You are on page 1of 9

"PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TRÀNG TRONG TÁC PHẨM "VỢ NHẶT"

CỦA KIM LÂN".

Bài văn đặc sắc của bạn học sinh từng đạt giải nhì môn Văn khiến giáo viên
bộ môn "không thể tin được"

Đề bài phân tích nhân vật trong tác phẩm văn học là một dạng đề quá quen
thuộc. Tuy nhiên, thực tế cho thấy số học sinh biết cách làm bài văn đáp ứng đầy đủ
yêu cầu của dạng đề này là chưa nhiều. Thực sự nhập thân vào nhân vật, hiểu tường
tận tác phẩm để có những cảm nhận rất sâu sát, tinh tế và những đánh giá cực kỳ sắc
sảo. Với lối viết giàu cảm xúc, diễn đạt trôi chảy, lập luận khá chặt chẽ, kĩ năng làm
văn nghị luận tốt, người đọc dễ dàng bị cuốn hút và thuyết phục khi đọc các bài văn.
Có một điều chắc chắn rằng, khi đọc bài văn này các bạn không những thấy rõ điều
đó mà còn thêm yêu quý những trang văn, tin yêu thêm cuộc sống này!"

Puskin từng viết “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống
được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm
sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn Kim Lân đã để tiếng
lòng mình cất lên, để linh hồn tác phẩm neo đậu mãi trong trái tim của bạn đọc về
hình tượng nhân vật anh cu Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt. Anh là một người nông
dân nghèo khổ, xấu xí nhưng mang một tấm lòng ấm áp tình yêu thương và lòng
nhân hậu.
Có nhà văn từng nói “Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và con
người cũng chỉ hứng thú với con người”. Con người cũng chính là nội dung quan
trọng nhất của văn học. Nhân vật văn học là một khái niệm không còn quá xa lạ đối
với chúng ta. Đó là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác
phẩm văn học - cái đã được nhà văn thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ
thuật ngôn từ. Và mỗi nhà văn sẽ tập trung tất cả những hình họa nghệ thuật, những
quan niệm cuộc sống và nhân vật để gửi gắm những tư tưởng đến bạn đọc.
Để từ đó khi chúng ta tìm hiểu một nhân vật, chúng ta cũng thấy được khía
cạnh bức tranh xã hội lúc bấy giờ và nỗi niềm của người nghệ nhân khi đứng trước
nó. Chẳng hạn như trong Chí Phèo của Nam Cao, ta thấy được bản chất lương thiện
của một con người lưa manh trong xã hội thực dân nửa phong kiến, qua đó thể hiện
tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Có thể khẳng định rằng, nhân vật có yếu tố
then chốt góp phần tạo nên thành công của một tác phẩm, như “ xương sống của một
con người vậy”. Viết đề tài người nông dân, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi
khắc họa chân dung người lao động nghèo khổ, chân lấm tay bùn nhưng mang một
phẩm chất đẹp đẽ như nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt”.
Kim Lân là một cấy bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông
dân chất phác, thật thà và đậm tình người ở những làng quê Việt Nam. Lần đầu tiên
có một nhà văn “nông dân” xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn
của đất đai, của cuộc sống con người để tái hiện lên rõ mồn một trên mỗi trang viết.
Với cốt truyện đơn giản, lời kể hấp dẫn và khă năng phân tích tâm lý nhân vật thiên
tài, ông đã để lại cho độc giả những trang viết sâu sắc và xúc động về người dân
quê - những con người gắn bó rất tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong
những sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Tác phẩm được xây dựng trên nền nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Cái năm
mà người ta vẫn nhắc đến như một tai nạn thảm khốc khiến hơn hai triệu đồng bào
ta chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời dựa trên một cốt
truyện cũ với nhau để “ Xóm ngụ cư”, được in trong tập “ Con chó xấu xí” xuất bản
năm 1962. Tác phẩm kể về anh cu Tràng - một thanh niên nghèo khổ làm nghề kéo
xe bò thuê. Dù trong tình cảnh đói kém quay quắt nhưng anh vẫn dắt thêm một
người đàn bà về làm vợ. Sự việc khiến cả xóm ngụ cư và ngay cả mẹ Tràng - bà cụ
Tứ hết sức ngạc nhiên và lo lắng. Nhưng qua đó, Kim Lân muốn ca ngợi sức sống
và niềm tin mãnh liệt của con người vào tương lai, vào cách mạng, vào tình người
dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào
Viết về người nông dân, Kim Lân đã “khơi nguồn chưa ai khơi” , đó là thân
phận rẻ rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Tràng - một
nhân vật điển hình như thế với một hoàn cảnh vô cùng khốn khó, mang một ngoại
hình chẳng mấy ưu nhìn. Tràng xuất thân là dân ngụ cư - tầng lớp người bị coi thường
nhất lúc bấy giờ, sống cùng mẹ già trong “túp lều tranh nằm rúm ró trên mảnh vườn
lổn nhổn những bụi cỏ dại”. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để sống sót qua nạn đói
này. Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói nhưng
cũng cực nhọc vô cùng. Sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, chứng kiến
biết bao là xác chết năm la liệt, lại hội tụ trong mình đầy yếu tố của một loại người
đáng bị coi khinh.

Tràng còn có một ngoại hình hết sức thô kệch, cục mịch. Nó được ví như “sự
gọt đẽo sơ sài của tạo hóa”. Nếu như trong văn Nam Cao ta thấy Chí Phèo xuất hiện
đầu tác phẩm với tiếng chửi ngoa ngoắt “hắn vừa đi vừa chửi, …nó chửi trời, chửi
đất...” thì Kim Lân lại đưa vào Tràng một số nét khắc họa ngoại hình “dáng đi ngất
ngưỡng, hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào hướng chiều hai bên quai hàm, đôi khi lại
ngữa mặt lên cười khành khạch”.

Tác giả khi xây dựng nhân vật này không tập trung miêu tả ngoại hình mà chỉ
chú trọng khắc họa những nét riêng biệt. Nhìn vào Tràng ai cũng thấy, ngoại hình
ấy không hề đẹp, có phần hoang dã khác hẳn với cách trau chuốt của xã hội văn
minh. Bên cạnh đó ngoại hình của Tràng còn được khắc họa rõ nét hơn khi nạn đói
tràn vào xóm ngụ cư. Đó là dáng đi mệt mỏi, đầu thì chúi về đằng trước mặt cứ gằm
lại, nó làm mụ mị con người vui vẻ, ngất ngưỡng trước đây ở Tràng. Tạo hóa đã ban
cho anh cái xấu mà không hề thương xót.
Phải chăng cách xây dựng nhân vật có số phận như thế là dụng ý nghệ thuật
của nhà văn Kim Lân?! Để từ đó người nghệ sỹ ấy làm bật lên vẻ đẹp bên trong của
con người Tràng!

Ẩn sâu bên trong của con người xấu xí, thô kệch ấy là cả một bầu trời nhân
cách tốt đẹp. Tràng tốt bụng, hiền lành, hào hiệp và nhân hậu. Tính anh vui vẻ, nhanh
nhẹn và thích nô đùa với trẻ con. Bởi vậy mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong
xóm ra vây lấy hắn reo cười vang lên, khi ấy Tràng chỉ ngửa mặt lên “cười hềnh
hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Cũng chính
vì thế mà anh đã sẳng sàn cưu mang người đàn bà xa lạ giữa nạn đói bằng một bữa
ăn. Mặc dù anh cũng là tầng lớp đang bị cái đói hoành hành. Tuy nhiên “Thương
người như thể thương thân”, anh đã cứu một người đàn bà đang ở giữa ranh giới của
sự sống và cái chết, sẳn sàng cưu mang thị với quyết định đưa về làm vợ.

Tình thương người với người tỏa sáng hơn bao giờ hết trong một con người
tưởng chừng như gàn dở, ngờ nghệch đang bị coi thường! Vẻ ngoài thô kệch chính
là bàn đạp để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, yêu thương con người của Tràng. Đó
cũng chính là dụng ý của nhà văn Kim Lân. Một người ngờ nghệch như anh cu Tràng
mà biết cưu mang người khác, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp thì những
người cao hơn anh, có địa vị hơn anh đánh rơi tình người ở đâu mất rồi?

Đây chính là niềm trăn trở của những nhà văn chân chính, những nhà nhân
đạo, đặc biệt là những cây bút hướng về con người. Vì xét cho cùng, văn chương là
vì con người, giáo dục nhân cách chúng ta!

Người đàn ông nhân hậu, tốt bụng ấy sẵn sàng cưu mang những người cùng
cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo. Tình
huống Tràng nhặt vợ khi gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước khiến
anh không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người
cùng cảnh ngộ “quần áo rách như tổ đỉa trên khuân mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy
hai con mắt”. Cái đói khiến người con gái ấy chẳng biết thể diện là gì, cứ thế mà thô
thiễn, trơ trẽn bất chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm
nhận được sự đói khát cùng đường của người đàn bà ấy. Nó đã đánh thức con người
nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, phóng khoáng đãi người đàn bà xa lạ đến bốn
bát bánh đúc. Vẻ đẹp tình người đã được nhen nhóm, thắp sáng lên giữa cái tối tăm
của nạn đói. Và cũng chỉ một câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng “Nói đùa chứ có
về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về mà thị đã theo Tràng về thật. Lúc đầu
Tràng phảng phất nỗi lo sợ về cái đói, cái chết, “Thóc gạo này đến cái thân mình
cũng có nuôi nổi hay không mà còn đeo bòng”.

Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất là cái thời đói kém như thế này. Nhưng rồi anh
cũng chậc lưỡi “chậc, kệ”. Kệ ở đây không phải là kệ đời hay mặc xác đời mà là cái
kệ trong niềm tin mãnh liệt vào tương lai, cái “kệ” trong hành động của con người
luôn khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi ngay cả khi cái chết đang cận
kề. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau mình tất cả nổi sợ hãi, mọi lo nghĩ
để hướng đến hạnh phúc. Người ta cho rằng đó là hành động liều lĩnh bởi ta đã chứng
kiến một chị Dậu phải bán con, bán chó để nuôi những đứa con khác, duy chì miếng
sinh nhai, một anh Đĩ Chuột phải tự tử để nhường lại miếng cơm cho vợ và con
mình. Vậy mà Tràng lại đi cưu mang người khác.

Tình thương đã cho anh quyết định dứt khoát hơn về hành động của mình. Nó
còn tiềm ẩn cái khao khát hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.
Nhà văn Kim Lân quả thật đã khám phá thành công những vẻ đẹp tâm hồn của những
người nông dân như Tràng - giàu tình yêu thương và sẵn sàng cưu mang những kiếp
người khổ hơn mình.

Sau khi có vợ, Tràng không còn là một anh thanh niên ngờ nghệch mà đã trở
thành một người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức vun vén cho mái ấm gia
đình. Ta nhận ra rằng, Tràng là một người chồng hết sức yêu quý, quan tâm người
bạn đời của mình. Anh đưa thị vào chợ tỉnh “mua cho thị cái thúng con đựng lặt
vặt”, đưa vào hàng cơm “đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò vê”. Chăm sóc từng
cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Anh mua cho thị cái thúng con
không chỉ đựng mấy thứ lặt vặt mà còn là minh chứng thị là một người phụ nữ giống
như những người khác, để thị có thể tự tin hơn khi về nhà chồng, ai lại để vợ về nhà
bằng tay không bao giờ! Tràng còn “rất chịu chơi” khi chi hẳn hai hào mua dầu để
thắp sáng cho đêm tân hôn của mình.

Chi tiết Tràng khoe với thị chai dầu vừa buồn cười lại vừa xót thương. “Hai
hào đấy, đắt quá cơ, mà thôi, chẳng cần”. Tràng muốn đêm tân hôn của mình sáng
lên một chút để giúp người đàn bà xấu số phần nào đỡ tủi thân trong buổi đầu về nhà
chồng. Khi mà có hạnh phúc thì con người ta sẳn sàng đánh đổi cho niềm tin của
mình được thắp sáng, cho hạnh phúc được bấu víu cũng như cho hy vọng của mình
được nhen nhóm và phát triển. Tràng cũng khao khát như vậy!

Ai đó đã từng nói rằng “Hạnh phúc trong tình yêu có thể làm cho tâm hồn con
người thay đổi một cách kỳ lạ” và Tràng cũng không ngoại lệ. Tràng không còn cúi
đầu lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phở khác thường”, “tủm tỉm cười”, “hai mắt
sáng lên lấp lánh”. Cái cảm giác lâng lâng êm ái hạnh phúc buổi đầu đi bên vợ. Bởi
vốn dĩ anh chưa từng được người đàn bà nào tình tứ với mình như thế, chưa bao giờ
nghĩ mình sẽ có được hạnh phúc giữa nạn đói này. Sự xuất hiện của thị, của người
vợ nhặt không chỉ mang đến một luồng sinh khí cho Tràng, cho mẹ Tràng mà còn
cả xóm ngụ cư.

Có thứ gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm của họ.
Phải chăng sự xuất hiện của người vợ nhặt, sự thay đổi của con người khi người ta
nâng niu và ngợi ca tình người thì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn! Từ câu chuyện của hai
con người dưới đáy của xã hội dường như đã mang theo không khí chờ đợi hạnh
phúc đang đến nhẹ nhàng và bình yên. Nó như nhắn nhủ với chúng ta một điều
“Trong những hoàn cảnh bần cùng nhất mà con người ta vẫn nghĩ đến tình người
thì chắc chắn sẽ còn một tia sáng ở cuối con đường”.

Khi đem thị về nhà, Tràng mới thật sự lo lắng, tâm trạng thiếu tự tin, giống
như một đứa trẻ. Trong lòng anh ngổn ngang trăm thứ cảm xúc vừa vui, vừa lo âu.
Tràng vui vì hạnh phúc quá lớn, “Hắn đã có vợ rồi đấy ư?”, sẽ có một hạnh phúc gia
đình. Nhưng rồi hắn cũng lo sợ ý của mẹ, hết chạy ra ngõ lại chạy vào sân. Khi thấy
mẹ, “Tràng reo lên như một đứa trẻ. Anh cẩn thận mời mẹ vào ngồi lên giường cho
chĩnh chện rồi mới giới thiệu. Không chỉ là một người đàn ông có trách nhiệm mà
Tràng còn là một người con hết mực lễ phép, ngoan ngoãn với mẹ. Anh giới thiệu
với mẹ, “Kìa nhà tôi nó chào u đấy”.

Kim Lân quả thật rất tài tình trong việc xây dựng lời thoại rất ít chữ nhưng
chứa đựng trong đó tình cảm rất nhiều. Chao ôi, cái người mà Tràng gọi “nhà tôi”
ấy, cái người đang ra mắt mẹ chồng lại chỉ là một người đàn bà nhặt được theo
không, không cưới hỏi, không nhan sắc, bộ áo cô dâu trong ngày vu quy thì xác xơ
như tổ đỉa. Tuy nhiên, tiếng “nhà tôi” kia vẫn nghe như có gì đó hết sức thân thương,
trân trọng. Nó có sự nghiêm túc, chín chắn về việc hệ trọng cả đời người. Đến với
nhau chỉ bằng bốn bát bánh đúc nhưng Tràng đã dành trọn tình thương, tình yêu cho
người đàn bà xấu số kia, mở ra những ngày tháng hạnh phúc đang chờ phía trước.
Như nhà văn Kim Lân đã chia sẻ “Tôi muốn họ vào trong sự sống, sự yêu thương
nhau... dù trong hoàn cảnh cùng đường, bế tắc nhất”.

Song song với niềm hạnh phúc vứa chớm nở, nhà văn Kim Lân đã cho thấy ở
Tràng một luồng sống mới vào sáng hôm sau. “Một nguồn sung sướng, phấn chấn
đột ngột tràn ngập trong lòng”, “trong người êm ái lửng lơ như người trong giấc mơ
đi ra”. Việc có vợ như một giấc mơ đẹp trong cuộc đời Tràng vậy, nó đột ngột, nhanh
chóng, niềm vui sướng ngập dâng trong lòng, bỗng nhiên hắn thấy yêu thương, gắn
bó với căn nhà này lạ lùng. Tràng đã có suy nghĩ, ý thức của một người đàn ông
trưởng thành, từ vô tâm thành quan tâm, tử dửng dưng đến lo lắng cho hạnh phúc
lứa đôi. Từ trách nhiệm với cá nhân gia đình càng thêm khát khao cháy bỏng vào
tương lai phía trước.

Ở Tràng hiện rõ tương lai tươi sáng, dù trên bờ vực thẳm, anh vẫn đi tìm sự
sống “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây”. Và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung
bay phấp phới như báo hiệu trước cuộc sống đói khổ này sẽ chấm dứt thay vào đó là
những ngày vui, ấm áp của mọi người. Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm được
tỏa sáng hơn bao giờ hết, tình thương, tình yêu giữa người với người đã thắp lên hy
vọng, niềm tin vào một ngày mai tươi đẹp!

Với tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân một lần nữa khẳng định tài năng, sức sáng
tạo và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình. Cái vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc
sắc, cái lối viết tưởng chừng như dễ nhưng rất khó phỏng theo, giản dị nhưng ánh
lên một vẻ hào hoa lạ kỳ của nhà văn.

Nhưng có lẽ cái đọng lại trong tôi là cách nhìn đời, nhìn người đầy xót xa,
thương yêu của tác giả, là niềm tin mà ông muốn trao gửi qua thiên truyện ngắn.
Tràng không may mắn khi tạo háo ban cho ngoại hình chẳng mấy ưu nhìn, bị cuộc
sống bùi dập đến đường cùng nhưng anh vẫn luôn khát khao được sống hạnh phúc,
vẫn vững tin vào tương lai trong cái tối tăm, đói kém của xã hội bấy giờ. Viết về nạn
đói, nhà văn muốn gửi đến thông điệp: Không có khát khao nào chính đáng bằng
khát khao được sống như một con người, sống cho ra người, dù cuộc đời có bi thảm
đến đâu thì vẫn hướng về ánh sáng, niềm tin vào tương lai.

Viết về đề tài người nông dân, ta đã từng bắt gặp nhiều sáng tác của các nhà văn
trước năm 1945. Đó là Nam Cao với hình ảnh “Chí phèo” bị tha hóa cả nhân hình
lẫn nhân tính nhưng vẫn khát khao được làm người, nhà văn Ngô Tất Tố với hình
ảnh chi Dậu phải hy sinh những gì quý giá nhất cuộc đời để duy trì sự sống cho gia
đình. Điểm chung của các nhân vật này và Tràng là đều có số phận hết sức bi thảm
nhưng vẫn khát khao vươn lên. Nhưng có lẽ, vì hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà chị
Dậu, Chí Phèo.... đều phải bước vào đường cùng khi không tìm ra ánh sáng. Còn
Tràng, khi được sống trong tình yêu anh đã ý thức tìm thấy ánh sáng của cách mạng,
của Đảng.

Song đó cũng là dụng ý của nhà văn Kim Lân khi mở con đường mới cho
nhân vật, đó là theo cách mạng. Và cũng qua câu chuyện của Tràng chúng ta thấm
thía nhiều bài học quý giá. Chúng ta được sinh ra trong điều kiện tốt hơn, được đón
nhận nhiều điều tốt đẹp, vậy chẳng có lý do gì mà chúng ta không yêu thương lẫn
nhau? Chưa nói đến làm gì lớn lao, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ như quan tâm sức
khỏe bố mẹ, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, tích cức tham gia các hoạt
động thiện nguyện.... Mỗi hành động nhỏ sẽ góp phần cho toàn xã hội ngày một tốt
đẹp hơn, yêu thêm cuộc sống này hơn.

Còn gì tuyệt vời hơn khi mỗi sáng mai thức dậy, ta được làm thêm nhiều việc
tốt! Và thấm thía hơn, ta học được bài học về cách nhìn người, nhìn đời – cái nhìn
đầy yêu thương, bao dung, trìu mến và lạc quan, tin tưởng. Chúng ta chỉ được sống
có một lần trong đời, vậy hãy chọn sống tích cực và ý nghĩa!

Mỗi lần đọc trang văn của Kim Lân, ta lại cảm thấy như đang đón nhận một bài
học nhân đạo sâu sắc qua từng nhân vật mà ông xây dựng. Thành công trong cách
xây dựng nhân vật đã đưa Vợ nhặt đứng vào hàng kiệt tác của truyện ngắn Việt Nam
hiện đại, đưa tên tuổi của Kim Lân lên một tầm cao mới - trở thành một tượng đài
trong làng văn học Việt Nam. Và đặc biệt Kim Lân sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc
yêu văn chương, yêu thêm những giá trị bất diệt trong cuộc sống - đó là tình người!

You might also like