You are on page 1of 20

I.

BÀ CỤ TỨ - NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI


a. Vài nét về tác giả tác phẩm:

- Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, “một nhà văn viết ít nhưng
ngày càng được khâm phục nhiều”. “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của
Kim Lân, rút từ tập “Con chó xấu xí” (1962)

- Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng đi tiên phong trong công cuộc đổi mới
nền văn học Việt Nam sau 1975. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm xuất
sắc của ông ở giai đoạn này.

b. Giải thích ý kiến:

Ý kiến chỉ ra sự giống nhau của hai nhân vật: đều yêu thương con bằng sự thấu
hiểu lẽ đời; đồng thời chỉ ra sự khác nhau: tình yêu thương con của bà cụ Tứ là
sự vị tha, bao dung, lạc quan; còn tình yêu thương con của người đàn bà hàng
chài là sự chịu đựng, hi sinh, nhẫn nhục. Đó là những nét riêng của tình mẫu tử
trong hai tác phẩm “Vợ nhặt” – Kim Lân và “Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn
Minh Châu.

c. Chứng minh:

* Điểm tương đồng: Cả hai nhân vật đều yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ
đời.

- Bà cụ Tứ:

+ Khi biết người phụ nữ theo không con mình về làm vợ, bà cụ Tứ lặng người,
cúi đầu nín lặng, khóc, vừa xót xa cho số kiếp con trai, vừa tủi thân, tủi phận cho
chính mình vì ngèo mà không lấy nổi vợ cho con.

+ Đồng cảm với người vợ nhặt “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này
người ta mới lấy đến con mình”, đồng cảm với con trai “…Mà con mình mới có
được vợ”, vun vén cho hạnh phúc của đôi trẻ “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên,
phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”…

- Người đàn bà hàng chài:

+ Tình yêu thương con bằng sự thấu hiểu lẽ đời khiến chị phải nhẫn nhục, chịu
đựng sự đày ải tàn nhẫn của người chồng để con thuyền có người đàn ông khỏe
mạnh “chèo chống khi phong ba” và “để cùng làm ăn nuôi nấng một sấp con”

+ Khi đối thoại với Phùng và Đẩu ở Tòa án huyện, chị đã nói “Đàn bà ở thuyền
chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”.
* Sự khác biệt:

Tình yêu thương con của bà cụ Tứ là sự vị tha, bao dung, lạc quan.

- Thấu hiểu việc vượt quyền cha mẹ của Tràng

- Cảm thông, xót thương cho tính cách và trân trọng giá trị của người vợ nhặt.

- Suy nghĩ, hành động, lời nói luôn lạc quan, hướng về tương lai trong những
ngày đói.

+ Bà truyền cho con cái niềm hi vọng “không ai khó ba đời”

+ Hành động xăm xắm thu dọn, quét tước nhà cửa.

+ Dự định ngăn buồng cho đôi trẻ, mua đôi gà, bữa cơm mừng dâu mới với “chè
khoán”…

Tình yêu thương con của người đàn bà hàng chài là sự chịu đựng, hi sinh, nhẫn
nhục:

- Người đàn bà hàng chìa chịu đựng, hi sinh xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh
khi các con đã lớn vì sợ các con sẽ bị tổn thương khi chứng kiến cảnh bạo lực
đau lòng.

- Vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác có thể làm điều dại dột với ba nó
mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị yêu thương nhất lên rừng ở với ông
ngoại đã nửa năm nay.

Khi chồng đánh đập đau đớn chị lặng lẽ chịu đựng, nhẫn nhục như một người
câm nhưng khi thằng Phác lao vào đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi
đau đớn. Chị “mếu máo” gọi con. “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra”, “chắp tay
vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy”. Đó là nỗi đau của người mẹ khi không che chắn
nổi cho tuổi thơ của các con được trong sáng, nỗi sợ hãi cho sự phát triển tính
cách của con trong môi trường tăm tối, bạo lực…

d. Đánh giá:

- Khẳng định sự đúng đắn của ý kiến:

+ Chỉ ra được những khác biệt trong tình yêu thương con của hai nhân vật. Từ
đó giúp người đọc nhận ra được những nét độc đáo của mỗi hình tượng, những
khám phá riêng trong cách thể hiện, xuất phát từ cái nhìn khác nhau về con
người của hai nhà văn trong hai giai đoạn văn học khác nhau.
+ Đồng thời giúp người đọc cảm nhận được sự gặp gỡ trong tư tưởng nhân đạo
của hai nhà văn và những tư tưởng, tình cảm mà họ gửi gắm.

II.So sánh A Phủ - Tràng


Hình tượng người lao động từ lâu đã trở thành một đề tài lớn của văn học nghệ
thuật thu hút biết bao ngòi bút văn chương. Không ít tác giả đã thành công về đề
tài này trong đó có Kim Lân và Tô Hoài. Với hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ
chồng A Phủ”, cả hai nhà văn đã dựng nên được hình tượng con người lao động
với bao phẩm chất đáng quý. Đó là anh Tràng hiền lành nhân hậu trong “Vợ
nhặt” và A Phủ chàng trai của tự do trong “Vợ chồng A Phủ”.
Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập
trung ở khung cảnh nông thôn và người nông dân. Tác phẩm “Vợ nhặt” trích
trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Truyện được viết ngay sau Cách mạng với
tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại,
tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”.
Nếu Kim Lân thiên về đề tài nông thôn thì Tô Hoài lại rất am hiểu văn hóa nhiều
vùng miền khác nhau trên đất nước ta. Trong đó đặc biệt là văn hóa Tây Bắc.
Chính vùng đất và con người nơi đây đã thổi hồn vào trang viết của ông để lại
bao hình ảnh đẹp. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc của
Tô Hoài viết về con người và thiên nhiên nơi đây.
Cả hai thiên tài truyện ngắn Kim Lân và Tô Hoài đều là đại biểu ưu tú của dòng
văn học hiện thực phê phán. Dưới ngòi bút của các nhà văn hiện thực, con người
lao động hiện lên với những phẩm chất chung đáng quý. A Phủ và Tràng đều là
những con người lao động lương thiện, nhân hậu, sống nghĩa tình. Ở họ còn
ngời sáng bởi phẩm chất lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Họ khao khát
mái ấm gia đình, khao khát tình yêu, khao khát tự do trong một thế kỷ bạo tàn.
Họ đều là nạn nhân đáng thương của chế độ xã hội cũ, bị bóc lột, bị đẩy đến con
đường cùng. Nhưng ở họ vẫn luôn khao khát được sống, được vươn lên. Tràng
bị nạn đói dồn đẩy đến vực thẳm của cái chết nhưng vẫn khát vọng mái ấm, anh
đã xây hạnh phúc trên nền thảm đạm của chết chóc mà vẫn hi vọng được đổi
đời. A Phủ bị lăng nhục, bị chà đạp nhưng vẫn khao khát tự do. Anh đã vượt
ngục để đến miền đất hứa Phiềng Sa cùng Mị xây đắp hạnh phúc của mình. Ở họ
tuy điều kiện hoàn cảnh sống và lịch sử khác nhau nhưng đều có những kết thúc
tốt đẹp dù trước đó là một chuỗi bi kịch cuộc đời tăm tối.
Bên cạnh những điểm giống nhau đó, ở hai nhân vật này có nhiều điểm riêng
biệt mang đến những vẻ đẹp khác nhau.
Trước hết ta hãy đến với nhân vật Tràng. Tìm hiểu vào truyện ta thấy, Tràng là
người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt bụng; sẵn lòng cưu
mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp.
Tràng là dân ngụ cư nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê. Anh sống với mẹ già.
Gia cảnh nghèo túng. Cái được gọi là “nhà” thì luôn “vắng teo đứng rúm ró trên
mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Đã vậy, Tràng lại có ngoại hình
xấu xí, thô kệch. Ngay cả đến tên gọi cũng là tên gọi của một loại đồ vật dùng
trong nghề mộc (Cái Tràng, cái Đục). Với vài nét bút phác họa giản đơn, Tràng
hiện lên có phần giống với những thằng đần, thằng ngốc trong truyện cổ tích.
Cái lưng thì được nhà văn tạo thành “lưng gấu”, cái mặt thì ấn tượng bởi “hai
con mắt nhỏ tý gà gà. Quai hàm bạnh”. Tính cách thì phần trẻ con nhiều hơn. Vì
thế chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.
Nhưng Kim Lân không có ý định viết truyện cổ tích với thằng đần thằng ngốc
mà ông đang kể lại một sự thật, sự thật đắng lòng về cái đói và tình người năm
đói. Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người
như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Tràng chỉ
muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả.
Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên
Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh
phúc biết bao khi gặp được cái “cười tít mắt của thị” bởi “từ xưa đến giờ có ai
cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu”.
Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có
người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn “Điêu, người thế mà
điêu”. Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước
mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân
cách: “Thị gầy sọp hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo
rách như tổ đỉa”. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động lòng
thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng
thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà
còn cho ăn rất nhiều “bốn bát bánh đúc”. Đó chính là lòng thương một con
người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng
ghẹo.
Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra
khuân đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng
phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết“mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo
này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là
nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương
người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi
“Chậc kệ!” Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ
hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khát khao hạnh phúc, có ý thức tạo dựng
mái ấm gia đình:
Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: “hắn đưa thị
vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng
cơm đánh một bữa no nê…”. Tràng còn hào phóng “ mua hai hào dầu để thắp
sáng”.
Trên đường về: (khác với anh Tràng hôm qua buồn bã, cúi mặt lo âu nghĩ ngợi).
Hôm nay Tràng có niềm vui lạ, một niềm hạnh phúc tràn ngập khiến mặt Tràng
cứ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Lúc thì
hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai
kia, lại muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng. Kim Lân đã làm
người đọc thấy được sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Tràng thật sự đã khác với
Tràng hôm qua. Trong lòng Tràng tràn ngập niềm vui sướng miên man khiến
“Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng
ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày
trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà
đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ
ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc
sống lưng”. Thế là rõ rồi: Hạnh phúc đang làm anh thay đổi.
Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “ đứng tây ngây
ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi.
Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng.
Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt,
không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn
đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.
Lúc chờ đợi Mẹ về: Tràng nóng ruột, đi đi lại lại. Chưa bao giờ người ta thấy
hắn nôn nóng như thế. Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con vì dù sao
Tràng vẫn còn có mẹ – đó là đấng tối cao của Tràng vì chỉ có mẹ mới quyết định
được hạnh phúc của hắn. Tràng nóng lòng thưa chuyện với mẹ. Bắt mẹ ngồi lên
giường để thưa chuyện. Cho thấy, anh Tràng không còn là người vô tư nông cạn
nữa. Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là việc hệ trọng cả một đời. Nên với hắn,
đây là giây phút thiêng liêng và trọng đại. Khi được đồng ý, Tràng thở đánh
phào một cái nhẹ cả người. Thế là Tràng đã có gia đình, có vợ, không tốn tiền
cưới hỏi, Tràng lấy được vợ thật hiển hách.
Tràng có khát vọng sống mãnh liệt, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Từ một
anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan
tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời.
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ
chín chắn. Nhà văn đã mang đến cho người đọc hơi thở mới của Tràng vào sau
cái đêm tân hôn. Tràng thức dậy, đầu tiên đó là một cảm giác dễ chịu “Trong
người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Đó là tâm trạng hạnh
phúc. Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe
tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một
nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng “Bỗng nhiên hắn thấy
hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn
sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Đấy
chính là hạnh phúc đang thức tỉnh anh. Cuộc sống đang vẫy gọi anh.
Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần
mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của
anh lại “vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê
Sộp” để cướp kho thóc của Nhật và “đằng trước là lá cờ đỏ”. Tràng nhớ tới cảnh
ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp
phới…Chi tiết này thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Tác giả mở ra
con đường sống cho những con người đang đứng bên bờ vực của cái chết đó là
chỉ có đi theo cách mạng mới có thể giải phóng được số phận của mình. Nhà văn
dự báo, rồi đây Tràng sẽ có mặt trong đoàn người đói ấy, Tràng sẽ đi phá kho
thóc Nhật. Và cuộc sống sẽ lại mở ra trang đời mới.
Xây dựng nhân vật Tràng, nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc
đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản
dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Đây là loại nhân vật tiêu biểu cho phát ngôn
của nhà văn trong tác phẩm.
Nếu như nhân vật Tràng của Kim Lân với những vẻ đẹp tâm hồn sáng ngời nhân
cách, phẩm giá thì A Phủ của Tô Hoài cũng mang đến cho người đọc nhiều vẻ
đẹp lấp lánh của tâm hồn.
A Phủ là một chàng trai có số phận éo le, là nạn nhân của những hủ tục lạc hậu:
A Phủ người Háng Bla. Cha mẹ, anh chị em của A Phủ mất trong một trận dịch
đậu mùa. Năm ấy A Phủ mười tuổi. Tuy còn nhỏ nhưng A Phủ đã mang trong
mình một cá tính mạnh mẽ. Khi có người làng đói bắt A Phủ bán cho người Thái
dưới cánh đồng thấp. A Phủ ngang bướng không cam chịu ở dưới cánh đồng
thấp, A Phủ trốn lên núi cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài.
Tết đến xuân về, mọi người đều có quần áo mới còn A Phủ thì chỉ độc một cái
vòng vía trên cổ. A Phủ chẳng lấy nổi vợ vì hủ tục của làng bản. Vì A Phủ
“không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”.
Dù cuộc đời chịu nhiều bất hạnh nhưng A Phủ là một con người có phẩm chất
tốt đẹp.
A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, anh yêu lao động, giỏi giang: “biết đúc
lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo…”. A Phủ rất khỏe,
chạy nhanh như ngựa. A Phủ đã trở thành niềm khát khao của bao cô gái trong
làng “ Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Nhưng A Phủ
nghèo nên không lấy được vợ. Tuy vậy, vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, A
Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu
chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có
quần áo mới như nhiều trai làng khác, A phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ.
A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người
yêu ở các làng trong rừng”.
A Phủ là nạn nhân của cường quyền và nạn nhân của chính sách cho vay nặng
lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi.
Đau khổ hơn, A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp
sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân. Thấy thái độ hống hách của A
Sử , A Phủ đã “ném con quay bằng gỗ lăng vào mặt A Sử” rồi “xộc tới, nắm cái
vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động dữ dội đó của
A Phủ có nguyên cớ sâu xa từ mối hận thù giai cấp, anh rất ghét thói cường
quyền bạo ngược của bọn người giàu có.
Vì tội đánh con quan, A Phủ bị nhà thống lý bắt về xử kiện. Tại nhà thống lý, A
Phủ bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập rất dã man, tàn bạo. A Phủ đã chứng tỏ
mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. A Phủ bị đám trai làng xộc đến
đánh “môi và mắt dập chảy máu… hai đầu gối sưng lên như mặt hổ phù”. A phủ
không hề khóc lóc van xin, trái lại “A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”.
Cuối cùng trong cảnh xử kiện A Phủ đã bị Pá Tra buộc nộp vạ một trăm bạc
trắng. Vì không có tiền để nộp vạ nên A Phủ phải vay nợ một trăm bạc trắng.
Chính sách cho vay nặng lãi ấy đã biến chàng trai trẻ yêu tự do thành nô lệ với
bản án chung thân suốt đời đúng như lời tên Pá Tra đã nói “đời mày, đời con
mày, đời cháu máy tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp
sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc,
nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một
mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”. Tính mạng của A Phủ sống hay chết
cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của Thống lý Pá Tra.
A Phủ yêu tự do có lòng ham sống và khát vọng tự do:
Chỉ vì để hổ bắt mất một con bò, A Phủ đã rơi vào thảm họa mới. Thống lí quát
thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” . Rồi A Phủ bị trói đứng
vào cột bằng dây mây cuốn từ chân lên vai. Nếu không bắt được hổ đem về thì
cho A Phủ “đứng chết ở đấy”. Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, bản chất
gan góc, bất khuất sẵn có, A Phủ không cam chịu hết mà tìm mọi cách tự giải
thoát: “Đêm đến, A phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng dây, nhích dần dây trói
một bên tay”. Nhưng cha con thống lý lại về và tròng thêm vào cổ A Phủ một
cái dây thòng lọng.
Sau bao ngày bị A Phủ “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và
thần chết đã in dấu trên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ.
A Phủ đã nằm bên bờ vực của cái chết “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết
đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý
thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể
mà đành bất lực tuyệt vọng. A Phủ đã khóc “một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Nhưng dòng nước mắt ấy đã làm động lòng
người thiếu phụ. Mị đã từ vô cảm đã đồng cảm với nỗi đau của A Phủ để rồi sau
cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, Mị đã cắt đứt dây trói cứu sống A Phủ.
Và với sự trợ giúp của Mị, A Phủ đã được tự do. Hai người trốn khỏi Hồng
Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở
thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật A Phủ chủ yếu được khắc họa qua hành
động, tính cách. Trần thuật hấp dẫn. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị đậm tố chất núi
rừng Tây Bắc. Dựng cảnh tài tình… Đó là những thành công của Tô Hoài trong
cách xây dựng nhân vật A Phủ.
Có thể nói qua hai nhân vật Tràng và A Phủ, cả hai nhà văn Kim Lân và Tô
Hoài đã phát hiện và trân trọng những vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người
lao động. Đồng thời qua số phận nhân vật, hai nhà văn đã bộc lộ niềm cảm
thông chân thành, sâu sắc và mở lối đi cho nhân vật. Với những giá trị ấy, nửa
thế kỷ trôi qua, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt” vẫn là tác phẩm có
sức sống và có giá trị lâu bền nhất. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của
hai tác phẩm. Vì những lẽ trên, Kim Lân và Tô Hoài rất xứng danh với nhà văn
của những con người lao động chân chính.
III.So sánh Tràng – Chí Phèo
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái
lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn
vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè
sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy
cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ,
khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc
nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã
kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn
quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật
đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên
hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che
nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con
sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự
phần tu sửa lại căn nhà...”.
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai. NXB Giáo dục, 2008)
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của nhận vật Tràng trong đoạn trích trên.
Liên hệ với tâm trạng nhân vật Chí Phèo vào buổi sáng sau khi gặp Thị Nở
(Truyện Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11, tập 1, NXB Giáo dục 2008) để bình
luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn.
1. Giới thiệu chung
– Giới thiệu Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.
– Nêu vấn đề cần nghị luận
2. Phân tích
a. Khái quát về tác phẩm, đoạn trích:
b. Cảm nhận về tâm trạng của nhân vật Tràng trong đoạn trích:
* Về nội dung:
- Sung sướng, hạnh phúc, hãnh diện.
- Có sự thay đổi trong suy nghĩ:
+ Yêu thương, gắn bó với gia đình.
+ Thấy có trách nhiệm phải lo lắng cho vợ con.
- Niềm tin vào tương lai tươi sáng.
* Về nghệ thuật:
- Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo để nhân vật bộc lộ phẩm chất, tính cách
- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông
thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh động với nhiều chi tiết đặc
sắc.
3. Liên hệ với tâm trạng nhân vật Chí Phèo vào buổi sáng sau khi gặp Thị Nở
(Truyện Chí Phèo, Nam Cao) để bình luận ngắn gọn về tư tưởng nhân đạo của
mỗi nhà văn.(1.0đ)
- Khái quát diễn biến tâm trạng Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở: Lần đầu tiên hắn
tỉnh rượu, tỉnh ngộ để nhận thức về cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại, tương
lai; khao khát được trở lại làm người lương thiện…
- Bình luận về tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn:
+ Qua diễn biến tâm trạng của Chí Phèo, Nam Cao thể hiện niềm thương cảm
trước bi kịch con người, tin tưởng vào sự thức tỉnh lương tâm của người nông
dân trước cách mạng;
+Trong đoạn trích Vợ nhặt, cùng tả tâm trạng nhân vật vào buổi sáng, Kim Lân
đã phát hiện ta sự thay đổi và trưởng thành trong nhận thức, tình cảm và hành
động của nhân vật Tràng từ lúc “nhặt”được vợ. Qua đó, tác giả có cái nhìn trân
trọng, ca ngợi người nông dân dù trong hoàn cảnh hết sức bi đát vẫn có ý thức
xây dựng hạnh phúc gia đình.
- So sánh::
+Giống nhau: Cả hai nhà văn dù ở 2 thời kì cách mạng khác nhau nhưng đều
gặp ở tư tưởng nhân đạo: khám phá sức sống, khát vọng hạnh phúc, nâng niu
trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của tâm hồn con người.
+Khác nhau: Tuy nhiên số phận mỗi nhân vật lại hoàn toàn khác nhau. Nhân vật
Chí Phèo tuy thức tỉnh để khao khát hoàn lương như cuối cùng rơi vào bi kịch bị
cự tuyệt quyền làm người. Nhân vật Tràng cuối cùng đã được đổi đời, tìm thấy
hạnh phúc đích thực của cuộc đời…
- Đánh giá: Đó là tư tưởng nhân đạo mới mẻ, sâu sắc; góp phần nâng cao giá trị
nội dung của văn xuôi hiện đại Việt Nam, hướng người đọc có tình cảm yêu
thương, tin tưởng vào sức mạnh của con người trên con đường đi tìm hạnh
phúc…
4. Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật thể hiện nhân vật Tràng qua đoạn trích. Cảm
nghĩa của bản thân về tư tưởng nhân đạo của 2 nhà văn
IV. THỊ NỞ - VỢ NHẶT
MB
Giới thiệu kết quả về Nam Cao và Chí Phèo, Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.
Khám phá riêng của mỗi tác giả.
TB:
1. Khám phá riêng của Chí Phèo trong Nam Cao :
-Thân phận khốn khổ của người nông dân: Chí Phèo từ đứa trẻ bỏ rơi bơ vơ,
không nhà cửa, không họ hàng thân thích, làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến
rồi bị đầy vào tù.
Bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh, bị huỷ hoại nhân tính đến nhân hình,
bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện,
nhưng bị xã hội làng Vũ Đại lạnh lùng cự tuyệt. Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự
tuyệt quyền làm người dẫn đến cái chết đầy bi phẫn.
Qua Chí Phèo, Nam Cao xây dựng một hình tượng xã hội phổ biến ở nông thôn
Việt Nam trước Cách Mạng, một bộ phận người lao động lương thiện bị đẩy vào
con đường tha hoá, lưu manh hoá.
2. Khám phá riêng của Kim Lân trong Vợ nhăt
-Thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng (dân ngụ cư, nghèo túng, không lấy nổi
vợ, dáng đi lòng khòng.. )
-Tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945..
Cảnh ngộ và vợ Tràng ngồi vêu bên kho thóc, mặt lưỡi cày xám xịt.. câu chuyện
nhặt được vợ của Tràng và cảnh rước nàng dâu về nhà chồng đã phơi bày sự
nghèo đói và thê thảm.
3. Kết thúc của hai tác phẩm
a. Khác nhau
-Truyện “Chí Phèo” bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở
phần đầu tác phẩm khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn ngang xuống bụng
và trong đầu Thị thoáng hiện ra hình ảnh lò gạch bỏ không và vắng người qua
lại.
-Còn truyện “Vợ nhặt” kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong đầu Tràng : đoàn
người đi phá kho thóc của Nhật cũng với lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới.
Hình ảnh này đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân
được miêu tả ở những phần trước của thiên truyện.
b. Giải thích vì sao có sự khác nhau.
Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử : “Chí Phèo” viết trước Cách Mạng
(viết năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đêm tối của XHVN đương thời.
Còn “Vợ nhặt” viết sau năm 1945 khi quần chúng đã được CM giải phóng.
Chí Phèo thuộc khuynh hướng văn học CM từ sau năm 1945 có khả năng và cần
thiết phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời sống XH.
Kết thúc của Chí Phèo đầy ám ảnh góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng tròn,
thể hiện sự bế tắc của số phận người nông dân, đồng thời cho thấy hiện tượng
Chí Phèo vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc “Vợ nhặt” mở ra một
hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người
nông dân và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát đường cùng thì những
người nông dân nghèo khổ sẽ hướng đến cách mạng.
4.Phân tích đặc sắc, tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm.
a. Của “Chí Phèo”
- Tố cáo tội ác của xã hội cũ đẩy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha
hoá, lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình của con người và khi trở
về với cuộc sống lương thiện thì bị xã hội lạnh lùng cứ tuyệt.
- Từ đó cất lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm người lương
thiện cho những người cùng khổ thuộc xã hội.
Thể hiện niềm tin và bản chất lương thiện của người lao động. Khẳng định khát
vọng lương thiện của họ ngay cả khi bị đẩy vào tình trạng lưu manh hoá. Với
“Chí Phèo”, Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lương thiện của con
người.
b. Của “Vợ nhặt”
- Sự cảm thông với tình trạng đói khổ cùng cực của người dân lao động như nằm
bên bờ vực thẳm của cái chết.
- Khẳng định bản chất tốt đẹp của người lao động. Trong cảnh cùng đường đói
khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau.
- Thể hiện khát vọng đầy tính nhân bản của con người. Khi bị đẩy tới bước
đường cùng, người lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin; vẫn khao khát
có một mái ấm gia đình, khát khao về hạnh phúc, họ không nghĩ về cái chết mà
chỉ nghĩ về sự sống
V.So sánh Mị - Chí Phèo
Đề bài: So sánh nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và
Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao. Để thấy rõ được sự hồi
sinh thức tỉnh vượt qua những ngày tháng dài sống trong tăm tối.

Tô Hoài và Nam Cao được xem là hai cây bút xuất sắc trong nền văn học hiện
đại Việt Nam. Hai ông có đặc điểm chung là ưa thích viết về những người nông
dân chịu thương chịu khó bị áp bức bọc lột. Nếu như Nam Cao đi sâu khai thác
hình ảnh người nông dân ở làng Đại Hoàng – quê hương nhà văn tiêu biểu là
nhân vật Chí Phèo. Thì Tô Hoài lại tìm đến những người nông dân chịu thương
chịu khó ở vùng núi Tây Bắc xa xôi tiêu biểu là nhân vật Mị. Hai nhân vật khác
nhau nhưng đều có điểm chung là sự hồi sinh thức tỉnh sau những ngày tháng
dài sống trong tăm tối.
Nam Cao và Tô Hoài được xem là có sự đồng điều tâm hồn, gặp gỡ về mặt tư
tưởng nhân đạo.Khi văn thơ của họ đều là tiếng nói yêu thương cảm thông sâu
sắc với số phận con người trong xã hội phong kiến phải chịu áp bức bóc lột đến
tha hóa cả bản thân.Tuy nhiên, nhân vật của họ không bị khuất phục trước bóng
đen của quyền lực mà ngay cuối đường họ đã được hồi sinh quay trở lại với bản
ngã thiện lương.

Trước khi hồi sinh về với ước vọng sống bình thường cả Chí và Mị đều là những
người nông dân hiền lành chăm chỉ.Chí Phèo vốn là một anh nông dân chăm chỉ
ở đợ cho nhà Bá Kiến.Vì ham mê nhục dục của bà Ba cùng sự ghen tuông đớn
hèn của Bá Kiến đã đẩy chàng thanh niên đó vào tù. Nhà tù thực dân nơi đầy
oan trái đã làm tha hóa con người hiền lành của Chí và trả lại một kẻ mất đi cả
nhân hình và nhân tính. Trên mặt Chí có biết bao nhiêu là vết sẹo “vằn dọc vằn
ngang”, “răng cạo trắng hớn”, “đầu trọc lốc” trông gớm ghiếc. Về nhân tính hắn
được xem là con quỷ của làng Vũ Đại chuyên rạch mặt ăn vạ. Chí đã phải đối
mặt với bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời cha mẹ ruồng bỏ hắn, dân làng từ
chối hắn.Không một ai đón nhận hắn trở về với xã hội.Hắn bị xã hội chối bỏ
quyền làm người và coi như “cục thịt thừa” trong làng.

Mị vốn là một cô gái xinh đẹp tài giỏi được biết bao chàng trai ngưỡng mộ
muốn có được nàng.Tuy nhiên, người con gái hương sắc vẹn toàn ấy lại rơi vào
tấn bi kịch của cuộc đời khi phải làm dâu gạt nợ cho gia đình nhà Thống Lí Pá
Tra.Từ đây, cuộc đời của Mị bước vào chuỗi ngày dài tăm tối. Mị sống ở nhà
Thống Lí lầm lũi như một con rùa trong xó cửa. Ngày ngày chỉ biết quay sợi,
thái cỏ ngựa, lên nương…làm quần quật từ sáng đến đêm. Đến con trâu con
ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi ăn cỏ còn đàn bà con gái nhà này không lúc nào
được ngơi tay. Vì thế mà lúc nào, mặt cô cũng buồn rười rượi.Mị sống một cuộc
sống không biết ngày mai sống mà như đã chết.

Để lý giải cho sự hồi sinh của hai nhân vật Chí Phèo và Mị cả Nam Cao và Tô
Hoài đã xây dựng những tình huống kịch tính thức tỉnh nhân vật có bước chuyển
biến về suy nghĩ cũng như hành động.

Ta thấy, ở nhân vật Chí Phèo sau những ngày dài chìm trong men rượu. Đêm
hôm đấy Chí đã gặp Thị Nở – người con gái xấu như ma chê quỷ hờn của nàng
Vũ Đại. Sau cái đêm tình trong vườn chuối đó đã thực sự hồi sinh con người
Chí. Hắn lại nghe thấy những tiếng động thân thương của cuộc sống hàng hàng.
Hắn cũng nhớ ra cũng đã có thời mình mơ ước được sống một cuộc sống bình
dị.Vợ chồng bảo nhau làm ăn, nuôi lợn, chăn gà xây dựng gia đình hạnh phúc.
Một ước mơ về cuộc sống bình thường như bao người khác nay lại được khơi
gợi lên từ khi gặp Thị Nở. Chí lại muốn làm người lương thiện. Hắn đến tìm Bá
Kiến và kết thúc cuộc đời đầy đau khổ của mình bằng câu hỏi “Ai cho tao lương
thiện”.Mặc dù, Chí Phèo đã chết nhưng trước khi chết hắn đã tìm lại được thiện
lương trong con người.

Đối với nhân vật Mị sự thức tỉnh của Mị nằm ở hoàn cảnh Mị trong cái đêm tình
mùa xuân ấy và khi nhìn thấy những giọt nước mắt lăn dài trên gò má của A
Phủ. Lòng ham sống mãnh liệt được đánh thức trong Mị. Mị nghe thấy tiếng áo
gọi bạn tình và cô lại muốn mặc váy, muốn được sửa soạn đi chơi hội như ngày
xưa. Những hành động đấy cho thấy chứng tỏ Mị đã đã thức tỉnh. Sức sống tiềm
tang trong con người đã được đánh thức nhờ tiếng sáo.Rồi đến khi cô chứng
kiến A Phủ bị cha con nhà Thống Lí hành hạ trói ở cây cột ngoài sân. Cô biết
nếu không chạy khỏi đây thì cũng chết dần chết mòn như những người con dâu
sống trong nhà Thống Lí trước đây. Nên cô đã cởi trói cho A Phủ và cùng anh
chốn đi tìm chân trời mới.

Cả Nam Cao và Tô Hoài đều xót thương và đồng cảm cho nhân vật của mình.Sự
hồi sinh về nhân tính cũng như khát vọng sống mãnh liệt của Chí Phèo và Mị là
tiếng nói phê phán gay gắt xã hội phong kiến thối nát. Nơi mà con người ta đã
dùng quyền lực để áp bức đẩy những người nông dân hiền lành trở nên bị tha
hóa mất hết ý thức sống.

Hai truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Chí Phèo của Nam Cao đã cho
ta thấy mặc dù viết về cuộc đời của hai nhân vật có số phận khác nhau. Nhưng
điểm chung giữ nhân vật Chí Phèo và Mị là đều có một cuộc đời bất hạnh. Trải
qua nhiều đau khổ mất mát họ mới tìm lại được con người trước đây của
mình.Sự hồi sinh và thức tỉnh của họ chính là tiếng nói cảm thương của tác giả.
Và thể hiện được giá trị nhân văn sâu sắc trong hai tác phẩm.
VI.So sánh A Sử - Người đàn ông hàng chài
Có ý kiến cho rằng: nhân vật người đàn ông hàng chài và người vợ trong truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu không khác gì nhân vật A
Sử và Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
Anh/chị có đồng tình với ý kiến trên không? Từ cảm nhận về các nhân vật người
đàn ông hàng chài, người đàn bà hàng chài, A Sử, Mị, anh/chị hãy bình luận ý
kiến trên.
Yêu cầu chung
– Câu này kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học của thí sinh, đòi hỏi thí
sinh phải huy động kiến thức về tác phẩm văn học, kĩ năng
tạo lập văn bản và khả năng cảm thụ văn chương của mình để làm bài.
– Thí sinh có thể phân tích và kiến giải theo những cách khác nhau, nhưng phải
có lí lẽ, có căn cứ xác đáng, không được thoát li văn bản
tác phẩm.
Yêu cầu cụ thể
Ý1: Giới thiệu hai tác giả Nguyễn Minh Châu và Tô Hoài, hai tác phẩm, dẫn dắt
vấn đề đặt ra trong đề bài. (0,5đ)
Ý2: Giải thích ý kiến
Ý kiến trên vừa đúng vừa chưa hoàn chỉnh, vì hai nhân vật người đàn ông hàng
chài và A Sử; hai nhân vật người đàn bà hàng chài và Mị vừa có nét giống nhau
vừa có nét khác nhau. (0,5đ)
Ý3: Cảm nhận, bình luận
(2,5đ)
– Ý kiến trên không sai vì hai cặp nhân vật trong hai tác phẩm có nhiều nét
tương đồng:
+ Hai nhân vật người chồng đều có những hành động vũ phu, thô bạo với người
vợ của mình.
+ Hai người phụ nữ đều phải nếm trải bi kịch bị bạo hành; đều có vẻ ngoài lặng
lẽ, cam chịu nhưng bên trong lại tiềm ẩn nguồn sức sống mãnh liệt,… Tâm hồn
họ ẩn chứa nhiều phẩm chất đáng quý.
– Nhưng ý kiến trên chưa hoàn toàn chính xác và cần được bổ sung vì mỗi cặp
nhân vật được khắc họa với những nét tính cách riêng; mối quan hệ giữa họ
cũng không giống nhau:
+ Cách đối xử của nhân vật A Sử với Mị thể hiện bản chất tàn ác của một kẻ
giàu sang, quyền thế, sa đọa, coi sinh mạng con người như cỏ rác; trong khi
hành động của người đàn ông hàng chài lại bắt nguồn từ nỗi đau khổ, uất hận do
cuộc sống khốn cùng, bế tắc,… ông thô bạo, vũ phu, tàn nhẫn nhưng không mất
hết nhân tính.
+ Giữa Mị và A Sử không có tình cảm, không có sự gắn kết nào về mặt tình
cảm; còn giữa cặp vợ chồng hàng chài lại có tình thương, có một đàn con cần
phải nuôi nấng.
+ Bi kịch của Mị bắt nguồn từ mâu thuẫn giai cấp giữa kẻ giàu và người nghèo,
giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột; còn bi kịch của người đàn bà hàng chài nảy
sinh từ hiện thực cuộc sống bề bộn, ngổn ngang những gian khó của một đất
nước vừa trải qua mấy chục năm chiến tranh tàn phá.
VII. So sánh Chí Phèo – Hồn Trương Ba
So Sánh bi kịch tha hóa của hai nhân vật Chí Phèo (“Chí Phèo,,- Nam Cao) và
hồn Trương Ba ( “Hồn Trương Ba,da hàng thịt,,- Lưu Quang Vũ).
Bài tham khảo
Nam Cao là nhà văn lớn, có những đóng góp quan trọng cho văn học dân tộc.
Nếu chọn ra ba tác giả văn xuôi nổi tiếng nhất thế kỉ XX của người Việt thì chắc
chắn không thể vắng ông- nhà văn của những trí thức, những nông dân nghèo
khổ, khốn cùng. Vànếu phải chọn ra ba kiệt tác của Nam Cao thì không thể
không có “Chí Phèo,,. Trong một số câu chữ không quá nhiều, nhà văn đã
chuyển tải được những thông điệp có ý nghĩa rất lớn với con người. Còn Lưu
Quang Vũ lại được xem như một nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt
Nam hiện đại. Ông là tác giả của gần 50 vở kịch trong đó có những vở gây chấn
động dư luận như “ Lời thề thứ 9, “Tôi và chúng ta,, “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt,,.. Kịch của Lưu Quang Vũ đã phản ánh được những vấn đề bức thiết của
thời đại, đồng thời mang tính triết lí sâu sắc. Truyện ngắn “Chí Phèo,, của Nam
Cao và vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt,, của Lưu Quang Vũ tuy ra đời
trong những hoàn cảnh xã hội - lịch sử khác nhau nhưng tất thảy đều đề cập đến
những bi kịch của con người, trong đó có bi kịch tha hóa.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về bi kịch. Thông thường, người ta cho
rằng bi kịch là trạng thái đau khổ về tinh thần khi con người đứng trước những
mâu thuẫn không thể hóa giải, khi mong muốn khát vọng và thực tiễn hoàn toàn
trái ngược… Còn “tha hóa,, theo nhiều nhà nghiên cứu, vốn có xuất xứ từ trong
triết học của Hê-ghen.Giờ đây, nó đã biến đổi về nghĩa rất nhiều so với ban đầu.
Tha hóa được hiểu là đánh mất giá trị, bản chất thông thường vốn có. Chúng ta
vẫn quen dùng hai chữ ấy để chỉ những gì thuộc về con người và các hoạt động
của con người, liên quan đến chủ thể con người, theo hướng chẳng tốt đẹp gì.
Do những nguyên nhân khác nhau, cả Chí Phèo và Trương Ba, hai nhân vật
trung tâm trong hai tác phẩm đều rơi vào bi kịch tha hóa đau đớn.
Trong tác phẩm “Chí Phèo,,, khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương
thời Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm, rách áo bần cùng khốn
khổ của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ
biến.Nhà văn trăn trở băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm
khốc hơn cả đói rét bần cùng. Đó là sự tha hóa…
Tác phẩm được mở đầu bằng tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí. Hắn
chửi trời, chửi đời, chửi làng VĐ, chửi những ai không chửi nhau với hắn và
cuối cùng chửi người đã sinh ra hắn.Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một
tiếng chửi vô thức. Nhưng đôi khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính
mình nhiều hơn khi tỉnh.Qua tiếng chửi của CP, người đọc cảm thấy như đang
đối diện với một con “người- vật,, quái gở, đang ở tận cùng của khổ đau, đang
trút lên cuôc đời tiếng nói hằn học, phẫn uất, đầy đau khổ của mình.Cũng qua
tiếng chửi của Chí, người đọc nhận ra ba thái độ khác nhau: thái độ hằn học, thù
địch đau khổ của Chí, thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời, thái độ phẫn
uất thương cảm của tác giả.Tiếng nói nhân ái của nhà văn đã đánh thức tấm lòng
người đọc. Qua cách dẫn dắt của người kể chuyện, người đọc hiểu rằng trước
kia Chí vốn hiền lành lương thiện, tự trọng.Hắn đã từng mơ ước được sống bằng
hai bàn tay lao động của mình với “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày
thuê, vợ dệt vải..,,.Làm canh điền cho lí Kiến bị bà bà lợi dụng xúc phạm Chí
cảm thấy rất nhục.Chỉ sau khi ở tù về, hắn mới hóa thành một kẻ khác hẳn “Cái
đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn…,,.Cái mặt hắn cũng trở nên dị biệt
“không trẻ cũng không già, nó không còn phải là mặt người,nó là mặt một con
vật lạ..,,Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.Những
cơn say triền miên đã cướp đi ngày tháng của hắn “Hắn ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu chửi bới rạch mặt ăn vạ trong lúc
say..,,Trong cơn say, hắn đã phá nát bao cơ nghiệp , đập nát bao nhiêu cảnh yên
vui, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện,,.Chí Phèo đã
trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.Nhưng hắn chưa bao giờ nhận ra sự thật
nghiệt ngã ấy. Thậm chí còn tự đắc “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng
ta,,.Sự tha hóa hằn in trong bộ dạng trong ngôn ngữ trong hành động và cả trong
những ngộ nhận của nhân vật về mình. Chí đã rơi vào tình trạng đáng lo ngại mà
không biết.
Bị đối xử tàn bạo Chí đã phản kháng bằng sự bạo tàn. Đó là sự “phẫn nộ tối
tăm,, như Lênin đã từng nói. Trong “Chí Phèo,,, Nam Cao đã chỉ ra rằng, Chí
Phèo không phải một ngoại lệ. Bên cạnh hắn còn có Binh Chức, Năm Thọ.. Đó
là kết quả tất yếu của một lô-gic: một khi đã có Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo.. thì
tất sẽ có Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức…Đó không chỉ là sản phẩm của sự
thống trị mà còn là một phương tiện thống trị “Không có những thằng đầu bò thì
lấy ai trị những thằng đầu bò.,,.Xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục
nuôi dưỡng Chí Phèo, biến những con người như Chí Phèo thành công cụ thống
trị xã hội.
Cũng như Chí Phèo, Trương Ba trước đây là con người hoàn toàn khác. Trương
Ba là người nông dân chăm chỉ, khéo léo,yêu thương vợ con, chiều quý các
cháu, tốt bụng với hàng xóm láng giềng, yêu cây cỏ...Từ khi sống trong xác anh
hàng thịt,Trương Ba trở nên vụng về, thô tục, thô bạo, vô tình…Trương Ba thích
bán thịt, ham uống rượu, những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn,
vô hồn…Trương Ba đã bị xác hàng thịt điều khiển, chi phối. Nếu Chí Phèo tha
hóa mà không biết mình tha hóa, thì Trương Ba lại nhận thấy rất rõ tình trạng
khốn khổ của mình. Cho dù không muốn thừa nhận, cho dù muốn bám víu vào
trò chơi tâm hồn thì Trương Ba vẫn không thể phủ nhận sự thật là ông đang
đánh mất mình “ Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta a,
mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta,,. Cuộc đối thoại thẳng thắn giữa hồn
Trương Ba và xác hàng thịt đã đã diễn tả khá sâu sắc nỗi hoang mang hoài nghi,
sự bất lực của con người. Mọi lí lẽ của Trương Ba không thể lung lay thứ lập
luận lấm láp bụi trần nhưng hùng hồn thuyết phục của xác hàng thịt “Hai ta đã
hòa vào nhau làm một rồi,,. Dù khinh bỉ xác hàng thịt, Trương Ba vẫn phải quay
trở lại xác hàng thịt. Sự thay đổi của hồn Trương Ba trong thời gian trú ngụ ở
xác hàng thịt càng ngày càng rõ nét.
Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lời các nhân vật khác- những người thân trong
gia đình Trương Ba để chỉ ra điều ấy.Hồn Trương Ba bây giờ đâu còn là người
làm vườn chăm chỉ, hết lòng yêu thương vợ con như trước. Ông cũng chẳng
quan tâm dến chuyện của bà con làng xóm. Hồn Trương Ba thô lỗ phũ phàng
không còn nhẹ nhàng khéo léo khi chữa diều, chăm sóc cây cối như trước nữa.
Ngày cả chị con dâu người thông cảm cho tình cảnh của hồn Trương Ba, cũng
xót xa ngỡ ngàng bởi không thấy hình ảnh con người “hiền hậu, vui vẻ tốt lành,,
của Trương Ba trước đây. Những lời thoại sau đó của hồn Trương Ba với Đế
Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức sâu sắc, thấm thía về tình cảnh trở trêu của
mình:“ Ông chĩ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông
chẳng cần biết,,.
Nỗi khốn khổ của Trương Ba và Chí Phèo đều do kẻ thống trị gây nên. Bá Kiến
nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù 7,8 năm. Tiếp thu sự giáo dục của nhà tù thực dân
Chí Phèo đã trở thành kẻ côn đồ hung hãn. Hắn vùng lên liều mạng để trả thù.
Nhưng hắn đã gặp kẻ thống trị nham hiểm, xảo quyệt và bị biến thành công cụ
cho kẻ thù của mình. Ông Trương Ba hiền hậu tử tế, tốt bụng còn đang rất khỏe
mạnh,mặc dầu chưa tận số đã phải chết thay cho một tên bạc ác bất nhân, lừa
thầy phản bạn, dối trá tham tàn bởi cung cách làm việc luộm thuộm, thiếu trách
nhiệm, muốn xong việc nhanh của Nam Tào. Nếu cứ để Trương Ba chết đi thì
tác phẩm chỉ là tiếng nói tố cáo sự cẩu thả vô trách nhiệm của Nam Tào. Nhưng
Đế Thích đã sữa chữa sai lầm của Nam Tào bằng cách để cho hồn Trương Ba
sống lại trong thân xác hàng thịt. Không chỉ Nam Tào mà Đế Thích cũng mắc
phải sai lầm. Đâu phải cứ làm điều tốt cho người khác là mang lại hạnh phúc
cho họ.Ở địa vị cao, mà không thận trọng với những quyết định của mình, con
người dễ gây ra những sai lầm không thể sửa chữa. Bi kịch tha hóa của hồn
Trương Ba có nguyên nhân trực tiếp từ sự tắc trách, quan liêu của quan nhà trời.
Nhưng còn nguyên nhân gián tiếp ? Ấy là định kiến của con người về xác hàng
thịt. Đối với những người thân của Trương Ba và ngay cả Trương Ba, xác hàng
thịt là hiện thân cho những gì tầm thường phàm tục nhất. Song đó lại là những
nhu cầu thiết thực cho mọi sự sống: được ăn, được mặc, được thỏa mãn những
nhục cảm cá nhân.. Phủ nhận những nhu cầu ấy là phủ nhậnphần bản năng trong
mỗi người. Vậy thì đâu chỉ có Trương Ba bất hạnh. Xác hàng thịt cũng thật đáng
thương !.
Chí Phèo tha hóa đã gây ra bao thảm cảnh cho dân làng. Còn hồn Trương Ba đã
trở thành tâm điểm của sự rối ren. Không chỉ riêng hồn Trương Ba hay gia đình
ông khốn đốn mà còn bao gia đình khác, bao nhiêu cuộc sống khác chao đảo,
chịu hệ lụy. Lỗi lầm bắt đầu từ tiên thánh, những kẻ nắm vận mệnh con người và
sau đó con người với sự vô sỉ, thỏa hiệp cùng cái xấu đã đẩy tất cả dến chỗ rối
ren hơn.
Tái hiện sống động và rõ nét bi kịch tha hóa của Chí Phèo, Nam Cao đã bộc lộ
một cái nhìn hiện thực sắc sảo đồng thời nói lên sự gắn bó đồng cảm thấu hiểu
sâu sắc cuộc sống của người nông dân. Ông đã đem đến cho những trang viết
của mình sức mạnh của sự khám phá phát hiện. Trước Nam Cao, các nhà văn
hiện thực chỉ mới chú ý tới tình trạng bần cùng hóa. Trước Nam Cao, Nguyên
Hồng mới chỉ phản ánh và miêu tả loại nhân vật lưu manh thành thị. Hiện tượng
tha hóa, lưu manh ở nông thôn với những đặc điểm riêng, với ý nghĩa quan trọng
của nó lần đầu tiên được Nam Cao quan tâm và miêu tả tập trung, rõ nét. Ông đã
đem đến cho văn học hiện thực 1930-1945 một điển hình về người nông dân,
phơi bày bản chất của nông thôn đen tối trước Cách mạng. Với Lưu Quang Vũ,
sự tha hóa của hồn Trương Ba cũng là một hiện thực nhức nhối trong xã hội.
Con người “muốn nuôi sống xác thân/ Đem làm thịt linh hồn,, ( Chế Lan Viên).
Nhưng bi kịch của Trương Ba còn gợi ra những suy tư về mối quan hệ giữa hồn
và xác, giữa ý thức và bản năng...Có ai là toàn vẹn hoàn hảo không? Những đòi
hỏi của thân xác có phải tội lỗi đáng ghê tởm không ? Vở kịch do vậy vừa có ý
nghĩa xã hội vừa mang tính triết lí sâu xa.
Những điều mà hai nhà văn muốn nói qua tấn bi kịch tha hóa không chỉ có
thế.Người đọc có thể sẽ nhớ dến một ý kiến rất sâu sắc của Nguyễn Minh Châu:
“ Có một số khá đông con người bây giờ đang sống trong một cái thế rất chông
chênh giữa một câu nói lịch sử và một câu nói gắt bẳn(...). Và trong từng con
người luôn luôn có tiếng gọi thì thầm “Đừng nói thế, đừng làm thế!,, Rồi lại một
lời thúc giục khác: “ Cứ nói bừa đi! Cứ làm bừa đi!,,. Nam Cao, Lưu Quang Vũ,
Nguyễn Minh Châu đã rung chuông thức tỉnh mỗi con người chúng ta. Bởi
nhiều khi chúng ta vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm nhưng ít khi chúng ta thành
quan tòa của chính mình. Trong một cơn say, Tự Lãng đã hỏi Chí Phèo: “Con
người ta đứng lên bằng cái gì,,. Lời giải đáp tùy thuộc vào bản lĩnh và hoàn cảnh
của mỗi con người. Có điều, ngã xuống ở đâu thì nên đứng lên ở đó
VIII.So sánh Phùng – Vũ Như Tô
Nghệ thuật luôn đi lên từ cái nhìn chân chính. Đúng như thế, nói đến nghệ thuật
ta không thể không nhắc đến cuộc sống vì hai thứ ấy luôn gắn liền với nhau. Hai
nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Minh Châu tuy viết hai tác phẩm ở hai
giai đoạn khác nhau nhưng họ cùng hướng đến quan niệm về nghệ thuật. Quan
niệm đó được thể hiện qua hình tượng hai nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền
ngoài xa và Vũ Như Tô trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Hai nhà văn đã xây
dựng lên hai nhân vật có nhiều nét tương đồng một cách trùng hợp và tài tình.
Cũng nhờ như thế mà hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người đều
được họ tìm thấy và nâng tầm giá trị.
Đầu tiên là Nguyễn Minh Châu, ông được xem là một trong những nhà văn tiên
phong trong công cuộc đổi mới văn học, văn của ông giản dị mà sâu sắc, thấm
thía nhiều dư vị về cuộc đời, thấm đẫm nghệ thuật, cái mà ông luôn xem là bắt
nguồn từ hiện thực cuộc sống. Cũng nhờ như thế mà nhân vật Phùng đã ra đời
qua chính ngòi bút của ông.

Phùng là một nhiếp ảnh gia, theo lời đề nghị của trưởng phòng, ông phải chụp
một bức ảnh để đăng cho bộ lịch cuối năm, sau nhiều ngày lao lực tìm kiếm, anh
bắt gặp một hình ảnh chiếc thuyền đang từ từ ghé vào bờ trong một buổi sáng
sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Quá thăng hoa trong cảm xúc khi khám phá ra được một bức tranh mực tàu của
một danh họa thời cổ, anh nhanh chóng bấm máy liên thanh và có những bức
ảnh ăn ý không dễ gì có được trong một đời làm nghệ thuật.

Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu, một người đồng đội cũ nay là chánh án toà
án huyện, với người phụ nữ khốn khổ kia, Phùng mới vỡ lẽ ra rằng, người phụ
nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận đòn của chồng và không
chịu giải phóng là vì tình yêu vô bờ bến đối với những đứa con. Phùng căy đắng
nhận ra rằng, đằng sau cảnh đẹp như mơ kia là bao ngang trái, éo le của đời
thường mà anh chưa hiểu hết. Trưởng phòng rất hài lòng về tấm ảnh. Mãi về
sau, nó vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất và những gia đình sành nghệ thuật.
Nhưng mỗi khi nhìn kỹ bức ảnh, cảm xúc của anh luôn lẫn lộn trào dâng.
Tình huống được tạo nên từ ngòi bút của ông là sự tương phản giữa nghệ thuật
và cuộc sống, nghệ thuật thì ở ngoài xa còn cuộc đời thì lại thật gần, nghệ thuật
thì đẹp nhưng cuộc đời sao đầy rẫy bao ngang trái. Ông cho người đọc thấy
được cái nhìn đa diện, nhiều chiều về cuộc sống, chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng
đã hiểu ra nhiều điều về con người, về cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và
tiếp xúc với người đàn bà hàng chài, từ đó ông gợi mở những vấn đề mới vô
cùng triết lý cho sáng tạo và nghệ thuật.
Tiếp đến là Nguyễn Huy Tưởng, nhà văn có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử,
ông có rất nhiều đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch, một trong những
vở kịch để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
mà thông qua nhân vật Vũ Như Tô ta càng thấy được mối quan hệ mật thiết giữa
nghệ thuật và cuộc sống.
Vũ Như Tô được biết đến qua tác phẩm của ông là một kiến trúc sư thiên tài và
đam mê nghệ thuật, bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để
làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Nhưng ông là một nghệ sĩ có nhân
cách và có lý tưởng nghệ thuật hết sức cao đẹp, không phải là người ham sống
sợ chết hay chỉ vì chút công danh mà phải bán thân mình cho nghệ thuật. Lúc
đầu, ông nhất định thà chết chứ không xây dựng Cửu Trùng Đài cho tên vua bạo
ngược, nhưng khi nhận ra giá trị nghệ thuật để lại cho đời thì ông lại quên mất
một thực tế là dân chúng đang đói khổ.
Cửu Trùng Đài càng xây cao bao nhiêu thì mồ hôi, nước mắt và cả máu xương
của nhân dân ngày càng tăng lên bấy nhiêu. Vũ Như Tô càng quyết tâm xây
dựng Cửu Trùng Đài thì các mâu thuẫn ngày càng theo đó mà khó giải quyết và
Đan Thiềm càng khuyến khích Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài thì xung đột giữa
người nông dân và con người nghệ thuật ngày càng tăng cao. Có thể nói đó là
một khát vọng hết sức chân chính nhưng nó được đặt không đúng chỗ , không
kịp thời, không tính đến giá trị cuộc sống thì nghiễm nhiên chính nó sẽ tự trở
thành tai họa. Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là phạm
nhân và cũng vừa là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô
và Đan Thiềm mặc dù được giải quyết nhưng không được thõa đáng. Vũ Như
Tô bị giết mặc dù trong thâm tâm ông không hề có ý định hại dân, khi chết ông
vẫn chưa nhận ra được sai lầm của mình.
Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra những vấn đề sâu sắc và có ý
nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lý tưởng
nghệ thuật cao siêu thuần túy của muôn đời với lợi ích thiết thực và trực tiếp của
nhân dân.
Cả hai tác phẩm này đều xây dựng lên một nhân vật hết lòng đam mê nghệ thuật
nhưng chỉ vì chưa thấy rõ sự đối lập mà dẫn đến những kết cục đáng buồn. Nghệ
sĩ Phùng đã thấy được mặt trái của sự việc và đã kịp thời sửa sai nhưng Vũ Như
Tô phải lấy cả cái giá của nghệ thuật để đổi bằng chính mạng sống của mình.
Tuy được viết vào hai bối cảnh xã hội khác nhau, văn hóa mà đối tượng tồn tại
khác nhau và phong cách của hai nhà văn cũng hoàn toàn khác nhau, nhưng họ
đều có một điểm chung đã lật ra lá bài của nghệ thuật. Nghệ thuật phải gắn liền
với cuộc sống, phục vụ cuộc sống, nếu nghệ thuật xa rời cuộc sống, xa rời quần
chúng thì chỉ đem lại bi kịch thảm khốc như của Vũ Như Tô hay cái nhìn phiến
diện về cuộc sống của nghệ sĩ Phùng. Tuy rằng nghệ thuật là cái đẹp của cuộc
sống nhưng không phải lúc nào nó cũng đẹp. Đằng sau của tấm huy chương rạng
rỡ luôn gồ gề và nhiều khuyết điểm. Ngoài ra, nghệ thuật chân chính là nghệ
thuật vì cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống, nghệ thuật xa rời cuộc sống chỉ là
nghệ thuật suông, không xứng đáng là nghệ thuật chân chính, đều đó đòi hỏi
người nghệ sĩ phải biết tìm tòi, khám phá cuộc sống, hiểu nó trên nhiều phương
diện. Nghệ sĩ chân chính cũng giống như nghệ thuật chân chính và nghệ thuật
luôn phải vì nhân sinh không chỉ bó hẹp nghệ thuật vì nghệ thuật.
Như Tố Hữu đã từng tâm sự

Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô dóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên
Cả hai nhà văn đã cho ta nhận thức được cái đẹp của nghệ thuật như thế nào, con
đường tìm kiếm, đi đến và chinh phục nghệ thuật sẽ ra sao. Tuy không đem lại
kết cục như mong đợi nhưng hai nhà văn dường như đã bộc lộ hết vẻ tài tình qua
những lời văn của mình. Ngôn ngữ điêu luyện, có tính tổng hợp cao, dùng ngôn
từ và hành động của nhân vật để khắc họa tính cách, đó chính là cái tài mà
không dễ ai có được. Và cũng nhờ nghệ thuật chân chính mà cái tài đó càng
thêm sâu sắc hơn, thấm đẫm với chúng ta hơn.

You might also like