tây dẫu biết rằng “cổ lai chinh chiến
kỉ nhân hồi” có nghĩa là “Xưa nay chinh chiến mấy
ai về?”. Ở đây Quang Dũng miêu tả cái chết của
đồng đội như một sự xả thân cho lí tưởng. Ta chợt
201
nhớ đến dáng đứng của anh giải phóng quân trong
thơ của Lê Anh Xuân:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn:
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công”.
Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ “chết”, “hi sinh”
bằng những cụm từ “không bước nữa”, “gục lên”,
“bỏ quên đời” nhưng vẫn trào lên nỗi xót xa, thương
tiếc. Vần thơ của Quang Dũng tuy nói đến cái chết
của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm
thương. Trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự
hào: Vì độc lập, tự do mà đã có biết bao chiến sĩ anh
hùng đã ngã xuống trên chiến trường, trong tư thế
lẫm liệt đến như vậy. Ở đó, những người lính đã hi
sinh cả tuổi trẻ - điều tốt đẹp nhất của cuộc đời – để
giữ gìn cho hòa bình hôm nay, họ chiến đấu cho một
lời thề thiêng liêng: Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh. Ngòi bút Quang Dũng không từ chối cái “bi”
nhưng cũng biết làm trang trọng hóa cái bi bằng cái
202
“tráng”, “bi nhưng không lụy”. Như vậy, chỉ với hai
câu thơ, người chiến sĩ Quang Dũng đã lột tả hết sự
vất vả, hi sinh, mất mát của những người lính Tây
Tiến trên con đường hành quân đầy gian khổ, tuy
nhiên sự mất mất ấy không hề bi lụy, tiêu điều mà
rất hùng tráng, nó như một bản hùng ca tái hiện cái
chết đầy kiêu hùng của các anh, đồng thời nó còn là
bài ca ca ngợi công lao của những người đi trước, đã
hi sinh cả thân mình để bảo vệ độc lập dân tộc cũng
là lời nhắc nhở cho mọi người đặc biệt là thế hệ trẻ
về sự quý giá của hòa bình và trách nhiệm cống hiến
và bảo vệ tổ quốc.
“Thơ là rượu của thế gian.”(Huy Trực), thơ được
ví như rượu bởi nó làm chúng ta say, làm chúng ta
đắm mình trong cái đẹp, cái tình cảm, cái chân thật
trong thơ và một phần cũng vì nghệ thuật mà nhà thơ
sử dụng trong đứa con tinh thần của mình. Với cả
bài thơ Tây Tiến nói chung và 14 câu thơ đầu nói
riêng làm say bởi sự kết hợp hài hòa giữa 2 bút pháp
hiện thực và lãng mạn. Là người thanh niên Tràng
An trẻ trung, hào hoa nên thơ của Quang Dũng rất
đỗi lãng mạn từ nội dung đến cách dùng từ, đặt câu.
203
Vốn sẵn tố chất hào hoa của người trai đất Hà thành,
chất hào hoa lại được gặp thiên nhiên và con người
miền Tây với vẻ đẹp huyền hoặc, Quang Dũng lại
từng sống và chứng kiến những tháng ngày hào hung
giữa binh đoàn Tây Tiến, hồn thơ ấy đã hòa quyện
lại tất cả để tạo nên những trang thơ tràn đầy cảm
hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn của bài thơ
trước hết là nỗi nhớ ngập tràn: nhớ rừng núi hoang
vu, hiểm trở, dữ dội, nhớ những cảnh đẹp huyền ảo
nên thơ, đặc biệt là nhớ bước quân hành của đoàn
quân Tây Tiến, nhớ gương mặt, ánh mắt, nhớ cả
những hi sinh gian khổ, những giây phút đồng đội
nằm xuống nơi biên cương. Tất cả cứ theo dòng hồi
ức mà hiện lên cùng với trí tưởng tượng phóng
khoáng, bay bổng. Dù là đề tài về chiến tranh nhưng
đọc thơ của người con xứ Đoài ta vẫn cảm nhận
được cái yên bình, êm ả qua những chi tiết phía sau
những bước chân nặng nề của đoàn binh Tây Tiến
như “ Nhà ai pha luông mưa xa khơi”, chi tiết “cơm
lên khói” hay “mùa em thơm nếp xôi”, dù mưa bom,
bão đạn đang không ngừng rơi xuống nhưng với hồn
thơ hào hoa, lãng man, những trang thơ của ông vẫn
204
cho người đọc cảm giác bay bổng, quên đi chiến
tranh khốc liệt để sống trọn với phút dây bình yên,
với cuộc sống đời thường ở đó có tình dân quân, ở
đó có bếp lửa, cơm nóng, nếp xôi, dân và quân “chia
ngọt sẻ bùi”, ở đó có kỉ niệm đẹp đẽ về tình dân
quân, ở đó có ảnh hư ảo của rừng già Tây Bắc. Tuy
nhiên, trong 14 câu thơ đầu của tác phẩm, Quang
Dũng không hề nhé tránh hiện thực tàn khốc của
chiến tranh mà ông còn sử dụng bút pháp hiện thực
để khắc họa những gian khổ, mất mát mà những
người lính phải ghánh chịu trong suốt chặng đường
hành quân, đó là những thước phim cận cảnh làm
hiện lên những giọt mồ hôi, những cái chết oanh liệt
của những người lính Hà Thành ra đi với tâm niệm
“quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Bút pháp hiện
thực trước hết thể hiện ở những câu thơ tái hiện sinh
động cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, làm
chậm lại con đường hành quân của đoàn binh Tây
Tiến, được nhà thơ viết ra một cách dồn dập như
hình ảnh “sương lấp”, “dốc lên khúc khuỷu dốc
thăm thẳm”, “heo hút cồn mây”,.. tất cả đó tạo nên
một chặng đường hành quân đầy gian khổ, vất vả, có
205
thể lấy đi mạng sống của các anh bất cứ lúc nào.
Chính bút pháp hiện thực khi viết về thiên nhiên Tây
Bắc chính là phông nền cho sự xuất hiện đầy oai
hùng, kiêu hãnh của đoàn binh Tây Tiến.
Với Tây Tiến nói chung và 14 câu thơ đầu nói
riêng, Quang Dũng đã vẽ nên cả bầu trời thanh sắc
của ngôn từ. 14 câu thơ là sự sáng tạo của nhà thơ
Quang Dũng trong cách sử dụng ngôn từ, phải kể
đến như: nhớ chơi vơi, súng ngửi trời, bỏ quên đời,
mùa em,...tất cả những từ ngữ sáng tạo ấy đã góp
phần tạo nên nỗi nhớ mênh mang, dàn trải về con
người, thiên nhiên Tây Bắc, tái hiện con đường hành
quân gian khổ, cùng “chí cao hơn đèo” của những
người con Hà Thành. Với những kỉ niệm về binh
đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại
thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng
loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hòa bổ sung
cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh
người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi
nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm
về thiên nhiên và con người đó như những thước
phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình
206
cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về
nội dung và nghệ thuật của đoạn trích. Đồng thời,
thủ pháp cường điệu giảm bớt sự đau thương, mất
mát khi viết về sự hi sinh của những chàng trai Tây
Tiến, những sự hi sinh không hề bi thương, ai oán
mà sự hi sinh đầy oai hùng, kiêu hãnh, sự hi sinh đó
là chính các anh chọn lựa. Khác với những khổ thơ
khác, khổ thơ thứ nhất nhà thơ dùng rất nhiều thanh
trắc để tô đậm sự trắc trở, gian nan của con đường
hành quân, nghệ thuật hài thanh ấy cũng là nét độc
đáo trong thơ Quang Dũng. Cuối cùng, nhắc đến bài
thơ Tây Tiến là nhắc đến sự hài hòa giữa bút pháp
hiện thực và lãng mạn, nó như đan cài, hòa quyện
vào nhau để tạo nên một chặng đường hành quân
vừa gian khổ, hiểm nguy vừa thơ mông, trữ tình như
chính tâm hồn của những chàng trai Tràng An.
Chiến tranh đã lùi xa nhưng âm vang vọng của
nó thì còn mãi. “Tây Tiến” chính là một trong những
bài ca không thể nào quên của những năm tháng
trường kì chống Pháp. Bằng bút pháp hiện thực kết
hợp với lãng mạn, Quang Dũng đã khắc họa nên
chặng đường hành quân vừa gian khổ, khó khăn vừa
207
thơ mộng, trữ tình của những người lính Tây Tiến.
Với tất cả tính thần ấy, “Tây Tiến” đã trở thành một
dấu ấn thiêng liêng với nhà thơ Quang Dũng, là
tuyệt tác thời kì kháng chiến chông Pháp không thể
nào quên.

208
Đề bài: Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến qua
khổ 3 của bài thơ Tây Tiến. Qua đó, hãy làm rõ vẻ
đẹp lãng mạn và chất bi tráng của hình ảnh người
lính Tây Tiến.
Bài làm:
Có một thời như thế chẳng hề quên
Là người lính - người quân nhân cách mạng
Dẫu chiến tranh nhưng tâm hồn lãng mạn
Dấu tâm tình trong đáy cóc ba lô.
(Có một thời như thế - Trần Bá Căn)
Chiến tranh đã qua đi nhưng đã để lại cho chúng ta
những hoài niệm về những năm tháng không thể nào
quên, đó là hoài niệm về những con người sinh ra để
chiến đấu, để hi sinh, những con người sẵn sàng gác
lại nghiên bút để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ
quốc. Và những con người ấy đã đi vào thi ca, nghệ
209
thuật như một nguồn thi cảm, đã trở thành những
huyền thoại không thể nào quên. Tây Tiến của
Quang Dũng là một huyền thoại như thế khi đã khắc
họa thành công bức tượng đài chân dung người lính
Tây Tiến vừa hào hoa, lãng mạn vừa hào hùng, bi
tráng, sáng ngời lí tưởng thời đại. Những vẻ đẹp ấy
được nhà thơ tái hiện sâu sắc trong khổ 3 của tác
phẩm “ Tây Tiến...khúc độc hành”.
Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài : làm thơ,
viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc, nhưng hơn hết ông
là nhà thơ với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng
mạn và tài hoa. Nhắc đến ông là nhắc đến một nhà
thơ với tình yêu mãnh liệt với Tây Tiến và xứ Đoài,
những vần của ông đâu đâu cũng là đất, là hương vị,
nếp sống, là tình cảm đối với Tây Tiến và xứ Đoài
phả vào một cách dung dị, mộc mạc mà sâu sắc, oai
hùng. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ
Quang Dũng, thể hiện đậm phong cách nghệ thuật
của “người con xứ Đoài”. Tây Tiến được sáng tác
năm 1948, khi nhà thơ rời đơn vị cũ chưa lâu và ấp ủ
trong mình nỗi nhớ đồng đội sâu sắc.

210
“Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô
danh” (Vũ Thu Hương). Thật vậy, với tây tiến,
Quang Dũng đã dùng tình cảm chân tình cùng ngôn
từ nghệ thuật của mình để khắc họa những gì chân
thực nhất, thầm kín nhất của người chiến sĩ cách
mạng để khắc tạc nên bức tượng đài hào hùng, bi
tráng về nhà những chàng trai xuất thân thủ đô hoa
lệ, họ sẵn sàng ra đi với lí tường cao đẹp “quyết tử
cho tổ quốc quyết sinh”. Nếu như ở những đoạn thơ
trước đó người lính mới chỉ thoáng hiện ra trong:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” hay trong
khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan
lửa trại thắm tình quân dân, thì đến đây hình ảnh
những người lính hiện lên với khoảng cách gần hơn,
rõ nét hơn trong trạng thái bất thường:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng
tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của
mình. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao,
sông sâu, giữa một khoảng không gian hùng vĩ. Ở
211
đoạn thơ đầu nhà thơ dùng từ “đoàn quân” để chỉ
những chiến sĩ TâyTiến, đến đây tảc giả dùng từ
“đoàn binh”, cũng đoàn người ấy thôi nhưng khi
dùng “đoàn binh” gợi lên trước mắt ta hình ảnh đoàn
chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận vừa gợi
âm hưởng hào hùng, vừa mang màu sắc sử thi cho
hình tượng thơ. Ở đoạn này, ta thấy rõ sự trân trọng
của Quang Dũng, ông trân trọng sự thật, trân trọng
sự thiếu thốn và khắc nghiệt của chiến tranh để khắc
họa chân thực nhất hình ảnh của những người đồng
đội khi đưa hình ảnh của họ vào tác phẩm của mình.
Sự khắc nghiệt ấy đã khiến cho những chàng trai
thanh lịch thay đổi vẻ ngoài của mình. Cụm từ
“không mọc tóc” phản ánh cái khốc liệt của chiến
tường, đồng thời việc đảo ngữ đã thể hiện thế chủ
động, y như họ cố tình không cho tóc mọc, gợi cái
ngang tàn, ngạo nghễ, coi thường gian khổ, hóm
hỉnh, đùa vui. Nhưng đằng sau đó chứa đựng sự thật
nghiệt ngã: những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không
thể mọc. Là người đã từng trải cùng binh đoàn Tây
Tiến, Quang Dũng hiểu rõ hơn ai hết khuôn mặt
hung tợn của tử thần có tên gọi là “sốt rét”. Chính
212
căn bệnh quải ảc nơi núi rừng âm u đã tàn phá thể
chất các chiến sĩ một cảch không còn gì phũ phàng
hơn. Đến đây ta liên tưởng tới anh vệ quốc quân
trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi”
Hay trong bài “Lên Cấm Sơn”, Thôi Hữu cũng miêu
tả sự tiều tụy của người lính:
“Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!”
Thơ của Quang Dũng là những câu thơ tả thực, thực
một cách trần trụi: chiến sĩ Tây Tiến chết trận thì ít
mà chết vì bệnh tật thì nhiều. Bằng cái nhìn lãng
mạn cộng với sự tếu táo của người lính, điểm yếu
của họ trở thành nét đẹp riêng mang thương hiệu của
người chiến binh Tây Tiến. Bút pháp lãng mạn tạo ra
cái nhìn xoáy vào bên trong khiến hình tượng người
213
lính hiện lên ốm mà không yếu, khắc khổ mà không
tiều tụy. Hình ảnh “quân xanh” là màu xanh của làn
da thiếu máu. Hiện thực của những trận sốt rét đã
làm cho người lính khô kiệt hồng cầu. Thế nhưng sự
thật dẫu cho có tàn khốc thế nào, khi đưa vào thơ,
Quang Dũng lại khiến nó trở thành một điều gì đó
rất hào hùng, rất thiêng liêng. Màu da xanh trùng với
màu áo, màu lá ngụy trang, trùng với màu của thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc. Sự ngạo nghễ của họ trước
những gian khổ của cuộc trường chinh khiến cho
hình ảnh của những người lính đẹp hơn bao giờ hết.
Quang Dũng đã lấy cái “thô”, cái “mộc” để tô đậm
cải đẹp, cải dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người
chiến sĩ. Chính thế giới tinh thần của người lính cho
thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng.
Thủ phảp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở
câu thơ “quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ
làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính
mà còn thấm đượm màu sắc văn hóa của dân tộc. Ba
từ “dữ oai hùm” là một nét chạm khắc tài tình làm
nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung
trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm cho quân
214
giặc phải khiếp sợ, và cũng là đang phi thường hóa
người lính. Đó là những con người đang làm chủ
tình thế, ảp đảo kẻ thù; nó kết tụ thành một sức
mạnh ẩn chứa một vẻ đẹp giàu chất sử thi – cái thần
thái oai phong lẫm liệt làm ngời lên vẻ đẹp tinh tế,
kiêu hùng, kiêu dũng của những người lính Tây
Tiến. Vì thế cái hùng lấn át cái bi, sức mạnh chiến
đấu lấn át hoàn cảnh tạo nên một tập thể có sức
mạnh “thôn Ngưu đẩu” mà Phạm ngũ Lão từng viết:
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu”.
Nhắc đến chiến tranh là phải nhắc đến cái chết, cái
hi sinh, mất mát, vì vậy dù sức mạnh của những
chàng trai Hà Thành có lớn đến đâu cũng không
tránh khỏi cái chết. Nhà thơ đã không né tránh hiện
thực mà dùng ngòi bút của mình để viết nên những
vần thơ về cái chết thật sự oai hùng, bi tráng và xúc
động. “Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh ”

215
Ngay câu thơ đầu đã đưa người đọc rơi vào cảm giác
đau đơn, xót xa, tê tái đến nghẹn lòng. Từ láy “rải
rác” được đặt lên đầu câu gợi nên không gian hoang
sơ, sự tội nghiệp của những ngôi mộ lẻ loi, hương
lạnh khói tàn, không một vòng hoa, không một giọt
nước mắt tiễn đưa nơi núi rừng heo hút, ít người lại
qua. Từ hán việt như “biên cương”, “viễn xứ” gợi
nên một không gian biên giới xa xôi, heo hút. Vậy là
dù có ngang tàng, ngạo nghễ đến đâu thì có người
cũng phải bỏ mạng nơi hoang vu lạnh lẽo, phải chôn
mình dưới những nấm đất nơi biên cương. Trước
đây, ta cũng đã bắt gặp cái chết trong “chinh phụ
ngâm” của Đặng Trần Côn:
"Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi,
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?"
Nhưng ngay sau đó cảm hứng thơ lại bùng lên
những suy nghĩ thật hào hùng: “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh”. Khi miêu tả những người lính
Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn
216
chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng
của ông mỗi khi sa vào cái bi thương lại được nâng
đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng
mạn. Từ cái bi thảm được nâng lên thành bi tráng,
thể hiện sự quên mình của lớp trẻ thanh niên đầy
nghĩa khí. Nghệ thuật đảo ngữ khiến cho phương
châm sống của họ càng cao đẹp mà giản dị. Ngay
chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể
hiện, khẳng định được khí phách anh hùng, tư thế
ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng mình ghê
sợ trước cái lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn
xứ” nhưng không khỏi tự hào, kiêu hãnh trước sự hi
sinh bất khuất, anh hùng. Lý tưởng sống của người
lính Tây Tiến đổ dồn vào bốn từ “chẳng tiếc đời
xanh”. Một chữ “đời” là cả những ước mơ còn dang
dở, là giảng đường đại học đã xa. Đó chính là lí
tưởng sống của cả một thời đại anh hùng. Trên con
đường hành quân đầy gian khổ, có biết bao người
lính ngã xuống, gửi lại mảnh đất ấy tuổi xanh và
những ước mơ còn dang dở. Thế nhưng các anh
không sợ và cũng “chẳng tiếc”, bởi hi sinh vì Tổ
quốc, vì nhân dân là một nghĩa cử cao đẹp và thiêng
217
liêng. “Đời xanh” – tuổi trẻ, thanh xuân ai mà chẳng
muốn, chẳng tiếc chứ nhưng tuổi trẻ được chiến đấu,
hi sinh vì tổ quốc thì hai chữ “đời xanh” càng thêm
thiêng liêng, càng thêm ý nghĩa hơn bao giờ hết. Hai
chữ “chẳng tiếc” gợi ta nhớ đến “mặc kệ” trong thơ
Chính Hữu: “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”,
đây là thái độ sống phi thường của những con người
yêu nước, khi Tổ quốc lâm nguy, họ đặt Tổ quốc lên
hàng đầu:
“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ, như cha, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho những ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông”
(“Sao chiến thắng” – Chế Lan Viên)
Cũng như Thanh Thảo trong trường ca “Những
người đi tới biển” đã rãi bày:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

218
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi
Tổ quốc?”.
Những con người bé nhỏ lại khoác lên mình một tầm
vóc lớn lao, chan chứa tình cảm dành cho quê
hương, cho đất nước mình. Họ quyết một lòng ra
chiến trường, không phân vân, do dự, không mủi
lòng, không yếu đuối. Khí phách lớn lao, trong cuộc
chiến đấu gian khổ, có những người lính đã ngã
xuống và mãi mãi không thể quay trở về, thế nhưng
cái chết của họ được diễn tả một cách vô cùng bi
tráng : Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Với “áo bào thay chiếu” rất bình dị, chẳng có “da
ngựa bọc thây” như những tráng sĩ thời xưa – gợi lên
hào khí của chí trai thời loạn, các anh đã thanh thản
“về đất”. Quang Dũng không dùng từ “chiến bào”
theo ngôn ngữ ước lệ. Từ “áo bào” là một cách nói
sang trọng, là kết quả của sự tái tạo một thi liệu cổ
điển làm nổi bật lên vẻ đẹp hào hùng của người lính,
đồng thời an ủi người ra đi và cũng đỡ tủi lòng
người đưa tiễn; ta có thể hiểu đó là áo bào của vua
219
chúa thời xưa, đó cũng có thể là mảnh chiếu bó thân
dùng để chôn cất. Song hiểu sâu hơn nữa là ngay cả
manh chiếu bó thân họ cũng không có, thi thể của họ
được bọc trong những tấm quân phục bạc màu, rách
rưới. Và giờ đây, trong cảm quan của Quang Dũng
những bộ quân phục ấy trở thành những “áo bào”
sang trọng. Hoàng Lộc trong “Viếng bạn” cũng đã
viết cảnh đưa tiễn trong hoàn cảnh thiếu thốn như
thế:
“Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngàn
Tặng tôi ngày phân tán”
Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử
hóa người lính, nói về bi thương nhưng lại bằng hình
ảnh tráng lệ. Nghệ thuật nói giảm nói tránh được sử
dụng gợi tư thế ung dung, nhẹ nhõm của người lính
khi đón nhận cái chết. “Về đất” cũng là hòa linh hồn
vào đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và
trường tồn cùng đất nước. Đó không phải sự ra đi

220
mà được xem là một hành trình trở về, sự trở về ấy
để làm nên “đất nước muôn đời”, các anh ngã xuống
để tạo nên sự hồi sinh cho đất nước. Các anh ra đi,
nỗi đau còn để lại, nó thấm sâu vào đất rừng Tây
Bắc, vào từng mạch nguồn của dòng sông Mã. Tác
giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên hoang sơ và hùng
vĩ của núi rừng Tây Bắc làm nền cho hình ảnh người
lính với tư thế hiên ngang và tầm vóc có thể sánh
ngang tầm với vũ trụ. Với hai lần xuất hiện trong bài
thơ, sông Mã đã gắn liền và luôn dõi theo con đường
hành quân, đấu tranh gian khổ của đoàn binh Tây
Tiến. Sự ra đi của người lính Tây Tiến là một hiện
thực tất yếu của chiến tranh, khi đó thiên nhiên hòa
cùng với con người một nỗi đau chung, một niềm
cảm thương sâu sắc. Sông Mã gào thét, vang vọng
lên “khúc độc hành” giống như một khúc tráng ca về
cuộc đời chinh chiến của người lính Tây Tiến, đưa
tiễn người anh hùng về với đất mẹ, ngợi ca lí tưởng
sống quyết từ bỏ tuổi xuân vì độc lập tự do của
những chàng trai hào hoa Hà Nội. Sự hi sinh của
những người lính được đặt giữa đất trời, thiên nhiên,
có đất mẹ dang tay đón đợi, có dòng sông Mã anh
221
hùng dạo nên khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp,
cao quý nhất; những cái chết bi thương, khốc liệt
nhưng đầy tự hào, kiêu hãnh. Sông Mã như biến
thành con chiến mã trung thành gầm lên một tiếng
kêu đau đớn trước sự hi sinh của người chiến binh
vệ quốc. Tiếng gầm của dòng sông Mã là lời vĩnh
biệt thống thiết, trầm hùng của núi sông Tổ quốc tiễn
đưa linh hồn người lính về cõi bất tử. Các anh đã ra
đi nhưng những điều các anh để lại – ý chí, niềm tin
– vẫn còn mãi với non sông đất nước, với cảnh vật
nơi đây. Đặt cái chết của những người chiến sĩ trong
một bối cảnh không gian rộng lớn, giữa thiên nhiên
đại ngàn, hùng vĩ, nỗi đau mất mát càng thêm mênh
mang, cũng càng được nâng lên tầm bi tráng. Chính
thái độ sẵn sàng chấp nhận cái chết và mục đích cao
cả của người lính đã làm cho cái chết của họ trở nên
thiêng liêng, đẹp đẽ, bi thương mà hùng tráng,
không hề có một chút gì gọi là bi lụy. Tuy vậy, ở
đây ta nghe như có cái gì rạn vỡ từ bên trong: đồng
đội không khóc thương, đất trời chẳng đổ mưa, chỉ
có một tiếng gầm than trầm uất từ con sông ấy. Đó
cũng chính là biểu hiện cao độ của nỗi đau đến tột
222
cùng, thấm thía, xót xa. Những người lính, những
con người chiến đấu và hi sinh trong cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại ấy, chỉ có thể được đáp lại
tương xứng bằng thứ ngôn ngữ vang vọng tới vĩnh
hằng của đất trời, của núi sông đất Việt. Đấy là tiếng
khóc mà cũng là lời ca đi cùng năm tháng. Động từ
“gầm” trong câu thơ khiến âm hưởng cứ ngân vang
mãi như dội vào núi rừng miền Tây. Nó cộng hưởng
với những từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ”,
“độc hành” giống như nén tâm hương trước tượng
đài bất tử của người lính Tây Tiến. Vì thế những
nấm mồ hoang lạnh nơi rừng sâu biên giới bỗng trở
thành những ngôi mộ tôn nghiêm vĩnh hằng. Nhà
thơ đã đưa người đọc vào một không gian cổ kính,
trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật kết
hợp nhuần nhuyễn đã bộc lộ được sự hài hòa giữa
cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức
tượng đài cao đẹp về người lính Tây Tiến. Từ sự kết
hợp cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung về người
lính cách mạng vừa hiện thực vừa có sức khái quát,
tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời
223
đại mới, thời mà cả dân tộc đứng lên kháng chiến
chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết
tinh từ khuynh hướng sử thi và cả hứng lãng mạn
được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu
tả và biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ xao
động lòng người. Đó cũng chính là bức tượng đài
được khắc họa bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối
với những người đồng đội, đối với đất nước mình.
Thời ấy không ít thơ viết về người chiến sĩ nhưng
mấy ai dám đưa những hình ảnh thê lương ấy vào
trang văn, chỉ có “Tây Tiến” của Quang Dũng mạnh
dạn nói đến cái chết, Quang Dũng dám nhìn thẳng
vào mất mát, đau thương chứ không hề né tránh hay
thi vị hóa. Trong bài này, Quang Dũng đã hơn một
lần nhắc đến cái chết, nhưng chưa bao giờ phải dùng
đến chữ‚ “chết” hay‚ “hi sinh” mà ông đã dùng lối
nói giảm, nói tránh để tôn lên vẻ hào hùng của sự
mất mát ấy. Cái chết tạo nên sự vinh quang của tuổi
xanh thầm lặng mà cao cả hiến mình cho dân tộc.
Nhưng cũng thật lạ lùng, “Tây Tiến” nhiều lần nói
đến cái chết mà khí lực của bài thơ lại rất mạnh mẽ.

224
Phải chăng điều này bắt nguồn từ tinh thần ‚dám
chết của các chiến sĩ trẻ?

“Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ


quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái
hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem
đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình
tượng… “Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn Tây Tiến
cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó.” (Nguyễn
Đăng Điệp). Thật vậy, thơ Quang Dũng luôn có sự
hài hòa giữa những nét khỏe khoắn dữ dằn với nét
lãng mạn và hào hoa, chính vì vậy khi khắc họa
tượng đài người lính Tây Tiến, ông không chỉ khắc
họa cái bi tráng, kiêu hùng mà còn đô điểm cho bức
tượng đài ấy bằng vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn – vẻ
đẹp của những chàng trai thủ đô. Sự khắc nghiệt của
chiến tranh có thể làm thay đổi ngoại hình của người
linh Tây Tiến, từ anh thanh niên cao to, lực lưỡng
thành người lính xanh xao, không mọc tóc nhưng
không thể thay đổi tinh thần, vẻ hào hoa, chất lãng
mạn của những chàng trai Hà Thành. Dù chiến tranh

225
có khốc liệt họ vẫn giữ cho mình nét lãng mạn, sự
thanh thản, bình yên trong tâm hồn. Biên giới và Hà
Nội hoa lệ có một khoảng cách rất xa xôi, người lính
Tây Tiến muốn thông qua những mộng đẹp, những
khát khao diệt quân thù để làm cầu nối thu ngắn
không gian, rút gọn khoảng cách:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Chỉ với mười bốn chữ mà nó nhốt được cả hai thế
giới, ôm trọn hai khoảng không gian trong mình.
Thế giới ban ngày khi người lính ra chiến trường,
mắt nhìn thẳng về phía quân thù nuôi giấc mộng
“chinh phu”. Hình ảnh “mắt trừng” là đôi mắt mở to
vừa thể hiện sự mệt mỏi vì thiếu ngủ vừa thể hiện
nghị lực vượt lên chính mình của người lính Tây
Tiến; cực tả sự phẫn nộ sục sôi của nội tâm, là sự
dồn nén, căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu
đốt quân thù; một đôi mắt vừa có chí vừa có tình.
“Chí” trong ý chí đánh giặc, gợi tả tư thế chiến đấu
lẫm liệt vô song, đôi mắt ấy đang gửi về bên kia biên

226
giới với mộng lập công, mộng hòa bình, mộng trở
về:
“Đạp quân thù xuống đất đen
Giáo, gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”
(“Việt Nam quê hương ta” – Nguyễn Đình Thi).
Còn “tình” trong tình yêu quê hương, con người,
đôi mắt ấy gửi vào giấc mơ về Hà Nội. Thế giới ban
đêm là những giờ phút hiếm hoi để tâm hồn người
lính thư thái. Những người lính tạm buông bỏ gánh
nặng để nhớ về Hà Nội, những con phố thân quen,
nhớ bóng hình giai nhân. Hai câu thơ chứa đựng hai
từ “mộng” và “mơ” như nhãn tự làm ngời lên vẻ đẹp
của những người lính Tây Tiến. Yếu tố “mơ” đan
xen với hiện thực trần trụi vừa giúp người lính thăng
bằng cảm xúc, vừa giữ được trạng thái hài hòa của
thơ, vừa giúp Quang Dũng gõ vào được cánh cửa
tâm hồn người lính, làm lộ ra một góc kín đa tình.
Tuy mang những khó khăn và thiếu thốn khi phải
chiến đấu ở một vùng hoang sơ nhưng cũng không
thể làm giảm đi sự phong độ hào hoa, họ đã thắp
sáng tâm hồn mình bằng những niềm tin, bằng khát
227
vọng sống và cả nỗi niềm thương nhớ của mình dành
cho những “dáng kiều thơm”. “Dáng kiều thơm” ấy
chính là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét
đa tình và đời sống tình cảm dạt dào của người lính.
Mơ về Hà Nội, vùng sáng tâm thức trong những
chàng trai trẻ Tây Tiến, không thể không có một
“dáng yêu kiều tha thướt khách giai nhân”. Thật ra
thời nào cũng vậy, cái đích đến cuối cùng của mỗi
chàng trai là chiến tranh qua đi, là hạnh phúc gia
đình, là một dáng kiều thơm nào đó ngoài đời. Tuy
nhiên, với Quang Dũng đó không phải là một bóng
dáng nào cụ thể, cũng không chỉ bó hẹp trong tình
yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người
lính cao hơn là một tấm lòng luôn hướng về Tổ
quốc, hướng về thủ đô.. Nét mộng mơ của các chàng
trai Tây Tiến gợi ta nhớ đến những câu thơ trong bài
thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Khác với nỗi nhớ của các anh bộ đội cụ Hồ trong bài
Đất Nước, nỗi nhớ của người lính Tây Tiến thể hiện
228
trong giấc mơ khiến cho nỗi nhớ ấy lãng mạn như
tâm hồn của họ. Từng một thời bài thơ “Tây Tiến” bị
xem là “có vấn đề” cũng vì chất mộng mơ trong hai
câu thơ này, rằng những câu thơ mang tính chất quá
thiên về tình cảm cá nhân, khiến ý chí người lính bị
hao hụt. Vì vậy đã có một khoảng thời gian dài bài
thơ không tiếp tục đến với độc giả. Nhưng thời gian
đã chứng minh cho sự bất tử của nó, chất lãng mạn
chính là liều thuốc tinh thần cho người lính vượt lên
hoàn cảnh khắc nghiệt lúc bấy giờ. Đó là lãng mạn
cách mạng chứ không phải là lãng mạn kiểu “mộng
hão”, “mộng rớt” của giai cấp tiểu tư sản như Hoài
Thanh và một số nhà phê bình từng nhận xét. Là một
người lính, có ai mà không nhớ đến quê hương, đến
một bóng hình ngang qua cuộc đời, giống như
Hoàng Cầm nhớ về “những cô hàng xén” ở “Bên kia
sông Đuống”:
“Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng”
229
Hơn nữa, càng không có ai lại nhớ thay cho nỗi nhớ
của người khác. Mỗi người một quê hương, có dấu
ấn riêng của mình. Quá khứ của những người lính
Tây Tiến là nơi Hà thành với đàn, nhạc, tranh, thành
phố tráng lệ, chứ không phải là nông thôn, ruộng
vườn như quê hương của những người đồng chí
trong thơ Chính Hữu:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
Đó là nỗi nhớ của những người nông dân mặc áo
lính, bình thường gắn bó với ruộng đồng, thôn xóm
lam lũ, nhọc nhằn. Mỗi trái tim một tình cảm, một
cách cảm nhận riêng, vì vậy không thể đánh giá ‚nỗi
nhớ riêng” đó là “ủy mị”, “mộng hão”. Nỗi nhớ ấy
trở thành động lực để người lính bước tiếp trên con
đường hành quân, nó đã làm nên bản sắc riêng trong
tâm hồn những người lính ra đi từ một góc phố hoặc
giảng đường đại học. Chính giấc mơ “dáng kiều
thơm” ấy làm nhiệm vụ nâng đỡ tâm hồn con người.
Chính cái nhìn đa chiều đã giúp Quang Dũng nhìn
xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bên ngoài của
230
người lính Tây Tiến là những tâm hồn, những trái
tim rạo rực, khao khát yêu thương. Quang Dũng đã
tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc, những con
người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng
chính là những người có đời sống tâm hồn phong
phú. Hơn nữa, viết về “mộng” và “mơ” của người
chiến binh trẻ, Quang Dũng đã ca ngợi tinh thần lạc
quan, yêu đời của đồng đội. Bức tượng đài người
lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những nguồn ánh
sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng
mạn. Từng đường nét đều nổi bật vào tạo được
những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng
của thơ Quang Dũng.
Nhận xét về bút pháp nghệ thuật trong thơ
Quang Dũng, nhà thơ Vũ Quần Phương từng trầm
ngâm bày tỏ “ Bút pháp của Quang Dũng thích tung
hoành trong một biên độ rất rộng, giữa những nét
khỏe khoắn dữ dằn và những nét tinh vi, e ấp”. Đặt
hệ quy chiếu đó vào khổ thơ thứ 3 của tác phẩm, ta
thấy dữ dằn, khỏe khoắn đã tô đậm chân dung người
lính hào hùng, kiêu dũng, bi tráng, còn nét e ấp, tinh
vi có lẽ là vẻ lãng mạn, mộng mơ của những chàng
231
trai áo lính Hà Thành. Vẻ đẹp lãng mạn và chất bi
tráng như hòa quyện, đan cài vào nhau để tạo nên
linh hồn của bài thơ cũng như thêu dệt nên một bức
tranh về tượng đài người lính bất tử trong lòng độc
giả. Chất bi tráng trong văn học được hiểu là việc
không né tránh hiện thực, miêu tả cái bi, tức cái gian
khổ, đau thương của hiện tại. Cái bi nhưng không
phải là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết
đó nhưng không hề bi lụy mà là cái chết hào hùng
lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường
được biểu hiện ở giọng điệu, âm hưởng, màu sắc
tráng lệ hào hùng. Đặt nó vào khổ 3 của tác phẩm ta
thấy Quang Dũng không hề né tránh hiện thực
ngược lại ông còn đưa sự thật trần trụi vào những
trang thơ của mình, đó là hình ảnh “không mọc tóc”,
“quân xanh màu lá”, “mồ viễn xứ”, “áo bào thay
chiếu” hay “anh về đất” đó là những hình ảnh trần
trụi hết sức, là những thước phim cận cảnh tua đi tua
lại cái mất mát của chiến tranh. Thế nhưng, cái chết
trong thơ Quang Dũng không miêu tả cái bi, cái lụy,
đau thương mà tập trong lột tả cái tráng, cái hào
hùng, kiêu hãnh. Dù là da các anh bị cơn sốt rét rừng
232
dày vò đến nỗi rụng tóc, xanh xao như màu lá nhưng
chí khí vẫn hừng hực như vị chủa tế qua hình ảnh
“giữ oai hùm”. Dù thần chết đã tìm đến các anh,
nhưng các anh không ra đi một cách bi lụy, thảm
thương mà hiện lên với vẻ oai hùng của một người
lính, như khoác lên mình bộ chiến bào để trở về với
đất mẹ, các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chỉ
như là ra để ở lại với mẹ thiên nhiên, hòa vào đất để
sống mãi với hồn thiêng sông núi. Cái chết của các
anh càng lẫm liệt khi được thiên nhiên đưa tiễn. Con
sông Mã – nhân chứng lịch sử, người bạn đồng hành
của người lính Tây Tiến cũng nhỏ dòng lệ làm lay
động cả đất trời, nó gầm lên “khúc độc hành” như
khúc ca hùng tráng tiễn đưa người lính về nơi an
nghỉ cuối cùng. Với cách viết độc đáo, Quang Dũng
đã tái hiện một cách rõ nét về một thời bom đạn khói
lửa nhưng hơn hết là hình ảnh kiêu hùng, lẫm liệt, bi
tráng của những chàng trai thủ đô. Tuy nhiên, nếu
chỉ dừng lại ở nét bi tráng thì có lẽ bài thơ chẳng
khác gì những bài thơ cách mạng khác, cái khác biệt
của bài thơ nằm ở chỗ: dù bom đạn khói lửa, dù đau
thương, mất mát các anh vẫn lạc quan, hào hoa, lãng
233
mạn đúng như lứa tuổi mười tám, đôi mươi của các
anh. Dù vẻ đẹp ấy chỉ được nhà thơ thể hiện qua 2
câu thơ “mắt trừng.. dáng kiều thơm” nhưng phần
nào lột tả hết sự lãng mạn trong tâm hồn những
người lính thủ đô, dù khó khăn, dù vất vả, dù cái
chết đang cận kề nhưng tâm hồn của những chàng
trai ấy vẫn bay bổng, vẫn mơ về “dáng kiều thơm”,
đằng sau nét hùng dũng “giữ oai hùm” cầm súng,
cầm gươm đi chiến đấu, các anh vẫn là những cậu
thanh niên lãng mạn và mộng mơ. Có lẽ, phải nồng
nàn, lãng mạn như thế các anh mới chính là các anh,
các anh mới sống hết mình cho lí tưởng cao đẹp.
Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng bao trùm
bài thơ làm nên vẻ đẹp riêng của Tây Tiến, nhưng
điều đó do đâu mà có? Ở đây có sự gặp gỡ giữa hồn
thơ lãng mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật
trữ tình là những người lính Tây Tiến cũng hào hoa,
lãng mạn, với cái thời anh hùng rực lửa của buổi đầu
cuộc kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây
Tiến ác liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ mộng, trữ tình.
Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã hội
tụ mãnh liệt và da diết trong nỗi nhớ của Quang
234
Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi
tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa
con đầu lòng hào hoa tráng kiện - Tây Tiến. Như
vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn
gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với
nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên
vẻ đẹp độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến
và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có những bài thơ đã
sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân
chuyên, nhưng cuối cùng cũng định hình trong lòng
độc giả và khẳng định giá trị đích thực của mình
trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác
phẩm như thế. Bài thơ nhớ lại như một kỉ niệm đẹp
của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy
cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một
thời đại anh hùng rực lửa, không thể nào quên.
Với Tây Tiến nói chung và khổ 3 nói riêng,
Quang Dũng đã vẽ nên cả bầu trời thanh sắc của
ngôn từ, nó mang vẻ đẹp tỏa ra từ đáy vực tâm hồn
của cảm xúc, của suy tư thông qua sự mài dũa và
tinh luyện của nhà thơ. Ở khổ 3 của tác phẩm, nhà
thơ đã sử dụng hàng loạt từ hán việt như: đoàn binh,
235
biên cương, viễn xứ, độc hành, chính những từ ngữ
hán việt đặc biệt đó mà hiện thực đau thương bị đẩy
lùi thay vào đó là những gam màu hùng tráng, kiêu
hùng, làm nên vẻ đẹp bất tử của người lính Tây
Tiến. Từ ngữ, hình ảnh trong khổ thơ thứ 3 vô cùng
sáng tạo, độc đáo như: không mọc tóc, mắt trừng,
dáng kiều thơm,.. tất cả đó tạo nên tính chân thực, cụ
thể vừa hấp dẫn, vừa sinh động của khổ thơ cùng
phản ánh sự sáng tạo của thi sĩ. Giọng thơ trong khổ
thơ này vô cùng linh hoạt, thay đổi theo cảm xúc,
lúc trang nghiêm, mạnh mẽ khi viết về khí thế của
những người lính trẻ, lúc lại hóm hỉnh, vui tươi khi
viết về nét lãng mạn của họ, khi lại da diết, buồn đau
khi viết về sự hi sinh của các anh. Cuối cùng, kể đến
sự thành công của tác phẩm là kể đến sự thành công
của hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Hai bút
pháp như kết hợp lại để xây dựng nên bức tượng đài
người lính bất tử vừa có nét bi tráng của anh bộ đội
cụ hồ vừa có nét hào hoa, vui tươi của những chàng
thanh niên thủ đô, có thể khẳng định, nếu như chỉ có
hiện thực trần trụi, bài thơ không thể có sức cuốn hút
mạnh mẽ, còn nếu như chỉ có bút pháp lãng mạn, bài
236
thơ khó có thể đến gần với độc giả. Chính 2 bút pháp
làm cho bài thơ có gian khổ, mất mát, hi sinh nhưng
cũng tràn đầy niềm lạc quan và khỏe khoắn.
“Có những ngày tháng không thể quên, cái gian
khổ ác liệt không thể quên, cả cái hào hùng lãng mạn
không thể quên. May mắn thay, giữa những ngày
tháng không thể quên ấy, lại có những bài thơ không
thể quên, như Tây Tiến của Quang Dũng” (Lương
Duy Cán). Chúng ta không thể quên một thời đại
chiến tranh khói lửa, gian nan, mất mát nhưng vẫn
thật oai hùng, bi tráng, lãng mạn và thơ mộng, chúng
ta càng không thể quên bức tượng đài sừng sững về
ngưới lính Tây Tiến oai hùng, hào hoa và lãng mạn.
Có lẽ, đó là thứ làm cho bài thơ sống mãi trong lòng
độc giả, thoát khỏi sự băng hoại tàn nhẫn của thời
gian, và đến nay, dù chiến tranh đã qua đi nhưng vẫn
tồn tại vẹn nguyên ý nghĩa của nó.

237
238

You might also like