You are on page 1of 17

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Cảm nhận của em về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ


trong tác phẩm Vợ nhặt
Dàn ý Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ - Bài
mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt và nhân vật bà cụ Tứ.
2. Thân bài
a. Sự ngạc nhiên của cụ khi anh Tràng dắt vợ về
Khi làm về, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Bà cụ ngạc
nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.
Bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tôi nó chào u”…
“Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”
Bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra
b. Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ
Khi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận
làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng
trở nên buồn hơn.
Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn: Bà không biết
lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con không
biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
c. Nỗi lo của bà cụ Tứ
Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình không biết phải qua những
ngày khó khăn này như thế nào. → Khuyên con, khuyên dâu thương nhau, cố gắng
vươn lên.
→ Nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời.
d. Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ
Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho
khá…”
Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa.
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu.
Bà vẫn luôn tạo một không khí ấm cúng cho bữa ăn để con đâu đỡ tủi.
→ Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, luôn lạc quan trong
hoàn cảnh khó khăn.
→ Là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản dị, giàu tình yêu
thương và đức hi sinh
3. Kết bài
Khái quát lại những phẩm chất tốt đẹp của bà cụ Tứ, đánh giá về ý nghĩa của
truyện ngắn và liên hệ thực tiễn.
Dàn ý Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ - Bài
mẫu 2
I. Mở bài
Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Nguyễn Minh
Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
Hai nhà văn đều thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo, nhân văn trong sự nghiệp văn học
Hai tác phẩm khắc họa tình người, tình mẹ, trong đó chi tiết "dòng nước mắt" là
một phương tiện biểu hiện.
II. Thân bài
1. Cảm nhận chi tiết "dòng nước mắt" trong Vợ nhặt
- Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết
- Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của bà cụ Tứ – mẹ Tràng: tình huống
truyện anh Tràng nhặt vợ, diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
- Cảm nhận, phân tích chi tiết "dòng nước mắt":
Là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão
vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng...
Giọt nước mắt chỉ "rỉ" ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những
tháng ngày khốn khổ dằng dặc...
"Kẽ mắt kèm nhèm" là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của
người phụ nữ nông dân lớn tuổi

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng
- Đánh giá:
Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
sâu sắc:
Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói
1945
Nhân đạo: cảm thông thương xót; tố cáo xã hội; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn
người mẹ
Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội
tâm nhân vật đặc sắc.
2. Cảm nhận chi tiết "dòng nước mắt" trong Chiếc thuyền ngoài xa
- Giới thiệu diễn biến dẫn đến chi tiết
- Nêu hoàn cảnh xuất hiện dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài: câu chuyện
gia đình hàng chài, diễn biến tâm trạng người đàn bà hàng chài.
- Cảm nhận, phân tích chi tiết "dòng nước mắt":
Là biểu hiện của nỗi đau đớn: gia cảnh nghèo khó bế tắc → tình trạng bạo lực
trong gia đình không có lối thoát → câu chuyện thằng con phạm vào tội ác trái
luân thường đạo lí không thể giải quyết, nỗi lo lắng về sự phát triển nhân cách lệch
lạc của con đã không tìm được giải pháp...
Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng, khi chồng đánh
không hề có bất kì phản ứng nào, nhưng hành động của thằng con khiến chị như
sực tỉnh, như bị một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi đau tận cùng
- Đánh giá:
Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
sâu sắc:
Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến tranh và đêm trước thời
kì Đổi mới 1986
Nhân đạo: cảm thông thương xót; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ
Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội
tâm nhân vật đặc sắc.
3. So sánh
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

• Điểm tương đồng


- Về nội dung:
Đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói
và khốn khổ
Đều là "giọt châu của loài người", giọt nước chan chứa tình người trào ra từ tâm
hồn những bà mẹ giàu lòng vị tha, đức hi sinh
Đều góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện
thực xã hội trong những thời điểm khác nhau; thể hiện tấm lòng thương cảm đối
với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả.
- Về nghệ thuật: Đều cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của
hai nhà văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắc
• Điểm khác biệt
- Về nội dung: Hoàn cảnh riêng của hai nhân vật khác nhau - nước mắt cũng mang
những nỗi niềm riêng
Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng "nhặt" được
vợ; bà cụ cảm thấy ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi
cho chính thân phận mình. Nhưng phía trước bà cụ là ánh sáng của hạnh phúc nhen
nhóm
Còn dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc thằng Phác
đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình bà đã diễn ra
trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ nữ vùng biển này thấy đau đớn,
nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con.
Phía trước chị là một màu mù xám, bế tắc
- Về nghệ thuật thể hiện: Để khắc họa chi tiết dòng nước mắt, Kim Lân sử dụng
hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị, Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von,
hình ảnh.
4. Lí giải sự giống và khác nhau
- Vì sao giống? Giống về nội dung vì cùng hướng đến:
Từ nỗi đau → đề xuất giải pháp cách mạng
Từ vẻ đẹp tâm hồn → ca ngợi vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam truyền thống →
cùng là những nhà văn hiện thực và nhân đạo sâu sắc

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

- Vì sao khác?
Hoàn cảnh khác và tương lai khác do được viết trong những bối cảnh khác nhau
(Kim Lân từ sau khi CM thành công nhìn lại viết nên mang cảm quan lạc quan;
Nguyễn Minh Châu nhìn trong hiện tại nên không dám chắc chắn tin tưởng ở
tương lai) – phong cách nghệ thuật của mỗi tác giả khác biệt không trộn lẫn.
III. Kết luận
Khẳng định vấn đề: vẻ đẹp và sức mạnh của dòng nước mắt người mẹ.
Khẳng định giá trị tác phẩm và vị trí của tác giả trên văn đàn.
Văn mẫu Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám
nhưng lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm,
nhà văn đã làm toát lên tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh
phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành
công ở hình tượng nhân vật "bà cụ Tứ" - mẹ anh Tràng - người "nhặt vợ".
Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng "long khòng",
kẽ mắt "lèm nhèm ","khuôn mặt bủng beo, u ám ". Những hành động cử chỉ của cụ
"nhấp nháy hai con mắt","chậm chạp hỏi", "lập cập bước đi", "lật đật:, "lễ mễ"
cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ
nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói " cuộc đời cực khổ
dài đằng đẵng".
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà,
nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp
tâm hồn, tính cách.
Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu
sắc. Cụ thương người con trai của mình "cảm thấy ai oán xót thương cho số phận
đứa con mình". Trong kẽ mắt kèm nhèm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã
sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình" không biết chúng nó có
nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không". Bà còn dành tình yêu thương cho
người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ: "Người ta có gặp bước khó khăn
đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được". Đó là tấm lòng
người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm
chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới.
Điều đó chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người. Tình yêu thương còn thể

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

hiện qua những lời nói của bà cụ dành cho con "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo
nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai
khó ba đời?…". Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng,
vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian"ai giàu ba họ ai khó
ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày
lấy nhau lúc này, u thương quá…". Câu nói thể hiện tấm lòng thương xót cho số
phận của những đứa con. Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, sáng hôm sau
cụ" xăm xắn quét tước nhà cửa". Hành động giản dị thôi nhưng thể hiện tấm lòng
người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không
nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương
và tấm lòng lo lắng của người mẹ nghèo.
Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc
quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về
tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai
giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng. Cụ đồng tình khi
thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta
sẽ thấy chính bà lão "gần đất xa trời"này lại là người nói về tương lai nhiều nhất"
cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là
niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi
sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng" tươi tỉnh khác hẳn ngày thường". Chính
tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u
ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau
cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường ngày nhưng
đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm
hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ
những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: "Cám đấy mày
ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ
quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi
mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu
tiên đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám "chát xít, nghẹn bứ trong miệng" mà
ngon ngọt trong long, ngọt bởi tấm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không
khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua
hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa
vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên
được.

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên "hình ảnh chân
thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm
1945". Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm
nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có
thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng hình
ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ chồng Dần (Nam Cao) những người
nông dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, hết lòng yêu thương con. Dẫu chỉ là một
nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trìu mến đối với tấm lòng
người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động,
chân thực, vừa cảm động, day dứt với người đọc. Chính những hành động, lời nói
của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau
cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm
qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết
nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu
thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có
một tia hy vọng mong manh. Kim Lân đã khám phá và thể hiện thành công điều đó
ở nhân vật bà cụ Tứ.
Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ - Bài mẫu 2
Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ
Tứ - mẹ của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác
phẩm sâu sắc hơn. Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày
đói deo dắt, Kim Lân muốn khắc họa số phận bi đát của người nông dân trước cách
mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của
những số phận khốn cùng ấy. Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ
và người mẹ đường như trở thành người khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc
lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ suốt đời những buồn đau, lo lắng đã đè nặng
lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã tạo lên một phần không nhỏ giá trị
nhân văn của tác phẩm.
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như
không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ
vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương,
trìu mến. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người
đàn bà quen thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm
cẩm, chậm chạp theo nổi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông
“con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu
giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia?
Không phải cái đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao
ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về một người vợ!
Băn khoăn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương
cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta dựng
vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”. Đọc những
dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang
rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được dăm ba
mâm cơm mới phải”, nhưng "nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy
nghĩ, không thực hiện được. Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người
ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con
mình mới có vợ được …” Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng
của con người đã trải qua cuộc đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi
nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ
động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm
ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba
đời?...". Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải - vừa lo lắng, vừa
thương xót; “...Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương
quá...” “bà nghẹn lời không nói được nữa...”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc
này rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là
“ đám cưới ” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu
của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng. Dần
trong “một đám cưới” (Nam Cao). Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất
“ngọt ngào” để khỏa lấp sự “không có nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha
Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình
yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con
bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói...Nhưng nếu mẹ chồng
Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít. Bà khóc “Nước mắt cứ
chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân
thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau - “toàn chuyện
vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với các con những dự định cho
tương lai...
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi
phận nghèo, thương con dâu đến nỗi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống
nổi qua thì đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai..., tất cả đan xen,
hiển hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lý tinh
tế của bà cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

nói. Lỗi lo xa cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay
duy tâm của người già: "...chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm
thế nào mà lo cho hết được?” tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó là lời
của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn,
vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn. Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để
phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh
không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà
cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt” mà
“nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc đời cực khổ dằng
dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “liệu chúng nó có
hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã
thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lý người mẹ
nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong
phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. Vợ
nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời - những trang đời thấm
đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho tương lai và rạng
rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà
cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con rung cảm
sâu sắc trước tâm, trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về
về những dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí
cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ...”. Bà đã cố nén sự xúc động của
mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát
đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy,
trước đôi mắt nhòa lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời
bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những
giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh lòng vị
tha cao quý của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất, là muối
của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả... Những giọt nước mắt lặn vào trong
ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà
cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà... Để
ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai nhiều
hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lý lạc quan khỏe khoắn của người lao động,
đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người mẹ
nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa
đời người trong sự chăm lo vun vén cho con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy
vọng đâu chỉ dành cho tuổi trẻ - nó trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai
dám cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không
những không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời.
Tâm tính ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều... Tâm tính ấy khiến bữa cháo
thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong
lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão “lễ mễ”
bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà bảo:
“Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám hèn
hạ đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng quý
hay sao? Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên
hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết
lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa... Tội
nghiệp thay niềm vui của bà lão - cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn
còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui
không thể trọn vẹn... “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc
thì nhìn thấy rõ những giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rõ những giọt nước mắt
của Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim
Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo…
Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác
phẩm Vợ nhặt - Bài mẫu 3
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của
nền văn học Việt Nam hiện đại khi viết về chủ đề người nông dân dưới xã hội cũ,
đặc biệt là trong giai đoạn đau thương nhất của đất nước. Tuy nhiên trong tác phẩm
nội dung chính mà tác giả muốn đề cập đến không phải là phản ánh, tố cáo hiện
thực mà là tấm lòng trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người, cùng với
sức mạnh của tình người, tình thân trong gia định đã trở thành cơ sở cho những
khát vọng sống, niềm hy vọng và tin tưởng vào tương lai mãnh liệt ngay trong
những hoàn cảnh khốn cùng nhất. Bên cạnh hai nhân vật là Tràng và thị với những
nét phẩm chất riêng, thì nhân vật cụ Tứ lại hiện lên với vẻ đẹp của tình mẫu tử,
thương con sâu sắc.
Giữa nạn đói hoành hành năm 1945, hàng triệu đồng bào ta phải chịu chết đói,
nhiều người phải lìa xa quê cha đất tổ đi tha hương cầu thực nơi xứ người, mẹ con
bà cụ Tứ là một trong số đó. Bà cụ là một phụ nữ nông dân nghèo khổ, có lẽ rằng
cả cuộc đời bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả, bởi lẽ cả cuộc đời bà nằm trọn
trong những ngày tháng đất nước chất chứa nhiều đau thương, lầm than dưới chế

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

độ thực dân nửa phong kiến. Cả cuộc đời bà dành để kiếm từng đồng, từng hào
chắt bóp nuôi con khôn lớn, cho đến khi tuổi đã gần đất xa trời, bà cụ tội nghiệp
vẫn không được hưởng những ngày tháng sung sướng. Thay vào đó cụ vì già cả,
ốm yếu phải sống dựa vào đứa con trai là anh Tràng với một công việc bấp bênh,
bữa đói bữa no, và bên ngoài kia thần chết đang chực chờ những con người khốn
khổ, cùng đường vì cái đói, trong đó có cả hai mẹ con bà cụ Tứ. Trong hoàn cảnh
khắc nghiệt như vậy tình mẫu tử của bà cụ lại càng hiện lên rõ rệt, cả đời làm lụng
nuôi con khôn lớn, đến khi Tràng đã lớn khôn thì bà cụ lại sầu khổ vì không kiếm
nổi cho con một tấm vợ, một người đàn bà đỡ đần hôm sớm. Tất cả chỉ tại bà
nghèo quá, người ta cưới vợ khi có của ăn của để, khi ăn nên làm ra, còn bà lại
chẳng có gì trong tay thành thử phải tội con bà cô đơn lẻ bóng. Mà có khi đến lúc
mà mất đi thì đứa con trai tội nghiệp lại phải chịu cảnh côi cút một mình trên đời.
Điều ấy làm bà cụ Tứ tủi phận nhiều lắm.
Cho đến một hôm thấy Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà, trong lòng bà
cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc, thế nhưng bà không hề tỏ ra bối rối mà
quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giải thích, để cho Tràng có cơ
hội được phân trần câu chuyện, chứ không lên tiếng trách móc. Đó là tấm lòng của
một người mẹ trải đời, thương con bằng một tình thương dịu dàng, săn sóc. Rồi
đến khi đã rõ sự mười mươi, bà cụ "hiểu ra bao nhiêu là cớ sự" rồi thì bà im lặng,
những dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà
lấy vợ, một người vợ theo không. Nhưng không chần chừ quá lâu, bà cụ Tứ đã
sống trên cuộc đời này ngót nghét vài chục năm trời đằng đẵng, có cái khổ, cái sự
lạ nào mà bà không hiểu thấu. Đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng
thương con sâu sắc, bà hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp
tình hợp lý, bởi Tràng đã đến cái tuổi ấy lâu lắm rồi. Thế nhưng vừa nghĩ thông
chuyện này thì bà cụ lại chợt nghĩ đến chuyện khác, bao nhiêu mối lo toan bỗng đổ
dồn về lòng người mẹ già tội nghiệp, bà thương con "ai oán xót thương cho số kiếp
con trai mình", cũng lại tủi cho phận người làm mẹ, nhưng không thể lo nổi cho
con một cái đám cưới, dựng vợ gả chồng tử tế cho con, để nó phải tự thân đi kiếm
về một người vợ. Càng nghĩ bà lại càng lấy làm buồn lòng, xúc động "trong kẽ mắt
kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt". Ấy rồi ăn ở với nhau như thế "biết
rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không", là những suy nghĩ
quẩn quanh trong lòng bà cụ Tứ. Một người mẹ thương con không nề hà, trách
mắng con mình tự tiện cưới gả, bởi bà hiểu phận mình và phận con, bà chỉ lo lắng
mãi chuyện cuộc sống tương lai của hai vợ chồng Tràng, sợ con chịu khổ cực, rồi
đương không lại liên lụy cả người khác nữa. Cái đám cưới chớp nhoáng khác
thường này đem đến cho cụ niềm vui có dâu con, nhưng cũng lại mang đến cho bà
Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

biết bao nhiêu trăn trở, rối rắm. u cũng là lòng người mẹ yêu thương và suy nghĩ
cho con trăm bề. Cuối cùng sau khi đã đi qua những xúc động, buồn tủi, bà cụ Tứ
đã nhanh chóng vực lại tinh thần, thông suốt mọi vấn đề rằng "Người ta có gặp
bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có
vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con...Chẳng may
ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?". Bà nhanh
chóng thấu hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh đáng thương của thị, đồng thời lòng
bà đã dấy lên những tình cảm thương yêu người con dâu mới về. Bà nhẹ nhàng
giục thị ngồi xuống, rồi nhỏ nhẹ khuyên giải, nhắc nhở động viên, vun vén vào cho
hai vợ chồng Tràng, dặn dò họ cách ăn ở với nhau bằng những lời phấn khởi "Biết
thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?". Mặc dầu rằng trong lòng bà vẫn còn
trăm mối tơ vò cảm xúc, nhưng không vì thế mà bà làm các con bối rối, mất vui, bà
quyết giữ cho riêng bà những lo lắng, những buồn tủi để cho đôi tân nhân một sự
động viên trước khi bước vào cuộc đời mới.
Sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, căn nhà tàn tạ dưới đôi bàn tay của mẹ
chồng nàng dâu bỗng trở nên sáng sủa lạ thường, thấy được những đức tính tốt đẹp,
sự cẩn thận chu đáo của thị và cụ mừng lắm "cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ
hẳn lên". Trong bữa cơm sáng, dẫu rằng mâm cơm ngày đói kém trông thật thảm
hại với mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng thế nhưng không khí trong nhà vẫn
rất vui vẻ đầm ấm. Bà cụ thương con, thương dâu, thành thử bà cố xua đi cái nghèo
đói đang hiện hữu trước mắt cặp tân nhân bằng cách liên tục kể những chuyện vui,
kế hoạch làm ăn, nuôi gà, mở ra trước mắt những tương lai tốt đẹp đầy hy vọng.
Đặc biệt người mẹ nghèo khó còn chiêu đãi con trai và con dâu bằng một nồi "chè
khoán", mà thực tế đó là là cháo cám để mừng tân hôn. Dù vị của món ăn này vô
cùng cùng khó ăn thế nhưng đó là cả tấm lòng của một người mẹ thương con, bà cụ
tội nghiệp vì nghèo xác xơ không lấy gì để làm cỗ làm bàn, thế nên chỉ còn cách cố
kiếm cho được ít cám về nấu làm món ăn đổi bữa. Ở một nét suy diễn sâu xa nào
đó thì nồi cháo cám còn mang ý nghĩa là lời nhắc nhở của cụ Tứ dành cho các con
về những ngày gian khó đang chờ đợi trước mắt, hy vọng rằng vợ chồng Tràng vẫn
được vững lòng như ngày hôm nay, ăn nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ
họng mà vẫn cảm thấy vui vẻ hạnh phúc.
Nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt là một hình tượng tiêu biểu cho những
bà mẹ Việt Nam xưa, cả cuộc đời hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu sắc
bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. Dù rằng bà sống trong cảnh
nghèo khó tột cùng, thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

những sự lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống, trở thành kim chỉ nam hướng vợ chồng
Tràng đến một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong truyện
ngắn Vợ nhặt - Bài mẫu 4
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam
hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn
hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu
biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn
đói năm 1945 đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao
hạnh phúc, hướng đến tương lai của những người dân lao động. Trong đó nhân vật
bà cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ rất sinh động, tinh tế, là một người mẹ nghèo khổ,
trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.
Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang
viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là
truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá
dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở
thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn
của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng
về nghệ thuật.
Tác phẩm dã tái hiện lại bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam
do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Ông đặc tả chân dung người
năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định,
Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng
ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong
không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng
hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người”. Nhưng quan trọng hơn, bên cạnh
mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là mảng sáng của tình người, của một
chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của
mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói
quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết,
hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai.
Thể hiện sâu sắc cho tư tưởng ấy là chân dung tính cách, tâm lý của bà cụ Tứ trước
tình huống bất ngờ: con trai mình đột ngột có vợ.

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp, với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng
của người già từng trải và nhân hậu.
Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc dường như không hiểu
được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ
ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái
sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay
đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái
Đục mà. Ai thế nhỉ?” Rồi lại:”Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Sự ngạc nhiên này thể
hiện nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở
người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có vợ .
Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó
là nỗi niềm xót xa, lo, thương trộn lẫn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao
dung làm sao: “… chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?”. Trong chữ “chúng nó” người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con
dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm
sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn
cảnh.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day
dứt. Bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út,
nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con…, để cuối cùng dồn tụ
bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:”chúng mày lấy nhau lúc này, u
thương quá…” Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh
lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ… nồi cháo
cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – Bà lão múc ra một bát – chè khoán đây,
ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon”này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không
phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở
người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn
hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống
cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng
Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui
tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn
bứ”.
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện
thực, nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình
tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi
vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là
ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
Cảm nhận về vẻ đẹp tình mẫu tử của bà cụ Tứ trong tác
phẩm Vợ nhặt - Bài mẫu 5
Qua tác phẩm " Vợ nhặt" ta có thể thấy, Bà cụ Tứ - mẹ của Tràng tuy không phải
là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng qua tình cảm và
ngòi bút của Kim Lân, việc khắc họa rõ nét hình ảnh người mẹ già đã góp phần
làm cho tác phẩm trở nên sâu sắc hơn. Với tình huống Tràng “nhặt” được vợ trong
nạn đói khủng khiếp năm 1945, tác giả muốn khắc hoạ số phận bi đát của người
nông dân trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát
khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy. Sau tình huống nhặt được vợ,
anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ đường như trở thành người khác. Và bà cụ Tứ
người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ suốt đời những buồn
đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã tạo lên một
phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.
Miêu tả chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà giới thiệu,
dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa
lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy, còng đi vì sương
gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Hình ảnh bà cụ Tứ là đại diện mang dáng vẻ
chung của những người mẹ nông dân đất Việt :
"Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ"
(Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm )
Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo
nổi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông con trai khiến bà không
khỏi ngạc nhiên. Bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở
đầu giường con mình, bà hết sức ngỡ ngàng, thắc mắc. Hàng loạt câu hỏi đặt ra
trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con
mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”.
Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về
một người vợ! Băn khoãn mãi không hiểu, chỉ đến khi Tràng lên tiếng giới thiệu
vợ với mẹ, bà lão mới: “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

số kiếp con mình” Để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Lòng bà ngổn ngang trăm mối, chồng
chất bao nỗi niềm suy tư. Bà vừa mừng, vừa lo, vừa tủi. Những trang viết xúc động
nhất của tác phẩm có lẽ gắn trọn với tâm trạng mừng lo lẫn lộn của bà cụ Tứ. Tấm
lòng của một người mẹ thật bao dung và cũng thật cay đắng, xót xa. Người đọc có
thể nhìn thấy bóng dáng bao bà mẹ thương con đứt ruột trong nỗi lòng bà cụ Tứ.
Những xung đột bi kịch được đẩy lên cao trào nhưng cũng được hoá giải phần nào
bởi tình thương của người mẹ. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm
thân phận, trong nỗi đau không lo nổi hạnh phúc cho con mình. Bà tủi thân vì cho
rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ: “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng
cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau
này. Còn mình thì…Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước
mắt…”. Câu văn thật cảm động. Nó vừa nhoi nhói một tình cảm tủi hờn, ai oán cho
số kiếp, vừa như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước một việc đã rồi, lại vừa rưng
rưng, xao xuyến một niềm vui. Bà khóc vì bà cảm thấy mình chưa làm tròn trách
nhiệm của một người mẹ. Vì người mẹ, nào chỉ sinh con ra, nuôi con lớn lên mà
còn có trách nhiệm dựng vợ, gả chồng cho con. Rồi khi có cháu, mẹ lại trở thành
bà để nuôi dạy cháu. Như vậy, trách nhiệm của người mẹ là trách nhiệm của cả
một đời. Vì vậy, sự tủi thân của bà cụ Tứ cũng là điều dễ hiểu. Kim Lân như một
người trong cuộc đã ghi lại, truyền tải đến chúng ta những thước phim, khoảnh
khắc cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim cả cuộc đời dài dằng dặc và
cơ cực của người mẹ già và trên khóe mắt nứt nẻ theo thời gian đã rỉ xuống một
dòng nước mắt khô héo. Nước mắt là thứ quả là khó khăn với người già như
Nguyễn Khuyến từng viết trong "Khóc Dương Khuê":
"Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan"
-----------------------
Mời các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôi:
Soạn văn 12 ngắn gọn
Tác giả - Tác phẩm Ngữ Văn 12
Phân tích tác phẩm lớp 12

20 đề đọc hiểu thi THPT Quốc gia môn Ngữ văn

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188
Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Trang chủ: https://vndoc.com/ | Email hỗ trợ: hotro@vndoc.com | Hotline: 024 2242 6188

You might also like