You are on page 1of 19

VỢ NHẶT

KIM LÂN

Tác giả Kim Lân từng tâm sự:


“Tôi ở trong gia đình bị khinh rẻ, ngoài xã hội cũng coi thường vì tôi là con vợ ba, một người ngụ
cư. Chính vì muốn đòi cho mình sự công bằng với bè bạn, với làng xóm tôi chọn cách viết. Đây là cách
để chứng tỏ mình không thua gì anh em, không thua gì ai. Các anh con nhà giàu, làm việc này việc kia,
được học hành đến nơi đến chốn, còn tôi thì tôi viết.”
“Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó là
những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc”.
Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm đã viết: “Kim Lân là một trong những cây bút truyện
ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng
Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc”.
Nhà văn Nguyễn Khải từng nhận xét đầy thán phục: “Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi
thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này, viết lách được cái gì,
thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn”.
Nhận xét về truyện ngắn Làng và Vợ nhặt của Kim Lân, nhà văn Nguyễn Khải vô cùng ngạc
nhiên: “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ”.
Nhà thơ Trần Ninh Hồ viết: “Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận,
những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người
thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy.”
Nhà văn Nguyên Hồng nhận xét: “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất với người với thuần
hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nông thôn”.
Hữu Thỉnh từng viết: "Văn Kim Lân luôn mang đậm hồn quê, sự kế tục ngôn ngữ, phong tục của
người Việt”.

Tư tưởng – - Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người
nghệ thuật ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn
của nhà cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới
văn khi sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.
sáng tác - Dịch đói dạo đó thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói, vừa có người bỏ đi, dần
- Mục đích dần mất hẳn. Tôi tận mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác ở khắp nơi. Khi con người bị đẩy đến
sáng tác ? bờ vực cuối cùng của cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra. Chết đói
là một thực tế khốc liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện
qua những năm tháng đó. Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của
tâm hồn họ. Có những người đói ngày ngày bới rác tìm một mẩu thức ăn thừa, buổi tối họ lại về nằm
- Thực tế cạnh nhau bàn tán về chuyện làng quê, chuyện mùa màng. Có người giữ nền nếp rất nghiêm dù đói
cuộc sống khát, con cái đi xin mang về nhà cho, ông ta vẫn áo the, đội khăn xếp ngồi giữa nhà để ăn. Có người
được nhà đói xô vào cướp cám để ăn, bị đánh cũng chịu không đánh lại, họ biết rằng chuyện cướp cám của họ
văn phản là sai nhưng họ vẫn phải làm vì đói. Nói tóm lại, bi kịch sống của mọi người vào thời điểm đó hầu như
ánh ? giống nhau: Đói. Nó vừa cay đắng, vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó lại lóe lên những tia sáng
về đạo đức, danh dự.
- Ý nghĩa - “Cái đói” là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại. Cho nên đó cũng là
phổ quát một đề tài thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực
của đề tài của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý
? tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống
- Tính chân tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực
thực của luôn hành hạ họ (...)
câu chuyện - Chuyện “Vợ nhặt” hoàn toàn không có thực mà do tôi sáng tạo ra. Không thể có một bà mẹ như
được hư thế, một cô con dâu như thế trong đời sống thực. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận con người
cấu ? trong cái hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn hướng

1
họ vào sự sống thương yêu nhau, không phải là sự giành giật nhau. Hoàn cảnh đặc biệt quá nên câu
chuyện là lạ đó lại được hiện ra với vẻ chân thật (...) Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành
khắp nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa của sự
khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm
tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh (...)
- Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại truyện là đoạn bà cụ Tứ trở về. Ở đây, tình của người
- Chủ đề mẹ thật lớn. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà
tác phẩm còn đầy thương xót với người đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hơn lắm. Đó
? chính là bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt Nam. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện.

Đề. Cảm nhận tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân.

1. Giới thiệu khái niệm, vai trò tình


a, Vai trò của tình huống ở truyện ngắn ?
huống truyện
- Sự khác nhau khi phản ánh cuộc sống Khác với tiểu thuyết luôn phản ánh cuộc sống trên một bình diện khá
giữa tiểu thuyết và truyện ngắn ? rộng lớn, bao gồm nhiều sự kiện, nhân vật đan xen trong một thời gian
tương đối dài, truyện ngắn chỉ là một “lát cắt” từ cuộc sống. Vì thế, cái
khó của truyện ngắn là tạo dựng tình huống truyện để mọi chi tiết, con
người đều xoay quanh nó và qua đó mà bộc lộ được bản chất cuộc sống,
cũng như ý tưởng của nhà văn. Tình huống có độc đáo, có mới lạ mới
giúp cho truyện có sức hấp dẫn đối với người đọc.
Theo nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn: “Tình huống truyện là một sự
kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một tình thế bất thường của quan hệ
đời sống”.
- Tình huống truyện ở “Vợ nhặt” là tình b, Tình huống truyện ở “Vợ nhặt” ?
huống nào ? Đó là việc Tràng, nhân vật chính của truyện, một người xấu xí, nghèo
khó, là dân ngụ cư, lấy được vợ. Tình huống này mới nghe qua, ai cũng
nghĩ là bình thường, chẳng có gì để kể, bởi trên đời, ngoại trừ số ít trường
hợp đặc biệt, còn tất cả đàn ông, con trai ai mà không lấy vợ. Song, ở Vợ
nhặt, đây lại là tình huống độc đáo và hấp dẫn.

2. Phân tích

2.1. Một tình huống độc đáo và mới lạ Tràng là một gã trai nghèo, dân ngụ cư, ở bìa làng, không có đất đai
a, Người có được vợ: ruộng vườn để cày cấy như bao người khác nên hàng ngày chuyên đẩy
xe bò thuê. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo
+, Nghèo
đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
+, Dân ngụ cư
Đã thế, Tràng lại xấu trai. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng
trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ
+, Tính khí có vẻ không bình thường cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà
gà đấm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung cái bộ mặt
+, Xấu trai thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa
dữ tợn... Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng
+, Bị khinh rẻ gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Hơn nữa, Tràng bị khinh là dân ngụ cư, chẳng mấy ai thèm nói
=> Nhưng lấy vợ một cách dễ dàng và chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo mỗi khi anh ta đi làm về. Vậy mà, Tràng
với “giá” rẻ mạt. lấy được vợ, thậm chí lại là vợ theo không chỉ sau hai lần gặp, tốn bốn
bát bánh đúc và một câu hò nửa đùa nửa thật: Muốn ăn cơm trắng mấy
giò / Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì !
- Hoàn cảnh lúc lấy vợ: Tình huống truyện độc đáo còn vì người như Tràng lại dám lấy vợ
giữa lúc nạn đói hoành hành. Đấy là năm mà không có ngày nào không
+, Nạn đói đang hoành hành có người chết. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội
chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma,

2
+, Người chết như rạ và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngã rạ. Không buổi
sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái
thây nằm còng queo bên đường. Còn người sống thì dưới những gốc đa,
+, Người sống dật dờ gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ như những bóng ma. Hiếu
động như trẻ con mà ngồi ủ rủ dưới những xó tường không buồn nhúc
nhích. Ngay cả không khí cũng vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi
+, Mọi người chỉ nghĩ đến miếng ăn, gây của xác người... Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào
nghĩ đến bản thân mình lên từng hồi thê thiết. Trong cảnh ngộ đó, người ta chỉ nghĩ đến miếng
ăn, chỉ nghĩ đến bản thân mình. Người như Tràng nuôi thân còn chẳng
xong huống nữa là đèo bòng một người phụ nữ, dám mơ tưởng đến hạnh
phúc gia đình.
=> Tràng nuôi thân mình khó nổi, Việc Tràng có vợ lạ đến nỗi người trong xóm đứng cả trong ngưỡng
nhưng lại dám đèo bòng. cửa nhìn ra bàn tán, mẹ Tràng thì không thể tin con mình có vợ. Thậm
chí, cả đến Tràng. Hôm đưa người “vợ nhặt” về nhà, trong lúc chờ mẹ,
- Điều không thể đã trở thành có thể chưa có việc gì làm, anh ta nhìn thị ngồi ngay giữa nhà rồi vẫn còn ngờ
khiến mọi người ngạc nhiên, bản thân ngợ như không phải thế.
Tràng cũng ngờ ngợ”. Đây là tình huống độc đáo nhưng lại hết sức hợp lí vì nếu không phải
là năm đói thì Tràng sẽ không bao giờ lấy được vợ, không ai lấy Tràng
và anh cũng không đủ tiền cưới vợ như ý nghĩ của bà cụ Tứ: Người ta có
- Tình huống độc đáo, nhưng hợp lí: gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con
+, Không có hoàn cảnh éo le Tràng mình mới có được vợ...
không có được vợ

2.2. Một tình huống éo le Người ta lấy vợ lúc ăn nên làm ra để nở mày nở mặt, sinh con đẻ cái
a, Lí do lấy vợ: còn Tràng lấy vợ giữa lúc bóng tối của cái đói phủ trùm lên khắp xóm
làng, sẵn sàng cướp đi sinh mạng con người.
+, Sinh con đẻ cái ?
Lấy vợ nên gia nên thất là niềm hạnh phúc lớn lao của cả đời người.
+, Cái chết đang rình rập?
Nhưng việc Tràng lấy vợ lại xen giữa bất hạnh và hạnh phúc, buồn nhiều
b, Lấy vợ không chỉ có hạnh phúc mà vui ít.
Hàng xóm nơi anh Tràng ở, thấy anh đưa vợ về thì trên những gương
+, Hàng xóm vừa vui, vừa lo lắng mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Chắc là họ vui vì
anh Tràng đã tìm được hạnh phúc, hay nói như tác giả, có cái gì lạ lùng
và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Nhưng có
người đã thở dài hay khẽ thì thầm: Ôi chao ! Giời đất này còn rước cái
của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không ?
Rồi tất cả mọi người cùng im lặng.
Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, có con dâu thì mừng ít tủi nhiều. Sau những
+, Người mẹ mừng ít tủi nhiều giây phút bỡ ngỡ vì chưa hiểu, bà ít nói chỉ cúi đầu nín lặng. Lòng người
mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương
cho con mình... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước
mắt. Lòng bà tràn đầy những nỗi lo toan cùng sự xót thương: Bà lão đăm
đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt... Bà lão thở nhẹ ra
một hơi dài... Bà nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ
chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia
không ?...
Riêng anh Tràng, khi nhặt vợ về, lúc đầu cũng chợn vì thóc gạo này
đến mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nhưng
Tràng đã đánh cuộc cùng cái đói, hai tiếng “Chậc, kệ !” như một lời dứt
+, Bản thân Tràng là sự đánh cuộc khoát quyết định, hành động hào hiệp đầy tính người trong Tràng. Khát
mang tính chất liều lĩnh vọng làm người hạnh phúc khiến anh liều lĩnh và đã được đền bù: Trong
một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày,
quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày
trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người
đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn

3
ông nghèo khổ, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt
nhẹ trên sống lưng.
Éo le hơn nữa là bối cảnh của “đám cưới”. Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi
của đôi “tân hôn” diễn ra trong không khí ảm đạm. Cô dâu áo quần tả
tơi như tổ đỉa, người gầy sọp, trên cái khuôn mặt lưỡi cày chỉ còn thấy
c, Đám cưới lạ đời: hai con mắt. Con đường rước dâu thì sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ
+, Diễn ra ngoài bối cảnh ảm đạm, tre cao vút, úp súp, tối om, mờ mịt như cái tương lai của họ. Đêm tân hôn
chết chóc được đặt trong bầu không khí ảm đạm, chết chóc: Bên ngoài gió từ mặt
sông thổi lên rì rào như tiếng người thầm thì nói chuyện. Giữa sự im
lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê
+, Cô dâu mang dáng vẻ của người lúc to lúc nhỏ. Bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu là bữa cơm ngày đói trông
sắp chết đói thật thảm hại: Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và
một đĩa muối ăn với cháo... Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có
lưng lưng hai bát đã hết nhẵn. Cùng với niêu cháo lõng ấy là nồi “chè
+, Đêm tân hôn trong tiếng khóc hờ khoán” theo cách gọi cho sang của bà cụ Tứ, chứ thực ra chỉ là nồi cám
đắng chát và nghẹn bứ khiến cả ba người đều cắm đầu mà ăn cho xong
bữa và để tránh nhìn vào mặt nhau khi một nỗi tủi hờn len vào tâm trí
+, Bữa cơm đón dâu là bữa cơm ngày họ. Cảnh ngộ ấy khiến chúng ta liên tưởng đến sự ảm đạm trong “Một
đói đám cưới” của Nam Cao. Không khí cũng buồn bã, thê thương và đầy
xót xa như thế.
=> Ai cũng thấy có nỗi tủi hờn len vào
tâm trí.

3. Hiệu quả nghệ thuật của tình huống Trước hết, tình huống ấy làm nổi bật số phận của người dân nghèo
truyện trong Vợ nhặt? trước Cách mạng tháng Tám. Việc Tràng "nhặt" được vợ bằng những lời
- Tình huống truyện làm nổi bật số phận lẽ thô kệch và bốn bát bánh đúc khiến người đọc xót xa về sự rẻ rúng giá
của người dân nghèo trước Cách mạng trị con người. Chỉ bốn bát bánh quê kiểng trong những ngày đói kém
tháng Tám. cũng đủ phép màu khiến một người phụ nữ vùng đứng dậy, ton ton chạy
lại đẩy xe cho Tràng và hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên.
Và, chẳng phải cau trầu cùng những lời dạm hỏi, chỉ bốn bát bánh ấy đã
xe kết cho một mối tình. Tựa đề Vợ nhặt cho thấy Tràng lấy vợ như nhặt
rơm, nhặt rác bên đường. Qua đó, nhà văn đã gián tiếp tố cáo bọn thực
dân, phát xít đẩy nhân dân ta vào tình cảnh cùng quẩn. Chính sách nhổ
lúa trồng đay, bóc lột bằng thuế đã dẫn đến nạn đói khủng khiếp này.
Đặt người nghèo khổ trong tình huống này, tác giả còn cho ta thấy vẻ
đẹp nhân bản của con người. Dù khi đói khổ nhất con người vẫn chỉ nghĩ
- Tình huống truyện cho thấy vẻ đẹp đến con đường sống, khao khát hạnh phúc của mái ấm gia đình. Đối xử
nhân bản của con người, đề cao khát vọng với nhau bằng tình người. Nếu Ngô Tất Tố qua miếng ăn để phản ánh sự
và phẩm giá làm người. bần cùng hóa của tầng lớp nông dân trong xã hội (Tắt đèn) và nếu Nam
Cao, qua miếng ăn, để thấy bi kịch hạ thấp nhân phẩm con người (Một
bữa no), thì Kim Lân, cũng qua miếng ăn, để nhìn ra khát vọng sống của
con người, đề cao phẩm giá làm người.
Tình huống truyện ở Vợ nhặt cũng lí giải sự gắn bó tự nhiên và tất
yếu của người nông dân Việt Nam với cách mạng. Tự nhiên vì họ đến
với cách mạng với lẽ bình thường là do cơm áo, tất yếu vì chỉ có cách
mạng mới mang lại hạnh phúc mà họ khao khát. Bởi thế ở cuối truyện,
- Tình huống truyện ở “Vợ nhặt” lí giải Tràng bỗng liên tưởng đến cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau
sự gắn bó tự nhiên và tất yếu của người đi trên đê Sộp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to
nông dân Việt Nam với cách mạng. lắm. Tràng nhớ tới cảnh ấy với lòng ân hận, tiếc rẻ. Song chắc rằng,
những người nghèo đói như Tràng sẽ không bỏ qua lần thứ hai vì trong
tâm trạng họ vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới...

4. Ý nghĩa của tình huống truyện trong Tác phẩm Vợ nhặt mở đầu là cảnh tăm tối của những buổi chiều đói
Vợ nhặt ? khát nhưng kết thúc lại là vào buổi sáng mà trong đó mọi người cùng hi
vọng vào tương lai.

4
Nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt, kể những câu chuyện
khá vặt vãnh của đời thường, đã khá thành công khi xây dựng được tình
huống như thế và biến câu chuyện tưởng ai cũng thấy, ai cũng biết trở
nên hấp dẫn lạ thường.

Đề 2. Cảm nhận tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để thấy rõ hơn vẻ đẹp về
tình thương giữa những người nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945.

Tập trung vào 2 đoạn trích:

- Đoạn kể lại cảnh Tràng dắt vợ về giới thiệu với mẹ: “Tràng chợt đứng dừng lại…nước mắt cứ chảy xuống
ròng ròng”.

- Đoạn miêu tả bữa cơm ngày đói.

Dàn ý Bài tham khảo

1. Mở bài Truyện ngắn Vợ nhặt được nhà văn Kim Lân sáng tác sau Cách mạng tháng Tám, nhưng
- Giới thiệu tác giả, tác bối cảnh của tác phẩm lại là nạn đói khủng khiếp năm một chín bốn lăm. Đặt câu chuyện
phẩm trong bóng tối của sự đói khát và chết chóc ấy, nhà văn đã thể hiện cảm động tấm lòng yêu
thương, đùm bọc lẫn nhau và niềm khao khát hạnh phúc của những người nghèo khổ. Vẻ
đẹp nhân bản ấy được tác giả phát hiện và tập trung xây dựng thành công ở nhân vật bà cụ
- Giới thiệu nhân vật Tứ, mẹ của anh Tràng, người đã “nhặt” vợ.
bà cụ Tứ
Giới thiệu tác giả, HCST, xuất xứ (tóm tắt, vị trí, nội dung đoạn trích)
2. Thân bài
Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ thương con như muôn ngàn người mẹ Việt Nam
- Khái quát khác. Nhưng người mẹ ấy được đặt trong một tình cảnh hết sức éo le. Đó là việc Tràng,
- Bà cụ Tứ là nhân vật con trai của bà, giữa lúc nạn đói hoành hành lại lấy vợ. Nhưng dường như chính nghịch
khá đặc biệt trong tác cảnh này càng làm nổi rõ ánh sáng tâm hồn ở người mẹ đáng thương.
phẩm Vợ nhặt. Thành Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện từ giữa truyện, lúc anh Tràng đưa vợ về, song
công của Kim Lân là từ đấy, dù rất ít nói, bà vẫn là người thu hút nhiều nhất tâm trí của người đọc. Bởi trong
xây dựng một nhân vật lòng người mẹ ấy, cả trăm mối tơ vò, chuyện nay, chuyện xưa đan xen lẫn lộn, niềm
sống với tâm trạng là vui, nỗi buồn, sự cay đắng tủi cực lẫn xót thương vây lấy.
chính.
Bà cụ Tứ về nhà
+ Người mẹ rất mực
thương con Như thường lệ, buổi chiều ấy, khi trời sẩm tối, bà cụ Tứ về nhà. Chưa thấy người,
+ Người nhân hậu, nhưng anh Tràng biết là mẹ, bởi “ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho”. Từ ngoài
sâu sắc, bao dung, rặng tre, bà “lọng khọng đi vào”. Tính bà vẫn thế, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong
luôn vun vén cho gia miệng”.
đình và hạnh phúc Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà:
của các con; giàu đức U đã về đấy ! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn.
hi sinh. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi ới vào trong nữa.
- Tâm trạng bà cụ Tứ Trong nhà nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi
có thể chia thành từng hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi: Có việc gì thế vậy ?
chặng. Anh cu Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà.
a, Bà cụ Tứ về nhà Bà cụ Tứ phấp phỏng bước theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính mách cho bà biết
trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững
- Ngạc nhiên vì thái
lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở
độ của con trai lúc
trong ấy nhỉ ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đứng ngay đầu giường
đón mẹ: lòng mơ hồ
thằng con mình thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ?... Ai thế nhỉ ? Hàng loạt câu hỏi đặt
nghĩ nhà hẳn có việc
ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hóa cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ
gì.
nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Không phải bà trông gà hóa
cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần
nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.

5
- Phấp phỏng đi vào Cái anh cu Tràng hôm nay thật lạ. Tự dưng khách sáo với mẹ, cứ buộc bà phải ngồi lên
nhà giường lên giếc chĩnh chệnh rồi mới nói. Bà lập cập bước vào. Cái người đàn bà lạ ấy
tưởng mẹ anh cu Tràng già cả, điếc lác nên cất tiếng chào đến lần thứ hai. Hóa ra, bà
không điếc, bà mải băn khoăn vì người đàn bà ấy chào bà bằng u. Bà vẫn chưa hiểu vì sao
- Ngạc nhiên hơn vì
lại như thế. Đến khi anh Tràng nói: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ ! thì bà hiểu
trong nhà có người
rất nhanh. Đột ngột quá ! Bà cúi đầu nín lặng. Bà không chỉ hiểu chừng ấy. Trong lòng
đàn bà lạ.
người mẹ nghèo ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số
kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên
=> Không hiểu điều làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn con mình thì... Chỉ nghĩ đó, bà
gì đang diễn ra. đã thấy biết bao lo lắng, xót thương. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng
- Như một người già, nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
điếc lác vì lòng mải 2. Bà cụ Tứ với đôi vợ chồng son
băn khoăn, chưa
hiểu. Vợ chồng anh cu Tràng nào biết nỗi lòng bà cụ Tứ. Trông cảnh của chúng, bà khẽ thở
dài rồi nhìn đăm đăm vào người đàn bà mà từ giờ phút này đã là con dâu. Bà nhìn thị và
- Được con giải thích,
bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà
bà hiểu rất nhanh.
con mình mới có được vợ... Nghĩ thế, bà càng cay đắng cho thân phận của mình. Bà là mẹ,
- Lòng tràn ngập lo bà đã chẳng lo được gì cho con... May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà
lắng, xót thương. cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào
b, Bà cụ Tứ với đôi mà lo cho hết được ? Trong cái khổ, có cái may. Bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng
vợ chồng son nói với “nàng dâu mới”: một khi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, bà cũng mừng
- Nhìn con dâu, nghĩ lòng.
đến thân phận mình: Bà cụ Tứ còn dặn dò đôi vợ chồng trẻ: Nhà ta nghèo, liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi
nhà nghèo, không lo anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế
được gì cho con... nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.
- Tâm trạng và hành Nói với con dâu là thế, nhưng lòng bà cụ Tứ thật ngổn ngang. Bà đăm đăm nhìn ra
vi có vẻ nghịch chiều sông. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo
nhau: gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến
+, Bà cụ Tứ dặn dò, đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng
động viên con dâu nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không ? Những câu hỏi lại
+, Lòng lại ngổn bám lấy trong đầu bà. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. Bà nói với con dâu,
ngang: tương lai lẽ ra đám cưới phải làm được dăm ba mâm, nhưng nhà mình nghèo quá. Chắc cũng chả ai
liệu đôi vợ chồng người ta chấp nhặt, chỉ mong vợ chồng hòa thuận là bà mừng. Nhưng lúc đói to thế này
Tràng có hơn bố mẹ mà chúng lấy nhau thì bà thương quá.
trước kia ? Vì thế, Ôi, biết bao là buồn, vui, cay đắng, tủi cực cùng sự lo lắng, thương xót đang tràn ngập
lòng bà đầy xót trong lòng người mẹ nghèo khổ. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa. Bà không khóc mà
thương. nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Nhưng bà đâu muốn để cho đôi vợ chồng son biết bà
=> Thật ra, hành vi đang buồn. Khi anh cu Tràng đánh diêm đốt đèn, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên.
và tâm trạng ấy Bà chủ động nói vui: Có đèn đấy à ? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa... Dầu bây giờ đắt
không mâu thuẫn. gớm lên ấy mày ạ. Nói thế, rồi bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Bà đem
Khi hành vi không cả cái tâm trạng ngổn ngang chiếc giường cũ kĩ!
che giấu được tâm 3. Bà cụ Tứ sau đêm tân hôn của con trai
trạng thì nó biểu
Đêm hôm ấy, dẫu những tiếng khóc hờ ngoài xóm có lọt vào cái nhà rúm ró, nhưng đôi
hiện trung thực: “Bà
vợ chồng son hẳn ngủ rất ngon. Chỉ có bà lão, chắc đêm qua không ngủ được. Chưa biết
cụ nghẹn lời không
chừng nửa khuya bà đã dậy. Bà cụ Tứ đang lúi húi giẫy những bụi cỏ dại mọc nham nhở
nói được nữa”. Bà
ngoài vườn.
không khóc mà “nước
mắt cứ chảy xuống Thấy con trai đã dậy, bà cụ Tứ vội giục nàng dâu đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Sáng
ròng ròng”. nay, lòng bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng
rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Bà và cả đôi vợ chồng Tràng,
c, Bà cụ sau đêm tân
hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời có
hôn của con trai (đoạn
thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
buổi sáng hôm sau +
bữa cơm ngày đói) Bữa cơm sáng hôm nay cũng là bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Nhưng có điều
lạ là hôm nay, bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà nói toàn
chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Bà bàn tính với nàng dâu khi nào có tiền mua

6
- Bà cụ Tứ đã dậy từ lấy đôi gà, rồi ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy chốc có một đàn gà cho mà xem. Vì thế,
rất sớm. chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Khi niêu cháo lõng
bõng, mỗi người được có lưng nửa bát đã hết nhẵn, bà lão lật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng
- Lòng bà nhẹ nhõm,
ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Đấy là nồi cám, mỗi khi đưa vào miệng, đắng chát
tươi tỉnh khác ngày
và nghẹn bứ trong cổ, nhưng bà lão tay múc cho mọi người mà miệng tươi cười, đon đả
thường, gương mặt
nói, gọi đó là “chè khoán” và khen ngon đáo để. Bà không muốn bữa ăn đang vui bỗng
rạng rỡ.
ngừng lại. Thực ra, lòng bà đau lắm. Cả một nỗi tủi hờn đang len vào tâm trí bà.
- Bà nói toàn chuyện
Khi ngoài đình bỗng dội lên một bồi trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những
vui, chuyện sung
cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn
sướng về sau này
trên nền trời như những đám mây đen, bà cụ Tứ giải thích cho nàng dâu biết đấy là
=> Bà cụ Tứ ấp ủ tiếng trống thúc thuế. Đói khát như thế này, vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua
nhiều niềm vui, khát được. Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là
vọng đổi đời ở tương những giọt nước mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà!
lai, dù thực tế vẫn
Bà cụ Tứ chỉ xuất hiện trong Vợ nhặt của Kim Lân có một đêm và non buổi sáng hôm
đang rất phũ phàng,
sau. Chừng ấy thời gian vừa đủ cho một người ngủ dậy muộn. Nhưng đối với người mẹ
dù trong lòng vẫn chưa
nghèo khổ kia, quả là rất dài. Chừng ấy thời gian, song ở bà, có biết bao buồn vui, mừng
nguôi tủi hờn.
tủi, cay đắng, âu lo lẫn hi vọng. Người mẹ ấy đã sống trọn tất cả đời sống bên trong của
3. Đánh giá nhân vật một con người. Và, vì thế, dù thời gian mải miết trôi đi, hình tượng bà lão đáng thương đó
* Ý nghĩa: Bà cụ Tứ: vẫn hết sức sống động bởi đây là nhân chứng của một thời hãi hùng, cũng là biểu trưng
Nhân chứng của một cho trái tim, phẩm giá của một người mẹ! Người mẹ ấy vừa có lòng thương con, vừa giàu
thời hãi hùng; Biểu đức hi sinh, luôn có sự trải đời, hiểu biết và lòng bao dung vô hạn. Bà là đại diện cho
trưng cho trái tim, chân dung của người mẹ Việt Nam truyền thống. Trong cảnh đói khổ, tấm lòng, vẻ đẹp
phẩm giá của một trong cách ứng xử của bà càng làm cho người đọc xúc động.
người mẹ. Nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn tập trung khắc họa qua nội tâm sâu sắc, ngổn ngang,
- Nghệ thuật: miêu tả đầy tâm sự. Mỗi lời nói, dáng điệu và nước mắt của nhân vật đều được đặc tả cảm động,
nhân vật qua nội chân thực. Tác giả đã xây dựng thành công hình tượng người mẹ nghèo khổ thương con
tâm, hành động + giữa hoàn cảnh nạn đói ngặt nghèo.
xây dựng tình truyện
độc đáo, éo le góp
phần thể hiện t/c
nhân vật

Đề 3. Cảm nhận về nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.

Phương diện tìm hiểu Dàn bài chi tiết

1. Lai lịch, ngoại hình Giới thiệu tác giả, HCST, xuất xứ (tóm tắt, vị trí, nội dung đoạn trích)
- Một gã trai nghèo Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân ngụ cư, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già.
khổ, dân ngụ cư, làm (Dân ngụ cư là những người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, dân ngụ cư không có ruộng đất,
nghề đẩy xe bò thuê, những thứ vô cùng quan trọng đối với người nông dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân
nuôi mẹ già => Bị biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc chỗ hẻo lánh). Nhà cửa của anh “vắng teo
coi khinh. đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Hơn nữa, vì là dân ngụ
- Ngoại hình xấu xí, cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo mỗi khi
thô kệch. Tính tình anh ta đi làm về.
ngây ngô, đơn giản. Tràng có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Với tính tình ngây ngô, đơn giản, dường
như anh chỉ chơi với bọn trẻ trong xóm, chứ không thấy có bạn bè gì.

a, Tràng là người vô tư, không lo nghĩ hay tính toán gì nhiều.


2. Tính cách
Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình.
- Tràng là người vô
Ngay cả chuyện quan trọng như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát.
tư, không lo nghĩ hay
Đó là lần đang lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc.
tính toán gì nhiều.
Chủ tâm của anh ta là đùa vui. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn,
+, Không biết tính
Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng chấp nhận đưa về nhà
toán, không ý thức
để thành... vợ chồng ! Thật vậy, xưa nay chưa có ai quyết định việc lấy vợ nhanh chóng
hết hoàn cảnh của
như Tràng !
mình
7
+, Chuyện quan b, Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng
trọng (như lấy vợ), Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn.
Tràng cũng chỉ Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Tràng lấy vợ trước hết vì
quyết định trong lòng thương đối với một con người đói khát hơn mình.
chốc lát. Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: “Hôm ấy hắn đưa
- Tràng là người đàn thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm
ông nhân hậu, phóng đánh một bữa no nê”... Anh còn mua hai hào dầu thắp để thắp trong đêm tâm hôn.
khoáng: Lấy nhau chẳng phải vì tình, lại “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng không vì thế mà
+, Tràng lấy vợ Tràng coi thường người vợ của mình. Anh muốn làm cho người ấy được vui, luôn quan
trước hết vì lòng tâm đến cảm xúc, suy nghĩ của người vợ nhặt. Khi đưa người vợ nhặt về nhà, thấy thị
thương đối với một “ngồi mớm ở mép giường…mặt bần thần”, Tràng đã lo lắng, đặt ra hàng loạt câu hỏi
con người đói khát trong nội tâm về cảm xúc của người vợ nhặt: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?...Ồ sao nó
hơn mình. buồn thế nhỉ?”. Rõ ràng, anh tuy ngây thơ nhưng là một người đàn ông tốt bụng, biết để
tâm xúc cảm của người khác.
+, Có ý thức chăm Tràng trân trọng, nâng niu hạnh phúc mà mình có được. Khi dắt người vợ về, ngay
sóc vợ ngay từ buổi khi đi trên đường thì anh đã luôn mỉm cười, rất tự hào vì có được vợ, rất thích thú khi
đầu. được trêu. Gương mặt anh được miêu tả đúng thật là chân dung của người đàn ông sống
+, Không coi thường trong mật ngọt hạnh phúc: “vẻ gì phớn phở khác thường…tủm tỉm cười nụ một mình…
vợ, dù đó là “vợ bật cười… thích ý lắm, cái mặt vênh lên tự đắc với mình”.
nhặt”. c, Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm
+, Trân trọng, nâng Đặc biệt, đối với Tràng, có vợ là bước sang một quãng đời khác: “Sáng hôm sau,
niu hạnh phúc mà …Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong mơ đi ra”. Anh
mình vừa có được. ngỡ ngàng, không tin hạnh phúc đang có ở hiện tại là có thực. Buổi sáng hôm ấy, lúc
- Trở thành người đàn thức dậy, nhân vật Tràng được nhà văn Kim Lân khắc họa tâm trạng diễn biến cảm xúc
ông có trách nhiệm vô cùng phức tạp. Đầu tiên, Tràng nhận ra sự thay đổi trong cảnh vật xung quanh ngôi
sau khi lấy vợ: nhà của anh: “Xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Miêu tả câu
+, Có vợ, Tràng như chuyện dưới điểm nhìn của Tràng, Kim Lân khắc họa sự thay đổi trong ngôi nhà nghèo
bước qua một quãng khổ ấy từ sân vườn, quần áo, đến ang nước hay đống rác đã được dọn. Qua sự quan sát
đời khác. ấy, có lẽ trong tâm trí Tràng nhận ra sinh khí mới từ ngôi nhà do người vợ sửa sang, dọn
dẹp, chăm sóc. Cảnh tượng mẹ và vợ vun vén cho gia đình khiến Tràng “thấm thía,
cảm động”.
Từ một anh thanh niên sống ngây thơ, đơn giản, lúc này, Tràng đã thay đổi. Khi
người đàn ông ấy đã có 1 gia đình, anh ta trở nên sống có trách nhiệm hơn, ý thức
rõ rệt vai trò của người đàn ông trong gia đình. Chi tiết nhân vật “thấy hắn yêu
thương gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng” và ý thức “đã có một gia đình…cùng vợ sinh
con đẻ cái” cho thấy rõ sự trưởng thành ấy.
Rõ ràng, chính sự nhân hậu, bao dung, có thể nói là táo bạo đã giúp Tràng có được
hạnh phúc bất ngờ, đã giúp Tràng thay đổi. Sự suy tư trong lòng Tràng và ý thức
“thấy hắn nên người…có bổn phận phải lo lắng cho vợ con” thể hiện Tràng đã biết
lo nghĩ, tính toán cho tương lai, có trách nhiệm với cuộc đời mình, trách nhiệm với
cả gia đình.
Suy nghĩ đã thôi thúc hành động, mặc dù chưa làm được gì, nhưng ít nhất, Tràng đã
muốn, đã lao vào “làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Chi tiết ấy chứng
minh cho chàng trai ngây thơ tốt bụng nay đã trở thành người đàn ông trách nhiệm, biết
lo nghĩ.
Từ một anh phu xe cục mịnh, chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người
quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc
thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã “thần mặt ra nghĩ ngợi”, đây là điều
+, Tràng đã là người hiếm có đối với xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại “vụt hiện ra cảnh những người nghèo
quan tâm đến những đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp” để “cướp kho thóc” của Nhật và đằng trước là “lá
chuyện ngoài xã hội cờ đỏ to lắm”. Tràng nhớ tới cảnh ấy với lòng “ân hận, tiếc rẻ” và “trong óc vẫn thấy
và khao khát sự đổi đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới”... Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt
đời. bằng những “bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của
những người ngụ cư” vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết
thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói

8
vùng lên dưới bóng lá cờ đỏ bay phất phới. Trong ý thức của Tràng đã tồn tại một khao
khát thôi thúc đổi đời, thoát ra khỏi khốn cảnh đói nghèo của chính mình.

- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước Cách mạng
3. Ý nghĩa
tháng Tám. Khi chưa có nạn đói thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ (con trai Lão Hạc
- Cuộc đời của
trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao cũng vì nghèo không lấy được vợ, phẫn chí mà bỏ
Tràng tiêu biểu cho
đi làm mộ phu), trong nạn đói lại lấy vợ, niềm hạnh phúc đan xen với bất hạnh.
số phận của người
- Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột
dân nghèo trước
biến của cả xã hội sẽ mãi sống trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự
Cách mạng tháng
thay đổi đó đó, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con
Tám.
đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi
- Ở Tràng, hé mở
và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
con đường đi đến
cách mạng của
người nông dân một
cách tự nhiên.

- Kim Lân đã khắc họa nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động
4. Nghệ thuật xây
cho đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu
dựng nhân vật của
xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lí sống động, (khi hãnh diện cái mặt cứ vênh
nhà văn
vênh tự đắc bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy theo người đàn bà, như người
- Nhà văn đã khắc
xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những
họa được một nhân
cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, chỉ còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ
vật đầy đủ và sắc sảo
sàng, trái lại biết ngượng ngịu, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau).
ở mọi phương diện.
- Nhân vật Tràng hiện lên sinh động, với những tính cách rất đáng yêu, đáng quý, thể
- Qua Tràng, Kim
hiện trọn vẹn tư tưởng nhân đạo của nhà văn nhờ một yếu tố không thể thiếu là tình
Lân tiếp nối các
huống truyện độc đáo, éo le. Chỉ có trong cảnh huống ấy, nhân vật mới bộc lộ được
trang viết hiện thực
toàn bộ số phận và vẻ đẹp của anh.
và giàu tính nhân
- Qua nhân vật Tràng, không những nhà văn phản ánh một mặt rất đen tối trong hiện
đạo của những nhà
thực xã hội trước năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo mà còn phát hiện vẻ đẹp
văn trước đó.
tâm hồn của họ. Kim Lân đã tiếp nối những trang viết giàu chất nhân bản về người lao
động bình thường của những nhà văn trước đó như Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao...

Đề 4. Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là, một người
làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó là vợ Tràng. Theo anh (chị), sự hấp dẫn
của nhân vật nữ này có phải là, từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu, đã trở thành một nàng dâu
hiền thục của bà cụ Tứ ?

Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Phương diện phân tích Dàn bài chi tiết

1. Lai lịch, ngoại hình Giới thiệu tác giả, HCST, xuất xứ; tóm tắt, vị trí, nội dung đoạn trích
- Người đàn bà: Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà
+, không rõ lai lịch, cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc
+, không có gia đình, là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và
+, không có nhà cửa, được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với
+, không biết tên, không “mấy chị con gái ngồi vêu ra” ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn đặng chờ “nhặt hạt
biết tuổi, rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm”. Rõ ràng cô không có công
+, không việc làm… ăn việc làm cụ thể. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu
=> Thân phận rẻ rúng phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao người “con gái”
- Một chân dung thảm như thế. Chân dung thị được phác họa như một người vô danh, bị rẻ rúng, thân
thương: phận quá đỗi bèo bọt.
+, Lần thứ nhất, Tràng - Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng
gặp: gầy yếu, xanh xao. trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng
+, Lần thứ hai, Tràng gặp lần thứ hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ vài hôm, áo quần rách
không nhận ra. thị “như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày chỉ còn thấy hai con mắt”.

9
=> Ý nghĩa nhân đạo của Diện mạo của thị không phải là chân dung riêng biệt mà là diện mạo chung cho
tác phẩm từ lai lịch và người lao động nghèo trước nạn đói khủng khiếp. Chân dung thị là chân dung
ngoại hình ở nhân vật vợ của một người đói.
Tràng Nhân vật không có tên, hay không rõ lai lịch không phải là không có gì để
nói. Không có tên, hay không rõ lai lịch cũng là cách thức nhà văn giới thiệu
với bạn đọc, thể hiện một quan niệm nghệ thuật của mình. Người phụ nữ ấy
chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó,
người ấy rất dễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số
phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở.

(2 đoạn văn so sánh


2. Tính cách
a, Khi mới gặp Tràng: - Nhân vật ng vợ nhặt khi mới gặp Tràng
- Đanh đá, táo bạo đến - Sau khi chấp nhận làm vợ Tràng
mức trơ trẽn, cong cớn.  Chỉ ra/ nhận xét sự thay đổi, đánh giá ý nghĩa)
=> Nếu chỉ chú ý đến a, Khi mới gặp Tràng,
hành vi, đây là một người Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu
đàn bà đáng ghét. xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy
xe bò với anh), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy
- Hành vi của người đàn xe cho Tràng.
bà có phản ánh đúng bản Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị ở đâu sầm sầm chạy đến.
chất không? Thị đứng trước mặt Tràng mà sưng sỉa nói: Điêu ! Người thế mà điêu! Lời nói
của nhân vật bất chấp mọi khoảng cách, mà trơ trẽn, dữ dội mắng mỏ người đàn
ông mới gặp một lần vì miếng ăn. Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt chẹt, thị tiếp
tục cong cớn đòi ăn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị lập tức
sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bát đúc
liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà
thở. Chân dung người đàn bà quê kệch, suồng sã, không ý tứ, ham ăn tục uống
dễ khiến người đọc không thể yêu thích nổi.
Phải chăng đấy là tính cách vốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến
lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của
mình. Rõ ràng, thị làm tất cả chỉ để được ĂN. Cái ăn, cái đói đã bào mòn nhân
tính của của con người như trong những sáng tác của Nam Cao. Người phụ nữ
ấy, nếu nhìn sâu hơn, ta không cảm giác chán ghét nữa mà chỉ còn sự xót thương
cho cảnh ngộ của thị. Hóa ra, trong thị là khao khát được tồn tại một cách
mãnh liệt, bằng bất cứ giá nào. Người đàn bà ấy trơ trẽn, đánh mất hết danh
dự, theo không người đàn ông xa lạ vì chỉ có người đàn ông ấy mới có thể cứu
b, Khi chấp nhận làm vợ được thị qua cảnh đói khát khủng khiếp trước mắt.
Tràng: b, Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng
- Trên đường theo Tràng - Trên con đường trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt
trở về nhà, thị đã trở thành có “một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì
người khác hẳn. sáng lên lấp lánh, thì thị lại “đi sau hắn chừng ba bốn thước, cắp cái thúng con,
cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.
Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban
trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về
nhà chồng với vẻ thẹn thùng, xấu hổ, ngại ngùng như bất kì cô dâu nào khác.
Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản
- Người có ý thức về giá trị thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ
của bản thân: trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên
+, khó chịu trước sự trêu xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn
chọc của lũ trẻ, cũng tò mò, thị càng ngượng nghịu, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến
+, ngượng nghịu, là vô tư, cứ lấy vậy làm thích ý. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi
+, mong sớm về nhà nhầm cả đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của
Tràng. mọi người. Sự xấu hổ ấy sâu xa lại bắt nguồn từ ý thức về thân phận mình,
là người vợ theo không một ng đàn ông. Rõ ràng, thị chẳng có chút quyền
- Về nhà Tràng, người đàn uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành phải chấp nhận số phận khi đã đến
bà càng khác trước: bước đường cùng.

10
+, quanh sát chung quanh, Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của
+, lễ phép với bà cụ Tứ, nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nhà nghèo quá. Thị nén
+, rụt rè… một tiếng thở dài. Thị lúc này đã chấp nhận số phận. Bởi thị nào còn quyền lựa
chọn. Trong cảnh ngộ ấy, ai cũng đói rách, thị biết trông mong và hi vọng gì
nhiều hơn ở Tràng đây?
Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiên, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám
ngồi mớm xuống mép giường. Chi tiết ấy thể hiện sự ý nhị, ngại ngùng, lo lắng
chưa yên trong thị.
Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người
mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Ta thấy thị
cũng biết cách ứng xử, khéo léo, lễ phép, ý nhị, ngoan ngoãn như bất kì
- Sau đêm tân hôn, người nàng dâu mới nào. Chính thái độ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ,
đàn bà trở thành người vợ trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu,
đảm đang: nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy
+, thức dậy sớm, lo lắng phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
việc nhà, Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ,
thị thức dậy khá sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Dưới
+, người đàn bà hiền hậu điểm nhìn là một người vô tâm như anh Tràng, anh vẫn nhận ra sự thay đổi
đúng mực, kì lạ ở thị: thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực
+, tủi hờn cho thân phận… không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh.
+, biết tu chí làm ăn, Khi người mẹ chồng bảo thị dọn cơm sáng, thị thưa “vâng” rất ngoan ngoãn
+, quan tâm đến chuyện lễ phép. Sau đó, thị “lẳng lặng đi vào trong bếp” dọn cơm. Cách nói năng và
ngoài xã hội, hành động cho thấy thị trở thành người phụ nữ đảm đang, hiền hậu, biết điều,
hoàn toàn không mang dáng vẻ đanh đá trước kia nữa.
=> Nếu bà cụ Tứ, thế giới Thị còn là một người con dâu, một người vợ rất biết điều, khá sâu sắc và
nội tâm luôn biến đổi thì khéo léo trong ứng xử. Cô không chê bai bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới. Khi
vợ Tràng, tính cách cũng biết bát chè khoán mẹ chồng đưa cho chỉ là cám, cô chỉ thể hiện cảm xúc qua đôi
biến đổi, gần như đối lập. mắt “tối lại”. Tuy biết, nhưng cô vẫn đón nhận điềm nhiên “và vào miệng”. Cô
Sự biến đổi đó có thể gọi thể hiện bản lĩnh ứng xử của người đàn bà có gia đình, sẵn sàng đón nhận khó
là sự trở về của tính cách, khăn. Lúc này ta thấy, phản ứng của người vợ còn trưởng thành hơn phản ứng
phẩm giá vốn có ở chị ta. khi ăn cháo cám của Tràng.
Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều
thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám
đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố
tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn.
Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có một thái độ ứng xử đầy
chất nhân bản như thế !
Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ
Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ
thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn
Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho
thóc của Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy đã khiến Tràng ân hận và tiếc
rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng dám.
Hóa ra cái đanh đá, trơ trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng
qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia
đình, người đàn bà ấy đã sống bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người
phụ nữ Việt Nam: hiền thục, đảm đang, biết vun vén, chăm sóc hạnh phúc
gia đình, biết hi sinh, nhẫn nại.

3. Số phận - Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945:
- Tiêu biểu cho những người nghèo đói, bị rẻ rúng.
phụ nữ trong nạn đói 1945. - Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia
- Nhân phẩm trở lại trong đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe dọa của sự đói khát, thì những phẩm
tình người. chất tốt đẹp đã sống lại.

11
Nhà văn đã nhìn nhân vật bằng đôi mắt tình thương, thấu hiểu tình cảnh tội
nghiệp của người vợ nhặt. Từ đó, tác giả gián tiếp tố cáo xã hội, hoàn cảnh đói
nghèo đã đẩy con người đến sự tha hóa về nhân phẩm.
Qua sự thay đổi tốt đẹp của người vợ nhặt sau khi nhận được yêu thương, che
chở, nhà văn đã thể hiện niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người. Bên bờ
vực cái chết, con người vẫn có khát vọng sống, khát vọng thay đổi cuộc đời
mình. Và chính tình thương sẽ cứu rỗi họ, cho họ sống chân chính, hạnh phúc
làm người đúng nghĩa.

4. Nghệ thuật xây dựng nhân - Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không
vật tập trung miêu tả tâm lí nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của
- Giữ vẻ xa lạ ở nhân vật để thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lí hết sức tỉ
phù hợp với hoàn cảnh. mỉ)
- Chú trọng khắc họa hành - Tác giả lại chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật
động, cử chỉ, nét mặt của để người đọc tự tìm hiểu tâm trạng của người phụ nữ. (Chẳng hạn, chi tiết thị
nhân vật để người đọc tự lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo
tìm hiểu tâm trạng của không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung
người phụ nữ. quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa lên mắt
nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số
phận khi đến bước đường cùng v.v.. )Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế
nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.
- Cách gọi tên nhân vật cũng cho thấy dụng ý nghệ thuật của tác giả
- Đặt nhân vật vào tình huống éo le, vào thử thách của số phận để nổi bật
phẩm chất tốt đẹp sâu thẳm của ng vợ nhặt.

*ĐÁNH GIÁ NÂNG CAO

- Phong cách nghệ thuật của nhà văn thể hiện trong tác phẩm

- Giá trị hiện thực

- Giá trị nhân đạo

- Nhận xét về tấm lòng, tư tưởng nhà văn gửi gắm trong tác phẩm

- Nghệ thuật kể chuyện/ xây dựng nhân vật


ĐỀ LUYỆN TẬP
Cảm nhận diễn biến tâm lí nhân vật Tràng trong đoạn trích sau:
“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt
còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mây cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay
đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo
rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở
dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng
nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đôi với hắn lại rất thấm thía cảm động.
Bỗng nhiên hắn thây hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh
con đẻ cái ở đây. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phân chấn đột ngột tràn ngập trong
lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm
chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.”
(Vợ nhặt – Kim Lân)
+ Ngỡ ngàng
12
+ Cảm động, hạnh phúc khi nhìn thấy cảnh cửa nhà thay đổi và cảnh mẹ cùng vợ quét tước sân vườn – một cảnh gia
đình ấm áp trong ngày đói.
+ Dự tính về cuộc sống tương lai, ý thức về trách nhiệm của mình với gia đình.
Bài gợi ý tham khảo
“Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo
được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc”.
Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã có những lời đánh giá cao về khả năng viết truyện của nhà văn Kim Lân như thế. Quả
thật, trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, với số lượng tác phẩm không nhiều, nhưng bạn đọc không thể không biết
đến một số truyện ngắn tiêu biểu của ông như “Làng", “Vợ nhặt”. Ở truyện ngắn “Vợ nhặt”, ắt hẳn, người đọc sẽ phải
yêu quý anh Tràng, một người đàn ông lương thiện, sẵn sàng cưu mang một người phụ nữ lẻ loi giữa nạn đói. Nhưng,
không phải vì thế mà Tràng không nhận được điều gì. Ở đoạn trích miêu tả sự thay đổi của nhân vật vào buổi sáng hôm
sau, ta nhận thấy, việc “nhặt vợ” đã tác động rất lớn đến anh:
“Sáng hôm sau…tu sửa lại căn nhà”.
Thế giới nghệ thuật của Kim Lân thường là khung cảnh nông thôn, hình tượng người nông dân nghèo khổ, thiếu
thốn mà vẫn yêu đời; thật thà chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Nhà văn Kim Lân cũng từng chia sẻ tâm
nguyện khi sáng tác: “Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó
là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc”.
“Vợ nhặt” quả là tác phẩm thể hiện rất nhiều suy tư, trăn trở và mơ ước, niềm tin của Kim Lân về con người.
Tiền thân của truyện ngắn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, được viết ngay sau CMT8, nhưng còn dang dở và bị thất lạc.
Sau năm 1954, nhà văn dựa vào một phần cốt truyện để viết “Vợ nhặt”. “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc in trong tập
truyện “Con chó xấu xí”.
Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân ngụ cư, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Giữa nạn đói năm Ất Dậu,
anh vô tình gặp một người đàn bà trên phố chợ hai lần. Chỉ một câu nói đùa vu vơ, mời ăn bốn bát bánh đúc, người đàn
bà ấy đã theo không Tràng về làm vợ. Tràng vừa ngạc nhiên, vừa hoảng hốt, nhưng cuối cùng anh cũng chấp nhận. Anh
hạnh phúc đưa vợ về nhà trong ánh mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư. Mẹ anh sau đôi phút sững sờ, cũng chấp nhận
nàng dâu mới. Sau đêm tân hôn, nhân vật Tràng có những đổi thay khác lạ trong tâm trạng và hành động. Đoạn trích
nằm gần cuối tác phẩm, khắc họa diễn biến tâm trạng Tràng vào buổi sáng hôm ấy.
Khi viết về cái đói, Kim Lân đã chia sẻ: “Cái đói” là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời
đại…Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó. Con người phạm tội và làm đủ
chuyện dại dột khác chỉ vì đói. Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn
luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai”. Rõ ràng, sự tin tưởng của
Kim Lân đã gửi gắm trọn vẹn vào trang viết “Vợ nhặt”, vào nhân vật Tràng. Vậy nên, sự thay đổi của Tràng chính là
minh chứng tích cực cho vẻ đẹp con người giữa khó khăn.
Trước khi lấy vợ, Tràng như một anh thanh niên vô tư, không lo nghĩ hay tính toán gì. Ngay cả khi quyết định
lấy vợ, thì Tràng cũng chỉ suy nghĩ trong tích tắc. Hành động “nhặt vợ” của Tràng chứng tỏ anh là người nhân hậu,
phóng khoáng. Việc lấy vợ đã khiến anh hạnh phúc suốt đường đưa vợ về nhà.
Sau đêm tân hôn, tác giả miêu tả Tràng trong trạng thái “trở dậy” lúc “mặt trời lên bằng con sào”. Cảm nhận về
thể xác của Tràng được miêu tả “êm ái lửng lơ như vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Sự khoan khoái, hạnh phúc ấy kéo dài
đến tận sáng hôm nay. Suy nghĩ đầu tiên của Tràng chính là “Việc hắn có vợ đến hôm nay…vẫn còn ngỡ ngàng như
không phải”. Anh ngỡ ngàng, không tin hạnh phúc đang có ở hiện tại là có thực. Sự ngỡ ngàng ấy chính là minh chứng
cho việc anh đang hạnh phúc, sống trong hạnh phúc, cảm giác điều không thể bỗng một ngày bất ngờ lại trở thành có
thể. Giống như cảm xúc của Chí Phèo khi được ăn cháo hành ấm nóng từ Thị Nở, Chí Phèo thấy hạnh phúc khi được
yêu thương và đối xử như một con người. Tràng hay Chí Phèo, tuy rất khác nhau, nhưng cảm giác có được hạnh
phúc từ một người phụ nữ, theo tôi, là lẽ sung sướng như nhau.
Hành động tiếp theo của Tràng là “chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân”. Trong “ánh nắng buổi sáng
mùa hè sáng lóa” chói mắt, Tràng “chợt nhận ra” sự thay đổi của cảnh vật trong ngôi nhà của anh. Miêu tả câu
chuyện dưới điểm nhìn của Tràng, Kim Lân khắc họa sự thay đổi trong ngôi nhà nghèo khổ ấy từ sân vườn, quần
áo, đến ang nước hay đống rác đã được dọn. Qua sự quan sát ấy, có lẽ trong tâm trí Tràng nhận ra sinh khí mới từ ngôi
nhà do người vợ sửa sang, dọn dẹp, chăm sóc. Cảnh tượng mẹ và vợ vun vén cho gia đình khiến Tràng “thấm thía,
cảm động”. Tràng đã nhận ra những thay đổi trong ngoại cảnh. Tuy cái nghèo đói không thể thay đổi nhưng linh
hồn, sức sống của ngôi nhà đã bừng lên trong từng ngóc ngách, trong bàn tay vun vén của hai người phụ nữ của
13
gia đình. Âm thanh Tràng lắng nghe lúc bấy giờ là “tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”, con người Tràng
nhìn thấy lúc bấy giờ là vợ đang “quét lại cái sân”, là mẹ “đang lúi húi giẫy” cỏ. Kim Lân viết rằng “Cảnh tượng thật
đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động”. Khi đọc những dòng này, đột nhiên tôi cảm thấy
xúc động. Khi rơi vào những hoàn cảnh khó khăn, những bất trắc không ngờ, người ta mới nhận ra sức khỏe hay hạnh
phúc gia đình là những điều quan trọng hơn tất cả. Khi những người thân còn sống vui vẻ, khỏe mạnh bên ta, khi ta có
thể cảm nhận, lắng nghe, nhìn thấy những sự việc quen thuộc, bình thường ấy đã là một niềm hạnh phúc vô giá [trải
nghiệm]. Dường như, với Tràng, đây có lẽ là lần đầu tiên anh biết thế nào là “thấm thía, cảm động”. Và khi nhận
ra hạnh phúc mình đang có, trân quý, xúc động trước nó, có nghĩa là anh đã trưởng thành.
Từ nhận thức đầu tiên về sự cảm động trong vẻ thay đổi của căn nhà, trong sự vun vén của mẹ, của vợ, Tràng
đã được đánh thức cảm xúc “thương yêu, gắn bó với cái nhà” của hắn. Có lẽ, lúc này, ý thức về mái nhà trong Tràng
mới thực sự là “nhà” đúng nghĩa. Câu văn: “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy” thể hiện rõ
sự trưởng thành của nhân vật. Từ một anh thanh niên sống ngây thơ, đơn giản, lúc này, Tràng đã thay đổi. Khi người
đàn ông ấy đã có một gia đình, anh ta trở nên sống có trách nhiệm hơn, ý thức rõ rệt vai trò của người đàn ông trong gia
đình. Ý thức về hiện tại hạnh phúc đang có được và tương lai có những đứa con ngoan đã khiến nhân vật “sung sướng,
phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”.
Rõ ràng, chính sự nhân hậu, bao dung, có thể nói là táo bạo khi “nhặt vợ” đã giúp Tràng có được hạnh phúc bất
ngờ, đã giúp Tràng thay đổi. Sự suy tư trong lòng Tràng và ý thức “thấy hắn nên người…có bổn phận phải lo lắng cho
vợ con” thể hiện Tràng đã biết lo nghĩ, tính toán cho tương lai, có trách nhiệm với cuộc đời mình, trách nhiệm với
cả gia đình.
Suy nghĩ đã thôi thúc hành động, mặc dù chưa làm được gì, nhưng ít nhất, Tràng đã muốn, đã lao vào “làm
một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Chi tiết ấy chứng minh cho chàng trai ngây thơ tốt bụng nay đã trở
thành người đàn ông có trách nhiệm, biết lo nghĩ.
3. Đánh giá
+ Nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo; miêu tả nhân vật qua nội tâm
+ Nội dung: (chốt lại ý chính về các phẩm chất của nv vừa phân tích) khẳng định bản chất tốt đẹp, sức sống mạnh mẽ
của con người Việt Nam: tình người cao đẹp, khát vọng sống và niềm hi vọng vào cuộc sống, vào tương lai.
Trong đoạn trích, tác giả Kim Lân đã khắc họa chi tiết, sinh động những thay đổi trong tâm lí của Tràng. Từ một anh
thanh niên hồn nhiên, ít lo nghĩ, Tràng vào buổi sáng hôm sau đã có suy nghĩ sâu sắc, trách nhiệm và hành động như
một người đàn ông trụ cột trong gia đình. Tác giả đặt nhân vật vào tình huống nhặt vợ độc đáo và éo le, từ đó, khắc họa
trọn vẹn vẻ đẹp trong tính cách nhân vật.
Đoạn trích chỉ miêu tả những suy nghĩ của Tràng vào buổi sáng hôm sau nhưng qua đó, Kim Lân đã khẳng định bản
chất tốt đẹp, sức sống mạnh mẽ của con người Việt Nam. Tràng là hiện thân của người đàn ông nghèo có tình người cao
đẹp, có khát vọng sống và niềm hi vọng vào hạnh phúc và tương lai. Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người
dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám, vừa chịu nhiều khổ sở, vất vả, tủi cực vừa có vẻ đẹp tinh thần cao quý, đáng
trân trọng.
III> Kết bài
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng viết: “Văn học và cuộc sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là
con người”. Quả thật, giữa hiện thực thảm thương trong nạn đói 1945, nhà văn Kim Lân đã vừa miêu tả cuộc sống, vừa
khắc họa nỗi khổ cực đến tuyệt vọng của con người nhưng qua đó cũng truyền đến cho chúng ta một thứ ánh sáng của
niềm tin yêu, hi vọng về con người. Theo tôi, nhân vật Tràng trong đoạn trích tỏa ra thứ ánh sáng bình dị mà đáng trân
trọng như thế. Trong đói khổ, anh vẫn khao khát hạnh phúc, dám tìm kiếm hạnh phúc và sống xứng đáng với hạnh phúc
anh vừa có được. Đó là một thành công trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Tác phẩm khiến tôi nhận ra, là một
con người, không thể tránh khỏi việc rơi vào những khó khăn không lường trước, nhưng quan trọng nhất có lẽ là đừng
bao giờ đánh mất niềm tin vào cuộc đời, niềm tin vào chính mình. Hãy sống dũng cảm, yêu thương, hạnh phúc sẽ tự đến
bên ta!
Để đạt điểm sáng tạo:
- Sử dụng ý kiến, nhận định của các nhà nghiên cứu về tác phẩm, tác giả; của tác giả về quan niệm sáng tác (lí
luận văn học), về tác phẩm.
- So sánh
- Trải nghiệm cá nhân trong tác phẩm.
14
Cảm nhận về tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn trích sau:

Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ nhúc
nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:

- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái
lúc này. / Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi./ Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u
thương quá...

Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng...

(Trích “Vợ nhặt” – Kim Lân)


Từ đó, anh chị hãy nhận xét về phong cách nghệ thuật nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
BÀI LÀM
Truyện ngắn Vợ nhặt được nhà văn Kim Lân sáng tác sau Cách mạng tháng Tám, nhưng bối cảnh của tác phẩm lại
là nạn đói khủng khiếp năm một chín bốn lăm. Đặt câu chuyện trong bóng tối của sự đói khát và chết chóc ấy, nhà văn
đã thể hiện cảm động tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và niềm khao khát hạnh phúc của những người nghèo
khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả phát hiện và tập trung xây dựng thành công ở nhân vật bà cụ Tứ, mẹ của anh
Tràng, người đã “nhặt” vợ. Người mẹ ấy đã thể hiện tấm lòng đáng quý của mình qua đoạn trích: “Bà lão…nước mắt
cứ chảy xuống ròng ròng”.
Giới thiệu tác giả, HCST, xuất xứ; tóm tắt, vị trí, nội dung đoạn trích
(Đoạn trích nằm ở giữa tác phẩm, ghi lại cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật bà cụ Tứ khi lần đầu gặp con dâu.)
Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ thương con như muôn ngàn người mẹ Việt Nam khác. Nhưng người mẹ ấy được
đặt trong một tình cảnh hết sức éo le. Đó là việc Tràng, con trai của bà, giữa lúc nạn đói hoành hành lại lấy vợ. Nhưng
dường như chính nghịch cảnh này càng làm nổi rõ ánh sáng tâm hồn ở người mẹ đáng thương.
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện từ giữa truyện, lúc anh Tràng đưa vợ về, song từ đấy, dù rất ít nói, bà vẫn là
người thu hút nhiều nhất tâm trí của người đọc. Bởi trong lòng người mẹ ấy, cả trăm mối tơ vò, chuyện nay, chuyện xưa
đan xen lẫn lộn, niềm vui, nỗi buồn, sự cay đắng tủi cực lẫn xót thương vây lấy.
Nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích hiện lên khá ít ỏi về nội tâm, qua lời nói và dòng nước mắt. Nhưng chỉ chừng ấy
thôi, cũng khiến người đọc cảm nhận được ở bà một tình thương con sâu sắc, một lòng bao dung, một tấm lòng của
người phụ nữ từng trải, thấu hiểu cuộc đời gian khó.
Tình thương, sự nhân hậu, bao dung của bà được thể hiện qua ánh nhìn và nội tâm bà dành cho con dâu mới: “Bà lão
nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót”. Chỉ một ánh nhìn yêu thương và xót xa ấy thôi đã cho thấy bà không hề khinh
rẻ mà hết lòng trân trọng cho người con gái ấy. Ta cảm nhận được ánh nhìn của một người mẹ nghèo khổ lương thiện,
đang cưu mang cho một người con gái nghèo khổ khác. Lúc ấy, suy nghĩ: “Nó bây giờ là dâu con trong nhà rồi” như
một sự công nhận người vợ nhặt. Không khó khăn, không cau khó, chê bai, bà nhận cô làm dâu con rất chân thành.
Trước sự rụt rè, ngại ngùng và lễ phép của cô con dâu bên cạnh, bà cụ Tứ đã dùng những lời lẽ nhẹ nhàng để dặn dò
cô. Chi tiết: “Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật” cho thấy sự hiền từ, nhẹ nhàng của người mẹ đáng mến ấy. Rõ ràng,
bà muốn con dâu có thể thoải mái hơn, bớt áp lực hơn khi nghe thanh âm nhỏ nhẹ của mình.
Trong lời nói với con dâu, bà cụ Tứ cũng thể hiện sự áy náy khi không có đủ điều kiện để tổ chức tiệc mừng, hay ít
nhất là vài mâm cơm với họ hàng. Bà nói với con dâu, lẽ ra đám cưới phải “làm được dăm ba mâm, nhưng nhà mình
nghèo quá, chắc cũng chả ai người ta chấp nhặt”. Lời nói ấy cho thấy bà rất trân trọng con dâu, muốn dùng đủ lễ nghi
để cưới cô về cho Tràng. Bà cũng rất chân thành khi nói rõ hoàn cảnh nghèo khó của gia đình mình.
Tiếp đến, bà dặn dò cô và Tràng: “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”. Niềm mong mỏi vợ chồng hòa
thuận của người mẹ già thật giản dị và đáng quý như thế. Bà không ước vọng xa xôi, mà chỉ cầu hai con yêu thương,
gắn bó. Với bà, đó là niềm vui của người mẹ.
Nhưng trong bà không chỉ có tình thương con, bà cụ Tứ còn là người trải đời. Bà đã đi qua bao nhiêu khó khăn, mất
mát. Hạnh phúc của con cái hiện tại không thể khiến bà quên đi thực tại đói khổ, cái chết cận kề trước mắt. Vậy nên,
trong lời nói của bà, hai câu cuối đã bày ra một nỗi niềm lo lắng tột độ: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau

15
lúc này, u thương quá…”. Hiện thực khắc nghiệt cuộc đời bày ra trước mắt cả ba nhân vật sau câu nói ấy. Bà chỉ ra hoàn
cảnh không thể chối bỏ là “đói”, chỉ ra việc họ lấy nhau lúc này là thật đáng lo, đáng nghĩ.
Dường như không kiềm được cảm xúc. Kim Lân đã để nhân vật nói không hết lời qua dấu “…” bỏ lửng cuối câu nói.
Ôi, biết bao là buồn, vui, cay đắng, tủi cực cùng sự lo lắng, thương xót đang tràn ngập trong lòng người mẹ nghèo khổ.
“Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa”. Bà khóc mà “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Giọt nước mắt không thể
ngừng lại ấy là biết bao tủi hờn, lo toan. Có lẽ, bà vừa thương cho số kiếp con mình, vừa thương con dâu. Xa hơn, bà đã
hình dung ra trước cảnh đời tiếp theo đầy khốn khó, lo toan của các con trong nạn đói này.
Đoạn trích khắc họa chỉ một nét của nhân vật bà cụ Tứ. Nhưng ta cảm nhận được ở người mẹ nghèo khổ kia, có biết
bao buồn vui, mừng tủi, cay đắng, âu lo lẫn hi vọng. Người mẹ ấy đã sống trọn tất cả đời sống bên trong của một con
người. Và, vì thế, dù thời gian mải miết trôi đi, hình tượng bà lão đáng thương đó vẫn hết sức sống động bởi đây là nhân
chứng của một thời hãi hùng, cũng là biểu trưng cho trái tim, phẩm giá của một người mẹ! Người mẹ ấy vừa có lòng
thương con, vừa giàu đức hi sinh, luôn có sự trải đời, hiểu biết và lòng bao dung vô hạn. Bà là đại diện cho chân dung
của người mẹ Việt Nam truyền thống. Trong cảnh đói khổ, tấm lòng, vẻ đẹp trong cách ứng xử của bà càng làm cho
người đọc xúc động.
Nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn tập trung khắc họa qua nội tâm sâu sắc, ngổn ngang, đầy tâm sự. Mỗi lời nói, dáng
điệu và nước mắt của nhân vật đều được đặc tả cảm động, chân thực. Tác giả đã xây dựng thành công hình tượng người
mẹ nghèo khổ thương con giữa hoàn cảnh nạn đói ngặt nghèo. + xây dựng tht.
Đoạn trích cũng đã thể hiện một phần phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Ông quả là nhà văn chuyên viết truyện
ngắn. Với sự miêu tả tâm lí nhân vật người mẹ nông dân nghèo khổ, ta thấy ông thể hiện rõ sự thấu hiểu đời sống làng
quê, cuộc sống và tâm hồn của người nông dân.
Qua đoạn trích miêu tả về nhân vật bà cụ Tứ, người đọc thấu hiểu vẻ đẹp của người mẹ thương con, sâu sắc trải đời.
Có lẽ, nhân vật bà cụ Tứ đã trở thành một yếu tố không thể thiếu, đóng góp vào sự thành công của truyện ngắn “Vợ
nhặt”. Nhà văn Kim Lân đã thể hiện được tài hoa kể chuyện, xây dựng nhân vật và khả năng lay động tâm hồn người
đọc qua hình tượng người mẹ nghèo khổ giàu tình yêu thương. Chân dung bà cụ Tứ khiến tôi cảm thấy xúc động gần
gũi. Người phụ nữ ấy khiến tôi nhớ tới bà ngoại của mình. Bà tôi cũng nhân hậu, hiền từ và bao dung như thế. Tất cả
những người phụ nữ trên thế giới này, nhất là những người phụ nữ bên cạnh chúng ta, đều là những người đáng quý,
đáng yêu, đáng trân trọng. Tôi tự thấy, mình sẽ càng yêu quý, càng nâng niu hạnh phúc đang có ở hiện tại bên những
người phụ nữ yêu kính nhất đời mình.
(Để có điểm sáng tạo, trong bài viết cần sử dụng thêm kiến thức mở rộng về tác phẩm (nhận định 1- 2 câu); kiến thức
lí luận văn học về xây dựng nhân vật, tấm lòng nhân đạo của nhà văn, lí luận truyện ngắn; so sánh với hình ảnh người
mẹ trong văn chương VN và thế giới – Con cò – Chế Lan Viên)
Cảm nhận về sự thay đổi của nhân vật người vợ nhặt trong hai đoạn trích sau:
(1) Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị
đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Điêu ! Người thế mà điêu !
[…] Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn
thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Đây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi:
- Rích bố cu, hở!

16
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.
(2) Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:
-Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.
-Vâng.
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực
không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu
chí làm ăn không?
[…] -Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng.
(Vợ nhặt – Kim Lân)
Từ đó, anh chị hãy nhận xét về tư tưởng nhân đạo nhà văn thể hiện trong tác phẩm.
Bài gợi ý
Cách 1.
Tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là,
một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không rõ tuổi. Đó là vợ Tràng. Qua sự thay đổi của nhân
vật người vợ nhặt trong hai đoạn trích trước khi về làm dâu nhà Tràng và sau khi về nhà Tràng, chúng ta sẽ nhận ra được
số phận đau khổ và vẻ đẹp ẩn sâu trong nhân vật.
(1) “Lần thứ hai…chẳng chuyện trò gì”.
(2) “Bà cụ Tứ…và vào miệng”.
Cách 2.
Trong văn học Việt Nam từ xa xưa đến nay, người phụ nữ luôn được các nhà văn, nhà thơ quan tâm, khắc họa
ở nhiều phương diện. Đó có thể là người con gái “như tấm lụa đào” trong ca dao. Đó có thể là thân phận “bảy nổi ba
chìm với nước non” trong thơ Hồ Xuân Hương. Đó có thể là người con gái xinh đẹp, thảo hiền trong sáng tác của Nguyễn
Đình Chiểu. Hay xấu xí, ngây ngô như chân dung của Thị Nở dưới trang văn của Nam Cao. Nhưng quả thật, ít khi nào,
người đọc được nhìn nhận một người phụ nữ dưới góc nhìn họ sống trong cái đói, là một người đói khốn khổ, thảm hại.
Vậy nên, khi đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, tôi có ấn tượng sâu sắc về người đàn bà vô danh, theo không một
người đàn ông như thế. Qua sự thay đổi của nhân vật người vợ nhặt trong hai đoạn trích trước khi về làm dâu nhà Tràng
và sau khi về nhà Tràng, chúng ta sẽ nhận ra được số phận đau khổ và vẻ đẹp ẩn sâu trong nhân vật.
“Lần thứ hai…chẳng chuyện trò gì”.
“Bà cụ Tứ…và vào miệng”.
1. Khái quát
- Tác giả, hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ
- Tóm tắt nội dung, vị trí, nội dung 2 đoạn trích.
Trong nạn đói, vào hai lần tình cờ gặp nhau ở phố huyện, người đàn bà đã vô tình quen biết Tràng, một anh
thanh niên làm nghề đẩy xe bò thuê. Chỉ vài câu trêu đùa trong lần gặp thứ nhất, vài lời trách móc trong lần gặp thứ hai,
và được mời ăn bốn bát bánh đúc, người đàn bà đã theo không Tràng về làm vợ, trong sự ngỡ ngàng của chính Tràng.
Trên con đường về nhà Tràng, thị xấu hổ trước lời trêu đùa của bọn trẻ con, sự nhòm ngó, bàn tán của người dân xóm
ngụ cư. Khi về nhà Tràng, căn nhà nghèo khổ, rách rưới, thị cam chịu, chấp nhận. Sau đó, thị cũng được người mẹ già
của Tràng đồng ý nhận làm dâu con trong nhà. Sau đêm tân hôn, thị dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, vun vén nhà cửa
sạch sẽ, gọn gàng. Cả gia đình cùng nhau ăn bữa cơm sáng thiếu thốn, cùng bàn về chuyện đóng thuế năm ấy.
Đoạn trích đầu tiên nằm ở giữa truyện, kể lại lần gặp gỡ thứ hai giữa người vợ nhặt và Tràng. Đoạn trích thứ
hai nằm ở cuối tác phẩm, kể về sự thay đổi của người vợ nhặt khi về làm dâu vào buổi sáng hôm sau.

17
*lưu ý: Khi đề cho 2 đoạn trích ở 2 phần khác nhau, có thể tóm tắt ngắn gọn toàn bộ tác phẩm theo nv đang
phân tích, rồi chốt lại vị trí, nội dung đoạn trích.
2. Phân tích
a. Lai lịch
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và
khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là
con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với “mấy chị con gái ngồi vêu ra” ở
cửa nhà kho thóc Liên đoàn đặng chờ “nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm”. Rõ ràng cô không
có công ăn việc làm cụ thể. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người
không tên, không tuổi, còn biết bao người “con gái” như thế. Chân dung thị được phác họa như một người vô danh, bị
rẻ rúng, thân phận quá đỗi bèo bọt.
Nhân vật không có tên, hay không rõ lai lịch không phải là không có gì để nói. Không có tên, hay không rõ lai lịch
cũng là cách thức nhà văn giới thiệu với bạn đọc, thể hiện một quan niệm nghệ thuật của mình. Người phụ nữ ấy chỉ là
một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất dễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng
với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở.
b. Đoạn 1
Đầu tiên, nhân vật người đàn bà xuất hiện với một chân dung thảm thương: “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa,
thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị
mới chỉ gầy yếu xanh xao nhưng gặp lần thứ hai, anh ta không nhận ra. Diện mạo của thị không phải là chân dung riêng
biệt mà là diện mạo chung cho người lao động nghèo trước nạn đói khủng khiếp. Chân dung thị là chân dung của một
người đói. Sự rách rưới được đặc tả qua “áo quần tả tơi” và hình ảnh so sánh “tả tơi như tổ đỉa”. Chân dung của thị được
miêu tả “gầy sọp hẳn đi”. Đặc biệt, một ấn tượng ám ảnh đến người đọc chính là hình dáng gương mặt miêu tả như
“khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”. Trên khuôn mặt hốc hác, xám ngoét vì đói và lạnh ấy chỉ còn thấy “hai con mắt” đầy ám
ảnh. Rõ ràng, chân dung ấy chẳng hình dung được vẻ đẹp xấu, chỉ khiến người đọc thấy đói khát và thảm thương cực
độ.
Ngoại hình là thế, nhưng trong cách hành động và lời nói của thị lại tạo cảm giác trơ trẽn, đáng ghét, vô ý tứ.
Đây chỉ là lần gặp thứ hai, bản thân Tràng cũng chẳng nhớ ra thị, ấy thế mà vì cái đói đến khốn cùng, thị phải chạy đến
làm thân, trách móc, chửi mắng y hệt như Tràng là gã người tình lỡ hẹn. Tác giả miêu tả hành động của thị “sầm sập
chạy đến”, “đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:- Điêu ! Người thế mà điêu !”. Đọc đến đây, chúng ta có thể ngỡ ngàng,
giật mình như chính cảm xúc của Tràng lúc bấy giờ. Làm sao có thể không hiểu lời bông đùa trong lần gặp trước chỉ là
sự trêu ghẹo, nhưng chính lời trêu ghẹo ấy lại là cái cớ duy nhất để thị có thể bám víu lấy Tràng giữa nạn đói này. Hành
động mạnh mẽ “sầm sập chạy đến”, thái độ chanh chua bất chấp xấu hổ để “sưng sỉa mắng” một người đàn ông xa lạ,
khiến người đọc cảm thấy người đàn bà này thật dữ dội, chợ búa, đanh đá vô cùng.
Khi Tràng chưa hiểu ngọn ngành thế nào, người đàn bà đã nêu rõ lí do vì sao thị mắng anh “điêu”. Cách mắng
đậm chất khẩu ngữ, y hệt lời của người bình dân cho chúng ta thấy Kim Lân rất am hiểu đời sống và ngôn ngữ dân quê.
Hóa ra, anh ta hẹn, cô ta đợi, mà không gặp được nên bây giờ Tràng mới bị trách móc. Người ta có thể nghĩ rằng thị
thích Tràng nên mới lấy nguyên cớ ấy để trò chuyện. Nhưng không, thị tìm đến Tràng, có lẽ vì không ai có thể cứu thị
được giữa nạn đói này nữa.
Vì thế, khi được mời ăn trầu, nói chuyện, thị gạt phắt đi và trực tiếp đòi ăn: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Cái
đói đã xóa mờ hết tất cả danh dự, lòng tự trọng, sự kiêu hãnh của người phụ nữ ấy. Thị phải đòi để được ăn. Thật ê chề,
nhục nhã, đau xót!
Thái độ của nhân vật ngay lập tức thay đổi khi thấy Tràng khoe “Rích bố cu”, nghĩa là nhiều tiền. Diện mạo thị
được miêu tả “Hai con mắt trũng hoáy… tức thì sáng lên”, lời nói ngay lập tức ngọt ngào “đon đả:- Ăn thật nhá! Ừ ăn
thì ăn sợ gì”. Hành động của nhân vật được KL miêu tả rất thật: “Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một
chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.”
Chân dung người đàn bà quê kệch, suồng sã, không ý tứ, ham ăn tục uống dễ khiến người đọc không thể yêu
thích nổi. Phải chăng đấy là tính cách vốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người
phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Rõ ràng, thị làm tất cả chỉ để được ĂN. Cái ăn, cái đói đã bào
mòn nhân tính của của con người như trong những sáng tác của Nam Cao.
Người phụ nữ ấy, nếu nhìn sâu hơn, ta không cảm giác chán ghét mà chỉ còn sự xót thương cho cảnh ngộ của
thị. Hóa ra, trong thị là khao khát được tồn tại một cách mãnh liệt, bằng bất cứ giá nào. Người đàn bà ấy trơ trẽn, đánh
18
mất hết danh dự, theo không người đàn ông xa lạ vì chỉ có người đàn ông ấy mới có thể cứu được thị qua cảnh đói khát
khủng khiếp trước mắt.
c. Đoạn 2
Vậy nên, hình ảnh thay đổi hoàn toàn của người đàn bà vào sáng hôm sau ngày theo Tràng, không khiến chúng
ta giật mình mà chỉ khiến người đọc nhận ra vẻ đẹp thật sự ẩn sâu trong vẻ ngoài đói khổ của thị. Rõ ràng, vào buổi sáng
ấy, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy khá sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân
vườn sạch sẽ. Trong đoạn trích, bằng lời nói và hành động qua hai chi tiết thị dọn cơm cho gia đình và cách đón lấy
bát cháo cám, ta nhận ra, người đàn bà ấy thật hiền hậu, ngoan ngoãn, ý tứ và sâu sắc.
Khi người mẹ chồng bảo thị dọn cơm sáng, thị thưa “vâng” rất ngoan ngoãn lễ phép. (Chi tiết này khiến ta thấy thị
đã đổi khác hoàn toàn so với hai lần gặp Tràng đầu tiên. Thị không còn chao chát, đanh đá, sưng sỉa như một người đàn
bà không có giáo dục, lúc này thị trở nên ngoan ngoãn, hiền lành, chăm chỉ như biết bao nhiêu người vợ Việt Nam truyền
thống).
Sau đó, thị “lẳng lặng đi vào trong bếp” dọn cơm. Cách nói năng và hành động cho thấy thị trở thành người phụ nữ
đảm đang, hiền hậu, biết điều, hoàn toàn không mang dáng vẻ đanh đá trước kia nữa. Kim Lân đứng ở điểm nhìn của
Tràng để đưa ra nhận xét rất chân thành: “rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng
lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không?”. Câu hỏi tu
từ cho thấy sự đánh giá cao của Tràng về sự thay đổi rất tích cực của người vợ nhặt. Hóa ra, thị không xấu, thị chỉ bị cái
đói che mờ, phủ lấp lên những giá trị ẩn sâu bên trong.
Thị còn là một người con dâu, một người vợ rất biết điều, khá sâu sắc và khéo léo trong ứng xử. Cô không chê bai
bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới. Khi biết bát chè khoán mẹ chồng đưa cho chỉ là cám, cô chỉ thể hiện cảm xúc qua đôi
mắt “tối lại”. Rõ ràng, thị hiểu, thị rõ hết cái nghèo của gia đình. Kim Lân để nhân vật sống rất thật, không hề giả dối,
nỗi buồn, nỗi thất vọng thể hiện thoáng chốc qua đôi mắt “tối lại” ấy. Tuy nhiên, nhưng cô vẫn đón nhận điềm nhiên
“và vào miệng”. Cô thể hiện bản lĩnh ứng xử của người đàn bà có gia đình, sẵn sàng đón nhận khó khăn, chấp nhận khó
khăn. Lúc này ta thấy, phản ứng của người vợ còn trưởng thành hơn phản ứng khi ăn cháo cám của Tràng.
Hóa ra cái đanh đá, trơ trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được
sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của
một người phụ nữ Việt Nam: hiền thục, đảm đang, biết vun vén, chăm sóc hạnh phúc gia đình, biết hi sinh, nhẫn
nại.
3. Đánh giá
Trong đoạn trích, Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật người vợ nhặt. Nhà văn không tập trung miêu tả
tâm lí nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị. Tác giả lại chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt
của nhân vật để người đọc tự tìm hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói
được khá rõ về sự thay đổi trong tâm tư, tình cảm của một con người. Cách gọi tên nhân vật vô danh cũng cho thấy dụng
ý nghệ thuật của tác giả. Hơn thế, việc đặt nhân vật vào tình huống éo le, vào thử thách của số phận, Kim Lân đã làm
nổi bật phẩm chất tốt đẹp sâu thẳm của người vợ nhặt.
Sự thay đổi ở nhân vật người vợ Tràng trong hai đoạn trích cụ thể cho thấy vẻ đẹp và số phận của nhân vật.
Người vợ nhặt tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng. Khi người đàn bà
ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe dọa của sự đói khát, thì
những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
Nhà văn đã nhìn nhân vật bằng đôi mắt tình thương, thấu hiểu tình cảnh tội nghiệp của người vợ nhặt. Từ đó,
tác giả gián tiếp tố cáo xã hội, hoàn cảnh đói nghèo đã đẩy con người đến sự tha hóa về nhân phẩm. Qua sự thay đổi tốt
đẹp của người vợ nhặt sau khi nhận được yêu thương, che chở, nhà văn đã thể hiện niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của
con người. Bên bờ vực cái chết, con người vẫn có khát vọng sống, khát vọng thay đổi cuộc đời mình. Và chính tình
thương sẽ cứu rỗi họ, cho họ sống chân chính, hạnh phúc làm người đúng nghĩa.
(Liên hệ so sánh:
1. Chí Phèo – Nam Cao: Việc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở - ăn ở với TN như vợ chồng, được TN chăm sóc
khi bị ốm => tên lưu manh, quỷ dữ của làng Vũ Đại thức dậy phần người, khao khát sống như một con người lương
thiện.
2. Những người khốn khổ - Victor Huygo: Jean van Jean, từ một người tù bị mọi người xa lánh, ruồng bỏ, anh
được giám mục Mirien cứu giúp, tin tưởng, tạo cơ hội để có thể quay lại cuộc đời lương thiện => Jean van Jean tin tưởng
vào cuộc đời, sống bằng lẽ sống tình thương, sẵn sàng giang tay giúp đỡ những người khốn khổ quanh mình. )

19

You might also like