You are on page 1of 4

Nhân Vật Bà cụ Tứ

(Bà lão cúi đầu im lặng...................................nước mắt ròng ròng)


Bài làm
Kim Lân là 1 trong những cây bút truyện ngắn xuất ắc của nền văn xuôi Việt Nam hiện
đại, Hầu hết những trang viết của ông có giá trị về đề tài nông thôn và người nông dân. Kim Lân
đã mở cho mình 1 lối đi riêng khi khai thác mảng đề tài quen thuộc này. 'Vợ nhặt" là một trong
những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân. Trong truyện, Kim Lân đã xây dựng thành công hình
tượng nhân vật bà cụ Tứ, đặc biệt là qua đoạn
“Bà lão cúi đầu............................................nước mắt ròng ròng”
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” viết năm 1962 là tác
phẩm đặc sắc viết về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Trên cái nền tăm tối ấy, nhà văn đã miêu
tả cảnh ngộ của những con người nghèo khổ ở xóm ngụ cư với cái nhìn nhân dân, phát hiện ở họ
vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào tương lai tươi sáng.
Truyện kể về nạn đói thê thảm năm 1945 ở nước ta, người chết như rạ. Tràng, con trai
của bà cụ Tứ, xấu trai, thô kệch, ế vợ, sống ở xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe thuê. Một lần
kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh Tràng đã hò một câu chơi, thị đã đẩy xe cho Tràng. Lần thứ 2,
Tràng đang uống nước ở chợ thì thị chạy đến, sưng sỉa mắng Tràng. Ban đầu, Tràng không nhận
ra vì cô ấy rách rưới, gầy xọp. Thị gợi ý được ăn, Tràng đã đãi cô gái bốn bát bánh đúc. Sau một
câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Việc Tràng nhặt được vợ đã làm cả
xóm ngụ cư ngạc nhiên. Bà Cụ Tứ, mẹ Tràng cũng ngạc nhiên và lo lắng. Nhưng rồi bà cụ cũng
đã hiểu ra, vừa mừng vừa lo và chấp nhận người con dâu với thái độ ân cần. Sáng hôm sau, bà
cụ Tứ và nàng dâu chăm lo, quét dọn, Tràng cảm nhận sự ấm cúng, hạnh phúc và có trách nhiệm
hơn với gia đình. Trong “bữa cơm” đón nàng dâu mới, họ chỉ với một bữa cháo lõng bõng, rau
chuối thái rối nồi cháo cám. Nhưng bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau.
Tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, thị nói về chuyện ở Thái Nguyên người dân không chịu đóng
thuế nữa. Tràng nhớ lại và tiếc rẻ hôm gặp đoàn người, Việt Minh phá kho thóc Nhật. Trong óc
Tràng hiện lên hình ảnh đoàn người đói đi phá kho thóc, phía trước có lá cờ đỏ sao vàng bay
phấp phới. Đoạn trích thuộc phần giữa của truyện, diễn tả tâm trạng xót xa, nghẹn ngào của bà
cụ Tứ khi con nhặt vợ trong nạn đói. Đó là tâm trạng vừa tủi hổ, vừa cảm động mừng vui đan
xen khi người con trai có vợ.
Bà cụ Tứ là nhân vật xuất hiện muộn nhất trong tác phẩm nhưng lại là nhân vật có vị trí
quan trọng, trở thành linh hồn của truyện ngắn “Vợ nhặt”. Bà cụ Tứ được giới thiệu là một
người mẹ nông dân từng trải, phải sống kiếp đời ngụ cư thấp hèn. Hơn thế ông cụ Tứ mất sớm,
bà cụ Tứ phải sống trong cảnh góa bụa tăm tối để nuôi con. Trong tình cảnh nạn đói, bà cụ Tứ
hiện lên thật thê thảm, đôi mắt lèm nhèm, da bủng như quả chanh, tấm lưng còng xuống vì tuổi
tác.
Sự xuất hiện của người vợ nhặt làm cõi lòng bà cụ Tứ nảy sinh những cung bậc cảm xúc
khác nhau. Khởi đầu là tâm trạng ngạc nhiên. Ngạc nhiên bởi thái độ đon đả đón chào khác mọi
ngày của Tràng, ngạc nhiên hơn khi có người đàn bà lạ trong nhà, bà không nhận ra là ai.
Không phải cái Đục-con gái bà, cũng không phải người dưới quê lên chơi. Kim Lân đã dựng lên
một loạt câu hỏi thể hiện diễn biến tâm trạng ấy: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình
bằng u?”, tâm trạng này là hoàn toàn hợp lí bởi người vợ nhặt là người lạ chưa bao giờ bà gặp
mặt. Chi tiết nghe người đàn bà lạ mặt chào bằng u, cụ Tứ ngạc nhiên lắm . Bởi trong cảnh đói
khát thế này, lo thân mình còn chưa xong, cụ không tin con trai lại lấy được vợ. Trái tim người
mẹ vốn rất nhạy cảm với chuyện dựng vợ gả chồng của con cái, nhưng Kim Lân để bà cụ Tứ
ngơ ngác quá lâu như vậy phải chăng khiến chúng ta hiểu sự việc sâu sắc hơn, chính sự quẫn
bách trong cái đói đã đánh mất ở bà cụ Tứ cái nhạy cảm vốn có ấy.
Khi vào nhà, lòng bà cụ Tứ đầy băn khoăn. Cái giây phút Tràng giới thiệu với bà: “Kìa,
nhà tôi nó chào u”, “nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!”, làm cõi lòng bà thật chua xót.
Khi biết người phụ nữ xa lạ kia đã theo không con trai mình về làm vợ, bà cụ Tứ đã khóc,
những giọt nước mắt xót tủi, mừng vui của một người mẹ hiểu đời. Bà tủi thân, vì cho rằng
mình chưa làm tròn bổn phận của một người gánh trên vai hai chứ “làm mẹ”, “Chao ôi, người ta
dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc ăn nên làm nổi, mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này.
Còn mình thì..”, với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ việc mang nặng đẻ đau, nuôi con
trưởng thành mà còn phải lo cho con yên bề gia thất, lúc ấy mới có thể “nhắm mắt xuôi tay”.
Cha mẹ nào chưa lo cho con được tấm chồng, cô vợ thì chết không thể yên lòng. Với quan niệm
ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy tâm sự. Trong lời độc thoại, bà đã so sánh mình với người khác,
bà thấy tủi thân vì người ta giàu có, có của ăn của để cho con cái, còn mình thì có “dăm ba mâm
cơm” cũng không lo được cho con. Đằng sau dấu chấm lững mà nhà văn cố tình để lại ấy là nỗi
lòng, là nước mắt của người mẹ già tội nghiệp thương con. Bà thương cho số kiếp con mình, vì
bà hiểu rằng con trai mình không được may mắn như con nhà người ta. Nghĩ thế nhưng bà
không hề rẻ rúng coi thường người đàn bà vừa mới là con dâu của mình. Ngược lại, tấm lòng
người mẹ còn trào dâng những tình cảm đặc biệt dành cho người con gái đường cùng lỡ bước:
“người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này mới lấy đến con mình”. Trong suy nghĩ đầy nhân
văn ấy, bà đã đồng cảm với người con dâu bị nạn đói đẩy đến bước đường cùng phải liều thân
theo một anh chàng xấu xí, nghèo khổ về làm vợ. Tình thương người đàn bà ấy còn thể hiện
trong hành động vồn vã, ân cần: “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”.
Hết buồn tủi, bà cụ Tứ còn lo cho tương lai của các con: “Biết rằng chúng nó.....không?”.
Nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của mình, bà càng lo cho các con hơn: “Vợ chồng chúng nó lấy
nhau, cuộc đời nó liệu hơn bố mẹ trước kia không?”. Lần thứ hai, người mẹ nghèo khổ ấy để
những giọt nước mắt lo lắng, tủi buồn của mình chảy ròng ròng trên khuôn mặt già nua: “Năm
nay thì đói đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá..”. Đằng sau mỗi lần suy tư của bà
cuh Tứ luôn có dấu chấm lửng “...” như là nỗi lòng, là nước mắt của người mẹ thương con trong
cảnh đói khát.
Từ tình thương, từ sự lo lắng dành cho đứa con trai, bà cụ chuyển sang nhìn người con
dâu cũng bằng ánh mắt đầy xót xa, thương cảm. Dù Tràng không đề cập đến việc nhặt vợ ở đầu
đường, xó chợ qua loa và chóng vánh, nhưng bằng kinh nghiệm sống, sự từng trải của một
người đã đi gần hết cả cuộc đời, bà cụ có thề hoàn toàn hiểu được sự thật trần trụi, đắng chát
của cuộc hôn nhân đó. Nhưng bà không hề nhìn cô con dâu bằng sự phán xét khắt khe đay
nghiến thường thấy của một bà mẹ chồng, mà bằng con mắt đầy bao dung và cảm thông. Bà
như tự bào chữa cho chính đứa con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta
mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”.Với chi tiết này, bà cụ Tứ hiện lên không
chỉ là hình ảnh của tình mẫu tử thiêng liêng cao cả mà còn là biểu hiện của tình người ấm áp,
bao dung. Bằng sự nhân hậu, vị tha, bà đã sẵn sàng mở rộng lòng và dang đôi bàn tay để cưu
mang, che chở, nâng đỡ những kiếp người khốn khổ hơn mình. Ở đó, truyền thống đạo lý tốt
đẹp của người Việt Nam: “Lá lành đùm lá rách” được thể hiện rất rõ.
Bà mở lòng đón nhận con dâu đầy ấm áp, dù lòng đầy xót xa nhưng bà bày tỏ niềm vui
khi hai con về một nhà. Câu nói mà bà nói với nàng dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên
phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” tuy giản dị nhưng cũng đầy ý nghĩa. Nó vừa giúp cả ba
người thoát khỏi tình thế ngượng nghịu, khó xử, vừa là sự chào đón ấm áp, đôn hậu với nàng
dâu mới. Nhưng điều đáng lưu ý và cũng đáng trân trọng nhất ở bà cụ Tứ là dù có xót xa, đau
đớn và lo lắng nhưng tất cả đều được bà mẹ này giữ kín trong cõi riêng của mình còn những
điều bà nói ra đều là sự vui mừng, tốt đẹp. Cùng với các khái niệm thiêng liêng: “duyên, kiếp”,
bà cụ đã cho thấy dưới đôi mắt của người mẹ thương con thì người con dâu không phải là người
đàn bà trơ trẽn theo không con trai bà mà là người đáng được trân trọng. Tình cảm ấm áp của bà
cụ Tứ đón nhận khiến cho cuộc hôn nhân chóng vánh, vội vàng của Tràng cũng trở nên thiêng
liêng, trọng đại như các cuộc hôn nhân mâm cao cỗ đầy khác. Như vậy, với tấm lòng cao cả,
giàu đức hy sinh, bà lão đã nén chặt trong lòng những buồn tủi để nâng đỡ, vun vén cho hạnh
phúc của hai đứa con mình. Vì thế mà lòng Tràng trở nên nhẹ nhõm trước sự việc trọng đại mà
đầy liều lĩnh của mình.
Người mẹ già ấy là điểm tựa tinh thần cho 2 con trong hoàn cảnh tối tăm lúc bấy giờ. Bà
chân thành, cởi mở bày tỏ gia cảnh với dâu con, bà dạy các con chăm chỉ, hòa thuận để hướng
về một cuộc sống khấm khá hơn “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo
nhau làm ăn. Rồi ra may ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?
Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Câu tục ngữ: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba
đời” mà bà nói ra chính là cách động viên ấm áp nhất để Tràng và người vợ nhặt có thể tin vào
sự thay đổi tốt đẹp hơn. Dù lòng bà đầy ắp những nỗi tủi thân, nghen ngào nhưng bà cụ Tứ đã
nén lại để đón nhận con dâu đầy bao dung, nhân ái. Bà bày tỏ niềm vui khi con có vợ mà còn
truyền cho con một niềm tin tốt đẹp ơ tương lai. Giữa cảnh chết chóc, đến cả có thể đánh mất
nhân cách để theo không một người xa lạ như thị thì người đọc càng cảm phục sự nhân hậu, lạc
quan của bà cụ Tứ. Những lời của bà dạy cho dâu con như để truyền lại nếp nghĩ, gia giáo của
một gia đình mà còn bồi đắp cho các con niềm tin vào cuộc sống tốt đẹp ở ngày mai.
Thương con, lòng bà không tránh khỏi suy tư lo lắng, trăn trở. Nhà văn Kim Lân miêu tả
bà cụ khóc và bốn lần miêu tả nỗi lo lắng của bà dành cho các con,”Biết rằng chúng nó có nuôi
nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?’’, nghĩ về cuộc đời mình bà lại càng lo cho
các con: “chúng nó lấy nhau, đời nó liệu.....không?”. Lần thứ hai, bà để những giọt nước mắt lo
lắng của mình chảy ròng xuống trên khuôn mặt già nua. Bà dặn dò, bảo ban các con : “Cốt làm
sao.....rồi”. Bà an ủi: “kể ra...............thương quá.. ròng ròng”. Hai lần người mẹ nghèo khổ phải
quay đi, lén giấu những giọt nước mắt buồn tủi của mình. Đó chính là lòng yêu thương con vô
bờ bến của người mẹ Việt Nam, lúc nào cũng lo lắng, trăn trở, tất cả đều hi sinh vì con.
Như vậy, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn là buổi chiều tối khi Tràng đưa vợ nhặt về
nhà, Kim Lân đã xoáy sâu, đã nhập thân gần như làm một với nhân vật bà cụ Tứ. Từ đó, tác giả
đã đi vào những dòng xúc cảm vừa vui vừa buồn, vừa mãnh liệt, vừa nghẹn ngào của nhân vật.
Một loạt những phản ứng tâm lý phức tạp nhưng vẫn hết sức tự nhiên, hợp lý đã được Kim Lân
khai thác thành công để làm nổi bật tấm lòng ở một bà mẹ giàu tình thương con và ở một người
nông dân chan chứa tình người nơi bà cụ Tứ. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng nghệ thuật
độc đáo, thể hiện được chủ đề, tư tưởng của truyện ngắn. Tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Kim
Lân đã góp phần đưa tác phẩm Vợ nhặt trở thành một trong những kiệt tác của văn xuôi hiện
đại Việt Nam. Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: Chịu thương chịu khó, tảo tần, luôn chắt
chiu hạnh phúc trong cuộc sống.
Thành công của việc xây dựng hình tượng bà cụ Tứ trong đoạn văn; tác giả đã tạo dựng
tình huống truyện độc đáo để nhân vật bộc lộ phẩm chất; Tràng dẫn vợ về đầy bất ngờ và sự
ứng xử đầy nhân văn trong bờ vực của cái chết. Nghệ thuật phân tích diễn biến tinh vi những
diễn biến tâm trạng của nhân vật. Tác giả xây dựng những đoạn đối thoại sâu lắng, chân thành.
Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ lưỡng, tạo sức gợi sâu
sắc. Qua đó, vẻ đẹp của nhân vật hiện lên chân thực, rõ nét.
Qua nhân vật bà cụ tứ trong đoạn trích trên, nhà văn đã phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp tâm
hồn người lao động trong nạn đói. Qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Kim
Lân và bản chất tốt đẹp cũng như sức sống kì diệu của con người với thông điệp :ngay cả trên
bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khao khát tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc
lẫn nhau.

You might also like