You are on page 1of 7

.

Mở bài
- Giới thiệu tác giả: Kim Lân (1920 - 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ra trong một gia
đình có hoàn cảnh khó khăn ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông chỉ
được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm rồi bắt đầu viết truyện ngắn vào năm 1941 và được
đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ông là một trong những nhà văn
hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX, chuyên viết truyện ngắn về làng quê
Việt Nam, về những sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê.
- Giới thiệu tác phẩm: Tác phẩm Vợ nhặt được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Truyện có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ
cư được in trong tập Con chó xấu xí Truyện đã khắc họa tình cảnh thê thảm của người nông dân
Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu đồng bào ta.

1.2. Thân bài


a. Hoàn cảnh và tình huống truyện:
- Tình huống truyện của tác phẩm vô cùng độc đáo, khởi nguồn từ một cuộc hôn nhân kỳ lạ,
không mai mối, không tình yêu của anh Tràng, anh tình cờ "nhặt" được vợ trong một lần đi đẩy
xe bò thuê.
- Cái sự kiện kỳ lạ đó diễn ra ngay giữa nạn đói kinh hoàng:
+ Người chết đói la liệt đầy đường, không khí ảm đạm, chết chóc tang thương bao trùm khắp
làng quê.
+ Kẻ sống thì "xanh xám như bóng ma", người thoi thóp "nằm ngổn ngang khắp lều chợ", còn
"người chết như ngả rạ".
b. Nhân vật Tràng:
- Gia cảnh nghèo khó, xấu xí, tính tình vô tư, là dân ngụ cư, sống bằng nghề kéo xe bò thuê,
trong nhà còn có thêm một mẹ già, cuộc sống vô cùng bấp bênh vất vả.
- Chăm chỉ lao động kiếm sống, chấp nhận làm công việc kéo xe vất vả để kiếm tiền nuôi bản
thân và chăm sóc người mẹ già yếu trong nhà.
- Tính tình nhân hậu, biết thấu hiểu và thông cảm cho những số phận cùng cảnh ngộ, mà tiêu
biểu nhất là thị, sẵn sàng bỏ tiền ra đãi thị ăn no một bữa tận 4 chén bánh đúc.
- Sau khi có vợ Tràng dường như trưởng thành hơn:
+ Biết săn sóc, để ý đến cảm nhận của người vợ mới cưới.
+ Trân trọng và mong chờ vào cuộc hôn nhân, một cuộc sống mới hứa hẹn sẽ cho Tràng cảm
giác hạnh phúc, một mái ấm gia đình trọn vẹn, tràn ngập yêu thương.
+ Sau đêm tân hôn, Tràng nhận thức được những trách nhiệm và vị trí của bản thân trong gia
đình "Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này".
- Tràng nghĩ về việc phá kho thóc Nhật, hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, cũng bộc lộ
những suy nghĩ mới, lối đi mới trong tương lai của Tràng.
c. Nhân vật thị:
- Xuất hiện không gây được mấy thiện cảm, bởi cái sự cong cớn, sưng sỉa, bất chấp liêm sỉ vì
miếng ăn. Thị đã đi đến bước đường cùng, đang bước dần đến nghĩa địa, thị khao khát sống đến
mãnh liệt, bằng mọi giá phải sống.
- Nhờ sự đanh đá, chỏng lỏn mà thị được ăn, được sống, thậm chí có cả một người chồng, một
mối nhân duyên có phần kỳ lạ giữa cái nạn đói khủng khiếp.
- Vẻ đẹp nữ tính:
+ Chứng kiến cái "nhà" thực chất chỉ là một căn lều rách nát của Tràng, mắt thị tối lại, nhưng
không trực tiếp thể hiện sự thất vọng.
+ Thị trở nên khép nép, lễ phép khi gặp bà cụ Tứ. Trước sự dặn dò, thương xót của bà cụ Tứ, thị
dịu dàng, yên lặng lắng nghe.
+ Sau đêm tân hôn cảnh thị dậy sớm chuẩn bị cơm nước, quét dọn nhà cửa, vườn tược đã mang
đến hình ảnh đẹp của một người phụ nữ biết vun vén cho gia đình.
d. Bà cụ Tứ:
- Cả đời sống trong nghèo khổ, đắng cay
- Luôn sống trong cảnh dằn vặt với nỗi khổ tâm tự trách vì bản thân nghèo quá không thể lo nổi
cho người con trai một tấm vợ tử tế.
- Tấm lòng yêu thương con sâu sắc:
+ Lo lắng cho tương lai của các con "liệu rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này
không".
+ Nhanh chóng sốc lại tinh thần, giấu nhẹm đi những lo lắng trong lòng để tác thành cho mối
duyên của các con.
+ Hết lòng an ủi, động viên Tràng và thị với những lời nói đầy hy vọng "Biết thế nào hở con, ai
giàu ba họ, ai khó ba đời?".
- Tấm lòng nhân hậu, bao dung biết thương cảm cho những số kiếp người bất hạnh, mà tiêu
biểu nhất là thị, người con dâu mới cưới, cho dù bà biết thị lấy con trai bà không phải vì tình
yêu:
+ Nghĩ rằng "Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được".
+ Giục thị ngồi xuống cho đỡ mỏi chân, rồi tỉ tê, tâm sự chuyện hoàn cảnh gia đình, về chuyện
không thể làm dăm ba mâm cỗ cưới khiến thị thiệt thòi, mong rằng thị có thể hiểu và cảm
thông.
- Vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, hy vọng vào một tương lai
tươi sáng hơn.
1.3. Kết bài
2. Phân tích tác phẩm Vợ nhặt
Tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm tiêu biểu phản ánh rất chân thực
cuộc sống khốn khó của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc sống của
họ bị đàn áp và dồn đến tận cùng của cái đói, khi mà sinh mạng của con người trở nên rẻ rúm.
Tuy nhiên, tác phẩm của ông chú trọng nhiều vào các giá trị nhân văn, nhân đạo, khai thác và
làm sáng rõ những vẻ đẹp của con người thông qua nghịch cảnh cuộc sống để mang đến ánh
sáng, niềm tin hy vọng trong những tháng ngày tăm tối nhất.
Truyện bắt đầu từ tình huống "nhặt vợ" đầy lạ lùng, éo le của anh cu Tràng. Theo lẽ thông
thường, để lấy được vợ thì người ta phải có tình cảm với nhau rồi làm lễ cưới hỏi đàng hoàng,
còn anh cu Tràng thì khác, anh nhặt vợ chỉ với vài câu bông đùa cùng bốn bát bánh đúc ăn vội.
Tình huống càng éo le hơn, khi mà Tràng và mẹ đang trong hoạn nạn của đói khổ, vùng vẫy
giữa cảnh khốn cùng thì Tràng lại đèo bòng thêm một người phụ nữ, nhà lại có thêm một miệng
ăn, gánh nặng lại thêm ghì lên vai. Tràng có vợ khiến người ở xóm ngụ cư ai nấy đều kinh ngạc,
ai nấy đều tò mò, thích thú nhưng cũng không khỏi xót xa trước một tình cảnh éo le. Bởi họ biết
giờ này đến thân còn không lo nổi thì làm sao có thể lo thêm cho ai. Một tình huống "nhặt
vợ" tuy nhẹ nhàng nhưng lại là một sự độc đáo để triển khai câu chuyện, thể hiện tư tưởng nhân
văn trong tác phẩm về tiếng nói của tình người, của lòng nhân ái. Giữa cảnh khốn cùng, người
ta vẫn sẵn sàng cưu mang nhau lúc khốn khó, trong đói rét ngọn lửa của khát khao hạnh phúc
vẫn nhen nhóm và bùng cháy trong tâm thức mỗi con người.
Những nhân vật bước ra từ trang văn "Vợ nhặt" đều để lại trong lòng chúng ta những ấn tượng
và niềm thương cảm sâu sắc. Nhân vật chính trong tác phẩm là Tràng, một người nông dân hiền
lành, chất phác mà giàu tình cảm. Tràng vốn sinh ra không được sự ưu ái của tạo hóa khi mang
trên mình một dáng hình xấu xí, tình tình lại cục mịch, chẳng được lanh lợi như bao người:
"...Hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho
cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn.
Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ". Hơn thế nữa, Tràng
con là dân ngụ cư, khốn cảnh không có đất đai mà cày cấy, đã nghèo lại càng nghèo thêm.
Tràng chẳng có công việc ổn định, chỉ là anh phu kéo xe bò thuê. Người như Tràng thì khó có
vợ, hắn biết, mẹ hắn cũng biết và cả xóm ngụ cư đều biết. Tuy vậy, nhưng Tràng là người hiền
lành, và còn rất chăm chỉ. Tràng ngày ngày vẫn làm thuê kiếm sống, cùng người mẹ nghèo cố
gắng từng ngày. Cũng như bao người con trai khác, Tràng cũng mong có vợ, niềm hạnh phúc
đến với hắn khi được thị theo về khi chợt cất lên câu nói bông đùa trong một lần đẩy xe bò thuê
thì gặp thị: "Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về". Từ giây phút
ấy, Tràng bắt đầu trưởng thành và thay đổi lên rất nhiều. Niềm hạnh phúc có vợ, niềm hạnh
phúc khi được sống trong một căn nhà nhỏ ấm êm có một người mẹ hiền, một cô vợ thảo đã
khiến Tràng thay đổi, Tràng thấy mình như "nên người" hơn: "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa
sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà."
Sự xuất hiện của thị là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, khiến Tràng thay đổi tích
cực về cả nhận thức và hành động. Có thể nói niềm hạnh phúc có vợ ấy đã xua tan những nỗi lo
chuyện cơm áo nơi Tràng, khiến Tràng trân trọng và thêm niềm tin vào cuộc sống. Sức mạnh
của tình yêu, của hạnh phúc đã cứu vớt tâm hồn Tràng, dẫu đó chỉ là thứ hạnh phúc "nhặt vội"
mà thôi. Qua nhân vật Tràng, tác giả đã bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước số phận của
những con người bất hạnh trong xã hội, là niềm tin tưởng vào những phẩm chất tốt đẹp của
người nông dân Việt Nam xưa.
Thị cũng là một nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm. Người phụ nữ không tên, khổng tuổi, với
dáng hình gầy đét đi vì đói. Cái đói đã đày đọa con người cả dáng hình, thậm chí thị phải vứt bỏ
cả lòng tự trọng của một người con gái để theo Tràng về. Người ta thấy ở thị cái sự chòng lọn,
chao chát, thậm chí là trơ trẽn trong hai lần thị gặp Tràng, trong cái cảnh mà thị ăn một chặp 4
bát bánh đúc. Nhưng cũng có thể thấy ở thị, một điều đáng trân trọng là niềm khát khao sống
mãnh liệt, vì đói quá rồi, khổ quá rồi, thị biết cái đói có thể chực chờ để giết chết mình bất cứ
khi nào, nên theo Tràng về cũng là để có miếng ăn, có một nơi để cứu lấy mình, để mình nương
tựa. Thị theo Tràng chính là lựa chọn cuối để giành lại sống cho chính mình, nuôi hi vọng vào
một điều gì đó dự phần vào thay đổi tình cảnh đói rét của bản thân lúc ấy. Cả quãng đường theo
Tràng về nhà, rồi đến lúc đặt chân vào nhà Tràng, thị vẫn luôn có cái nét bẽn lẽn, nữ tính của
người phụ nữ. Những nét chao chát mà người ta thấy ở thị lúc ban đầu đã biến mất. Thị cũng có
cái nét e thẹn khi bước chân về nhà chồng. Thị cũng biết thể hiện sự đảm đang khi cùng bà cụ
Tứ dọn dẹp lại căn nhà, khu vườn nho vào sáng hôm sau. Có thể thấy, sâu thẳm bên trong thị
cũng là một người con gái trách nhiệm, biết sống vì gia đình, bên trong vẻ ngoài bất cần ấy là
một con người khát khao hạnh phúc.
Và đặc biệt, chúng ta cũng không thể nào quên hình ảnh người mẹ hiền còm cõi ở tuổi xế chiều
vẫn một lòng lắng lo cho con - bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ trước hết là một người mẹ nghèo đã trải qua
một đời đắng cay, vất vả. Cũng như bao người mẹ khác, cụ Tứ cũng mong con mình được hạnh
phúc êm ấm khi đến tuổi lập gia đình.
Khi Tràng dắt thị về, bà cụ Tứ thấy thì vô cùng ngạc nhiên đan xen với nỗi tủi hờn, tự trách. Bà
ngạc nhiên vì sự xuất hiện của người con dâu mới, bà chua xót bởi bà hiểu trong cảnh khốn
cùng, đói khổ quá người ta mới chịu theo con mình về nhà, chứ không hề có tình yêu. Bà lắng
lo bởi lẽ với một người từng trải như bà cụ Tứ, chắc chắn hiểu được những khó khăn trong
tương lai mà cả Tràng và thị phải vượt qua. Lời dặn dò con đầy ấm áp của bà thật xúc động:
"Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời
cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về
sau". Là một người mẹ, bà cũng mừng cho hạnh phúc của con, dù lo lắng nhưng trong người mẹ
ấy vẫn tin vào ngày mai, vào một thứ ánh sáng tốt đẹp nơi bần cùng tăm tối. Bà cụ Tứ hẳn là
một người mẹ trách nhiệm, mẫu mực, giàu lòng bao dung và đức hi sinh mà ai đã từng đọc Vợ
nhặt cũng không thể nào quên được.
Bằng việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc cùng hệ thống các nhân vật điển hình trong hoàn
cảnh điển hình, nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm sâu sắc cùng ngôn từ giản dị mà giàu sức
biểu đạt, Kim Lân đã dựng nên một tác phẩm giàu giá trị nhân văn. Đó là tiếng nói thiết tha,
thương cảm và trân trọng những người nông dân nghèo trong xã hội giữa nạn đói năm những
năm 1945 đầy đau xót. Đó là tiếng nói căm phẫn trước tội ác "trời không dung, đất không
tha" của bọn thực dân xâm lược. Là sự trân trọng những khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
của con người trong gian khổ. Đồng thời, mở ra một con đường để nhân dân vượt qua tăm tối,
vươn tới những điều tốt đẹp hẹp, đó là con đường đấu tranh cách mạng.
Kim Lân bằng tài năng trong ngòi bút của mình đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và
những thảm cảnh trong những năm tháng đói khổ. Qua đó, bộc lộ chiều sâu tư tưởng của tác
phẩm hiện thực vì con người, gắn bó với đời sống con người.

Nhân vật anh Tràng


a. Lai lịch, ngoại hình

- Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Tràng bị
coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

- Ngoại hình xấu xí, thô kệch: “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm
bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ
vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười
cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch”.

b. Tính cách

- Tràng là người hầu như không biết tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình. Anh ta
thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy.

- Tràng là người đàn ông nhân hậu, phóng khoáng: Ban đầu không chủ tâm tìm vợ. Thấy người
đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ chấp nhận. Hắn đưa thị
vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một
bữa no nê… Anh còn mua hai hào dầu thắp sáng trong đêm đầu có vợ.

- Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm: Anh ngoan ngoãn với mẹ,
tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết việc trước mắt, sống
vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi
tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cảnh
những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là
lá cờ đỏ to lắm.

=> Tiểu kết:


- Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám.
- Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý
sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút sắc sảo.

- Qua nhân vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước năm 1945
cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của họ.

2. Nhân vật người vợ nhặt


a. Hoàn cảnh, ngoại hình

- Một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình.

- Không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy
thêm phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy sọp”, “trên khuôn mặt lưỡi
cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”.

b. Tính cách

- Trong lần gặp gỡ: Cong cớn, chỏng lọn, chua ngoa… Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con
mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ. Cúi đầu ăn một chặp 4 bát
bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”.

=> Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh phúc.

- Trên đường trở về nhà với Tràng:

 Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che
nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về
nhà chồng.
 Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị
thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
- Khi về đến nhà Tràng:

 Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép nép,
ngại ngùng. Thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với
dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
 Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát,
gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh
nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm...
 Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào
miệng”. Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.
 Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho
thóc của Nhật. Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà
này không cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
3. Nhân vật bà cụ Tứ
- Sự ngạc nhiên của cụ khi Tràng dắt vợ về:

 Về đến nhà, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Bà cụ ngạc nhiên
vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.
 Bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”… “Nhà
tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”...
 Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
- Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ:

 Khi biết rằng con bà “nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận làm
mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng trở
nên buồn hơn.
 Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo túng quẫn: Bà không biết lấy
gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con không biết làm
sao vượt qua nổi khó khăn này.
- Nỗi lo của bà cụ Tứ: Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không biết phải
qua những ngày khó khăn này như thế nào. Người mẹ ấy khuyên con, khuyên dâu cùng nhau
thương nhau, cố gắng vươn lên.

- Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ:

 Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho
khá…”
 Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa.
 Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu.
 Bà vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con dâu đỡ tủi.
=> Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, luôn lạc quan trong hoàn cảnh khó
khăn. Bà cụ Tứ là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản dị, giàu tình yêu
thương và đức hi sinh

You might also like