Professional Documents
Culture Documents
Bài làm
Nhà văn Nuyễn Khải từng nhận định: “ Sự sống nảy nở từ trong cái chết,
hạnh phúc hiện hình từ những gian khổ, hy sinh. Ở đời, không có con đường cùng, chỉ
có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để vượt qua những ranh giới
đó”. Đọc “ Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân, bạn đọc một lần nữa càng thấm thía về
chân lý ấy. Kiệt tác đã thành công đưa độc giả tới địa hạt của tình yêu, khát khao hạnh
phúc.Tác phẩm không những khắc họa thành công hình tượng nhân tật thị, người phụ
nữ đảm đang, … ( thêm từ ) mà còn bộc lộ ngòi bút tài hoa, len lỏi, lách sâu mang đến
thông điệp nhân đạo cao đẹp của tác giả, Điều đó được thể hiện qua đoạn trích: “ …”
Chỉ qua vài nét khắc họa “người chết như ngả ra”, “ba bốn cái thay nằm
còng queo” Kim Lân đã tái hiện chân thực hiện thực cuộc sống nạn đói 1945 tàn
khốc, khắc nghiệt bào mòn, kiệt quệ con người trong đói nghèo. Qua đó, nhà văn phản
ánh rõ nét thân phận thấp hèn, rẻ rúng của con người trong chiến tranh. Đồng thời bộc
lộ niềm thương cảm sâu sắc cho những mảnh đời bất hạnh. “ Vợ nhặt” là nhan đề để
miêu tả một kiệt tác. Trong khi “vợ” là là cách gọi yêu thương dành cho phụ nữ, người
chăm sóc, vun vén hạnh phúc gia đình, thì từ “nhặt” chỉ một hành động nhặt nhạnh
những thứ người ta vứt đi như nhặt cọng rơm, ngọn cỏ. Có thể hiểu, “Vợ nhặt” là
người vợ được nhặt về mà không thông qua mai mối, cưới hỏi. Chỉ với nhan đề vỏn
vẹn 2 từ đã gây nên sự ấn tượng, tò mò từ bạn đọc, nắm trọn vẹn tư tưởng nhà văn.
Vào trong nhà, thị như trở về với sự e thẹn, ngại ngùng của người phụ nữ dè dặt
ngồi “mớm xuống mép giường” thể hiện sự ý tứ khi chưa xác định được vị trí trong gia
đình. Thế ngồi chênh vênh, không vững chắc, thế ngồi nửa vời. Người đọc nhận thấy
tâm trạng vừa lo lắng, vừa bất an, ngổn ngang, vừa mặc cảm buồn tủi “hai tay ôm khư
khư cái thùng” như đang tìm một điểm tựa để bám víu trong lúc ngại ngùng cảm giác
trống trải thiếu sức sống nghĩ ngợi và ko chỉ ngay lúc ấy, mãi cho đến khi bà cụ tứ về
thị vẫn “khép nép đứng nguyên chỗ cũ” ko chỉ có thị ngượng nghịu mà đến cả Tràng
cũng “sờ sợ”… Qua câu nói, “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ”. Lời độc thoại nội tâm đc
lặp đi lặp lại kết hợp với các từ chỉ cảm xúc “Quái”, "nhỉ" thể hiện sự quan tâm lo lắng
của người chồng dành cho vợ đồng thời người đọc còn nhận ra tính cách ngây ngô, vô
tư và hồn nhiên của anh. Anh “chạy ra ngõ đứng ngóng” chờ đợi mẹ về để thưa chuyện
“ Nhà tôi, nó chào u”. Hai tiếng “ Nhà tôi ” nghe sao gần gũi, thân mật vô cùng được
Tràng thốt lên trong lần đầu ra mắt thị với mẹ chứng tỏ, thị đã được chào đón bằng tất
cả yêu thương, trân trọng từ người chồng.
Thị đã trở thành vợ Tràng, dù tương lai nhiều thử thách khó khăn nhưng hạnh
phúc đến muồn màn còn đáng quý hơn biết dường nào. Ngòi bút KL đã thể hiện sự
biến chuyển của tâm lý nhờ vào tình yêu thương, chia sẻ. Điều đó, được chứng tỏ rõ
nét hơn qua hình ảnh Thị vào sáng hôm sau. Sáng hôm sau, nàng dâu ý tứ thức dậy từ
sớm để phụ mẹ dọn dẹp lại căng nhà. Chị hăm hở “ quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng”, “Mấy chiếc quần áo rách” được vắt một góc nhà, cái ang nước đầy ăm ắp hay
“đống rác mùn tung bành ” được hốt sạch. Tiếng chổi “kêu sàn sạt trên mặt đất” tựa
như niềm vui xôn xao trong lòng thị. Tràng thấy vợ mình rất đáng yêu. Nhà có thêm
người Tràng có vợ, Cụ Tứ có thêm con dâu, nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm niềm
vui. Thị đã đem sinh khí, thổi vào một làn gió tươi mát cho gia đình Tràng. Bằng nghệ
thuật miêu tả, liệt kê chi tiết, khung cảnh căn nhà hiện lên trong mắt bạn đọc như
khoác lên mình một chiếc áo mới. Cảnh vật thân quen bấy lâu trở nên mới mẻ và thân
thương vô cùng. Tất cả nhờ vào đôi bàn tay của thị, người phụ nữ gia đình. Từ một
đàn bà đanh đá, chua ngoa của ngày hôm trước đã trở thành một người phụ nữ tháo
vát, đảm đang. Ngòi bút Kim Lân thật tinh tế, thay vì tập trung khai thác cảm xúc
nhân vật thì tác giả lại tập trung liệt kê, miêu tả sự đổi cảnh vật trong gia đình để khiến
bạn đọc nhận ra sự đối lập trong tính cách thị trước và sau khi về làm vợ. Trong bữa
cơm ngày đói, được mẹ chồng đãi món “ chè khoán”, thực chất chỉ là cám “ đắng chát
và nghẹn bứ cổ” khiến chị không tài nào nuốt nổi “ hai con mắt thị tối lại” nhưng vì sợ
mẹ buồn lòng, thị cố ăn. Thị giờ đây đã trở thành người con dâu hiếu thảo, người vợ
hiền đảm đang, đúng mực, biết giữ ý tứ có một gia đình hạnh phúc, thuận hòa. Đối với
người chồng ngây ngô, thị đã khai sáng con đường mới cho Tràng, đi theo đoàn người
đói phá kho thóc “đằng trước có lá cờ đỏ sao và bay phấp phới”.
“Vợ nhặt” nói chung và đoạn trích “ …” nói riêng với ngòi bút miêu tả diễn
biến tâm lý độc đáo, ngôn ngữ đời thường, bình dị được tác giả chọn lọc rất kỹ lưỡng
cùng lối kể truyện trần thuật, độc thoại nội tâm sâu sắc. Kim Lân đã khắc họa chân
thực bối cảnh thê lương, tối tăm của nạn đói 1945 đồng thời xây dựng thành công hình
tượng nhân vật thị, người phụ nữ đảm đang giàu tình yêu gia đình biết chia sẻ, đồng
lòng cùng chòng vượt qua khó khăn. Dù trong hoàn cảnh đói khổ bao trùm vẫn trông
đợi, niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Kim lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt khốn khổ nhưng
sức sống tiềm tàng bên bờ vực cái chết. Qua đó nhằm khẳng định chân lý cuộc sống
dù ngột ngạt, tăm tối đến đâu thì sự sống vẫn trỗi dậy, con người vẫn cố gắng vật
lộn với hoàn cảnh để khẳng định tư cách ngời sáng của mình. Xét cho cùng, hình
tượng nhân vật thị đã giúp Kim Lân thể hiện được thành công một khúc ca chứa
đựng niềm tin mãnh liệt của con người vào sự sống. Xin mượn câu ca dao sau để nói
lên cảm xúc của tôi dành cho những người phụ nữ bất hạnh mà thị là đại diện “ Chớ
than phận khó ai ơi/ còn giang lông mọc, còn chồi nảy cây”. Đó chính là giá trị nhân
đạo rất riêng của KL mà các tác phẩm khác cùng giai đoạn 1930 – 1945 không thực
hiện được.