You are on page 1of 9

NHÂN VẬT MỊ

Là một nhà văn gắn bó thân thuộc với nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán của nhiều vùng miền cùng
vốn ngôn ngữ phong phú, lời văn giàu hình ảnh, Tô Hoài đã lưu lại dấu ấn riêng của mình trong trái tim bạn
đọc các thế hệ. “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn nổi bật trong kho tàng văn chương đồ sộ của nhà văn.
Trong truyện, hình tượng nhân vật Mị là một nét đặc sắc đánh dấu sự tinh tế và tài hoa nơi ngòi bút Tô Hoài.
Nhà văn Tô Hoài từng chia sẻ: “Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên
mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Sùa tôi gặp một cặp vợ
chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của họ, tức khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên đán
của ta một tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang
bản khác. Ăn tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ, về chuyện
thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ đi chạy trốn nơi khác. Câu
chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết của tôi về người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần.
Và tôi bắt tay vào viết”. Có lẽ chính bởi những trải nghiệm khi được tiếp xúc với một hình mẫu thực cùng với
tài năng, vốn hiểu biết về phong tục, lối sống người vùng cao mà nhà văn Tô Hoài đã chắp bút viết nên một
tác phẩm xuất sắc. Hình tượng nhân vật Mị nhà văn xây dựng trong truyện đã để lại rất nhiều ấn tượng, nghĩ
suy trong lòng độc giả.
Hình tượng nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài xây dựng trước hết là một cô gái với những phẩm chất tốt
đẹp đáng trân trọng. Đó là một cô gái người Mèo đang độ trẻ trung, hồn nhiên, được nhiều chàng trai ngày
ngày đi theo bởi tài thổi sáo rồi thì “thổi lá cũng hay như thổi sáo” làm biết bao người mê say. Đó là một cô
gái đã từng được yêu, từng yêu, luôn mang trong mình trái tim cháy bỏng yêu thương, hạnh phúc. Cô gái ấy
cũng vô cùng hiếu thảo với mẹ cha, chăm chỉ làm lụng cũng như ý thức rõ được giá trị của một cuộc sống tự
do. Mị sẵn sàng xin cha làm lụng trên nương ngô để trả nợ thay, để không phải về làm dâu nhà thống lí Pá Tra
bởi Mị hiểu rằng về đó đồng nghĩa với việc sa chân vào chốn tù đày, phải sống cuộc sống tù túng, mang danh
con dâu nhà giàu nhưng phận tôi đòi hèn kém.
Bên cạnh đó, nhân vật Mị trong truyện còn hiện lên với hình ảnh là một nạn nhân của áp bức bất công,
của thế lực phong kiến lộng quyền. Nhiều người nhìn Mị mà ghen tị vì được làm dâu con nhà giàu lắm của
nhiều nương ở bản, nhưng thực tế, cuộc sống của Mị chốn nhà quan chẳng hề dễ dàng và hạnh phúc. Là con
dâu gạt nợ, ngày ngày Mị bị bóc lột sức lao động, quần quật làm việc suốt ngày đêm đến cái ngưỡng nhiều lúc
chính Mị còn cảm tưởng như mình chẳng bằng thân trâu, thân ngựa ngoài kia, rằng “đàn bà trong cái nhà này
chỉ biết vùi đầu vào công việc”. Dần dần, sống quá lâu trong cái khổ nên Mị quen khổ rồi, thân xác, tâm hồn
ấy đã dần trở nên chai sạn với nỗi đau, với cực khổ đọa đày. Từ lúc nào mà Mị bỗng sống cuộc sống lầm lũi
như “con rùa nuôi trong xó cửa”.
Dẫu cho cuộc sống có bộn bề trăm nỗi khổ đau, ở nhân vật Mị ta vẫn bắt gặp một sức sống tiềm tàng,
một khát khao sống, khát khao tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Khi bất ngờ trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí,
bị A Sử bắt về làm vợ, Mị đã từng có ý định ăn lá ngón như là một cách để tự giải thoát mình. Trong đêm tình
mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống đất trời rạo rực ngoài kia, không khí xuân tràn lên cuộc sống muôn người
dường như phần nào đã đánh thức tâm hồn Mị khỏi những tháng ngày bị vùi mình trong đau khổ. Mị nhẩm
thầm theo lời bài hát, trong thoáng chốc tâm hồn ấy như được trở về với thời thanh xuân tươi trẻ, nồng nhiệt,
với thời được sống tự do, hạnh phúc. Ý thức được giá trị của bản thân, của sự sống, Mị “thấy phơi phới trở
lại” và rằng “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Khi bị A Sử trói không cho đi chơi, tâm hồn
Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo ngoài kia, trong những cuộc chơi náo nức, rộn ràng. Và khát khao hạnh phúc,
khát khao tự do trở nên mãnh liệt nhất khi Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ và sau đó chạy bỏ trốn
theo A Phủ.
Qua từng trang truyện “Vợ chồng A Phủ”, hình ảnh nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài khắc họa chân
thực, sống động và qua số phận, nét đẹp tâm hồn ấy, ta cảm nhận được những thông điệp, những cảm xúc nghĩ
suy sâu sắc mà nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc để từ đó thêm trân trọng tác phẩm và trân quý tài năng,
sự tài hoa tinh tế của tác giả.
BÀ CỤ TỨ ( ĐIỂM SÁNG NHÂN VĂN , NHÂN ĐẠO CỦA TÁC PHẨM )
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945 để diễn tả được
cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách
“trong như ngọc sáng ngời” của những con người, những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình
tượng điển hình cho người đàn bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn
rằng người đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.

Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao không phải là đầu câu
chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy
nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà Tứ xuất
hiện từ khi Tràng đưa vợ về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà
khác xuất hiện trong ngôi nhà của mình.

Như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, bà cụ Tứ hiện lên là một
người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá nhiều. Bà cụ Tứ xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác
giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng.
Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con
trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”. Một bà cụ dáng dấp đã không còn nhanh
nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.

Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình “Bà cụ Tứ phấp phỏng
bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng
như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà.
Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đứng ngay đầu giường
thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão.
Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình
nhoèn ra thì phải..

Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn
bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.”. Người mẹ nghèo một đời
khốn khó như vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương mình,
thương con và thương cho người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết choc như ngả rạ, nạn đói hoành hành, cái ăn
chẳng có, lại còn rước thêm người như thế này bà không lo, không buồn sao được.

Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng này con trai bà lấy
vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình bao nhiêu thì thương cho con gấp bội
phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương
cho người đàn bà héo hon kia cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Chao ôi những suy
nghĩ của bà cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề, khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết cách nào
có thể thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.

Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.
Hơn hết diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín hiệu đáng mừng
chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con, cũng giống như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái
khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta
cảm phục “ Nhà ta nghèom liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu:
Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày
về sau.”. Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động, không biết nói gì hơn, bà
đã chấp nhận “người vợ mới” của đứa con, chấp nhận cả cái đói nghèo mà gia đình bà mang.

Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm ba mâm nhưng nhà
mình nghèo nên động viên con dâu có gắng. Chi tiết này đã cho thấy sự đồng cảm giữa một người phụ nữ
nghèo với một người phụ nữ nghèo. Sự gắn kết này sẽ mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này.
Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho bà cụ Tứ, thương cho người
đàn bà nghèo và thương cho những người sống trong cảnh khốn đốn đó.

Hình ảnh “nôi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này mang đến thực sự khiến chúng ta cảm
động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực như nó vẫn mang, nó là hiện thân của
tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo
cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi
tiết này mà được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.
Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở cuối truyện, bà kể toàn
chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng
ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa
con người với con người với nhau.

Bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc những dư âm khó
phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ là hiện
thân của những gì cao đẹp nhất của một con người, một nhân cách.
TRÀNG ( NHÂN VẬT THÔ KỆCH , XẤU XÍ MÀ GIÀU LÒNG TRẮC ẨN )

Bài văn phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm "Vợ nhặt"
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về
nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một
trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao
động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết hướng tới tương
lai tươi đẹp.

Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm động.
Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện
có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang
dở ở thời kì trước Cách mạng). Hòa bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình
nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra
vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con
người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai.
Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng.

Đọc lướt qua câu chuyện ta ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng
việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính. Tình thương người đã cho anh quyết định
dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc
lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.
Chính khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “Mặt
hắn có một vẻ gì hớn hở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với
cách miêu tả ấy trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân
phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh.
Về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy "ngượng nghịu" rồi cứ thế "đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ".
Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng
nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin
đó là sự thật: "hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?". Đó là sự ngạc nhiên
trong sung sướng.

Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh ngày một lớn. Dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường
nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Tràng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng, người chủ gia
đình “ Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên
người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.

Từ một con người cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những
chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập,
Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện
ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ.
Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới.

Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân
Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”,
“Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám
như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian
của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của
xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong
một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo, dở khóc, dở cười giữa Tràng và Thị,
một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói.

Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo: Tràng nhặt được vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc,
tình yêu thương, cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao
chứa một tình huống như thế: nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao
động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ
theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ.Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt).
Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai
nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều
lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân
Tràng nữa.

Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng. Anh cu
Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột
quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ
rồi đấy ư?”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó
là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi.. Chàng thanh niên
nghèo khó “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.
Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng
trân trọng, coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo
lắng về cái đói “ đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng”. Tràng chậc lưỡi “ kệ” cái đói, mua cho thị cái
thúng con, vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình. Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý
chấp thuận của bà cụ Tứ.

Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ
cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có
ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột
ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.

Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” là
một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh
phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: “hắn thấy
hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh
phúc.

Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới chứa đựng bao sức nặng
về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi
thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các
tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng
tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi
vọng hơn.

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca về
tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện
xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm
hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh
tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

THỊ ( NỖI NIỀM THƯƠNG CẢM ĐỐI VỚI CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THẢM CẢNH NẠN
ĐÓI )
Nhà văn Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1-8-1920, tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh,là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Sự
nghiệp văn học của ông tuy không đồ sộ nhưng lại rất đặc sắc và khó trộn lẫn.Một số truyện ngắn của ông
được xếp vào hàng kinh điển trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX như Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí…

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống
nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong
làng đi chợi, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành
hành, đời sống nhân dân thê thảm.Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình
ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là
vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó,
người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số
phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt,
không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?

Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên
và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu,
con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con
gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm.
Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không
tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
Khi mới gặp Tràng,Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu
cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi
vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm
xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà xưng xỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ
bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi
sà xuống ăn như chết đói. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị
cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà khen ngon.Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này?
Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị
làm tất cả chỉ để có được miếng ăn.

Khi đã chấp nhận làm vợ của Tràng,trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng
mặt có một vẻ gì hớn hở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại
đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa khuôn
mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là một con người
khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng. Vả lại,
thị bắt đầu ý thức về thân phận của mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả
quyền lựa chọn và đành chấp nhận thuận theo số phận khi đã đến bước đường cùng.

Tuy nhiên, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà
chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ rất khó chịu lắm, đôi lông
mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn
cũng tò mò, thị càng ngượng và xấu hổ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy
làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi đi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng”
để tránh sự dòm ngó của mọi người xung quanh.

Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò bẽn lẽn của nàng dâu mới. Thị đảo mắt
nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá, ngheo xơ xác. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự
nhiện, cứ giục vợ ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy
chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè sợ sệt, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ
nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của
những người mẹ chồng đối với nàng dâu, bà nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng đón nhận thị là
dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.Sáng ngày hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm
đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm
như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Không
những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết
đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khe khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện
trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho
người đói.
Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có cơ hội làm như thế mà chẳng làm. Ai
biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu
Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len
vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai
mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn tủi hơn. Phải ý nhị
lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân văn và tinh tế như vậy.

Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà ra. Khi
được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của
mình, của một người phụ nữ Việt Nam

Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú
trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà
văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ
nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò
quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Qua nhân vật này người đọc cũng thấu hiểu được tài
năng cũng như tấm lòng của nhà văn.Vợ nhặt – một nhân vật vô danh nhưng không vô nghĩa
PHÙNG

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn thường đưa những câu chuyện, trải nghiệm thực tế của bản thân vào
những tác phẩm văn học của mình. Vì thế, những tác phẩm của ông thường mang đến cho người đọc những
cảm giác rất gần gũi, thân quen và chân thật. Trong cuộc sống mưu sinh, bộn bề kiếm tìm hạnh phúc thực sự,
ông đã viết nên tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Nổi bật trong câu chuyện là hình tượng nhân vật Phùng -
một nghệ sĩ nhiếp ảnh luôn tôn thờ và tha thiết được sống cùng cái đẹp.

Trong thời chiến tranh, người lính luôn là đề tài truyền biết bao cảm hứng dành cho các thi sĩ, nhà văn. Đối
với Nguyễn Minh Châu, ông lấy cảm hứng để xây dựng nhân vật Phùng đã từng là một người lính, giờ là một
phóng viên ảnh luôn khao khát cái đẹp.

Mở đầu câu chuyện bằng một tình huống đầy bất ngờ. Theo chỉ thị của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng
biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại nơi
đây, đã có biết bao cảm xúc tràn về, những kỉ niệm cùng cảnh đẹp của đất trời đã khiến cho tâm hồn anh bị
choáng ngợp. Sau biết bao ngày suy nghĩ, kiếm tìm ý tưởng, đề tài, anh đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và
hết sức vừa ý. Đôi mắt anh đã bắt gặp một khung cảnh tuyệt vời “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của
một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút
màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. … trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh cảm thấy tâm hồn
mình trở nên mộng mơ, trong trẻo biết bao. Đã biết bao lâu rồi, anh không tìm được cái đẹp đến nhường nào.

Thế nhưng, từ sau chiếc thuyền ngoài xa ấy, anh đã thấy một đôi vợ chồng hàng chài, lão đàn ông với dáng
hình cộc cằn thẳng tay đánh vợ chỉ để giải tỏa nỗi thống khổ uất ức của mình. Một người đàn bà xấu xí, héo
mòn được che chở bởi thằng con trai của bà - thằng Phác. Ngay lập tức, anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất
và chạy nhào tới”. Cái đẹp của cảnh vật chẳng thể che mờ những mảng tối của cuộc sống. Vẻ đẹp của Phùng
càng được tỏa sáng nhờ tấm lòng nhân hậu, đầy lòng trắc ẩn. Câu chuyện chưa dừng lại ở đó, ba ngày hôm
sau Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định
dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Với tính cách của người lính, những người đã từng đổ biết bao công sức mồ
hôi, máu và nước mắt để bảo vệ đất nước, mong cho nhân dân có được cuộc sống hạnh phúc ấm êm thì khung
cảnh này thật đi ngược với những mong ước, mục tiêu của các anh. Chính vì thế, Phùng đã “nện cho hắn một
trận ra trò”. Anh cũng bị thương và được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Tại đây, người đàn bà nghèo khổ
kia đã một mực van xin cho người chồng kia rằng “quý tòa đừng bắt con phải bỏ nó”. Khi con người ta phải
chịu tù đày áp bức, tưởng rằng tự do sẽ là điều họ khao khát nhất. Thế nhưng, sau khi nghe câu chuyện của bà,
Phùng và độc giả mới có thể hiểu được những uẩn khúc, lý do của những mảnh đời ấy.

Người đàn bà ấy luôn sẵn sàng chịu đựng khó khăn, đói nghèo vì chồng vì con. Với trách nhiệm là một người
vợ, người mẹ đã truyền cho bà biết bao sức mạnh để đối diện với cuộc sống. Có những ngày “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chưa bao giờ bà tìm cách trốn chạy. Bà biết dù bà có rũ bỏ tất cả thì
cũng không thể dứt bỏ được mối dây liện hệ với những đứa con của bà. Bạo lực gia đình luôn là một vấn đề
nhức nhối trong xã hội, con người ta cứ phải luẩn quẩn trong vòng vây của những mối quan hệ gia đình mà
chẳng có cách nào thoát khỏi nó. Những tổn thương mà người phụ nữ và những đứa trẻ vô tội phải chịu đựng,
được che lấp ẩn chứa sau cái đẹp mà Phùng đã nhìn thấy. Bỗng nhiên, anh ý thức được rằng: hạnh phúc vẫn
luôn gắn liền với khổ đau, cái đẹp luôn tiềm ẩn cái ác, cái xấu.

Sống trong hoàn cảnh khó khăn, cơm áo gạo tiền, con người ta vẫn luôn mưu cầu hạnh phúc. Biết bao dự
định, giá như người ta muốn thực hiện. Giá như “tôi đẻ ít và chúng tôi sắm được cái thuyền rộng hơn” của
người phụ nữ ấy, giá như người đàn ông ấy có đầy đủ điều kiện để nuôi vợ chăm con của lão, có khi nào lão
không trở thành một người như vậy. Có hàng vạn hàng nghìn lý lẽ mà người ta đưa ra để lý do giải thích cho
cuộc đời họ, khi pháp luật nghiêm minh bảo vệ họ thì vẫn chẳng đủ để thay đổi được cuộc đời mà họ đã lựa
chọn. Tác giả đã cho nhân vật Phùng được can thiệp, giúp đỡ những con người ấy nhưng họ từ chối. Phải
chăng, con đường đấu tranh cho nhân quyền và thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ còn trở ngại, gian nan hơn cả
cuộc đấu tranh giải phóng đất nước.

Những trăn trở, suy nghĩ trong lòng Phùng chắc hẳn cũng chính là những dòng cảm nghĩ chung cho cả dân
tộc. Li hôn liệu có thể giải quyết được những hậu quả của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Biết bao khó
khăn, bão tố ngoài biển khơi cũng chẳng thể nào so sánh được với những chơi vơi, sóng gió của cuộc đời.

Chiếc thuyền ngoài xa qua lăng kính nghệ thuật của nhân vật Phùng, đã tô điểm nên cảnh đẹp của đất trời Việt
Nam. Sâu xa trong những bức hình ảnh, những bi kịch, đắng cay vẫn đang ngày đêm diễn ra ở cuộc sống đời
thường của những người lao động nghèo. Bằng tâm hồn của người lính, bằng lòng nhân hậu yêu trọng cái đẹp,
hòa bình của người làm nghệ thuật, Phùng đã gắn kết những câu truyện, mảnh đời trong văn chương tới cuộc
sống đời thực trở nên gần gũi, chân thật biết bao
NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI

Nguyễn Minh Châu là một là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Từ sau 1975, ông chuyển hẳn
sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Ông được coi là một trong những cây
bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. "Chiếc thuyền ngoài xa" là một trong những tác phẩm
tiêu biểu phải kể đến của thi sĩ. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám
ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.
Truyện được kể lại qua lời kể của nhân vật Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau
thương mất mát. Theo lời đề nghị của trưởng phòng, Phùng trở về chiến trường xưa để chụp một tấm hình
cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát hiện ra một bức tranh để chụp một tấm hình cảnh
thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây , anh đã phát hiện ra một bức tranh thuyền biển lúc bình minh đẹp như
tranh mực Tàu của một danh họa thời cổ. Nhưng éo le thay, đang ngây ngất với cảm giác hạnh phúc thì Phùng
phải chứng kiến một cảnh tượng phũ phàng. Đó là cảnh người chồng đánh vợ một cách thô bạo, còn người vợ
thì nhẫn nhục chịu đựng một cách khó hiểu. Phùng từ ngất ngây sung sướng đến kinh ngạc, sững sờ. Có thể
nói, nhà văn đã ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống này mà nhân vật người đàn bà dần hé lộ số phận
và tính cách.
Tác giả chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định. Phải chăng ông muốn nói hộ bao
nhiêu người đàn bà vô danh ở vùng biển này? Người đàn bà trong truyện trạc ngoài bốn mươi, cùng chồng
đánh cá bằng thuyền lưới vó ở một vùng biển miền trung.
Người đàn bà có thân hình "cao lớn với những nét thô kệch", "rỗ mặt", lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt
"mệt mỏi", "tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Cái vẻ ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam
lũ, quanh năm phải chống chọi với cái nghèo, cái đói, với thiên tai khắc nghiệp. Ngay từ hình thwucs bên
ngoài của nhân vật, tác giả đã dự báo về một số phận lắm éo le, nghịch cảnh. Khắc họa về hình ảnh người đàn
bà , Nguyễn Minh Châu tập trung ở khuôn mặt và đôi mắt - nơi ẩn giấu nhwunxg bí ẩn của cuộc đời.Ở người
đàn bà xấu xí, rỗ mặt ấy có một đôi mắt thật lạ. Đôi mắt chính là cuộc đời chị. Đôi mắt của một cuộc đời
không bình lặng. Đôi mắt "ngước nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng rồi...đưa cặp
mắt nhìn xuống chân' đầy vẻ cam chịu. Đôi mắt đã từng "nhìn tahnwgr vào chúng tôi, lần lượt từng người
một", nói nhwunxg lời đâu phải dẽ nghe sau những giây phút "sợ sệt, lúng túng,rón rén đến ngồi ghé vào chiếc
ghế và cố thu người lại". người đàn bà xuất hiện với khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt vì thiếu ngủ, vì lao lực,
khuôn mặt chứa đầy những giọt nước mắt trong những vết rổ chằng chịt, khuôn mặt cúi xuống nhẫn nhục khi
nói về đời mình, khuôn mặt ấy còn ám ảnh Phùng mãi sau này.
Nguyễn Minh Châu khắc họa đậm nét những chi tiết ngoại hình nhằm giúp người đọc hình dung được cuộc
sống khổ đau, bất hạnh của nhân vật. Bà phải chịu đựng về cả nỗi đau thể xác lẫn tinh thần. Thường xuyên bị
chồng đánh nhưng người đàn bà ấy vẫn quyết gắn bó với người chồng vũ phu. Trong tâm thức bà luôn lo sợ
các con sẽ bị tổn thương, luôn phải che giấu những nỗi đau của mình nhưng các con vẫn khiến bà thực sự đau
lòng vì "bà cảm thấy đau đớn - vừa đau đướn vừa vô cùng xấu hổ , nhục nhã". Bà đau vì không tránh được
cho con khỏi bị tổn thương do bạo hành gia đình. Bà làm như vậy như là để tạ tội với các con vì không thể
cho nó một mái ấm hạnh phúc. Bà hiểu được nguyên nhân sự nghèo khổ của gia đình là do đông con, chồng
phải trốn lính, thuyền chật, cuộc sống bấp bênh. Bà hiểu sâu sắc thiên chức làm mẹ, hiểu đưuọc bản chất của
chồng. Theo bà, ông ta trở nên thô bạo nhưu vậy là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu
kia chỉ là nạ nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.
Tóm lại, nhân vật người đàn bà hàng chài là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời.Một phụ nữ
vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình, chồng
con. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc
đời, về nghệ thuật. "Chiếc thuyền ngoài xa" mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống con
người. Đó là cái nhìn đa chiều , ở các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và
con người. Phải chăng sau câu chuyện rất buồn này,trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm
tin yêu cuốc ông, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử , sự can đảm và tấm lòng bao dung của người
phụ nữ? Đó không pahir là vẻ đẹp chói chang , hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm
láp, lam lũ của đời thường.

You might also like