You are on page 1of 8

TRÀNG

Nạn đói năm 1945 đã trở thành nỗi ám ảnh khủng khiếp đối với con người
Việt Nam, nó gợi nhắc về một thời kỳ đen tối của lịch sử nạn đói ấy đã tốn k ít
giấy mực của các nhà văn khi tái hiện lại sự thê lương và thảm khóc đến tột
cùng Nhưng trong đó có một nhà văn cũng nói về cái nạn đói ấy nhưng lại
không hề đói mà trong đó hiện lên là sự yêu thương đùm bọc là niềm tin vào
tương lai tươi sáng   Kim Lân là một cấy bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về
đề tài người nông dân chất phác, thật thà và đậm tình người ở những làng quê Việt
Nam. Lần đầu tiên có một nhà văn “nông dân” xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe
hơi thở nồng nàn của đất đai, của cuộc sống con người để tái hiện lên rõ mồn một trên
mỗi trang viếtTruyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời dựa trên một cốt truyện cũ với nhau để “
Xóm ngụ cư”,  được in trong tập “ Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962.
Tác phẩm kể về anh cu Tràng - một thanh niên nghèo khổ làm nghề kéo xe bò thuê.
Dù trong tình cảnh đói  kém quay quắt nhưng anh vẫn dắt thêm một người đàn bà về
làm vợ. Sự việc khiến cả xóm ngụ cư và ngay cả mẹ Tràng - bà cụ Tứ hết sức ngạc
nhiên và lo lắng. Nhưng qua đó, Kim Lân muốn ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh
liệt của con người vào tương lai, vào cách mạng, vào tình người dù trong bất kỳ hoàn
cảnh nào nhà văn Kim Lân không chỉ tái hiện sự sống mỏng manh của con
người trước nạn đói mà quan trọng hơn cả là đứng trên ranh giới của sự
sống và cái chết ấy vẻ đẹp của con người vẫn tỏa rạng, trong cái khốn cùng,
thiếu thốn con người vẫn dành cho nhau những tình cảm thật đáng trân trọng

Nói về nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân từng nói: "Đói, nó vừa đắng cay,
vừa đau đớn, đồng thời một mặt nào đó nó lại lóe lên một tia sáng về đạo
đức, danh dự". "Vợ nhặt" của ông chính là truyện ngắn đi sâu khai thác tia
sáng đẹp đẽ trong bi kịch tăm tối ấy của nạn đói. Thông qua câu chuyện nhặt
vợ của anh Tràng,.

Puskin từng viết “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ
ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ
tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn Kim Lân đã để tiếng lòng mình cất lên, để
linh hồn tác phẩm neo đậu mãi trong trái tim của bạn đọc về hình tượng nhân vật anh
cu Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt. Anh là một người nông dân nghèo khổ, xấu xí
nhưng mang một tấm lòng ấm áp tình yêu thương và lòng nhân hậu.
      Có nhà văn từng nói “Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và con
người cũng chỉ hứng thú với con người”. Con người cũng chính là nội dung quan
trọng nhất của văn học. Nhân vật văn học là một khái niệm không còn quá xa lạ đối
với chúng ta. Đó là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác
phẩm văn học - cái đã được nhà văn thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ
thuật ngôn từ. Và mỗi nhà văn sẽ tập trung tất cả những hình họa nghệ thuật, những
quan niệm cuộc sống  và nhân vật để gửi gắm những tư tưởng đến bạn đọc. Để từ đó
khi chúng ta tìm hiểu một nhân vật, chúng ta cũng thấy được khía cạnh bức tranh xã
hội lúc bấy giờ và nỗi niềm của người nghệ nhân khi đứng trước nó. Chẳng hạn như
trong Chí Phèo của Nam Cao, ta thấy được bản chất lương thiện của một con người
lưa manh trong xã hội thực dân nửa phong kiến, qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo
sâu sắc của nhà văn. Có thể khẳng định rằng, nhân vật có yếu tố then chốt góp phần
tạo nên thành công của một tác phẩm, như “ xương sống của một con người vậy”.
Viết đề tài người nông dân, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi khắc họa chân
dung người lao động nghèo khổ, chân lấm tay bùn nhưng mang một phẩm chất đẹp đẽ
như nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

   . Với cốt truyện đơn giản, lời kể hấp dẫn và khă năng phân tích tâm lý nhân vật
thiên tài, ông đã để lại cho độc giả những trang viết sâu sắc và xúc động về  người dân
quê - những con người gắn bó rất tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong
những sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “ Vợ nhặt”. Tác phẩm
được xây dựng trên nền nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Cái năm mà người ta vẫn
nhắc đến như một tai nạn thảm khốc khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói từ
Quảng Trị đến Bắc Kỳ.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, và cụ thể là ở một
xóm ngụ cư tiêu điều xác xơ. Tình huống truyện ở đây là việc anh cu Tràng
có vợ, nhưng không phải được cưới hỏi đàng hoàng mà là vô tình “nhặt” từ
ngoài đường về. Qua sự kiện mang tính độc đáo và bất ngờ này, nhà văn đã
đi sâu vào tâm lý nhân vật Tràng và qua cho làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp
bên trong những con người thấp cổ bé họng nghèo đói, bần cùng.

   Viết về người nông dân, Kim Lân đã “khơi nguồn chưa ai khơi” , đó là thân phận rẻ
rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Tràng - một nhân vật
điển hình như thế với một hoàn cảnh vô cùng khốn khó, mang một ngoại hình chẳng
mấy ưu nhìn. Tràng xuất thân là dân ngụ cư - tầng lớp người bị coi thường nhất lúc
bấy giờ, sống cùng mẹ già trong “ túp lều tranh nằm rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn
những bụi cỏ dại”. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để sống sót qua nạn đói này.
Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói nhưng cũng
cực nhọc vô cùng. Sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, chứng kiến biết
bao là xác chết năm la liệt, lại hội tụ trong mình đầy yếu tố của một loại người đáng bị
coi khinh.Tràng còn có một ngoại hình hết sức thô kệch, cục mịch. Nó được ví như “
sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa”. Nếu như trong văn Nam Cao ta thấy Chí Phèo xuất
hiện đầu tác phẩm với tiếng chửi ngoa ngoắt “hắn vừa đi vừa chửi, …nó chửi trời,
chửi đất...” thì Kim Lân lại đưa vào Tràng một số nét khắc họa ngoại hình “dáng đi
ngất ngưỡng, hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào hướng chiều hai bên quai hàm, đôi khi lại
ngữa mặt lên cười khành khạch”.  Tác giả khi xây dựng nhân vật này không tập trung
miêu tả ngoại hình mà chỉ chú trọng khắc họa những nét riêng biệt. Nhìn vào Tràng ai
cũng thấy, ngoại hình ấy không hề đẹp, có phần hoang dã khác hẳn với cách trau
chuốt của xã hội văn minh. Bên cạnh đó ngoại hình của Tràng còn được khắc họa rõ
nét hơn  khi nạn đói tràn vào xóm ngụ cư. Đó là dáng đi mệt mỏi, đầu thì chúi về đằng
trước mặt cứ gằm lại, nó làm mụ mị con người vui vẻ, ngất ngưỡng trước đây ở
Tràng. Tạo hóa đã ban cho anh cái xấu mà không hề thương xót. Phải chăng  cách xây
dựng nhân vật có số phận như thế là dụng ý nghệ thuật của nhà văn Kim Lân?! Để từ
đó người nghệ sỹ ấy làm bật lên vẻ đẹp bên trong của con người Tràng!

   Ẩn sâu bên trong của con người xấu xí, thô kệch ấy là cả một bầu trời nhân cách tốt
đẹp. Tràng tốt bụng, hiền lành, hào hiệp và nhân hậu. Tính anh vui vẻ, nhanh nhẹn và
thích nô đùa với trẻ con. Bởi vậy mỗi lần Tràng đi làm về,  trẻ con trong xóm ra vây
lấy hắn reo cười vang lên, khi ấy Tràng chỉ ngửa mặt lên “cười hềnh hệch”. Quả thật,
tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Cũng chính vì thế mà anh đã 
sẳng sàn cưu mang người đàn bà xa  lạ giữa nạn đói bằng một bữa ăn. Mặc dù anh
cũng là tầng lớp đang bị cái đói hoành hành. Tuy nhiên “ Thương người như thể
thương thân”, anh đã cứu một người đàn bà đang ở giữa ranh giới của sự sống và cái
chết, sẳn sàng cưu mang thị với quyết định đưa về làm vợ. Tình thương  người với
người tỏa sáng hơn bao giờ hết trong một con người tưởng chừng như gàn dở, ngờ
nghệch đang bị coi thường! Vẻ ngoài thô kệch chính là bàn đạp để làm nổi bật tinh
thần nhân đạo, yêu thương con người của Tràng. Đó cũng chính là dụng ý của nhà văn
Kim Lân. Một người ngờ nghệch như anh cu Tràng mà biết cưu mang người khác,
mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp thì những người cao hơn anh, có địa vị hơn
anh đánh rơi tình người ở đâu mất rồi?. Đây chính là niềm trăn trở của những nhà văn
chân chính, những nhà nhân đạo, đặc biệt là những cây bút hướng về con người. Vì
xét cho cùng, văn chương là vì con người, giáo dục nhân cách chúng ta!

Người đàn ông nhân hậu, tốt bụng ấy sẵn sàng cưu mang những người cùng cảnh ngộ.
Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo. Tình huống
Tràng nhặt vợ khi gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước khiến anh không
khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người cùng cảnh ngộ
“quần áo rách như  tổ đỉa trên khuân mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt”. Cái
đói khiến người con gái ấy chẳng biết thể diện là gì, cứ thế mà thô thiễn, trơ trẽn bất
chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói
khát cùng đường của người đàn bà ấy. Nó đã đánh thức con người nhân hậu trong
Tràng. Anh hào hiệp, phóng khoáng đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Vẻ
đẹp tình người đã được nhen nhóm, thắp sáng lên giữa cái tối tăm của nạn đói. Và
cũng chỉ một câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng “ Nói đùa chứ có về với tớ thì ra
khuân hàng lên xe rồi cùng về mà thị đã theo Tràng về thật.
Lúc đầu Tràng phảng phất nỗi lo sợ về cái đói, cái chết,  “ Thóc gạo này đến cái thân
mình cũng  có nuôi nổi hay không mà còn đeo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất là
cái thời đói kém như thế này. Nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi “chậc, kệ”.  Kệ ở đây
không phải là kệ đời hay mặc xác đời mà là cái kệ trong niềm tin mãnh liệt vào tương
lai, cái “kệ” trong  hành động của con người luôn khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh
phúc lứa đôi ngay cả khi cái chết đang cận kề. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ
lại sau mình tất cả nổi sợ hãi, mọi lo nghĩ để hướng đến hạnh phúc. Người ta cho rằng
đó là hành động liều lĩnh bởi ta đã chứng kiến một chị Dậu phải bán con, bán chó để
nuôi những đứa con khác, duy chì miếng sinh nhai, một anh Đĩ Chuột phải tự tử để
nhường lại miếng cơm cho vợ và con mình. Vậy mà Tràng lại đi cưu mang  người
khác. Tình thương đã cho anh quyết định dứt khoát hơn về hành động của mình. Nó
còn tiềm ẩn cái khao khát  hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.
Nhà văn Kim Lân quả thật đã khám phá thành công những vẻ đẹp tâm hồn của những
người nông dân như Tràng - giàu tình yêu thương và sẵn sàng cưu mang  những  kiếp
người khổ hơn mình.

. Tràng không còn cúi đầu lầm lũi như mọi ngày mà  “phởn phở khác thường”, “ tủm
tỉm cười”, “ hai mắt sáng lên lấp lánh”. Cái cảm giác lâng lâng êm ái hạnh phúc buổi
đầu đi bên vợ. Bởi vốn dĩ anh chưa từng được người đàn bà nào tình tứ với mình như
thế, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ có được hạnh phúc giữa nạn đói này

      Sau khi có vợ, Tràng không còn là một anh thanh niên ngờ nghệch mà đã trở
thành một người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức vun vén cho mái ấm gia
đình. Ta nhận ra rằng, Tràng là một người chồng hết sức yêu quý,tâm lí quan tâm
người bạn  đời của mình. Anh đưa thị vào chợ tỉnh “ mua cho thị cái thúng con đựng
lặt vặt”, đưa vào hàng cơm “ đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò vê”đó như là một
đám cưới mà Tràng đã tổ chức cho thị. Một đám cưới giữa vô vàn đám ma . Chăm sóc
từng cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Anh mua cho thị cái thúng
con không chỉ đựng mấy thứ lặt vặt mà còn là minh chứng thị là một người phụ nữ
giống như những người khác, để thị có thể tự tin hơn khi về nhà chồng, ai lại để vợ về
nhà bằng tay không bao giờ! Tràng  còn “rất chịu chơi”  khi chi hẳn hai hào mua dầu
để thắp sáng cho đêm tân hôn của mình. Chi tiết Tràng khoe với thị chai dầu vừa buồn
cười lại vừa xót thương. “Hai hào đấy, đắt quá cơ, mà thôi, chẳng cần”. Tràng muốn
đêm tân hôn của mình sáng lên một chút để giúp người đàn bà xấu số phần nào đỡ tủi
thân trong buổi đầu về nhà chồng. Khi mà có hạnh phúc thì con người ta sẳn sàng
đánh đổi cho niềm tin của mình được thắp sáng, cho hạnh phúc được bấu víu cũng
như cho hy vọng của mình được nhen nhóm và phát triển. Tràng cũng khao khát như
vậy!
Ai đó đã từng nói rằng “ Hạnh phúc trong tình yêu có thể làm cho tâm hồn con người
thay đổi một cách kỳ lạ” và Tràng cũng không ngoại lệ

      . Sự xuất hiện của thị, của người vợ nhặt không chỉ mang đến một luồng sinh khí
cho Tràng, cho mẹ Tràng mà còn cả xóm ngụ cư. Có thứ gì đó lạ lùng và tươi mát thổi
vào cuộc sống đói khát, tối tăm của họ. Phải chăng sự xuất hiện của người vợ nhặt, sự
thay đổi của con người khi người ta nâng niu và ngợi ca tình người thì cuộc sống sẽ
tốt đẹp hơn! Từ câu chuyện của hai con người dưới đáy của xã hội dường như đã
mang theo không khí chờ đợi hạnh phúc đang đến nhẹ nhàng và bình yên. Nó như
nhắn nhủ với chúng ta một điều “Trong những hoàn cảnh bần cùng  nhất mà con
người ta vẫn nghĩ đến tình người thì chắc chắn sẽ còn một tia sáng ở cuối con đường”.

 
Khi đem thị về nhà, Tràng mới thật sự lo lắng, tâm trạng thiếu tự tin, giống như
một đứa trẻ. Trong lòng anh ngổn ngang trăm thứ cảm xúc vừa vui, vừa lo âu. Tràng
vui vì hạnh phúc quá lớn, “ Hắn đã có vợ rồi đấy ư?”, sẽ có một hạnh phúc gia đình.
Nhưng rồi hắn cũng lo sợ ý của mẹ, hết chạy ra ngõ lại chạy vào sân. Khi thấy mẹ,
“Tràng reo lên như  một đứa trẻ. Anh cẩn thận mời mẹ vào ngồi lên giường cho chĩnh
chện rồi mới giới thiệu. Không chỉ là một người đàn ông có trách nhiệm mà Tràng
còn là một người con hết mực lễ phép, ngoan ngoãn với mẹ. Anh giới thiệu với mẹ,
“Kìa nhà tôi nó chào u đấy”. Kim Lân quả thật rất tài tình trong việc xây dựng lời
thoại rất ít chữ nhưng chứa đựng trong đó tình cảm rất nhiều. Chao ôi, cái người mà
Tràng gọi “nhà tôi” ấy, cái người đang ra mắt mẹ chồng lại chỉ là một người đàn bà
nhặt được theo không, không cưới hỏi, không nhan sắc, bộ áo cô dâu trong ngày vu
quy thì xác xơ như tổ đỉa. Tuy nhiên, tiếng “nhà tôi” kia vẫn nghe như có gì đó hết
sức thân thương, trân trọng. Nó có sự nghiêm túc, chín chắn về việc hệ trọng cả đời
người. Đến với nhau chỉ bằng bốn bát bánh đúc nhưng Tràng đã dành trọn tình
thương, tình yêu cho người đàn bà xấu số kia, mở ra những ngày tháng hạnh phúc
đang chờ phía trước. Như nhà văn Kim Lân đã chia sẻ “Tôi muốn họ vào trong sự
sống, sự yêu thương nhau... dù trong hoàn cảnh cùng đường, bế tắc nhất”.

        Song song với niềm hạnh phúc vứa chớm nở, nhà văn Kim Lân đã cho thấy ở
Tràng một luồng sống mới vào sáng hôm sau. “Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột
ngột tràn ngập trong lòng”, “trong người êm ái lửng lơ như người trong  giấc mơ đi
ra”. Việc có vợ như một giấc mơ đẹp trong cuộc đời Tràng vậy, nó đột ngột, nhanh
chóng, niềm vui sướng ngập dâng trong lòng,… bỗng nhiên hắn thấy yêu thương, gắn
bó với căn nhà này lạ lùng. Tràng đã có suy nghĩ, ý thức của một người đàn ông
trưởng thành, từ vô tâm thành quan tâm, tử dửng dưng đến lo lắng cho hạnh phúc lứa
đôi. Từ trách nhiệm  với cá nhân gia đình càng thêm khát khao cháy bỏng vào tương
lai phía trước. Ở Tràng hiện rõ tương lai tươi sáng, dù trên bờ vực thẳm, anh vẫn đi
tìm sự sống “ Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây”.Tràng có hi vọng ở tương lai khi
nghe vợ kể về đoàn người đi phá kho thóc Nhật ân hận vì không biết đoàn người Việt
Minh đi phá kho thóc nhật đme chia cho người đói(DC) Và hình ảnh lá cờ đỏ sao
vàng tung bay phấp phới như báo hiệu trước cuộc sống đói khổ này sẽ chấm dứt thay
vào đó là những ngày vui, ấm áp của mọi người. Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác
phẩm được tỏa sáng hơn bao giờ hết, tình thương, tình yêu giữa người với người đã
thắp lên hy vọng, niềm tin vào một ngày mai tươi đẹp!
“ Sáng hôm sau , mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người
êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra ”. Không phải là nỗi lo âu
khi đối diện với thực tại đen tối trước mặt. Không phải là cảm giác hối hận khi
đã nhặt vợ về giữa những ngày đói khát. Ta chỉ thấy tâm trạng nhẹ nhõm,
khoan khoái của một người đàn ông đang tràn ngập niềm hạnh phúc lứa đôi.
Tràng đang hạnh phúc, hạnh phúc lớn và đột ngột đến ngỡ ngàng, đến không
thể tin được: “ Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như
không phải ” Nhà cửa sạch sẽ, tinh tươm : “ Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái ,
và bỗng vừa chợt nhận ra , xung quanh.
Càng ngỡ ngàng hơn khi Tràng nhận thấy xung quanh khác lạ, mới mẻ, cửa
nhà nhà mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn
hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo
rách như tổ đỉa vẫn vất ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang
nước vẫn để khô ở dưới gốc cây đã kín nước đầy ăm ắp . Đống rác màn tung
hoành ngay lối đi đã được hốt đi. Niềm vui dâng lên trong lòng. Toàn là
những dấu hiệu vui, những dấu hiệu về một ngày mai tươi sáng hơn. Nếu chỉ
nghĩ đến sự sống chết trước mặt, nếu không có niềm tin rằng mình sẽ thoát
khỏi cái đói, nếu không khao khát một cuộc sống khấm khá hơn thì họ sẽ để
mặc cửa nhà bừa bộn, nhếch nhác.
Một cảnh tượng hết sức bình dị hiện ra trước mắt Tràng: “ Ngoài vườn người
mẹ đang lúi húi những bụi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng
chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Hai người phụ nữ của cuộc đời hắn
đang cặm cụi quét tước, thu dọn cửa nhà. “Cảnh tượng thật đơn giản, bình
thường nhưng đối với hắn lại ất thấm thía cảm động. Hạnh phúc, quả thực,
đến từ những điều rất nhỏ ”. Niềm vui, niềm hạnh phúc đã đem đến sự đổi
thay kì diệu trong tâm hồn Tràng: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn
bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Nhà không là sự vật hữu hình, cụ thể, nhà
còn là gia đình, là tổ ấm. Từ giờ trở đi “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng
vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng - nguồn
vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Chỉ trong một đoạn
ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất
ngờ, bỡ ngỡ cho đến vui sướng tột cùng khi biết mình đã có gia đình. Một
niềm vui thật cảm động, cả hiện thực như xen lẫn giấc mơ. Niềm vui như
nhân đội, bởi bên cạnh hạnh phúc lứa đôi, Tràng còn có thêm một niềm hạnh
phúc to lớn nữa - hạnh phúc gia đình. Anh chàng cục mịch, khù khờ thường
ngày vụt trở nên sâu sắc. Hạnh phúc như khiến con người ta trưởng thành
hơn trong cảm xúc.
Hạnh phúc còn khiến con người trưởng thành trong nhận thức. Tràng ý thức
được bổn phận, trách nhiệm của người đàn ông với gia đình. Tràng nhận
thấy ý nghĩa của cuộc đời chính là yêu thương, gắn bó và chăm lo cho những
người thân. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận
phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân , hắn cũng
muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. Chi tiết hắn xăm xăm
chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
nhà ” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính
cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ
ngây ngô sang nhận thức. Rõ ràng, khát vọng hạnh phúc ở con người lớn
hơn cái đói và cái chết. Đó là lí do dẫn đến cái kết“. Trong óc Tràng vẫn thấy
đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới ” của câu chuyệ

 
          Với tác phẩm  “ Vợ nhặt”,  Kim Lân một lần nữa khẳng định tài năng, sức sáng
tạo và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình. Cái vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc
sắc, cái lối viết tưởng chừng như dễ nhưng rất khó phỏng theo, giản dị nhưng ánh lên
một vẻ hào hoa lạ kỳ của nhà văn. Nhưng có lẽ cái đọng lại trong tôi là cách nhìn đời,
nhìn người  đầy xót xa, thương yêu của tác giả, là niềm tin mà ông muốn trao gửi qua
thiên truyện ngắn. Tràng không may mắn khi tạo háo ban cho ngoại hình chẳng mấy
ưu nhìn, bị cuộc sống bùi dập đến đường cùng nhưng anh vẫn luôn khát khao được
sống hạnh phúc, vẫn vững tin vào tương lai trong cái  tối tăm, đói kém của xã hội bấy
giờ. Viết về nạn đói, nhà văn muốn gửi đến thông điệp: Không có khát khao nào
chính đáng bằng khát khao được sống như một con người, sống cho ra người, dù
cuộc đời  có bi thảm đến đâu thì vẫn hướng về ánh sáng, niềm tin vào tương lai.

      Viết về đề tài người nông dân, ta đã từng bắt gặp nhiều sáng tác của các nhà văn
trước năm 1945. Đó là Nam Cao với hình ảnh “ Chí phèo” bị tha hóa cả  nhân hình
lẫn nhân tính nhưng vẫn khát khao được làm người, nhà văn Ngô Tất Tố với hình ảnh
chi Dậu phải hy sinh những gì quý giá nhất cuộc đời để duy trì sự sống cho gia đình.
Điểm chung của các nhân vật này và Tràng là đều có số phận hết sức bi thảm nhưng
vẫn khát khao vươn lên. Nhưng có lẽ, vì hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà chị Dậu,
Chí Phèo.... đều phải  bước vào đường cùng khi không tìm ra ánh sáng. Còn Tràng,
khi được sống trong tình yêu anh đã ý thức tìm thấy ánh sáng của cách mạng, của
Đảng. Song đó cũng là dụng ý của nhà văn Kim Lân khi mở con đường mới cho nhân
vật, đó là theo cách mạng. Và cũng qua câu chuyện của Tràng chúng ta thấm thía
nhiều bài học quý giá. Chúng ta được sinh ra trong điều kiện tốt hơn, được đón nhận
nhiều điều tốt đẹp, vậy chẳng có lý do gì mà chúng ta không yêu thương lẫn nhau?
Chưa nói đến làm gì lớn lao, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ như quan tâm sức khỏe
bố mẹ, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, tích cức tham gia các hoạt động
thiện nguyện.... Mỗi hành động nhỏ sẽ góp phần cho toàn xã hội ngày một tốt đẹp
hơn, yêu thêm cuộc sống này hơn. Còn gì tuyệt vời hơn khi mỗi sáng mai thức dậy, ta
được làm thêm nhiều việc tốt! Và thấm thía hơn, ta học được bài học về cách nhìn
người, nhìn đời – cái nhìn đầy yêu thương, bao dung, trìu mến và lạc quan, tin tưởng.
Chúng ta chỉ được sống có một lần trong đời, vậy hãy chọn sống tích cực và ý nghĩa!

       Mỗi lần đọc trang văn của Kim Lân, ta lại cảm thấy như đang đón nhận một bài
học nhân đạo sâu sắc qua từng nhân vật mà ông xây dựng. Thành công trong cách xây
dựng nhân vật đã đưa Vợ nhặt đứng vào hàng kiệt tác của truyện ngắn Việt Nam hiện
đại, đưa tên tuổi của Kim Lân lên một tầm cao mới - trở thành một tượng đài trong
làng văn học Việt Nam. Và đặc biệt Kim Lân sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc yêu văn
chương, yêu thêm những giá trị bất diệt trong cuộc sống - đó là tình người!

KL”trong sự túng đói quay quắt họ vẫn khát khao vươn lên cái chết, cái thảm để mà
vui, mà hi vọng “

You might also like