You are on page 1of 2

Có thể nói rằng cụ Tứ là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho một thế hệ các bà các mẹ

trong giai đoạn đất nước nhiều đau thương. Hình ảnh cụ Tứ trong truyện cũng xuất
hiện với những nét vẽ rất đơn giản "húng hắng ho, một bà lão lọng khọng từ rặng tre
đi vào. Vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng", nhưng cũng đủ tái hiện hình
ảnh của một người đàn bà trải qua biết bao thăng trầm của cuộc đời. Bà xuất thân
trong một gia đình nông dân, sống cuộc đời nghèo khó, lấy chồng sinh con, chồng mất
sớm, một tay bà tần tảo làm lụng vất vả nuôi con, sau lại gặp nạn đói hoành hành. Bà
cụ Tứ sống dựa vào người con trai duy nhất là Tràng trong căn nhà tồi tàn, rách nát,
cuộc sống bấp bênh bữa đói bữa no. Không chỉ thế trong lòng bà cụ còn luôn mang
trong mình mặc cảm không cưới nổi cho con một cô vợ, chỉ vì bà nghèo quá, cả cuộc
đời vẫn trắng tay, điều đó làm bà càng thêm yêu thương và tội nghiệp đứa con trai duy
nhất của mình.

Đi sâu vào nội tâm nhân vật bà cụ Tứ, ta dần thấy những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý
hiện ra, trước hết là vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng. Khi nghe anh Tràng thông
báo chuyện cưới vợ, bà lão vẫn chưa hiểu ra cớ sự, phần vì bất ngờ, phần vì không thể
tin được lại có một người đàn bà chịu về làm vợ con trai mình, chịu sống trong căn
nhà tồi tàn, rách nát của bà. Nhưng sau năm lần bảy lượt anh Tràng giải thích và
khẳng định, bà cụ cuối cùng cũng tin đó là sự thật, tuy nhiên thay vì vui mừng, trong
lòng bà lại dấy lên biết bao nhiêu tâm sự, một nỗi buồn bắt đầu len lỏi trong tâm hồn
già nua của người đàn bà khắc khổ "Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi". Đời bà
đã trải qua biết bao nhiêu những đắng cay, tủi hờn, bà cũng hiểu rõ con người đến tuổi
dựng vợ gả chồng, ai cũng mong muốn được một hạnh phúc nho nhỏ, dẫu là giàu sang
hay nghèo khó. Thế nhưng nhìn lại phận mình, phận con trai bà, lòng bà cụ lại tràn
đầy những chua xót không tên. Bà tủi phận vì nghèo khó mà không lo cho con nổi một
đám cưới, để nó phải tự lấy về một người vợ, một người đàn bà chắc cũng đến bước
đường cùng mới phải về đây. Càng nghĩ bà lại càng thấy "ai oán xót thương cho số
kiếp con trai mình", cái sự xúc động, tủi thân ấy khiến "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà
rỉ xuống hai hàng nước mắt". Tấm lòng thương con của bà còn thể hiện trong nỗi lo
lắng "biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không". Bà không
trách móc con trai tự làm chủ chuyện hôn nhân đại sự, mà lòng người mẹ nhân từ chỉ
xuyên suốt một nỗi lo đau đáu rằng biết rồi mai đây vợ chồng chúng có vượt qua cơn
đói khát này để sống đời với nhau được hay không, hay lại làm khổ nhau. Cụ Tứ
thương con, lòng bồi hồi vì có dâu mới, cũng lại trăn trở một nỗi lo lắng cho cuộc đời
của người con trai duy nhất. Thế nhưng cụ không suy nghĩ, buồn rầu quá lâu, người ta
nhanh chóng nhìn thấy ở cụ sự thông suốt, thấu hiểu, tự vực dậy tinh thần của mình
"Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con
mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho
con...Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết
được?". Cụ đã chấp nhận cái đám cưới chớp nhoáng giữa nạn đói kinh hoàng, đồng
thời mở lời động viên các con, săn sóc đến người phụ nữ vừa bước vào nhà làm dâu,
vun vén cho vợ chồng Tràng bằng những lời của tổ tiên "Biết thế nào hở con, ai giàu
ba họ, ai khó ba đời?". Bà kín đáo giấu đi những trăn trở lo toan vào lòng, mở ra cho
các con của mình một hy vọng tốt đẹp vào tương lai.
Cụ Tứ có tấm lòng bao dung, cảm thông sâu sắc với số phận con người, điều đó bộc lộ
rõ nét nhất thông qua cái cách mà bà đối xử với thị - vợ Tràng. Hai người đàn bà một
già một trẻ gặp mặt nhau trong một tình huống kỳ lạ - một đám cưới chớp nhoáng, họ
đã trở thành mẹ chồng - nàng dâu ngay từ lần đầu tương ngộ. Thế nhưng không vì sự
đường đột xuất hiện của thị mà cụ Tứ tỏ ý xa cách, trái lại bà rất thấu hiểu, bà thương
cho thị gặp phải bước khó khăn mới chịu lấy đến con trai bà, cho con trai bà một gia
đình. Để cho thị đỡ lúng túng, xấu hổ bà mở lời đồng ý chuyện hôn nhân "ừ, thôi các
con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Rồi khi thấy bộ dạng xấu
hổ, tả tơi của thị "lòng đầy thương xót" vội giục "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống
cho đỡ mỏi chân", bà đã dang rộng vòng tay thương cảm cho thị một con đường, xóa
đi cái sự xa lạ trong lòng thị, để thị được vững tin vào cái đám cưới kỳ lạ này, đồng
thời xem thị chính thức là dâu con trong nhà mà đối xử. Bà nghĩ đến sự thiệt thòi của
một người phụ nữ không có cỗ cưới trong ngày trọng đại nhất cuộc đời mà thầm
thương xót thị, chính lẽ ấy nên bà đã thân mật với cô con dâu mới những lời từ đáy
lòng "cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Năm nay đói to đấy. Chúng
mày lấy nhau lúc này u thương quá", nói đoạn không kìm nổi nỗi xúc động, xót xa bà
lão "nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng". Lòng thương
con của người mẹ, sự xót xa cho cuộc đời mình, cùng tấm lòng đồng cảm với thị đã
khiến cụ Tứ không nén nổi nước mắt, cuộc đời này bà có lẽ đã khóc nhiều, nhưng
khóc lần này chắc là mang nhiều xúc cảm hỗn độn nhất.

Có thể nói rằng mỗi nhân vật trong tác phẩm Vợ nhặt đều là một điển hình cho những
người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945, ở họ hiện lên những vẻ đẹp phẩm
giá, nhân cách, nghị lực, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, mà ở cụ Tứ là tình mẫu tử
thiêng liêng, tấm lòng bao dung, cùng với hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Điều đó thể hiện tấm lòng nhân đạo của Kim Lân trong sáng tác của mình, giữa đói
khổ, chết chóc tăm tối, thế nhưng nhà văn không hướng người đọc đến sự bi quan tiêu
cực, thay vào đó lại thắp sáng đêm đen bằng những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng số phận
nghèo khổ.

You might also like