You are on page 1of 12

VỢ NHẶT

Câu 1 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)

- Phần 1 (từ đầu ... "tự đắc với mình"): Tràng đưa được người vợ nhặt về nhà

- Phần 2 (tiếp ... "đẩy xe bò"): chuyện hai vợ chồng gặp nhau, thành vợ thành
chồng

- Phần 3 (tiếp ... "nước mắt chảy ròng ròng"): tình thương của người mẹ nghèo khó

- Phần 4 (còn lại): niềm tin vào tương lai

Mạch truyện được dẫn dắt hợp lí, tất cả cảnh huống được thể hiện đều bắt nguồn
từ việc Tràng thông qua lời nói đùa rồi nhặt được vợ giữa những ngày đói khủng
khiếp

Cảnh được mở ra khi Tràng dẫn vợ về gặp mẹ. Nếu tác giả đưa đoạn hai lên trước
theo trình tự thời gian thì truyện kém hấp dẫn, li kì

Câu 2 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Tình huống: gọi gọn trong nhan đề tác phẩm vợ nhặt. Tràng- thanh niên nông dân
nghèo, xấu, ế vợ bỗng nhặt được vợ dễ dàng

+ Trong thời gian đói kém 1945, hơn hai triệu người chết đói, cái giá của con
người rẻ rúng, người ta có thể nhặt được vợ dễ dàng

+ Khao khát hạnh phúc, tổ ấm, hi vọng vào ngày mai

Bà cụ Tứ ngạc nhiên, lo lắng “biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói khát
này không?”

+ Xóm ngụ cư ngạc nhiên, bàn tán

+ Tràng bất ngờ với hạnh phúc của mình, sáng hôm sau Tràng vẫn chưa hết
bàng hoàng
→ Tình huống truyện cho thấy thân phận buồn tủi của người lao động nghèo, bộc
lộ tấm lòng người nông dân trong cảnh đời cơ hàn, đói khổ: giàu tình cảm, luôn
khao khát hạnh phúc.

Câu 3 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Nhan đề “Vợ nhặt” thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm

+ Nhặt: thường đi với những thứ thừa, không ra gì

+ Thân phận con người rẻ rúng như rơm, rác, có thể nhặt được ở bất cứ đâu

+ Người ta hỏi cưới vợ, còn Tràng thì “nhặt vợ”

→ Hoàn cảnh sống khốn cùng, cực khổ

Câu 4 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Thể hiện khao khát về tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng lúc anh chàng quyết
định lấy vợ

+ Ban đầu, Tràng còn phân vân, do dự, về sau cũng chậc lưỡi cho qua (đúng với
ý đồ tác giả)

+Lúc dẫn vợ về xóm ngụ cư, Tràng trở nên khác, phởn phơ lạ thường, môi cười
tỉm tỉm, mắt sáng, mặt vênh tự đắc, cũng có lúc lúng ta lúng túng đi bên vợ

- Buổi sáng đầu tiên khi có vợ Tràng thấy êm ả, lửng lơ như người vừa từ trong
giấc mơ đi ra, xung quanh có sự thay đổi khác lạ.

+ Niềm hạnh phúc khiến Tràng ý thức hơn về bổn phận, trách nhiệm bản thân
(hắn thấy có bổn phận lo cho vợ con)

Câu 5 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Tâm trạng bà cụ Tứ:

+ mừng, vui, xót, tủi “ai oán xót thương cho số phận đứa con mình”
+ Đối với con dâu: “lòng bà đầy xót thương” nén vào trong tất cả, bà dang tay
đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình

+ Mang hi vọng, lạc quan trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới “tao tính
khi nào có tiền mua lấy con gà về nuôi”

→ Bà cụ Tứ hiện thân của con người nghèo khổ: bà nhìn thấu đau khổ của cuộc
đời bà, bà lo cho thực tại bế tắc nhưng bà cũng vui trước hạnh phúc của con

Từ ngạc nhiên tới xót xa, trên hết là tình yêu thương. Cũng chính bà cụ là người
nói nhiều nhất về tương lai, để các con có thêm động lực sống

Câu 6 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Đặc sắc nghệ thuật của truyện

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo

- Sử dụng ngôn ngữ bình dân, tinh tế, có duyên

- Nghệ thuật tả tâm lí tinh tế, đặc sắc

Bài 1 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Chi tiết gây xúc động: Bà cụ Tứ đãi con dâu “chè khoán” nhưng thực chất là cám
với sự xót xa “ Xóm ta khối nhà còn chẳng có cám mà ăn đấy”

- Điều này gợi lên cảnh khốn cùng, nghèo đói của giai đoạn đau thương của đất
nước ( nạn đói 1945)

+ Ngày đón dâu đáng ra phải đủ đầy, nhưng cách đón dâu trong cảnh nghèo đói
lại càng cho ta thêm thấm thía tình người đùm bọc lẫn nhau trong lúc khó khăn

Bài 2 (trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Ý nghĩa đoạn kết truyện

+ Là diễn biến tất yếu xuất phát từ mâu thuẫn nội tại của chuyện: người dân
lâm vào cảnh chết đói, đã đứng lên đấu tranh phá kho thóc Nhật
+ Nhân vật Tràng nghĩ tới lá cờ Việt Minh

- Đoạn kết mang tư tưởng nhân đạo cộng sản chủ nghĩa, tư tưởng này không chỉ
có cảm thông, thương xót mà còn hướng tới việc đấu tranh giải phóng bản thân

+ Xuất phát từ quan điểm của phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa, nhân
vật, hoàn cảnh, tính cách theo hướng vận động đi lên tươi sáng hơn

III. DÀN Ý PHÂN TÍCH:

I. Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân (những nét chính về tiểu sử, các tác phẩm
chính, phong cách nghệ thuật…)

- Giới thiệu khái quát về truyện ngắn Vợ nhặt (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội
dung và nghệ thuật..)

II. Thân bài:

1. Ý nghĩa nhan đề và tình huống truyện:

a) Ý nghĩa nhan đề:

- Vợ: biểu tượng cho khát khao tổ ấm, hạnh phúc gia đính, mang ý nghĩa trọng đại và
lớn lao

- Nhặt: hành động rẻ rúng, tầm thường

=> Vợ nhặt có nghĩa là nhặt được vợ, gợi sự rẻ rúng của thân phận con người và tình
cảnh thê thảm của con người trong nạn đói năm 1945

b) Tình huống truyện:

- Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt
được, theo về không.

- Đây là một tình huống vừa éo le, vừa độc đáo, bất ngờ nhưng cũng hết sức hợp lí,
thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm:
+ Giá trị hiện thực: bức tranh hiện thực về cuộc sống khốn khó, nghèo khổ của con
người và thân phận rẻ rúng của con người tới mức có thể nhặt được vợ

+ Giá trị nhân đạo: lời kết tội đanh thép về tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật
và tay sai. Đồng thời, qua đó thể hiện tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau và khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người trong cuộc sống khó khăn, vất vả và
nghèo khổ

2. Nhân vật Tràng:

a) Ngoại hình:

- Dáng người thô kệch, cái cười khềnh khệch.

- Lưng Tràng như con gấu.

- Quai hàm bạnh ra.

- Dân ngụ cư.

b) Diễn biến tâm trạng của Tràng:

- Chợn, nghĩ: lo sợ vì không biết bản thân mình có nuôi nổi không lại còn đèo bòng

- Tặc lưỡi, “chậc, kệ”: niềm khát khao hạnh phúc tổ ấm gia đình đã lớn hơn mọi nỗi lo
lắng, sợ hãi

- Trên đường đưa vợ về nhà:

+ Vẻ mặt phớn phở, tủm tỉm cười nụ một mình,mắt sáng lên lấp lánh, cái mặt vênh
lên tự đắc với mình.

+ Mua dầu về thắp để khi thị về căn nhà của mình trở nên sáng sủa hơn.

- Lúc về đến nhà:

+ Ngượng ngịu, đứng tây ngây ra giữa nhà, lo lắng không biết bà cụ Tứ có chấp
nhận người vợ củ mình hay không.

+ Loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng rồi lại chạy vào sân rồi lại nhìn trộm
vào trong nhà.
+ Nhổ vu vơ một bãi nước bọt.

+ Lúc bà cụ Tứ về: reo lên như một đứa trẻ, lật đật chạy ra đón, tươi cười, bảo mẹ
ngồi rồi nói “Kìa, nhà tôi nó chào u”.

=>Tâm trạn vui sướng đến tột cùng của Tràng.

- Sáng hôm sau:

+ Êm ái, lửng lơ như trong mơ bước ra, hạnh phúc vô bờ bến, một niềm hạnh phúc
không thể gọi thành tên

+ Nhìn cảnh nhà cửa gọn gàng, Tràng thấy cảm động, thấy thương yêu, gắn bó với
cái nhà, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột, ngập tràn

⇒ Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Sự thay
đổi đó xuất phát từ tình yêu thương. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của
những con người trong cái đói.

3. Nhân vật bà cụ Tứ:

a) Ngoại hình:

- Dáng người lọng khọng

- Vừa đi vừa húng hắng ho, vừa lẩm bẩm tính toán

→ Nghèo khó, vất vả, cơ cực, lam lũ và đầy lo toan

b) Diễn biến tâm trạng:

- Ngạc nhiên, tỏ ý không hiểu: bà không tin vào sự thật rằng Tràng đã có vợ

- Bà hiểu và hiểu ra bao nhiêu cơ sự - bà tin là Tràng đã có vợ và người phụ nữ kia


chính là con dâu của bà:

+ Ai oán, xót thương

+ Bà khóc vì thương con, vì lo cho con, vì bà không làm tròn bổn phận của người mẹ

+ Vui vẻ đón nhận nàng dâu mới với tất cả tình yêu thương, sự đùm bọc, chở che
- Sáng hôm sau:

+ Tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủm beo u ám của bà tươi tắn hẳn lên

→ Sự vui mừng, phấn khởi, hạnh phúc

+ Trong bữa cơm sớm, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau

=>Thắp sáng nên sự lạc quan, yêu đời và niềm tin vào tương lai tươi sáng

⇒ Bà cụ Tứ không chỉ là người mẹ nhân hậu, yêu thương con mà còn là một người
giàu lòng yêu thương, sự giúp đỡ người khác dẫu trong hoàn cảnh khó khăn.

4. Nhân vật “người vợ nhặt”:

a) Ngoại hình:

- Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt

- Áo quần rách như tổ đỉa

- Cái ngực gầy lép nhô lên

=> Một ngoại hình không mấy dễ nhìn. Thị là hiện thân của sự nghèo đói, khốn khổ.

b) Hành động và diễn biến tâm trạng:

- Khi gặp Tràng:

+ Hành động: ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, liếc mặt, cười tít, sà xuống ăn một
chặp bốn bát bánh đúc, ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng

+ Lời nói: chua ngoa, đanh đá

=> Những hành động và lười nói này của thị bắt nguồn từ cái đói, đói đến mức khiến
người ta mất đi cả lòng tự trọng, sĩ diện và sự e thẹn, dịu dàng vốn có của người phụ
nữ

- Trên đường theo Tràng về nhà: rón rén, e thẹn, ngượng nghịu, chân nọ bước díu
vào chân kia. Tâm trạng lo âu, băn khoăn, hồi hộp khi bước chân về "làm dâu ngà
người".
- Khi về đến nhà:

+ Đảo mắt nhìn xung quanh, nén một tiếng thở dài, nhếch mép, cười nhạt nhẽo

+ Ngồi mớm ở mép giường, tay vẫn ôm khư khư cái thúng con

=> Thị mang tâm trạng chông chênh, lo âu khi mới bước chân về làm dâu

- Sáng hôm sau: một người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát,
chỏng lỏn.

=> Sự thay đổi xuất phát từ tình thương.

⇒ Ngoại hình, hành động, lời nói của thị là nạn nhân của cái đói, cái khổ. Song cái đói,
cái khổ không làm mất đi ở thị vẻ đẹp tâm hồn của một người phụ nữ hiền hậu đúng
mực, luôn khát kháo yêu thương, hạnh phúc và tràn đầy niềm tin vào tương lai

III. Kết bài:

Khái quát giá trị nội dung (giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo) và giá trị nghệ thuật của
tác phẩm.

IV. MỘT SỐ CÂU HỎI ĐỌC HIỂU VÀ BÀI PHÂN TÍCH:

* Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân gây cho bạn ấn
tượng sâu sắc và xúc động nhất? Vì sao?

Nhà văn Kim Lân tâm sự “Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại truyện là đoạn
bà cụ Tứ trở về. ở đấy tình của người mẹ thật lón. Bà nhanh chóng hiểu rõ hoàn cảnh
và chấp nhận ngay. Bà không chỉ thương con trai mà còn đầy lòng thương xót với
người đàn bà cùng quẫn kia dù hoàn cảnh bà cũng không khá hon lắm. Đó chính là
bản chất nhân đạo trong tâm hồn con người Việt. Đó cũng là chủ đề của câu chuyện.

– Bà ngạc nhiên trước thái độ trịnh trọng khác thường của người con trai vô tâm tính.

– Khi thấy người đàn bà lạ ngồi ở đầu giường con trai hai lần chào mình bằng u bà
thấy mắt nhoèn đi, bà im lặng vì quá ngạc nhiên, hoàn toàn không hiểu đầu đuôi câu
chuyện.

– Khi hiểu câu chuyện, bà hiểu ra bao nhiêu cơ sự.


+ Nghĩ về con trai – thương con phải lấy vợ nhặt, nhờ cơn đói khát mới lấy được vợ, về
bản thân – thấy tủi vì chưa làm tròn bổn phận của người mẹ lấy vợ cho con, về người
chồng đã khuất – thương và tủi cho vong linh chồng không biết mặt con dâu, không
được chứng kiến ngày con trai lấy vợ, và về người đàn bà lạ bỗng trở thành con dâu –
thương người đàn bà khốn khố, cùng đường mới lấy đến con trai bà mà không tính
đến cưới hỏi.

=> Ngổn ngang bao tâm trạng buồn vui, mừng tủi, và nhất là lo lắng vì nạn đói, lo vợ
chồng chúng nó có sống qua nổi cái thời tao loạn này không – tất cả hoà trong dòng
nước mắt nghẹn ngào.

=> Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ chân thật, logic và rất xúc động. Đó là tấm lòng nhân
hậu, bao dung, đầy hi sinh của người mẹ nghèo Việt Nam.

– Đối xử với nàng dâu mới:

+ Tỏ thái độ gần gũi, thương yêu, chăm sóc nàng dâu mới: “Con ngồi xuống đây! Ngồi
xuống đây cho đỡ mỏi chân”.

+ Lời nói chân tình, dịu dàng, tính toán cùng vợ chồng con chuyện nuôi gà, chuyện
ngăn liếp, chuyện tương lai vói niềm lạc quan dân dã “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời;
Sông có khúc, rtgưòi có lúc” để động viên các con.

+ Buổi sáng hôm sau: bà bảo ban các con, đem niềm vui cho các con, cố động viên
các con bằng món chè khoán, đắng chát nhưng đậm nghĩa tình => bà là người mẹ
nghèo nhưng cố gắng giữ nếp nhà.

2. Phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm

a. Ý nghĩa nội dung:

– Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh
đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những
nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.

– Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo cửa Kim Lân: trân trọng niềm
khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt
vào tương lai tươi sáng.
b. Ý nghĩa nghệ thuật:

– Hình ảnh dùng để kết thúc truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó
là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan
chung của câu chuyện.

– Đây là kiểu kểt thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích cực của cuộc sống
được mô tả trong toàn bộ câu chuyện; dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng,
phán đoán.

Phân tích Vợ nhặt


Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những
hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người
đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ
nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội
nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã
xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn
đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nhan nhản, ”người
chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không
gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của
rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái
đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm. Ngay từ nhan đề của tác phẩm,
Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, bần hàn
nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của
từng nhân vật.

Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước
đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi
tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân
nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu
tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao
phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện
“hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay. Hình
như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.

Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông
dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực. Tác giả đã thật khéo để xây dựng
nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người.
Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt” được chứ không phải lấy được. Người đọc
nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy
giờ.

Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám
ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che
khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn
thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời
sinh. Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu
hiu, ảm đạm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt.

Hai bên dãy phố, úp sụp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc
gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ
kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không còn gì thê
thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ dường
như bị cái đói, cái nghèo đè nén đến chìm nghỉm. Bằng ngòi bút tả thực sinh động,
Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho những phận nghèo
long đong.

Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn
bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là
vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt không còn chua ngoa,
đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Làm vợ
một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con người
đến với nhau, không phải tình yêu nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm
thông và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự
chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng
một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào
nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo
lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi
đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ
sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng
cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…” Những suy nghĩ chua xót của bà lão
được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ
vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.

Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi,
hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh
“nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là
hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị
nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng, toàn nói những chuyện vui trong nhà, vì
bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám”
hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai cũng muốn có
một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh
nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại
cho con.

Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến
người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối
truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.
Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo,
độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh
đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn
mạnh tình yêu thương giữa người với người luôn bất diệt.

You might also like