You are on page 1of 12

Đề 1 : Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt.

Mở bài :
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở
khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Truyện “Vợ nhặt” thành công
với nhiều yếu tố, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật bà cụ Tứ. Đó là một người
mẹ nghèo nhưng nhân hậu, vị tha, giàu tình yêu thương và một thế giới nội tâm vô
cùng phong phú.
- Trước việc con trai có vợ một cách bất ngờ, bà cụ Tứ có một tâm trạng hết sức đặc
biệt. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả hết sức thành công thế giới nội tâm
của bà cụ.
Thân bài :
1/ Giới thiệu nhân vật
- Cụ Tứ là người mẹ góa bụa, già nua, nghèo khổ, sống cùng với con trai là
Tràng trong một căn nhà “đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại” ở cuối xóm ngụ cư. Hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện ở nửa cuối của truyện với tiếng
ho “húng hắng”, dáng đi “ lọng khọng” và “ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán” đã để lại
ấn tượng khó phai về người mẹ mảnh mai hao gầy, tấm lưng còng vì sương gió của
cuộc đời với tình thương con vô hạn.
- Trong khi gia đình đang phải đối diện với nạn đói khủng khiếp thì Tràng lại có
vợ. Hoàn cảnh trớ trêu ấy khiến cụ có một tâm trạng hết sức phức tạp.
2/ Tâm trạng bà cụ Tứ khi con trai có vợ
a/ Lúc đầu, bà ngạc nhiên đến sững sờ
Ngạc nhiên, bất ngờ là cảm giác đầu tiên ở người mẹ nghèo khi thấy con hôm
nay sao quá “đon đả”, bà lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Bước chân bà “ phấp
phỏng”, rồi bà “ đứng sững lại ” khi bà nhìn thấy người phụ nữ lạ trong nhà mình. Bao
nhiêu câu hỏi dội về đầy băn khoăn : “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?...”. Người đàn bà chào đến lần thứ hai, bà cụ vẫn
không hiểu ra : “ Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?”. Quá ngạc nhiên, bà dường như không
còn tin vào tai, vào mắt mình nữa. “ Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng
bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”, nhìn kĩ người đàn bà lần nữa vẫn chưa nhận
ra người nào, bà lão nhìn con trai tỏ ý không hiểu.
b/ Khi hiểu ra cơ sự, bà rất mừng nhưng lại vừa buồn, vừa tủi, vừa thương, vừa lo
Bà lão “cúi đầu nín lặng”. Đằng sau cái “cúi đầu nín lặng” ấy là cả dòng cảm
xúc tuôn trào với bao niềm vui, buồn tủi, lo âu.
Bà vui mừng vì con mình đã có vợ, từ nay không còn cảnh đi sớm về trưa một
mình. Hạnh phúc của con là niềm vui vô bờ bến của người mẹ.
Nhưng trong hoàn cảnh này, bà lại rất lo, rất buồn, rất tủi và càng thương
các con vì bà “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp
đứa con mình”. Bà tự trách bản thân “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là
lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình
thì…”. Bà cụ nghẹn ngào, tủi thân tủi phận. Bà so sánh “ người ta” với “ mình” để
chua chát, tự trách bản thân, để càng thương con trai hơn. Rồi bà lão khóc. Từ “ kẽ mắt
kèm nhèm” ở độ tuổi bảy mươi “ rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Nước mắt của sự
thương xót, tủi buồn. Nước mắt của nỗi lo lắng “ Biết rằng chúng có nuôi nổi nhau
sống qua được cơn đói khát này không?”.
Trong hoàn cảnh khốn cùng này, bà cụ Tứ là hiện hữu của tình người. Bà cụ
“ đăm đăm” nhìn chị vợ nhặt, bà không nghĩ cho mình mà chỉ nghĩ cho con trai và cô
con dâu mới “ Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con
mình mà con mình mới có vợ được”. Câu nói đầu tiên của bà với Tràng và thị là một
câu nói chan chứa tình mẫu tử, tình người : “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải
kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Câu nói ấy của bà làm cho cuộc hôn nhân giữa
Tràng và thị không còn là chuyện nhặt nhau giữa chợ, giữa đường nữa. Nó cũng bình
đẳng, đẹp đẽ như tất cả các cuộc hôn nhân mâm cao, cỗ đầy xưa nay. Vì cuộc hôn nhân
nào mà chẳng xuất phát từ duyên phận vợ chồng. Bà dặn dò các con bảo nhau làm ăn.
Bà gieo hi vọng cho các con : “ may ra ông giời cho khá, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.
Thương con là bản năng của người mẹ, nhưng vị tha, nhân hậu, sẵn sàng chấp
nhận người đàn bà lạ làm con dâu trong hoàn cảnh khốn khó này là chuyện thật hiếm
hoi. Đẹp biết bao tấm lòng người mẹ khi bà đã dang tay cứu sống một con người!
Hình ảnh bà nhập nhoạng trong bóng tối, hướng đôi mắt đăm đăm nhìn ra
ngoài, nhìn suốt cuộc đời mình, cuộc đời của những người thân … để phấp phỏng lo
cho hiện tại và tương lai của các con cứ ám ảnh tâm trí người đọc. Bà “ nghẹn lời”, chỉ
có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
c/ Trong buổi sáng hôm sau, tâm trạng bà cụ Tứ cũng rất phức tạp. Bà là người
nhiều tuổi nhất trong gia đình, nhưng lại là nhân vật luôn hướng đến tương lai. Gương
mặt bà “ nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng
rỡ hẳn lên”. Bà vui trong việc sửa sang vườn tược, dọn dẹp nhà cửa. Bà vui trong bữa
ăn sáng, dù bữa ăn ngày đói thật thảm hại “ giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau
chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo loãng”. Thế nhưng, trong bữa ăn, bà cụ “
nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”. Bà bàn với con : “ Khi nào có
tiền ta mua lấy đôi gà, rồi ngoảnh đi ngoảnh lại có ngay đàn gà cho mà xem”, bà đon
đả mời “chè khoán”. Niềm vui của bà là liều thuốc tinh thần vô giá, là ngọn lửa của
niềm tin vào tương lai tươi sáng cho cả gia đình. Đây là niềm vui vừa đáng trân trọng,
vừa đáng thương. Vì niềm vui ấy không sao cất cánh lên được khi nó cứ bị những
buồn, tủi, thương, lo níu kéo. Vui nhưng là sự vui gượng để động viên các con. Và
khi nghe tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lại, bà cụ lại khóc. Vẫn là những giọt
nước mắt lặng lẽ, cố giấu đi để các con không biết mình lo, mình buồn.
 Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đẹp đạo lí truyền thống. Bà là hiện thân của
những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết, hết lòng thương con, nhân
hậu, bao dung và giàu lòng vị tha; dù ở hoàn cảnh nào vẫn tin tưởng vào cuộc
sống, vào tương lai. Chuyện Tràng có vợ trong nạn đói 1945 khiến tâm trạng bà
diễn biến phức tạp và Kim Lân đã diễn tả tinh tế, cảm động tâm trạng ấy.
3/ Nghệ thuật:
- Tài năng miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Nhà văn đã thấu hiểu và phân tích được
một cách hợp lí những chuyển biến tâm trạng phức tạp của nhân vật.
- Lời văn giản dị, điềm đạm, ngôn từ một mạc, nhưng chắt lọc và giàu sức gợi cũng
là những yếu tố làm nên sự thành công của Kim Lân khi xây dựng nhân vật này.
4. Nhận xét cái nhìn mới mẻ về người nông dân của Kim Lân:
- Nhà văn có cái nhìn xót xa, thương cảm và tin yêu về con người Việt Nam
dưới ách thống trị của giai cấp phong kiến và bọn thực dân phát xít trong nạn đói
khủng khiếp Ất Dậu 1945. Tuy sống trong thân phận rẻ rúng, hết sức bi đát, bị cái đói,
cái chết bủa vây nhưng họ vẫn khao khát sống, khao khát yêu thương và có niềm tin
bất diệt vào tương lai sẽ được đổi đời. Kim Lân còn tìm thấy sức mạnh của tình yêu
trong thẳm sâu những con người bé nhỏ. Tràng lấy vợ trong nạn đói khủng khiếp rồi
nên người. Bà cụ Tứ chấp nhận con dâu. Tình yêu thương đã khiến cho những con
người nhỏ bé và mái ấm gia đình của họ không bị vùi xuống vực thẳm của sự chết
chóc. Trong thời khắc quyết định số phận, họ đã nương tựa, cưu mang, sưởi ấm cho
nhau bằng tình yêu.
- Các nhìn mới mẻ, lạc quan tin tưởng về con người cho thấy tài năng quan sát,
miêu tả, dựng cảnh, đi sâu khai thác diễn biến tâm trạng nhân vật rất hợp lí, chân thực,
đặc biệt tạo tình huống truyện độc đáo, bất ngờ, éo le và cảm động của nhà văn Kim
Lân, góp phần làm bừng sáng giá trị nhân văn trong sáng tác của nhà văn nông thôn
được đánh giá xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại 1945-1975.
Kết bài :
Niềm vui của bà cụ Tứ tuy mong manh tưởng như không thể có được, nhất là
niềm vui trong hoàn cảnh đói khát lúc bấy giờ. Nhưng dẫu sao ngọn lửa của người mẹ
ấy vẫn đủ nhóm lên, giữ lấy niềm hi vọng vào hạnh phúc bất ngờ, nhỏ bé của con
mình. Và hơn thế nữa, đó là niềm tin vào một ngày mai tươi sáng không phải cho mình
mà cho con cháu mình. Cái đẹp đơn sơ mà hồn hậu, cái nhân ái vốn có trong bà cụ
được Kim Lân diễn tả tinh tế bằng ngôn ngữ chọn lọc, cách miêu tả diễn biến tâm lí
hợp lí đã khắc họa thêm vẻ đẹp tâm hồn của bà mẹ Việt Nam truyền thống.

Đề 2 : Phân tích nhân vật Tràng trong truyện Vợ nhặt. (Đề thi TN THPT 2011)
Mở bài :
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập
trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Truyện “Vợ nhặt” thành
công với nhiều yếu tố, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật Tràng. Đó là chàng
trai nghèo nhưng tốt bụng và luôn khao khát hạnh phúc gia đình.
Thân bài :
1/ Giới thiệu hoàn cảnh và ngoại hình nhân vật
- Tràng là dân ngụ cư, gia cảnh nghèo túng, anh sống với người mẹ đã già nua trong
ngôi nhà “đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, “ niêu bát,
xống áo vứt bừa bộn”. Đó cũng là cái nghèo túng chung của cả xóm ngụ cư trong
những ngày đói năm Ất Dậu 1945.
- Tràng có một ngoại hình xấu, thô kệch : “ hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng
chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, lưng to rộng
như lưng gấu, cái áo nâu tàng vắt một bên vai…”. Đã vậy, lời nói lại cọc cằn, thô lổ : “
bố ranh”, “làm đếch gì có vợ”.
2/ Thế nhưng, ở Tràng lại có phẩm chất, tính cách đáng quý
- Đáng quý nhất ở Tràng là tấm lòng yêu thương, đùm bọc, cưu mang những kẻ đói
khổ cùng cảnh ngộ. Giữa lúc đói, anh không chỉ sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ một
bữa ăn mà còn dang rộng vòng tay yêu thương để cưu mang thị. Có lẽ, nhìn thấy thị “
rách như tổ đĩa” với “ khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt” khiến Tràng
nhận ra cái chết đang rình rập bên cạnh người đàn bà đói khổ ấy. Một bữa ăn chỉ với
“bốn bát bánh đúc” nhưng cũng đủ để ta nhận thấy tấm lòng nhân ái của Tràng. Hành
động ấy thật cao đẹp khi anh giúp một người cùng cảnh ngộ thoát khỏi cái chết kề bên.
Không chỉ thế, Tràng còn “liều” đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Việc đón nhận thị -
người vợ nhặt xuất phát từ lòng nhân ái và ước muốn có một gia đình hạnh phúc.
- Tràng luôn khát khao hạnh phúc gia đình và có ý thức xây dựng hạnh phúc gđ.
+ Câu nói “nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” đã ẩn
chứa niềm khát khao tổ ấm gia đình của Tràng. Sau bữa ăn và câu nói đùa ấy nào ngờ
người đàn bà ấy theo Tràng về nhà thật. Lúc đầu, Tràng chợn nghĩ : “ thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi anh tặc
lưỡi “ chậc, kệ !”. Và sau quyết định đó, trong lòng Tràng nảy sinh một tình cảm tốt
đẹp với người đàn bà ấy. Có đến gần 20 lần trong tác phẩm, nhà văn miêu tả gương
mặt Tràng biểu lộ niềm vui khi có vợ. Hạnh phúc thật “ mới mẻ”, “ lạ lẫm” làm
người đàn ông cục mịch thô kệch ấy thấy xốn xang, quên đí cái đói khát của thực tại
trước mắt. “ Trong một lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng
ngày, quên cả cái đói khát đang đe dọa”. Mà “ trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình
nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên”. Ấy thế nên “ Mặt hắn có một vẻ gì phớn
phở, tươi tỉnh khác ngày thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì
sáng lên lấp lánh”. Trước sự ngạc nhiên, trêu chọc của người dân xóm ngụ cư, nếu “
thị ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia” thì “ hắn lại lấy vậy làm thích
chí lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình”.
+ Việc có vợ bất ngờ, không dạm hỏi, cưới xin ấy khiến Tràng cũng lo lắng
trong lúc đợi mẹ về. “ Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân
nhìn trộm vào trong nhà”. Và việc có vợ ấy cũng giúp Tràng nói năng văn vẻ hơn khi
thưa chuyện với mẹ: “ Kìa nhà tôi nó chào u. Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ
! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Tràng
đã thuyết phục mẹ chấp nhận nàng dâu mới bằng duyên số và đã được sự đồng ý của
mẹ cũng bằng duyên số : “ Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u
cũng mừng lòng…”.
+ Việc có vợ của Tràng gây ngạc nhiên cho cả xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ, và
ngay cả Tràng nữa. Trong lúc chờ mẹ về, “ nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ
hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”. Thậm chí, sau một đêm làm chồng, “ việc
hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Hạnh phúc đến bất
ngờ khiến Tràng cứ ngỡ ngàng.
+ Việc nhặt vợ của anh Tràng đem đến nhiều sự thay đổi cho gia đình anh. Cái
nhà vốn bừa bộn thì giờ đây trở nên tươm tất, sạch sẽ dưới bàn tay của người phụ nữ. “
Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gang ... Đống rác
mùn tung bành ngay lối đi đã hốt sạch”. Hắn cũng nhận ra được sự thay đổi ở mẹ và
vợ : “ Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực
không còn vẻ gì chao chát chỏn lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh”. “ Bà mẹ
Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng
rỡ hẳn lên”.
+ Tình yêu, khát vọng hạnh phúc làm thăng hoa tâm hồn Tràng. Tràng cảm thấy
yêu thương và gắn bó, có trách nhiệm với gia đình, nhận ra bổn phận phải lo lắng cho
vợ con sau này “ Bỗng nhiên hắn thấy yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.
Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm
che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.
Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ
con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để góp
phần tu sửa lại căn nhà”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí
đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói đang bủa vây.
+ Trong bữa ăn đầu tiên khi gia đình có thành viên mới, dù chỉ là cháo trắng, rau
chuối, muối, cám nhưng cả nhà đều chất chứa niềm vui, hướng đến tương lai. Nghe
tiếng trống thúc thuế và nghe lí giải của người vợ về việc phá kho thóc để chia cho
người đói của Việt Minh, Tràng cảm thấy “ ân hận, tiếc rẻ, vẩn vơ”. Và từ đấy, trong
óc Tràng thoáng hiện hình ảnh “ đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Đó là
niềm tin vào sự đổi đời, vào cách mạng, hướng đến tương lai tốt đẹp của Tràng và gia
đình.
3. Nghệ thuật:
Nhà văn Kim Lân đã xuất sắc khi miêu tả những thay đổi tâm lí của nhân vật
Tràng. Sự thay đổi ấy hợp với quy luật tự nhiên, khiến cho câu chuyện trở nên rất thật,
rất sống động. Tác giả còn tạo được tình huống truyện độc đáo để nhân vật bộc lộ
những phẩm chất, tính cách. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh
động, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc phù hợp với tính cách nhân vật và xây dựng tình
huống truyện độc đáo, …tất cả góp phần tạo nên nhân vật Tràng đầy ấn tượng trong
lòng người đọc.
4. Nhận xét về giá trị nhân đạo của Kim Lân qua tác phẩm Vợ nhặt:
+ Nhà văn tập trung trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, đặc biệt vẻ đẹp khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc của con người, dù bị đẩy vào tình cảnh khốn cùng, bi
thảm. Qua đó, nhà văn ngầm tố cáo giai cấp thống trị đã đẩy nhân dân ta vào tình
cảnh thê thảm.
+ Vợ nhặt, cũng như nhiều các tác phẩm văn học sau năm 1945, Kim Lân đã thể hiện
tư tưởng nhân đạo mới mẻ khi hé mở tương lai tươi sáng, con đường đổi đời của
người lao động và chính người lao động sẽ là người cải tạo hoàn cảnh dưới ánh sáng
của Cách mạng ("Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp
phới”).
Kết bài :
Tóm lại, nhà văn Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và diễn tả sâu sắc tâm
trạng của nhân vật Tràng – một nông dân ngụ cư, nghèo khó nhưng có tấm lòng nhân
hậu và khát khao hạnh phúc gia đình.
Truyện cũng đã góp phần khẳng định : trong bất cứ hoàn cảnh nào, người nông
dân vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, mà hi vọng; đó còn
là niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm tin bất diệt vào cuộc sống và tình thương
yêu đùm bọc lẫn nhau giữa những con người lao động nghèo khổ ngay trên bờ vực của
cái chết.

Đề 3 : Phân tích nhân vật người “ vợ nhặt” trong truyện ngắn cùng tên.
Mở bài :
- Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại
Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám.
- Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách
mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con
chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và
khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu ( 1945) của nước ta.
- Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân
vật người vợ nhặt : nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh
liệt .Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về
làm vợ giữa ngày đói.
II. Thân bài :
1. Nội dung:
1.1. Trước hết, về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là
một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình,
không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách
gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận
đáng thương và tội nghiệp như chị.
- Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét
không mấy dễ nhìn : đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép,
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa.
1.2. Về tính cách :
a. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo
bạo và liều lĩnh : Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và
“liếc mắt cười tít” với Tràng.Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói”
và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi
được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn
xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…
Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói
trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Nói điều
này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của
người lao động.
b. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một
người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang .
+ Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng
vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng,
“rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”...)
+ Thật tội nghiệp cho cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà : một cảnh đưa dâu không
xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người
trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương…
+ Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang,
sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình
– hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.
+ Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời
sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của
Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng tin tưởng vào sự đổi đời
trong tương lai.
2. Nghệ thuật:
Nhà văn Kim Lân đã xuất sắc khi miêu tả những thay đổi tâm lí của nhân vật
Tràng. Sự thay đổi ấy hợp với quy luật tự nhiên, khiến cho câu chuyện trở nên rất thật,
rất sống động. Tác giả còn tạo được tình huống truyện độc đáo để nhân vật bộc lộ
những phẩm chất, tính cách. Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng cảnh sinh
động, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc phù hợp với tính cách nhân vật và xây dựng tình
huống truyện độc đáo, …tất cả góp phần tạo nên nhân vật Tràng đầy ấn tượng trong
lòng người đọc.
3. Nhận xét về vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt
- Vẻ đẹp khuất lấp: Nhân vật này được khắc họa sống động, theo lối đối lập giữa bề
ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.
+ Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng là một lòng ham sống mãnh liệt.
+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người hiểu biết, ý tứ.
+ Bên trong vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng
mực, biết lo toan.
- Kim Lân thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình
dị trong nạn đói thê thảm.
III. Kết bài :
- Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không
người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng
và mẹ Tràng.
- Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc
sống gia đình.Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm
tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết….

---------------------------
Đề 1 : Phân tích tâm trạng của nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn trích Hồn
Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.
Mở bài :
- Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa, để lại những dấu ấn
trong nhiều thể loại : thơ, văn xuôi, nhưng đặc biệt là kịch. Ông là một trong những
nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những tác phẩm xuất sắc
nhất, đánh dấu sự vượt trội trong sáng tác của LQV. Trong vở kịch, tác giả đã miêu tả
khá thành công tâm trạng của các nhân vật, đặc biệt là nhân vật hồn Trương Ba.
Thân bài
1/ Giới thiệu nhân vật
- Trương Ba là người làm vườn hiền lành, nhân hậu, yêu thương gia đình
và chơi cờ rất giỏi. Chưa tới số chết, nhưng do sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu mà
Trương Ba phải lìa bỏ cõi đời. Đế Thích khuyên hai vị này sửa sai bằng cách cho hồn
Trương Ba (thanh khiết) nhập vào xác anh hàng thịt (thô lỗ).
- Từ đây, Trương Ba dần dần thay đổi tính nết : thích uống rượu, ăn
ngon, nói năng thô lỗ, nước cờ hóa tầm thường. Nhận ra sự thay đổi của bản thân
mình, hồn Trương Ba vô cùng đau khổ, dằn vặt.
2/ Diễn biến tâm trạng nhân vật
a/ Qua đối thoại với xác hàng thịt
- Trong tâm trạng buồn bã, chán nản đến cực độ, hồn Trương Ba cháy
bỏng khát khao được tách mình ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ và phàm tục của
anh hàng thịt. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác thực sự bắt đầu bằng việc tuyên chiến
của xác.
- Xác khẳng định : “ Ông không thể tách khỏi tôi được đâu, dù chỉ là thân
xác”. Lí lẽ mà xác đưa ra là “ hai ta đã hòa làm một rồi”, “ ông phải tồn tại nhờ tôi,
chiều theo những đòi hỏi của tôi”. Ông “ chẳng có cách nào chối bỏ được tôi” vì “ tôi
là cái hoàn cảnh mà ông phải quy phục”. Trước những lời lẽ ấy, Trương Ba cho rằng:
“ Ta vẫn có một đời sống riêng : nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác không có
tiếng nói, không có tư tưởng, cảm xúc, … do vậy không thể chi phối, tác động đến đời
sống trong sạch, cao khiết của linh hồn.
- Xác tiếp tục phản đối bằng lí lẽ “sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh
hồn cao khiết” và bằng những dẫn chứng cụ thể : “ khi ông ở bên nhà tôi, khi ông đứng
cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại”, bây giờ thì ông thích “
các món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi và cả những thứ thú vị khác”. “Cơn giận của ông
lại có thêm sức mạnh của tôi” đã làm cho “ông tát thằng con trai tóe máu mồm máu
mũi”.
- Trong khi đó, hồn cố gắng phủ nhận những lí lẽ và dẫn chứng ấy. Hồn
cho rằng đó là hành động của xác “đấy là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày” và
cho rằng đó là những lí lẽ “ ti tiện” không thể chấp nhận được. Nhưng càng lúc, hồn
Trương Ba càng đuối lí. Lúc đầu hồn còn cao giọng đấu lí, đáp lại tất cả những lí lẽ xác
đưa ra, nhưng về sau đã “ bịt tai lại” trong đau đớn. Như vậy, hồn từ mạnh mẽ đấu
tranh, đến tuyệt vọng kêu “ trời” và cuối cùng lại phải nhập vào xác anh hàng thịt.
==> Cuộc độc thoại trong tâm trạng một con người : giữa mơ ước đẹp đẽ và
những dục vọng bản năng thấp hèn, tầm thường. Từ đó, tác giả cảnh báo : khi
con người sống chung với dung tục, sẽ bị dung tục lấn át, thắng thế, ngự trị, tàn
phá những gì tốt đẹp, cao quý trong con người. Vì thế, phải đấu tranh để loại bỏ
sự dung tục, giả tạo để cs trở nên tươi sáng hơn, đẹp đẽ và nhân văn hơn.
b/ Qua đối thoại với người thân
- Hồn Trương Ba liệu có còn giữ được “ một đời sống riêng : nguyên
vẹn, trong sạch, thẳng thắn”? Đây là câu trả lời đẫm nước mắt đau đớn, yêu thương,
giận dỗi và bế tắc từ người vợ của ông : “ Tôi biết, ông là người hết lòng thương yêu
vợ con … chỉ tại bây giờ … ông đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa… ông
bây giờ còn biết đến ai nữa!”. Còn đây nữa, đây là câu trả lời đầy bực tức từ đứa cháu
gái hồn nhiên : “ Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp chết cổ ông!”.
“Sáng qua tôi để ý lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái
chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý trong vườn mới
ươm! Ông nội tôi đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi!
Lão đồ tể, cút đi!”. Người thương và hiểu ông nhất là chị con dâu nhưng bây giờ chị
cũng vô cùng đau khổ “… nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn
thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ
dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa.”.
- Thế là đã rõ. Trong thân thể anh hàng thịt, hồn Trương Ba đã không còn
là mình nữa. Tất cả những người thân đều đã nhận thấy và đau đớn, lo lắng, bàng
hoàng, xa lánh. Biết được điều đó, hồn Trương Ba đau đớn tột cùng. Vì ông mà tất cả
những người thân yêu nhất đều phải khóc. Vì ông mà nhà cửa tan hoang. Con trai định
bán khu vườn để mở thêm cửa hàng thịt, vợ định bỏ đi thật xa để nhường chồng cho cô
vợ hàng thịt. Ông “ thẩn thờ”, ôm đầu bế tắc, ông cầu cứu đứa cháu gái, ông “ run rẩy”
trong nỗi đau, ông “ lặng ngắt như tảng đá” để rồi nhận thấy “ mày đã thắng thế rồi
đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được mọi cách để lấn át ta”. Một sự
vỡ lẽ vừa bàng hoàng, vừa chua chát đã dẫn đến quyết định dứt khoát, đẩy tình huống
vào độ căng thẳng quyết liệt hơn : “ Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất mày và
tự đánh mất mình?”. “Chẳng còn cách nào khác!”. “ Mày nói như thế hả? Nhưng có
thật là không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại!
Không cần!”. Những câu độc thoại nội tâm đã phơi trải cơn bão tố dữ dội và đau đớn
trong cuộc đấu tranh giành giật lại bản thân mình từ bàn tay thô bạo của con quỹ dữ
bản năng ở nhân vật Trương Ba. Tất cả dẫn đến hành động “ đứng dậy, lập cập nhưng
quả quyết”, thắp hương, châm lửa để gọi Đế Thích.
c/ Qua đối thoại với Đế Thích
- Trương Ba thắp hương gọi Đế Thích xuống trần gian không phải để
đánh cờ, hẳn nhiên là như thế. Cái điệp khúc “ không cần, không cần” trong lời độc
thoại nội tâm đã hé ra với người đọc về tính chất dữ dội, dứt khoát, quyết liệt trong nội
tâm Trương Ba. Sẽ có một quyết định nào đó rất hệ trọng sẽ xảy ra.
- Từ chỗ nhận ra “ Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch,
thẳng thắn” đến chỗ dứt khoát “ Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Từ lời nói “ cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có
cái bên trong” đến việc ý thức “ sống nhờ vào đồ đạc của người khác, đã là chuyện
không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ
đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”… Đó là một
cuộc cách mạng lớn lao trong nhận thức của hồn Trương Ba, mà để đến được, nhân vật
đã phải trải qua những trải nghiệm đau đớn nhất.
- Con người là một thực thể thống nhất trọn vẹn, hài hòa của hồn và xác.
Sự khập khiễng của “ hồn Trương Ba, da hàng thịt” và giá mà nó phải trả khi cố gắng
duy trì để tồn tại trong một cái vỏ giả tạo như vậy đã giúp Trương Ba thấm thía hơn
bao giờ hết khát vọng “ muốn được là tôi toàn vẹn”. Và như thế, sống thực cho ra
người chẳng dễ dàng chút nào. Sống gửi, sống nhờ, sống chắp vá, không được là mình
trọn vẹn là kiểu sống vô nghĩa. Cuộc sống là đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng vô
cùng. Ham sống, muốn được sống là ước muốn tự nhiên của mỗi con người.
- Chỉ với mấy lời thoại, hồn Trương Ba đã trở lại là mình “nguyên vẹn,
trong sạch, thẳng thắn” để rồi dẫn đường cho những quyết định đau đớn, nghiệt ngã,
nhưng sáng suốt và tất yếu. Hồn Trương Ba quyết định không thể ở trong xác anh hàng
thịt và yêu cầu Đế Thích làm cho anh hàng thịt được sống lại vì thấy vợ của anh ta “
thật đáng thương”. Hồn Trương Ba khẳng định nếu Đế Thích không giúp thì sẽ “ nhảy
xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ”. Trước sự quả quyết đó, nhân có cu Tị phải
chết, Đế Thích bàn với hồn Trương Ba nhập vào thân xác cu Tị mà sống “ sẽ có cả
cuộc đời trước mặt”. Nhưng hồn Trương Ba hình dung những rắc rối nếu như phải
sống trong xác cu Tị nên khẩn thiết yêu cầu Đế Thích làm cho cu Tị sống lại bởi “ tôi
đã chết rồi, hãy để cho tôi chết hẳn”. Hồn Trương Ba cũng nhận ra rằng : “ Có những
cái sai không thể sửa được. Chắp vá, gượng ép chỉ càng làm sai thêm”. Lựa chọn của
Trương Ba là tất yếu. Đó là sự lựa chọn dũng cảm. Chấp nhận cái chết, chấp nhận hư
vô để được “ là tôi trọn vẹn”. Tất yếu bởi Trương Ba đã thấm thía cái bi kịch đau đớn
của cảnh không được là mình. Trước khi trả xác cho anh hàng thịt, hồn Trương Ba dặn
dò, an ủi vợ con rồi vĩnh viễn ra đi lìa bỏ cõi đời. Hồn Trương Ba chấp nhận cái chết,
một cái chết làm sáng bừng lên nhân cách đẹp đẽ của Trương Ba, thể hiện sự chiến
thắng của cái thiện, cái đẹp và sự sống đích thực.
==> Trong đoạn kết, hồn Trương Ba chập chờn giữa màu xanh của cây lá
trong vườn, ở trên bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cái cơi đựng trầu… Cho dù
không còn trên cõi đời nhưng Trương Ba lại được người thân quý mến, kính trọng như
xưa. Trong tâm trí của người thân, Trương Ba vẫn bất tử, vẫn là con người “ trong
sạch, thẳng thắn”. Cái chết đầy chất thơ của Trương Ba đã làm cho tư tưởng nhân văn
tỏa sáng trong đoạn trích và cả tác phẩm.
3/ Đánh giá nghệ thuật :
Đoạn trích thành công trong nghệ thuật dựng cảnh, xây dựng những đối thoại, độc
thoại nội tâm. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần
phát triển tình huống của cốt truyện. Đặc biệt, tác giả đã in đậm dấu ấn sáng tạo trong
đoạn trích nói riêng, vở kịch nói chung. Từ một cốt truyện dân gian bình thường, dưới
ngòi bút tài năng của tác giả đã trở thành một vở kịch nói hiện đại, có ý nghĩa triết lí
sâu sắc.
4. Bình luận quan niệm sống là chính mình:
- Được sống là chính mình nghĩa là khi con người sống đúng với những giá trị bản
thân, với những cảm xúc, khát vọng của chính mình, với đam mê và nhiệt huyết của
bản thân.
- Đối với mỗi người trong hành trang vào đời của mình phải trang bị những tri thức, kĩ
năng để luôn chủ động, linh hoạt trước những biến thiên của cuộc sống, luôn giữ vững cá
tính và phong cách của bản thân. Sống hoà nhập nhưng không hoà tan, sống theo cá tính,
phong cách riêng nhưng không lập dị, khác thường, con người sẽ có được hạnh phúc
thực sự.
Kết bài :
Qua đoạn trích, tác giả đã gửi gắm thông điệp : được sống làm người quý giá
thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình có và đeo đuổi
còn quý giá hơn nhiều. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự
nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu tranh với
nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, sự hoàn thiện nhân cách và
vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
---------------------------
Đề 1 : Phân tích (cảm nhận) nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc
thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Mở bài
- NMC là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì
đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa (1983) là một trong những sáng tác tiêu biểu in đậm
phong cách tự sự - triết lí của ông.
- Nhà văn xây dựng thành công hình tượng người đàn bà hàng chài - đó là một
người vợ hiểu chồng, người mẹ thương con, giàu đức hi sinh, nhân hậu, vị tha, sắc
sảo,... Đây là nhân vật để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm về cuộc sống.
Thân bài
1/ Giới thiệu tình huống truyện (nêu gọn)
- Nghệ sĩ Phùng được phân công đến một vùng ven biển miền Trung để chụp
một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Anh thấy cảnh chiếc thuyền ngoài xa, trong làn
sương sớm, đẹp như tranh vẽ. Phùng nhanh chóng bấm máy, thu lấy hình ảnh không dễ
gì gặp trong đời.
- Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng thấy hai vợ chồng hàng chài bước xuống. Anh
chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ, đứa con vì thương mẹ đã dánh lại bố. Những
ngày sau, cảnh ấy lại tiếp diễn. Phùng không ngờ sau cảnh đẹp như mơ là bao ngang
trái, nghịch lí của cuộc đời.
 Làm nổi bật tính cách nhân vật người chồng, người vợ, giúp những người
như Phùng, Đẩu hiểu rõ hơn về cs, đặc biệt là ở nhân vật người đàn bà hàng chài.
2/ Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
1.1. Nội dung:
- Là người có ngoại hình xấu, lam lũ, bất hạnh
- Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên
gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy. NMC đã gọi tên nhân vật một cách phiếm định :
khi là “người đàn bà hàng chài”, khi là “ mụ”, lúc lại là “ chị ta”… Có lẽ tác giả
muốn nhân vật này không phải là một cá nhân, mà là điển hình cho vẻ đẹp phẩm chất
của những người đàn bà vùng biển.
- Đọc truyện, ấn tượng đầu tiên về nhân vật người đàn bà hàng chài là một người
phụ nữ có ngoại hình xấu, lam lũ, vất vả và bất hạnh. Theo câu chuyện chị kể thì từ
nhỏ bà đã “là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa…Cũng vì
xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai hàng chài”.
- Từ khi có chồng, cuộc đời chị càng lam lũ, vất vả, bất hạnh. Thuyền chật,
con đông, nghèo khổ, có khi biển động suốt hàng tháng,“ cả nhà toàn ăn cây xương
rồng luộc chấm muối”. Bởi vậy hình ảnh “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, ...
Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang
buồn ngủ, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng” cứ ám ảnh
người đọc .
- Một trong những điều hạnh phúc nhất của người phụ nữ khi có chồng là được
chồng yêu thương. Người đàn bà trong câu chuyện lại không có được điều ấy. Mà
ngược lại, bà luôn bị chồng đánh đập một cách tàn bạo. Lão chồng đã dùng chiếc
thắt lưng của lính ngụy ngày xưa “ quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh
vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, miệng nguyền rủa ”. Cứ như thế : “ba
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào
như hắn”- lời c. Án Đẩu. Còn theo lời kể của bà thì “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão
xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu”, mà đàn ông đi thuyền
ngày nào mà chẳng uống rượu.
b. Là người sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời và giàu lòng vị tha
Nghèo khổ, lam lũ, có lẽ cả thất học, nhưng bà lại là người sống kín đáo, sâu
sắc, thấu hiểu lẽ đời và giàu lòng vị tha. Điều đó được thể hiện rõ trong câu chuyện
của chị ở tòa án huyện.
- Chuyện bạo lực trong gia đình chị được giấu kín cho đến khi luật pháp can
thiệp “Đây là lần thứ hai bà được chánh án Đẩu mời đến vì công việc gia đình”. Lúc
đầu, bà có vẻ “sợ sệt, lúng túng”. Khi chánh án Đẩu có nhã ý giúp bà thoát khỏi gã
chồng độc ác thì bà vái lạy lia lịa, van xin : “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Trước sự ngạc nhiên của chánh án Đẩu và
Phùng, bà cảm ơn lòng tốt của họ và kể lại cuộc đời mình như một lời giải thích.
- Bà chân thành nói với Phùng và Đẩu nhưng thực sự đó cũng là lời nhận xét :
“Các chú đâu có phải là người làm ăn cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của
các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Những lời ấy của người đàn bà không phải dễ
nghe với Đẩu và Phùng, dù vậy họ phải công nhận bà là người sắc sảo và kín đáo : “
người đàn bà chỉ lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò
của chúng tôi”.
- Trước người đàn bà, cả Đẩu và Phùng trở thành những “ đứa trẻ” chưa hiểu
chuyện đời. Bà kể để cho họ hiểu vì sao bà lại cam chịu khi bị chồng đánh, vì sao bà
không chịu bỏ chồng. Bà kể về quá khứ của mình, kể về người chồng hồi trước “ cục
tính nhưng hiền lành lắm” không bao giờ đánh đập bà. Bà kể về cuộc sống khó khăn
của gia đình mình, thuyền chật, đông con đặc biệt là những ngày biển động phải “ ăn
xương rồng luộc chấm muối”. Bà nói :“ cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều
quá mà thuyền lại chật”. Và bà cũng lí giải nguyên nhân mình bị chồng đánh là do“
khổ quá”. Vì “ khổ quá” mà lão chồng đã đánh bà chứ không phải tàn bạo là bản chất
của người chồng ấy. Sự khốn cùng, mong manh của đời sống chài lưới đã biến lão
chồng thành kẻ vũ phu. Vì thế, trong câu chuyện bà đã không hề tố cáo, không hề tỏ
thái độ căm hận người chồng. Không bênh vực, nhưng bà tỏ ra hiểu biết và cảm thông
cho chồng. Hơn thế nữa, bà còn nhận lỗi về mình : “ giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi
sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”. Lời “ thú tội” chân thật và tê tái lòng người của
bà có nhiều điều cần phải nghĩ suy. Nhưng rõ ràng, bà là một người sâu sắc, hiểu đời,
giàu lòng vị tha.
- Bà kể tiếp với Đẩu và Phùng : “ Sau này con cái lớn lên, tôi xin lão … đưa tôi
lên bờ mà đánh”. Nghe bà kể, cả Đẩu và Phùng đều thốt lên : “ Không thể nào hiểu
được, không thể nào hiểu được!”. Thấy thế, bà liền giải thích : “ Là bởi vì các chú
không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người
đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Vậy là bà “ xin được đánh” vì cần
phải có người đàn ông ở trên thuyền để “chèo chống khi phong ba”. Và bà xin được
đánh ở trên bờ là vì con đã lớn, bà không muốn chúng bị tổn thương. Một lí do thật
đơn giản mà đến giờ Đẩu và Phùng mới hiểu. Một lần nữa, Phùng và Đẩu lại trở thành
“ ngờ nghệch” trước người đàn bà. Điều đó chứng tỏ chị là người thấu hiểu lẽ đời,
kín đáo “chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”.
c/ Là người thương con vô hạn, giàu đức hi sinh, giàu lòng tự trọng
Phẩm chất tốt đẹp nhất ở người đàn bà này là lòng thương con vô hạn, giàu đức
hi sinh, giàu lòng tự trọng.
- Lòng tự trọng : Nghệ sĩ Phùng từng chứng kiến cảnh bà bị chồng đánh một cách
tàn bạo nhưng bà “ không chống trả”, “ không chạy trốn”, “ không hề kêu một tiếng”.
Nhưng khi đứa con trai và Phùng xuất hiện để can thiệp thì : “người đàn bà dường
như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”.
Đây chính là sự đau đớn, xấu hổ, nhục nhã của một con người có nhân cách, đầy lòng
tự trọng. Vì bà không muốn người lạ và các con chứng kiến, thương xót cho cảnh bà bị
chồng đánh. Đây cũng là lí do vì sao chánh án Đầu phải mời đến lần thứ hai thì chị
mới “bật mí bí mật” cuộc đời mình!
- Tình thương con vô hạn, giàu đức hi sinh : Vì con mà bà chấp nhận sự đau đớn
trong những trận đòn tàn bạo của người chồng. Vì con mà bà khẩn thiết : “ Quý tòa bắt
tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Bởi vì bà hiểu “ đám
đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi
phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục
đứa…. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
như ở trên đất được”. Cũng vì thương con nên chị cầu xin chồng “lên bờ rồi đánh”.
Chị sợ “đánh dưới thuyền” sẽ làm tổn thương con, bọn trẻ bị nhiễm thói xấu của cha
chúng. Đó cũng là lí do chị đã gửi thằng Phác lên ở với ông ngoại, vì sợ nó sẽ làm điều
dại dột với cha, bị nhiễm thói xấu từ cha. Điều này cho thấy chị lo xa và luôn nghĩ cho
con.
Niềm hp nhất của chị là khi “vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ”.
Cho nên, khi Phùng hỏi bà “Cả đời chị có một lúc nào thật vui không?”, bà trả lời như
không cần suy nghĩ : “Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó
được ăn no…”. Câu nói thật đơn giản nhưng thật thấm thía và cảm động.
Qua những lời giãi bày chân thật, ta mới thấu hiểu được sự nhẫn nhục, đức hi
sinh, tình thương con mênh mông của bà thật đáng khâm phục, đáng kính trọng biết
nhường nào.
 Người đàn bà hàng chài và câu chuyện của chị ở tòa án đã để lại dấu ấn nhức
nhối, đầy cảm động. Qua đó, NMC phát hiện bên trong vẻ ngoài xấu xí thô kệch
là bản chất tốt đẹp của người lao động – “chất ngọc tâm hồn”. Câu chuyện nhắc
ta phải có cái nhìn toàn diện, đa chiều về cs, về con người và về nt.
2.2/ Đánh giá về nghệ thuật và nội dung ý nghĩa
- Bức chân dung người đàn bà hàng chài được tác giả xây dựng bằng nhiều nghệ thuật
đặc sắc. Đó là tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống.
Tác giả lựa chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp làm cho câu chuyện trở nên gần gũi,
chân thực và có sức thuyết phục. Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách.
Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
- Tóm lại, chị là người giàu tình thương và đức hi sinh, nhân hậu và vị tha. Chị hầu
như không nghĩ đến mình, chị thấu hiểu cho chồng và tương lai của đàn con đông đúc
kia. Như vậy, sự cam chịu, nhẫn nhục của chị không phải do mù quáng mà thấu hiểu
và thương xót.
3. Nhận xét về vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật:
– Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu: Nhân vật này được khắc họa sắc nét, theo lối
tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.
+ Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng,
giàu đức hi sinh.
+ Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can
đảm, cứng cỏi.
+ Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời, giàu
tình thương
- Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm.
Kết bài
- Nhân vật người đàn bà hàng chài hiện thân cho tính cách của người lao động
chất phác, lam lũ, sống nhẫn nhục nhưng giàu tình thương và đức hi sinh, nhân hậu và
vị tha. Bà là hiện thân cho cái đẹp khiêm nhường, thầm lặng, cái bí ẩn sâu xa của tâm
hồn con người.
- Qua nhân vật người đàn bà, một mặt tác giả lên án bạo lực g ia đình, bày tỏ tình
thương yêu đối với những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ, mặt khác đặt vấn đề
phải giải phóng con người ra khỏi đói nghèo, tăm tối.

You might also like