You are on page 1of 6

ÔN TẬP VỢ NHẶT THEO 2018

I. MỞ BÀI
Nhà văn Kim Lân đã dành cả đời văn của mình để khám phá, sáng tác về đời sống
của những người thôn quê, với nếp sống thanh bạch, nhân nghĩa được truyền lại từ ngàn
đời. Trong những trang viết của ông, cái đặc sắc, xúc động nhất chính là hồn cốt cao đẹp ấy.
Nói như Trần Ninh Hồ: “Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận,
những tâm trạng sắc sảo đến cốt đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng
con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy.” Chính vì vậy, nhà văn
sống mãi trong tâm trí của bạn đọc với sự thuần thục bậc thầy về cấu trúc và ngôn ngữ
truyện ngắn, được cụ thể hóa một cách sâu sắc của tác phẩm truyện ngắn Vợ nhặt.
II. THÂN BÀI
1. Tác giả
a.Tiểu sử - Cuộc đời
- Kim Lân (1920-2007) tên khai sinh Nguyễn Văn Tài, ông sinh ra ở Tân Hồng, Từ Sơn,
Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn
guốc, khắc tranh bình phong, vừa viết văn. Đến năm 1944, Kim Lân tham gia Hội văn hóa
cứu quốc cùng với nhiều nhà văn như Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Như Phong.
Sau đó ông liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm
báo, diễn kịch, đóng phim).
b. Sự nghiệp sáng tác
 Tác phẩm chính
Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955); Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962),...
 Phong cách sáng tác
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn có sở trường viết về nông thôn và người
nông dân.Ông có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật; văn phong giản dị nhưng gợi cảm, hấp
dẫn; ngôn ngữ sống động, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày và mang đậm màu sắc
nông thôn; am hiểu và gắn bó sâu sắc về phong tục và đời sống làng quê Bắc Bộ.
c. Tác phẩm Vợ nhặt
Vợ nhặt là một trong hai tác phẩm để đời của Kim Lân viết về người nông dân, được
Nguyễn Khải đánh giá là tác phẩm do “thần viết”, “thần mượn tay người để viết nên những
trang bất hủ”
d. Hoàn cảnh sáng tác
Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được viết ngay sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công nhưng còn dang dở và bị thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại, Kim
Lân dựa vào 1 phần cốt truyện cũ để viết lên truyện ngắn này.
e. Nhan đề Vợ nhặt
Là một nhan đề ngắn gọn, gây chú ý đặc biệt bởi tính chất khác thường của sự việc,
khi Vợ, một danh xưng thiêng liêng của người con gái sau khi được cưới xin đàng hoàng,
nhưng lại được “nhặt”, nhặt nhạnh, nhặt vu vơ, tầm thường, rẻ rúm. Nhan đề ấy đã phần nào
hé lộ tình huống bi hài, cho thấy thân phận, cảnh ngộ của các nhân vật
2. Cách kiến tạo truyện kể
Vợ nhặt không được thuật lại theo trình tự thời gian. Truyện mở đầu bằng cảnh Tràng
dẫn thị về nhà, trước sự bất ngờ của những người dân trong xóm ngụ cư. Cách mở ấy đã gợi
lên trong người đọc sự tò mò về cách nên duyên giữa Tràng và thị - đôi vợ chồng trong Nạn
đói năm 1945. Rồi từ đó, mạch truyện hồi cố những lần gặp gỡ giữa hai nhân vật, cung cấp
cho người đọc về số phận kéo xe bò thuê của Tràng và tình cảnh trôi dạt của thị. Vợ nhặt kết
thúc bằng khung cảnh sáng hôm sau đêm tân hôn, mở ra một tương lai tươi sáng cho cách
mạng Việt Nam cũng như cho số phận các nhân vật. Đây chính là cách tổ chức mạch truyện
phá vỡ trật tự sự kiện, là một đặc trưng nổi bật của nghệ thuật tự sự hiện đại so với truyền
thống.
3. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
Trong Vợ nhặt, Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình huống anh
nông dân nghèo tên Tràng, xấu trai, đang có nguy cơ ế vợ bỗng nhiên lại có vợ, mà lại là
nhặt được vợ, là theo không chỉ nhờ một câu hát vu vơ và bốn bát bánh đúc. Tình huống ấy
kéo theo hàng loạt các tình huống khác không kém phần lí thú.
Tình huống nhặt vợ gây nên sự ngạc nhiên cao độ trong xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng
và ngay cả bản thân anh Tràng nữa bởi hai lý do: Ai có thể ngờ rằng một người nghèo túng,
xấu trai, thậm chí có vẻ hơi ngờ nghệch lại là dân ngụ cư như Tràng, xưa nay con gái không
ai thèm để ý, vả lại cũng không có tiền cưới vợ mà .nay bỗng dưng lấy được vợ, mà là theo
không hẳn hoi. Hơn nữa, trong một bối cảnh như thời điểm ấy, khi cái đói đang hoành hành,
khắp nơi đều vạ vật những người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp
lều chợ (...) Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” thì một
người như Tràng đến nuôi thân còn chẳng lo nổi lại còn mẹ già, nói chi đến chuyện đèo
bòng. Bằng ấy cái vô lý và không thể nhưng sự kiện chấn động ấy vẫn cứ diễn ra. Khi Tràng
dẫn người đàn bà lạ về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác không hiểu.Ai đấy nhỉ?... Hay là:
người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên? - Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ
mạc nào lên thăm đâu. Từ đây, Kim Lân kéo người đọc về với tình huống trước đó như một
lời lý giải cho việc nhặt được vợ của Tràng, một tình huống cũng thú vị không kém. Tràng
nhặt được vợ chỉ nhờ vào câu hát vu vơ khi đẩy xe bò cho đỡ mệt nhọc:
“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Cái đói khổ làm cho người ta mất hết cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người đàn bà đã chớp
lấy câu nói của Tràng như cái phao cứu sinh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp lại thì
“sưng sỉa”, rồi không ngần ngại ngồi xuống làm một chập hết bốn bát bánh đúc. Thế là nên
vợ nên chồng.
Có thể nói đây là một tình huống hết sức oái oăm, không biết nên vui hay nên buồn,
không biết nên mừng hay nên lo? Thứ tâm trạng đan xen ấy hiện lên trong suy nghĩ đầy mâu
thuẫn của những người trong cuộc. Tràng “mới đầu cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái
thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi hắn cũng tặc lưỡi.
Cảm giác ấy cùng với những tình cảm mới lạ đan xen khiến Tràng giống như một đứa trẻ.
Khác với Tràng, bà cụ Tứ là một người từng trải, nhìn thấy con trai về cùng với người đàn
bà lạ mặt “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà hiểu cả tình cảnh bất hạnh của người đàn bà, cũng
như tình cảnh khó khăn sắp tới của cả gia đình. Nỗi lo lắng cùng với niềm hy vọng đan xen,
“May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó,
chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được?”. Bản thân
người đàn bà, sau những phút giây chao chát chỏng lỏn để có được miếng ăn, theo không
người ta về nhà, chắc chắn giờ đây cũng suy nghĩ mông lung nhiều lắm. Thị trở về với dáng
vẻ ngượng ngùng, bẽn lẽn, e thẹn “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.
Đây đúng là một tình huống truyện rất lạ mà Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt
nhân vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên khát vọng của con người có
thể chiến thắng hoàn cảnh để sống và có được hạnh phúc.
4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
a. Gia cảnh
 Tràng là dân ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê chở thóc cho Liên đoàn, cuộc
sống nghèo khổ, lam lũ, cơ cực
 Thị là một con số không tròn trĩnh: không tên, không tuổi, không nghề nghiệp,
không gia đình, sống trôi dạt vất vưởng, không chốn nương thân, nạn nhân tội
nghiệp của cái đói
 Bà cụ Tứ đã trải qua cuộc đời khổ cực dài dằng dặc, chồng bà đã chết, con gái
mất tích, cuộc sống vất vả nghèo khổ.
→ Họ đều là nạn nhân tội nghiệp của nạn đói năm 1945, bất lực trước
cái cái chết đang từ từ đe dọa cuộc sống vốn đã cơ cực, nghèo đói của
họ.
b. Ngoại hình
 Tràng
Tràng như một sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng
chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý
thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại
thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên
rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng. Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn
quanh hai mẹ con Tràng. Cuộc sống túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội
nghiệp, khiến người khác không khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận.
 Thị :
“Hôm nay thị rách quá”, áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, trên gương mặt lưỡi cày
xám xịt chỉ còn thấy 2 con mắt. Đó là ngoại hình in hằn cái đói, cho thấy sự tàn phá ghê
gớm của cái đói. Trong cái không khí u ám và nặng nề, "không khi vẫn lên mùi ấm thối của
rác rưởi và mùi gây của xác người”, "người chết như ngả rạ" "người sống xanh xám dật dờ
như những bóng ma". Và dường như cánh cửa của thần chết cũng đang dẫn dẫn mở ra với
thị
 Bà cụ Tứ :
Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “lòng khòng”, khẽ
mắt “lèm nhèm”,”khuôn mặt bủng beo, u ám”. Những hành động cử chỉ của bà “nhấp nháy
hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” đều toát lên tất cả các
nét của bà là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt
trong hoàn cảnh nghèo nàn, cuộc đời cực khổ dài dằng dặc.
c. Tính cách
 Tràng
Ẩn sâu bên trong của con người xấu xí, thô kệch ấy là cả một bầu trời nhân cách tốt
đẹp. Tràng tốt bụng, hiền lành, hào hiệp và nhân hậu. Tính anh vui vẻ, nhanh nhẹn và thích
nô đùa với trẻ con. Bởi vậy mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm ra vây lấy hắn reo
cười vang lên, khi ấy Tràng chỉ ngửa mặt lên “cười hềnh hệch". Quả thật, tính tình Tràng vô
tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Cũng chính vì thế mà anh đã sẵn sàng cưu mang người
đàn bà xa lạ giữa nạn đói bằng một bữa ăn. Mặc dù anh cũng là tầng lớp đang bị cái đói
hoành hành. Tuy nhiên "Thương người như thể thương thân", anh đã cứu một người đàn bà
đang ở giữa ranh giới của sự sống và cái chết, sẵn sàng cưu mang thị với quyết định đưa về
làm vợ. Tình thương người với người tỏa sáng hơn bao giờ hết trong một con người tưởng
chừng như gàn dở, ngờ nghệch đang bị coi thường! Vẻ ngoài thô kệch chính là bàn đạp để
làm nổi bật tinh thần nhân đạo, yêu thương con người của Tràng. Đó cũng chính là dụng ý
của nhà văn Kim Lân. Một người ngờ nghệch như anh cu Tràng mà biết cưu mang người
khác, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp thì những người cao hơn anh, có địa vị hơn
anh đánh rơi tình người ở đâu mất rồi? Đây chính là niềm trăn trở của những nhà văn chân
chính, những nhà nhân đạo, đặc biệt là những cây bút hướng về con người. Vì xét cho cùng,
văn chương là vì con người, giáo dục nhân cách chúng ta!
Tràng khao khát hạnh phúc gia đình, bất chấp sự đe dọa của cái đói cái chết, Tràng đã
có một quyết định liều lĩnh, cho thị theo về nhà làm vợ Tràng. Trong thời buổi thóc cao gạo
kém, đến thân mình còn chẳng biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Hành động đó xuất
phát sâu xa từ khao khát hạnh phúc gia đình. Tràng đã quyết định đánh cược với sóp phận
để có được hạnh phúc.
Sau khi có vợ, Tràng không còn là một anh thanh niên ngờ nghệch mà đã trở thành
một người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức vun vén cho mái ấm gia đình. Ta
nhận ra rằng, Tràng là một người chồng hết sức yêu quý, quan tâm người bạn đời của mình.
Anh đưa thị vào chợ tỉnh "mua cho thị cái thúng con đựng lặt vặt", đưa vào hàng cơm "đánh
một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò vê". Chăm sóc từng cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ
Tràng rất tâm lý. Anh mua cho thị cái thúng con không chỉ đựng mấy thứ lặt vặt mà còn là
minh chứng thị là một người phụ nữ giống như những người khác, để thị có thể tự tin hơn
khi về nhà chồng, ai lại để vợ về nhà bằng tay không bao giờ! Tràng còn “rất chịu chơi" khi
chi hẳn hai hào mua dầu để thắp sáng cho đêm tân hôn của mình. Chi tiết Tràng khoe với thị
chai dầu vừa buồn cười lại vừa xót thương. “Hai hào đấy, đắt quá cơ, mà thôi, chẳng cần".
Tràng muốn đêm tân hôn của mình sáng lên một chút để giúp người đàn bà xấu số phần nào
đỡ tủi thân trong buổi đầu về nhà chồng. Khi mà có hạnh phúc thì con người ta sẵn sàng
đánh đổi cho niềm tin của mình được thắp sáng, cho hạnh phúc được bấu víu cũng như cho
hy vọng của mình được nhen nhóm và phát triển. Tràng cũng khao khát như vậy!
Ai đó đã từng nói rằng “Hạnh phúc trong tình yêu có thể làm cho tâm hồn con người
thay đổi một cách kỳ lạ" và Tràng cũng không ngoại lệ. Tràng không còn cúi đầu lầm lũi
như mọi ngày mà “phởn phở khác thường", "tủm tỉm cười", "hai mắt sáng lên lấp lánh". Cái
cảm giác lâng lâng êm ái hạnh phúc buổi đầu đi bên vợ. Bởi vốn dĩ anh chưa từng được
người đàn bà nào tình tứ với mình như thế, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ có được hạnh phúc
giữa nạn đói này. Sự xuất hiện của thị, của người vợ nhặt không chỉ mang đến một luồng
sinh khí cho Tràng, cho mẹ Tràng mà còn cả xóm ngụ cư. Có thứ gì đó lạ lùng và tươi mát
thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm của họ. Phải chăng sự xuất hiện của người vợ nhặt, sự
thay đổi của con người khi người ta nâng niu và ngợi ca tình người thì cuộc sống sẽ tốt đẹp
hơn! Từ câu chuyện của hai con người dưới đáy của xã hội dường như đã mang theo không
khí chờ đợi hạnh phúc đang đến nhẹ nhàng và bình yên. Nó như nhắn nhủ với chúng ta một
điều: Trong những hoàn cảnh bần cùng nhất mà con người ta vẫn nghĩ đến tình người thì
chắc chắn sẽ còn một tia sáng ở cuối con đường.
 Thị :
Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình bên ngoài, mà nhân cách và tính nét của thi cũng
có những thay đổi đáng phải lo ngại theo một chiều hưởng tiêu cực. Vốn trước kia là một
người phụ nữ, ai có thể ngờ rằng người gái đó vì cái miếng ăn mà dám đánh đổi cả danh dự
của chính bản thân minh. Lần đầu tiên khi nghe thấy câu dào của Tràng thị lập tức chạy tới,
híp mắt và cười tình. Nhưng khi lần sau gặp lại Tràng, thị “sưng sỉa" chạy thẳng đến chỗ
Trang mà mắng mỏi.
Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúc, bao nhiêu cái sự dịu dàng, e thẹn đã biến
đi đâu mất có, thì chỉ cắm đầu vào ăn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu và cũng không
hề trò chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì miếng ăn. Và còn lạ
lùng kỳ lạ hơn nữa, khi Tràng chỉ nói trêu đùa "có về với to thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về" nào ngờ thị theo về thật. Cuộc hôn nhân là cả một đời người, vậy mà thị quyết định
thật chóng vánh. Cái đó có thể hủy hoại cá nhân cách, hủy hoại thiên tính nữ của một con
người khủng khiếp đến như vậy sao?
Dù viết về một người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân mình, nhưng nhà
văn Kim Lân không hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng đầy cảm thông, trân trọng.
Sau cái sự trở trên ấy ta vẫn thấy một người phụ nữ vẫn dịu dàng, e ấp và đảm đang. Trên
đường trở về, cắp cái thúng con, thì khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng khi bị những đứa
trẻ trêu chọc. Và đặc biệt trong giờ phút người con dâu mới được gặp mẹ chồng nàng vô
cùng lo lắng và sợ hãi.
Sự thay đổi đó, cũng khiến cho một chàng trai ngờ như Tràng cũng có thể nhận ra
"Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực
không còn gì vẻ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở trên tỉnh.” Đồng thời, thị
cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của một người phụ nữ đảm đang nhà cửa
đã được dọn dẹp thật tươm tất và sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mãnh liệt mới
 Bà cụ Tứ:
Bà là người phụ nữ nhân hậu, sâu sắc, khi đột ngột có 1 cô con dâu, mắc dù rất bất
ngờ, có rất nhiều câu hỏi, nhưng bà đều ý nhị cho qua, tránh làm thị khó xử, mất tự nhiên
Bà thương con, thương nàng dâu mới: bà không khinh bỉ, rẻ rúng thị; bà cảm thông, trân
trọng, đánh giá thị rất cao. Việc Tràng rước thị về là rước thêm 1 miệng ăn, trong hoàn cảnh
đói kém khủng khiếp đó, bà chấp nhận thị là chấp nhận chia sẻ miếng ăn với thị. Hiểu được
tâm lý ngại ngùng của nàng dâu mới về nhà chồng, bà chủ động gần gũi thị, gọi con xưng u,
giúp thị làm quen với cuộc sống mới. Vui mừng là vậy, nhưng trước cảnh đói cùng quẫn
năm 1945, bà lo lắng cho các con liệu có nuôi sống nổi nhau không. Bà biết cuộc đời bà sẽ
vẫn còn khổ, nhưng bà tin vào tương lai, bà tính đến chuyện nuôi gà, bà khơi dậy niềm tin
hi vọng cho các con, truyền cho các con ngọn lửa của niềm tin, trụ cột tinh thần của gia đình
⇒ Nhà văn đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo, qua đó làm nổi bật tính cách tốt
đẹp, cao cả của các nhân vật. Họ như những hòn ngọc sáng trong hoàn cảnh đói kém khủng
khiếp, đe dọa cuộc đời con người.
5. Ngôi kể, điểm nhìn trần thuật
 Truyện ngắn “Vợ nhặt” được kể từ ngôi thứ 3, cho phép người kể chuyện bao quát cả
ba nhân vật cũng như bối cảnh câu chuyện.
 Điểm nhìn của người kể chuyện chiếm ưu thế trong những câu văn tăm tối nhất miêu
tả về nạn đói
=> Giúp người đọc hình dung được sự khủng khiếp của nạn đói khi cái chết không
chỉ hiện hình qua xác chết mà còn qua những người sống dật dờ, qua những âm thanh
ám ảnh và mùi tử khí của nó.
 Người kể chuyện thường nương theo góc nhìn của các nhân vật, đặc biệt là Tràng và
người mẹ.
 Tràng và người mẹ: Có cả điểm nhìn bên trong và bên ngoài nhưng điểm nhìn
bên trong là chủ yếu, có giá trị làm phát lộ những suy nghĩ, thay đổi trong tâm
trạng của các nhân vật.
 Người vợ nhặt: Thị thì chủ yếu được quan sát từ điểm nhìn bên ngoài qua điểm
nhìn của người kể chuyện và Tràng.
=> Nhưng cũng chính vì thế, đây là nhân vật khiến độc giả bất ngờ, phải phán
đoán về con người bên trong của thị qua những biểu hiện bên ngoài tưởng
chừng nhỏ bé giản đơn (VD: nén tiếng thở dài khi thấy căn nhà rúm ró của
Tràng; mắt thị tối lại khi nhận ra chè khoán là cháo cám nhưng vẫn điềm nhiên
và vào miệng,...)
6. Một số chi tiết đặc sắc
* Bát cháo cám:
Bát cháo cám đã đập tan đi không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái
đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh một lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh phúc bé nhỏ, mong
manh vừa mới được nhen nhúm của con người. Qua đó, nhà văn muốn bộc lộ và truyền tải
nỗi buồn, sự thương cảm, xót xa cho hoàn cảnh của người dân trong nạn đói, bị chi phối cả
về thể chất lẫn tinh thần bởi sự thiếu thốn cái ăn.
Nhưng vượt lên trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm
lòng, tình cảm của người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “Chè
khoán đây, ngon đáo để cơ”.Người mẹ già ấy rõ ràng hiểu thấu vị đắng chát của cháo cám,
thấy tủi cho tương lai mịt mù xám xịt của những đứa con đã cố nén lại nỗi lo lắng thắt lòng,
vượt qua mọi sượng sùng, ngần ngại với người con dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy
chút nguồn vui cho không khí gia đình. Bên tận cùng nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng
trước mênh mông tấm lòng người mẹ. Kim Lân không phải ngẫu nhiên mà lại để cho người
mẹ già nua tuổi tác, xế bóng ngả chiều lại là người khơi niềm vui trong thảm cảnh ngày đói.
Là Kim Lân thấy lửa, khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn, thấy
mầm xanh sự sống chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn
khỏe khoắn vươn lên từ chính một gốc cây sắp tròn cổ thục. Thêm vào đó, qua chi tiết này
ta càng khẳng định được sự thay đổi về tính cách của vợ Tràng, hết sức ngạc nhiên trước nồi
cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ
chồng. Điều đó cũng cho thấy vợ Tràng không còn nét cách đỏng đảnh như xưa nữa mà cô
đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó
khăn sắp tới. Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một chi tiết Kim
Lân trọn vẹn gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người.
* Lá cờ đỏ bay phấp phới:
Cuộc đời của các nhân vật là tiêu biểu cho số phận người dân nghèo nước ta thuở
trước, khi chưa có đói nghèo thì không lấy nổi vợ. Trong nạn đói, khi sự khổ đau luôn đày
đọa, đè nặng lên tâm trí con người, lấy được vợ là niềm hạnh phúc đan xen với những lo
lắng, bất hạnh, không biết lấy vợ liệu có nuôi nổi nhau, đèo bòng nhau qua cái tao đoạn này.
Cuộc đời của Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột phá, thì có lẽ mãi chìm vào
u tối mất. Tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng qua chi tiết lá cờ đỏ, nhà văn đã giúp hé
mở cho anh một hướng đi mới : tham gia vào lực lượng Việt Minh, đấu tranh vì cuộc sống
ấm no của gia đình. Kim Lân đã tìm ra lối giải thoát cho con người đó không chỉ giải quyết
về vấn đề số phận mà còn theo một cách khác là thể hiện niềm tin sự lạc quan niềm hi vọng
lớn lao. Khác với kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người
nông dân lao động; kết thúc truyện Vợ nhặt, ra đời sau 12 năm, phản ánh xu hướng vận
động tất yếu của số phận con người, một triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là
tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung
của câu chuyện.
III. KẾT BÀI
Tác phẩm “Vợ nhặt”đã bộc lộ cái tài và cái duyên viết truyện ngắn của Kim Lân, thể
hiện qua nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn với cách tổ chức phá vỡ trật tự sự kiện, chọn điểm
nhìn của người kể chuyện toàn tri giúp bao quát được toàn bộ diễn biến tác phẩm, miêu tả
diễn biến tâm trạng của nhân vật một cách tự nhiên chân thực, khiến người nông dân hiện
lên thật hồn hậu trong vẻ đẹp của tình người và những khát khao giản dị, chân thành và sức
mạnh đích thực của tình thương: nạn đói có thể hủy diệt con người ta về sự sống thể xác
nhưng tuyệt nhiên không thể làm mất đi tình yêu thương, cũng chẳng thể hủy diệt nổi sức
sống tinh thần và niềm tin của con người.

You might also like