You are on page 1of 12

Chứng minh nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt vô danh nhưng không vô nghĩa...

2. Thân bài
* Người vợ nhặt - một người vô danh:
- Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện trong tác phẩm với một con số không tròn trĩnh - không nhà cửa,
không gia đình, không quê hương, không họ hàng thân thích.
- Nhân vật không có tên, tuổi xác định mà được gọi bằng cô ả, thị, vợ anh cu Tràng, chị ta,...
* Người vợ nhặt - vô danh nhưng không vô nghĩa đã mang đến cho cuộc sống tối
tăm mịt mờ, bên bờ cái chết của mẹ con Tràng một hơi ấm áp, một làm gió mới
đầy tươi mát.
- Chỉ với vài ba câu hò vui, thị chấp nhận theo không Tràng về làm vợ
- Trên đường về nhà, thị đã thực sự thay đổi và chính sự thay đổi, sự ngượng nghịu ấy của thị đã khiến
cho Tràng cảm thấy vui sướng, lâng lâng hạnh phúc.
- Khi về đến nhà:
+ Tràng vui sướng nhưng vẫn chưa tin là mình đã có vợ
+ Bà cụ Tứ đã khóc - những giọt nước mắt của bà vừa là giọt nước mắt của sự tủi phận nhưng có lẽ hơn
thế, đấy là giọt nước mắt của niềm vui, của niềm hạnh phúc.
- Sáng hôm sau:
+ Tràng: Hiện lên một cảm giác rất đặc biệt - "cảm thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có trách
nhiệm với cái nhà này".
+ Bà cụ Tứ: Cảm thấy nhẹ nhõm và tươi tỉnh hơn ngày thường.
- Trong bữa cơm ngày đói, họ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó chính là niềm tin vào
tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
=> Thị đã mang đến trong mái nhà của mẹ con Tràng một sự ấm áp, một làn gió mới đầy ắp tình yêu
thương và hạnh phúc, để thắp lên trong họ lòng lạc quan, yêu đời, khát vọng sống.
II. Bài Văn Mẫu Chứng Minh Nhân Vật Người Vợ Nhặt Trong Truyện Ngắn Vợ
Nhặt Vô Danh Nhưng Không Vô Nghĩa
Kim Lân là một trong số những cây bút truyện ngắn xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn
hiểu biết sâu sắc và tình yêu thương với nông thôn, nông dân, những trang truyện ngắn của ông luôn
thấp thoáng hiện lên cuộc sống và con người làng quê Việt dẫu nghèo khổ, thiếu thốn nhưng vẫn luôn
ánh lên những vẻ đẹp tâm hồn đáng trân quý, "Vợ nhặt" là một trong số những tác phẩm như thế. Đọc
truyện ngắn "Vợ nhặt", chắc hẳn người đọc sẽ không thể nào quên được nhân vật người vợ nhặt - một
người vô danh nhưng không vô nghĩa, hình ảnh của chị gợi lên một sự ấm áp, mang đến một luồng khí
mới trong cuộc sống tăm tối, bên bờ vực của cái chết.
Trước hết, nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn "Vợ nhặt" là một người vô danh. Như chúng ta đã
biết, nhân vật người vợ nhặt xuất hiện trong tác phẩm với một con số không tròn trĩnh - không nhà cửa,
không gia đình, không quê hương, không họ hàng thân thích. Và hơn thế nữa, xuất hiện xuyên suốt toàn
bộ tác phẩm ấy vậy mà người vợ nhặt ấy cũng không có tên gọi, không có tuổi tác. Từ đầu đến cuối
truyện ngắn "Vợ nhặt", Kim Lân đã gọi nhân vật bằng những cái tên, những biệt danh khác nhau - cô ả,
người đàn bà, thị, vợ anh cu Tràng, chị ta,... Như vậy, trong suốt tác phẩm, người vợ nhặt chính là nhân
vật vô danh, bởi lẽ không ai có thể biết, có thể định vị được tên, tuổi, quê quán, họ hàng của chị là ở
đâu.
Nhưng nhân vật người vợ nhặt vô danh nhưng không vô nghĩa bởi người phụ nữ đấy đã mang đến cho
cuộc sống tối tăm mịt mờ, bên bờ cái chết của mẹ con Tràng một hơi ấm áp, một làm gió mới đầy tươi
mát. Trước hết, thị đã đem đến cho cuộc sống của Tràng và bà cụ Tứ niềm vui, niềm hạnh phúc và hơi
ấm của gia đình ngay trong chính những ngày tăm tối của nạn đói năm 1945. Thị gặp Tràng trong một
hoàn cảnh rất đặc biệt và rồi chỉ với và ba câu hò vui thị đã theo không Tràng về làm vợ. Người phụ nữ
với cái vẻ ngoài "chao chát, chỏng lỏn", với "gương mặt lưỡi cày gầy xám xịt", "cái ngực gầy xẹp lép" đã
thực sự thay đổi khi theo Tràng về nhà làm vợ. Trên đường về nhà, thị đã thực sự thay đổi, có cái gì đó
ngượng nghịu, xấu hổ, "chân nọ nước díu cả vào chân kia" nhưng cũng chính sự thay đổi, sự ngượng
nghịu ấy của thị đã khiến cho Tràng cảm thấy vui hơn bao giờ hết, niềm vui ấy của Tràng lộ rõ trên
gương mặt của hắn - "vẻ mặt phớn phở", "vừa đi hắn vừa tủm tỉm cười nụ một mình". Dường như, việc
thị theo Tràng về nhà làm vợ đã mang đến cho Tràng niềm vui, niềm hạnh phúc không nguôi. Không
dừng lại ở đó, sự xuất hiện của người vợ nhặt trong ngôi nhà của mẹ con Tràng cũng khiến cho bà cụ Tứ
vui mừng - những giọt nước mắt của bà vừa là giọt nước mắt của sự tủi phận nhưng có lẽ hơn thế, đấy
là giọt nước mắt của niềm vui, của niềm hạnh phúc khi Tràng - con trai của bà lại có thể có được vợ ngay
trong chính những ngày tăm tối của nạn đói khủng khiếp. Đặc biệt, hơi ấm mà thị mang đến cho Tràng
và bà cụ Tứ càng thể hiện rõ trong buổi sáng ngày hôm sau - khi mọi người thức dậy. Sáng hôm sau, thị
thức dậy sớm, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng và để rồi, khi tỉnh giấc, chứng kiến khung cảnh bình yên
ấy, trong Tràng hiện lên một cảm giác rất đặc biệt - "cảm thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có
trách nhiệm với cái nhà này". Còn với bà cụ Tứ bà cảm thấy nhẹ nhõm và tươi tỉnh hơn ngày thường,
"cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Và để rồi, trong bữa cơm ngày đói, chỉ có rau chuối thái
rối, "một đĩa muối ăn với cháo", một nồi chè khoán nhưng cả nhà ai nấy đều ăn rất ngon miệng và trong
bữa cơm ấy họ toàn nói với nhau những chuyện vui, chuyện tươi tốt, hạnh phúc ở tương lai. Và điều đó,
xét đến cùng là niềm tin vào tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Như vậy, thị đã mang đến trong mái nhà
của mẹ con Tràng một sự ấm áp, một làn gió mới đầy ắp tình yêu thương và hạnh phúc, để thắp lên
trong họ lòng lạc quan, yêu đời, khát vọng sống và niềm tin về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn dẫu
rằng họ đang trên làn ranh mỏng manh giữa sự sống và cái chết.
Tóm lại, trong truyện ngắn "Vợ nhặt" nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt -
người phụ nữ vô danh nhưng không vô nghĩa. Đồng thời, qua nhân vật người vợ nhặt đã góp phần thể
hiện một cách sâu sắc bức tranh số phận con người trong nạn đói năm 1945 và tấm lòng của nhà văn đối
với những số phận ấy.
Phân tích hình ảnh gia đình có người vợ nhặt trong truyện Vợ nhặt
c. Bà mẹ Tràng
Khi biết con có vợ, bà đã ai oán xót thương (không biết có sống được qua cơn đói khát này). Rồi bà cụ
mừng vì con có gia đình và mở rộng lòng thương yêu đùm bọc (qua lời chấp nhận con dâu và khuyên
nhủ hai con). Hơn thế nữa, người mẹ giàu lòng nhân hậu này còn vui sướng khác thường (qua vẻ tươi
tỉnh và khuôn mặt vốn bủng beo, u ám đã rạng rỡ hẳn lên). Từ đó giữa hiện tại xám xịt, bà cụ Tứ đã hình
dung ra một tương lai khá hơn (qua lời bàn chuyện mua đôi gà và sẽ có đàn gà).
Tóm lại, chớm vào hạnh phúc nghiệt ngã, bà mẹ già mừng mừng tủi tủi, muốn vun vén trong cảnh nghèo
còn người con trai dường như lại hướng tới cuộc đấu tranh. Truyện thể hiện tính nhân đạo độc đáo:
trong đói khổ cận kề với cái chết, con người vẫn thương yêu đùm bọc nhau, vẫn muốn gây dựng hạnh
phúc. Tính nhân đạo sâu xa còn ở chỗ: sự đùm bọc con người đã biến đổi con người, làm con người
NGƯỜI hơn và muốn thay đổi hoàn cảnh, cuộc đời. Cuộc khởi nghĩa của Việt Minh, của những người
như vợ chồng Tràng cấp bách phải đến (Đến một bà già nông dân cũng hiểu tội ác của bọn xâm lược bắt
dân ta nhổ lúa trồng đay, bắt đóng thuế; một phụ nữ ít học - người vợ nhặt - cũng biết đến việc phá kho
thóc, đến Việt Minh).
Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
. Giá trị hiện thực:
Qua truyện Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã phản ánh tình cảnh khôn cùng của nhân dân ta trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945 và xu hướng theo cách mạng của họ.
a)  Hình ảnh xóm ngụ cư trong nạn đói, một cuộc sống mấp mé bờ vực cái chết "Người đói như những
bóng ma nằm ngổn ngang khắp lều chợ", "người chết như ngả rạ, thây nằm cong queo bên đường, tiếng
quạ, tiếng hờ khóc, mùi xác chết... "
b)  Trong tình cảnh đó, việc Tràng đưa người đàn bà đói về làm vợ khiến cái xóm làng và bà mẹ của anh
ngạc nhiên, không dám tin mà cả chính anh cũng thầm lo âu "vì anh chỉ là người đẩy xe nghèo khó, nhà
cũ rách nát", "đến cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không", người đàn bà vợ nhặt của Tràng,
rách rưới, đói sắp chết sau khi được cho ăn bốn bát bánh đúc, theo về làm vợ một người đàn ông xa lạ
như anh, trước hết chỉ để khỏi đói. Nhưng xem ra cái đói không thể trách khỏi: bữa đầu tiên của chị ở
nhà chồng thật thảm hại, chẳng đủ cháo loãng để húp mà phải ăn cháo cám.
c)  Qua câu chuyện của ba mẹ con trong bữa ăn, bức tranh nông thôn miền Bắc ngày đói dần đã được
mở rộng: "xóm ta khối nhà còn chẳng có cám mà ăn", "đằng thì nó bất trồng đay, đằng thì nó bắt đóng
thuế. Giời đất này chưa chắc đã sống qua nổi". Nhưng cũng có tin trên miệt Thái Nguyên, Bắc Giang
người ta "không chịu đóng thuế nữa", "còn phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo". Truyện kết
thúc bằng hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc ngày càng rõ rệt, đầy sức vẫy gọi trong tâm trí
Tràng.
- Tóm lại, bằng những chi tiết về một ngày đời thường trong gia đình Tràng sau khi anh nhặt được vợ,
Kim Lân đã phản ánh khái quát mà sinh động, đầy ám ảnh tình cảnh của đât nước năm đói lịch sử 1945,
tố cáo tội ác kẻ thù thật mạnh mẽ mà không cần đao to búa lớn. Vợ nhặt được viết ngay sau Cách mạng
tháng Tám, lại được tác giả sửa chữa, cho in sau ngày hòa bình lập lại. Kim Lân có điều kiện thể hiện
được xu thế tất yếu của quần chúng lao khổ và hướng về ngọn cờ cách mạng, chỉ có cách mạng mới cứu
họ thoát khỏi đói nghèo, chết chóc.
2. Giá trị nhân đạo:
Trong truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã khám phá và thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người lao động: trong
bất cứ hoàn cảnh khốn khó nào họ vẫn yêu thương, cưu mang lẫn nhau và khát khao hi vọng ở tương lai
hạnh phúc
a)  Chuyện "nhặt" vợ, với Tràng, đầu tiên chỉ là đùa cợt, sau "chặc lưỡi", liều, nhưng rồi nhanh chóng
nảy sinh tình nghĩa, một tình cảm "mới mẻ", dịu dàng, gắn bó anh với người đàn bà ấy đem lại hạnh
phúc, thăng hoa tâm hồn Tràng. "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người" thấy "thương yêu gắn bó với cái
nhà của hắn", "thấy có bổn phận lo cho vợ con sau này". Từ người đàn ông thô tháp đầu tác phẩm,
Tràng như thành một người khác hẳn, với tình yêu và trách nhiệm.
b)  Người đàn bà "vợ nhặt" của Tràng thoạt tiên chao chát, trơ trẽn, dám lấy Tràng chỉ vì đói. Thấy cảnh
nhà túng quẩn của Tràng, chị không giấu nổi vài biểu hiện thất vọng thầm kín. Nhưng bù lại, chị cảm thấy
tình cảm mà Tràng và bà mẹ dành cho mình, nên chị trở thành "người đàn bà hiền hậu, đúng mực",
chăm lo cho tổ ấm mới của mình bằng sự vun vén khéo léo và tình yêu của người phụ nữ.
c)  Bà cụ thấy con mình mang về người "vợ nhặt" đã đi từ ngạc nhiên đến vừa mừng vừa tủi, vừa
thương vừa lo lắng bằng tất cả trái tim của người mẹ yêu con, thương người đồng thời bằng những kinh
nghiệm của người lao động nghèo từng trải. Nhưng niềm vui vẫn nhiều hơn, bà nói đến những ước mơ,
dự định tương lai sáng sủa, động viên con trai và con dâu.
- Tóm lại, tình thương, sự thông cảm đã khiến những người xa lạ xích lại gần nhau, đùm bọc cưu mang
lẫn nhau; mẹ - con, chồng - vợ thêm gắn bỏ trong hoàn cảnh khó khăn bi đát, vẫn còn đó đói nghèo
nhưng tình thương khiến họ ấm áp hơn và thêm chỗ dựa, thêm sức mạnh để tin và hi vọng vào tương
lai. Đây chính là tia sáng lên giữa cuộc sống tối tăm.
Nguyên nhân cho thành công của Vợ nhặt "giá trị hiện thực và nhân đạo" là ở sự gắn bó, hiểu biết, lòng
đồng cảm sâu sắc của Kim Lân với "đời", với "người ", với cái "thuần hậu nguyên thủy" của đời sống
nông dân.
Tóm tắt truyện Vợ nhặt và phân tích những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện
* Tóm tắt cốt truyện:
Tràng là một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư. Một ngày kia, trong buổi chiều, trong
không khí thê thảm, ảm đạm vì đói, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh - người vợ nhặt. Tràng
đã bắt gặp vợ tương lai của mình đang cảnh đói rách, mời ăn hai bát bánh đúc kèm theo lời nói đùa vui.
Bà mẹ già của Tràng đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu trong mối đau đớn và thương
cảm. Tràng cảm thấy con người mình đổi khác. Từ chút đùa đến thoáng lo, bây giờ Tràng thấy niềm vui
thành người có trách nhiệm, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng son qua đi trong không khí khét lẹt mùi
chết chóc và tiếng hờ khóc ai oán.
Bà mẹ nghèo đãi hai con ít cháo và nồi chè đặc biệt. Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn
cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc anh hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ
bay phất phới.
Qua tóm tắt, ta thấy Vợ nhặt là một tác phẩm có giá trị của Kim Lân. Truyện hình thành từ lâu, nhưng
sau năm 1945 mới ra đời. Nó đóng phần hoàn hiện chân dung người nghèo trong giai đoạn Cách mạng
tháng Tám.

* Đặc sắc nội dung:


Về nội dung Vợ nhặt đã đi thêm một bước quan trọng so với Chí Phèo (Nam Cao), Tắt đèn (Ngô Tất Tố)
hay Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, ở đấy tương lai của hai vợ chồng Tràng hé mở; đã xuất
hiện hình ảnh lá cờ đỏ. Kết thúc truyện toát lên vẻ tươi sáng so với cảnh đất trời mịt mù, tăm tối ở phần
đầu truyện và so với các tác phẩm hiện thực phê phán trước đây. Nếu Vợ nhặt ra đời sớm hơn thì giá trị
tăng hơn nhiều; tuy nhiên vào thời điểm sau 1945, ý nghĩa nội dung này cũng đáng kể. Giá trị hiện thực
của truyện ngắn gắn liền với giá trị nhân đạo. Trong hoàn cảnh tối tăm, đói khổ ấy, dường như Tràng
mang chút ít dáng dấp của một Chí Phèo làng Vũ Đại. Tràng cũng say, cũng đang ngập ngưỡng, cũng
ngoại hình dễ sợ. Con người ấy dễ dàng có thể lưu manh hóa trong cảnh bần cùng, bế lắc. Kim Lân đã
thổi tình người vào đúng lúc. Tình người làm sống dậy tình người trong nhân vật, chuyển biến nhân vật
anh Tràng. Nhờ người đàn bà thuận theo không anh, tạo cho anh một chỗ dựa cậy tạm coi là yên tâm,
Tràng đã trở thành con người khác. Tràng vui sướng thấy mình "nên người", thấy không chỉ sống cho
mình và còn có bổn phận với vợ con. Giá trị sâu sắc của tác phẩm là ở chỗ tin yêu vào con người, tha
thiết với tình người.
Vợ nhặt cũng là bức tranh tố khổ cho người nghèo. Tuy không dữ dội khốc liệt và dồn ép cay đắng như
"Chí Phèo" hay "Tắt đèn" nhưng lại nổi bật lên một khía cạnh nhức nhối: nạn đói đe dọa nhiều người, do
giặc Pháp và Nhật gây nên. Kim Lân góp phần hoàn tất bức tranh hiện thực về đời sống cũ đồng thời mở
ra một hướng mới với tương lai đấu tranh mà chắc chắn những người như Tràng sẽ bước tới.
Bên cạnh đó, giá trị nghệ thuật của Vợ nhặt chứng tỏ một tài năng chín tới một cách hồn nhiên của Kim
Lân. Câu truyện đã dựng được hoàn cảnh tiêu biểu, làm sống dậy cả một quãng thời gian đau thương
của dân tộc, xây dựng được các nhân vật tiêu biểu. Trước hết tác giả tái tạo không khí truyện rất đạt, đó
là không khí những ngày đói khủng khiếp. Trời đất xóm thôn lúc nào cũng chạng vạng, u tối, đầy tiếng
quạ kêu, tiếng người khóc. Các nhân vật của truyện đã đến mức dật dờ, lặng lẽ như những bóng ma.
Trong bối cảnh ấy người vợ nhặt hay bà mẹ Tràng đều là các số phận điển hình. Tất cả được dắt dẫn
sống động, rất chân thực với các chi tiết rất đắt "chi tiết mấy đĩa bánh mà nên vợ nên chồng...". Chỉ
thông qua cách nói chuyện của đôi vợ chồng mới nhà văn dường như đưa nhân vật sống ngoài đời vào
thẳng tác phẩm. Họ đối đáp chỏng lỏn, câu cú không đầu không đuôi, lời ít đến mức tối thiểu. Điều đó
thể hiện con người bình dân của họ, thể hiện cái tâm lí e ngại, thẹn thùng, chưa hiểu biết nhiều về nhau
của "cô dâu, chú rể".

* Đặc sắc nghệ thuật:


Nét đặc sắc nhất trong thành công nghệ thuật của Kim Lân là ở chỗ ông đi sâu vào tâm lí nhân vật, miêu
tả được diễn biến tâm trạng nhân vật một cách tự nhiên, hợp lí sâu sắc. Len lỏi vào, đột phá qua lớp vỏ
bề ngoài với con mắt ti hí, cái đầu trọc, thân hình thô kệch của Tràng, tác giả thấu hiểu và dẫn giải nhân
vật với những diễn biến tâm lí logic, rất người. Dưới ngòi bút Kim Lân, một mơ ước thầm kín về một
hạnh phúc đơn sơ, nhỏ nhoi; sự yêu thương, có trách nhiệm, khiến ta cảm động. Cả người Vợ nhặt lẫn
bà mẹ già nghèo khổ cũng biến chuyển, họ trở nên tốt hơn, hiền hậu hơn và phần nào tin ngày mai sẽ
khác.
Hai mặt nội dung và nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn đã tạo nên thành công cho Vợ nhặt. Một câu
chuyện thấm thía, một cách kể chuyện đặc sắc (tên chuyện cũng thật độc đáo), đặt ra những vấn đề giàu
ý vị nhân sinh.

Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt

2. Thân bài
* Tràng là người đàn ông xấu xí, gia cảnh nghèo khổ:
- Ngoại hình thô kệch, xấu xí: “lưng to như lưng gấu”, “hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều”…
- Tính cách: ngờ nghệch, vô tư “vừa đi vừa tủm tỉm cười”, thích chơi với đám trẻ con.
- Gia cảnh nghèo khó lại có gánh nặng gia đình: Sống cùng mẹ già ở xóm Ngụ Cư.
* Người đàn ông tình nghĩa, sống có trách nhiệm:
- Trả ơn người đàn bà đã cùng mình đẩy xe bò hôm trước.
- Sẵn sàng cưu mang người vợ nhặt giữa buổi đói khát dù cho mình chưa nuôi nổi mình.
- Cảm nhận được việc lập gia đình là việc hệ trọng, là chuyện cả đời.
- Trở nên chín chắn, biết quan tâm, lo lắng.
- Từ khi có vợ Tràng thấy có trách nhiệm với ngôi nhà, vợ con “hắn thấy thương yêu, gắn bó với
cái nhà của hắn lạ lùng”.
* Khát khao hạnh phúc, trân trọng người vợ mình vô tình có được:
- Bên ngoài vẻ vô tư, hồn nhiên là khát khao hạnh phúc cháy bỏng. Chính vì khát khao hạnh phúc nên khi
cơ hội đến Tràng mới quyết định nhanh đến vậy.
- Bỏ tiền mua hai hào dầu nhân ngày đầu tiên vợ về nhà -->  Thái độ trân trọng người đàn bà và hạnh
phúc của bản thân.
- Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng phấp phới niềm vui, hạnh phúc “mắt sáng lên lấp lánh”,  cái mặt
phớn phở.
- Trịnh trọng giới thiệu vợ với mẹ. hợp thức hóa mối quan hệ giữa hai người bằng hai từ “duyên số”.
- Hạnh phúc mới giúp Tràng cảm nhận được sự thay đổi của ngôi nhà, thêm trân trọng ngôi nhà và hạnh
phúc hiện tại.
1. Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt, mẫu số 1:
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân ban đầu có tên là Xóm ngụ cư. Truyện được Kim Lân viết sau ngày
Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng mãi đến khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân mới sửa lại và
đưa in chính thức. Truyện ngắn Vợ nhặt vừa tố cáo xã hội đẩy con người đến nạn đói khủng khiếp, khiến
mạng người trở nên rẻ rúng như rơm rác; vừa có ý nghĩa nhân bản sâu sắc.
Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân muốn nói với chúng ta một vấn đề, đó là người dân lao động
trong bất kì tình huống nào cũng khao khát tình yêu thương, khao khát hạnh phúc gia đình và vẫn tin
vào cuộc sống tương lai Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của câu truyện, thể hiện khá sâu sắc chủ
đề của truyện ngắn này.
Truyện ngắn Vợ nhặt kể về một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư tên là Tràng. Một buổi
chiều kia trong không khí thê lương, ảm đạm "vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người", bởi "người chết như ngả rạ" vì đói khát, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh - người vợ

Tràng nhặt được trong cảnh đói kém, do mời ăn bốn bát bánh đúc, kèm theo lời nói đùa vui mà thuận
theo anh về nhà, làm vợ anh. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng - lúc đầu không ngờ con lấy vợ nên không hiểu người
đàn bà ở trong nhà mình là ai, vì bà cụ nghĩ tình cảnh con mình làm sao lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói
khủng khiếp này. Nhưng khi biết con mình "nhặt" được vợ về thì lòng bà mẹ nchèo khổ "hiểu ra biết bao
nhiêu cơ sự": buồn lo, tủi cực, ai oán xót thương. Bà cụ thương con nên cũng thương dâu. Bà đã nhận
người đàn bà ấy làm con dâu trong nỗi đau đớn và thương cảm. Để động viên hai con, bà nói toàn về
những chuyện vui.

Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt để thấy được những vẻ đẹp đáng trân trọng của người đàn ông
ấy
Tràng cảm thấy con người mình đổi khác. Từ niềm vui đến nỗi lo âu và Tràng thấy mình cần phải có trách
nhiệm trong cuộc sống gia đình hiện tại và tương lai, dù đêm đầu tiên của đôi vợ chồng trẻ qua đi trong
không khí khét lẹt mùi chết chóc và tiếng hờ khóc ai.
Bà mẹ Tràng đãi hai con ít cháo và "nồi chè đặc biệt". Miếng cám chát bứ, nghẹn cổ nhưng mọi người
đều thoáng thấy có một niềm vui. Cả mẹ con đều bắt tay vào việc dọn dẹp, quét tước nhà cửa, vườn
tược cho quang quẻ, hướng về một cuộc sống đổi khác. Trong óc Tràng hiện ra đám người phá kho thóc
của Nhật và lá cờ đỏ sao vàng bay phất phới.
Tràng là một con người lao động nghèo khổ, hởi bất bình thường lại có ngoại hình xấu xí "hai con mắt
nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn
lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ gì vừa lí thú, vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm
nhảm than thở những điều hắn nghĩ". Cuộc sống lao động vất vả, nghèo đói đã in hằn dấu ấn trên từng
bước đi của hắn đè nặng xuống cái lưng to nặng của hắn: "Tràng đi từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàn
vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước. Hình như những lo lắng chật vật trong
một ngày đè xuống cái lưng to rộng, như lưng gấu của hắn". Trong hoàn cảnh ấy, Tràng chưa bao giờ
nghĩ đến chuyện mình sẽ có vợ. Nhưng rồi một hôm "hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh,
hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc". Hắn hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, ni!...
Thế mà lại có một người phụ nữ ra đẩy xe với hắn. Rồi mấy hôm sau gặp lại, hắn đãi người phụ nữ ấy
bốn bát bánh đúc và người phụ nữ ấy đồng ý theo hắn về làm vợ hắn. Và "việc xảy ra thật hắn cũng
không ngờ, hắn cũng chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng".
Trước tình cảnh ấy, lúc đầu Tràng đâm lo, đâm sợ nhưng rồi cái khát vọng về một mái ấm gia đình, một
cuộc sống hạnh phúc bừng dậy mãnh liệt trong lòng Tràng, xua tan bao nỗi lo sợ ấy. Tràng hình như
quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả
những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi
bên. "Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man
khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng".
Tràng đã tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc bên người "vợ nhặt" của mình. Khuôn mặt của Tràng bây
giờ tươi tỉnh hẳn lên "hắn cười khì khì" mặc dù cái đêm đầu tiên với người "vợ nhặt" ấy đi qua trong
"tiếng hờ khóc tỉ tê" và "diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết" như tiếng gọi
của thần chết. Và sáng ra, Tràng "bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ,
khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng...". Tràng nhìn
người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, nhìn vợ quét lại cái sân. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đã
gợi lên trong lòng Tràng một sự thấm thía cảm động. Tràng như chợt hiểu ra thế nào là hạnh phúc?
Trong lòng Tràng lại dậy lên một lòng yêu thương, gắn bó với người vợ Tràng, với gia đình Tràng. Tràng
lại nghĩ về tương lai và thấy rõ cái bổn phận và trách nhiệm của mình trong việc tạo lập cuộc sống hạnh
phúc cho tương lai: "Bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có
gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưu che nắng. Một niềm vui
sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có
bốn phận lo lắng cho vợ con sau này...".
Bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, chỉ có lưng bát cháo và món "chè đặc biệt" - miếng cám đắng chát
và nghẹn bứ trong cổ. Tràng cảm thấy một nỗi xót xa tủi hờn len vào trong tâm trí, nhưng rồi "trong óc
Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới".
Điều đó cho ta thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn, đói kém, niềm khao khát về một cuộc sống hạnh phúc
gia đình vẫn không hề mờ đi trong tâm hồn Tràng và vẫn bùng lên mãnh liệt.
Tóm lại, Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Tràng là nhân vật
điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ, dù bất cứ trong hoàn cảnh đen tối nào vẫn luôn luôn
khao khát một cuộc sống hạnh phúc gia đình và tin vào cuộc sống ở tương lai. Kim Lân đã khá thành
công khi xây dựng hình tượng nhân vật Tràng. Ông đã miêu tả tâm lí nhân vật thật sâu sắc. Ông đã đi sâu
vào bên trong tâm hồn của mỗi nhân vật trong truyện nói chung và đối với nhân vật Tràng nói riêng, để
phát hiện và mô tả những tình tiết cảm động và khát vọng mãnh liệt của những con người nghèo khổ về
một cuộc sống hạnh phúc. Những tình tiết xoay quanh hình tượng nhân vật Tràng được nhà văn sắp xếp
một cách chặt chẽ hợp lí, tập trung biểu hiện rõ chủ đề của câu chuyện.
Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn khá thành công của Kim Lân. Truyện vừa có giá trị hiện thực,
vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc.

 
2. Phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt, mẫu số 2:
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết
về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt
là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một
người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết
hướng tới tương lai tươi đẹp.
Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm
động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân.
Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu
thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn
của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát
hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ
nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào
ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng.
Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực
dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Những người năm đói được miêu tả với "khuôn mặt hốc hác
u tối", "Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên
xanh xám như những bóng ma", và "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma".
Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ "gào lên từng hồi thê thiết"
cùng với "mùi gây của xác người" càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống
tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo, dở
khóc, dở cười giữa Tràng và Thị, một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói.

Tràng là người đàn ông giàu trách nhiệm, luôn khát khao yêu thương
Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo: Tràng nhặt được vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh
phúc, tình yêu thương, cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt
đã bao chứa một tình huống như thế: nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945,
người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng,
người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ.Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã
trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động
"nhặt" kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ,
thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng
xóm, bà cụ Tứ - mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa.
Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng.
Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn
quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng "đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế.
Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?". Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm
vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình - một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì
sánh nổi.. Chàng thanh niên nghèo khó "Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn
lạ lùng.
Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô
cùng trân trọng, coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng
vượt qua lo lắng về cái đói " đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng". Tràng chậc lưỡi " kệ" cái đói,
mua cho thị cái thúng con, vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình. Tràng hồi
hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ.
Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình
dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người. Một nguồn vui
sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng". Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc
mơ.
Chi tiết: "Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà"
là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau
sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu
sắc: "hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này". Tràng thật sự "phục sinh tâm hồn" đó là giá
trị lớn lao của hạnh phúc.
Câu kết truyện "Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phớichứa đựng bao sức
nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về
một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây
là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 - 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học
mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách
khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo ; là bài ca
về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người.
Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình
thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi
bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt


a.  Tình huống truyện là gì?
-  Là sự kiện đặc biệt, hoàn cảnh đặc biệt trong tác phẩm mà qua đó tác giả muốn bộc lộ quan điểm của
mình cũng như tính cách, số phận của các nhân vật.
-  Tình huống truyện là hạt nhân, lát cắt chân thực của cuộc sống, từ đó cho ta thấy một phần của cuộc
sống, xã hội, con người.
b. Tình huống truyện trong Vợ nhặt:
- Được thể hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm.
- Nội dung: Một anh cu Tràng xấu trai, nghèo lại "nhặt" được cô vợ giữa lúc nạn đói năm 1945 đang
hoành hành dữ dội.
- Nhan đề với từ "nhặt": gợi lên sự tò mò, hấp dẫn cho tác phẩm đồng thời cũng là nét độc đáo, gây ấn
tượng sâu sắc.
c. Phân tích tình huống truyện:
-  Bối cảnh của tình huống truyện:
+ Bối cảnh là nạn đói năm 1945 với kết quả hơn hai triệu người chết.
+ Mỗi câu từ trong tác phẩm đều gợi lên sự u ám, cái chết luôn rình rập.
- Tình huống truyện vừa độc đáo, lạ lùng vừa éo le:
* Lạ lùng: Trong bối cảnh đầy run rủi ấy, con người còn chẳng thể lo nổi cho bản thân, ấy vậy mà anh
cu Tràng còn rước về một cô vợ.

+ Tràng: hội tụ tất cả những yếu tố khó có thể lấy vợ: ngoại hình xấu xí "cái mặt thô kệch", "đôi mắt nhỏ
tí", "cái lưng to như lưng gấu", … cùng với tính cách có phần cộc cằn, thô lỗ.
+ Nghèo: đi làm thuê nuôi mẹ già, có một căn nhà lụp xụp ở một xóm ngụ cư.
+ Và quan trọng là nạn đói đang diễn ra trầm trọng, cái chết đeo bám mỗi con người "Người chết như
ngả rạ", "Không buổi sáng …của xác người".
=> Với ngoại hình, tính cách, gia cảnh và tình cảnh như hiện tại, Tràng không thể kiếm được một cô vợ.
+ Thế nên, chuyện Tràng lấy vợ ở hoàn cảnh hiện tại không khác gì "đèo bòng", "rước của nợ đời".
=> Ấy thế mà Tràng lại có vợ trong lúc không ai ngờ nhất, trong hoàn cảnh mà cuộc sống đang phải giành
giật từng ngày => cái lạ của tình huống truyện.
* Cái éo le:
+ Việc lấy vợ là chuyện đại sự, là hạnh phúc lớn nhất của đời người lại diễn ra trong lúc "tối sầm vì đói
khát", bị chen ngang bởi nỗi lo bởi cái đói, cái chết.
+ Duyên phận đưa đẩy họ đến với nhau cũng là cái đói: Thị gặp hắn lần đầu khi hắn kéo thóc qua dốc, chỉ
với câu hò vu vơ, thị đã "ton ton" chạy lại cũng đẩy xe với hắn.
+ Lần thứ hai gặp lại, Tràng không nhận ra Thị bởi "hôm nay Thị …xám xịt". Và chỉ bằng vài bát bánh đúc
và một câu nói đùa, Thị đã bằng lòng theo hắn về nhà làm vợ.
-  Phản ứng của mọi người khi Tràng lấy vợ:
+ Những người dân xóm ngụ cư:
+ Họ ngạc nhiên "Người trong xóm lạ lắm", "Họ đứng …bàn tán".
+ Thế rồi họ hiểu và vui mừng thay cho Tràng, "Những khuôn mặt ...hẳn lên", "có người …rúc".
+ Thế nhưng có những người lại thở dài ngao ngán "Ôi chao, … này không", bởi họ lo cho Tràng cho Thị,
lo cái chết sẽ tìm đến những con người nghèo như họ.
* Đối với Tràng:
+ Ban đầu là sự ngạc nhiên khi chỉ bằng một câu nói đùa "này nói đùa …cùng về" với dăm ba bát bánh
đúc mà Thị đã bằng lòng theo Tràng về nhà.
+ Tiếp theo là nỗi sợ hãi, cái "chợn": "Nói thế Tràng …thật", "Thóc gạo ...đèo bòng" , thế nhưng nỗi sợ ấy
qua nhanh Tràng "chặc lưỡi: chặc, kệ"

+ Sự vui mừng khi cái khao khát về hạnh phúc gia đình được hiện thực hóa "hắn tủm tỉm … lấp lánh",
nhìn Thị "ngượng nghịu...chân kia", hắn thích chí "cười khanh khách".
+ Nỗi sợ về cái đói, cái chết đã bị niềm hạnh phúc gia đình, cái trách nhiệm đẩy lùi "Trong một lúc Tràng
hình như …đi bên".
+ Niềm hạnh phúc ấy khiến Tràng cứ ngỡ không  có thật "hắn vẫn …không phải".
=> Niềm vui, niềm hạnh phúc đến với Tràng bất ngờ, nhanh chóng, trong lúc đói khát nhất, trong hoàn
cảnh éo le nhất.
* Bà cụ Tứ:
+ Bà vô cùng ngạc nhiên trước thái độ của Tràng, băn khoăn hỏi han.
+ Bà càng ngạc nhiên hơn khi thấy một người đàn bà khác trong nhà mình và chào bà bằng u "quái sao …
thế kia?" => bà ngạc nhiên vô cùng.
+ Thế rồi khi nghe Tràng nói, bà "cúi đầu nín lặng", bà "vừa ai oán … con mình" =>Sự tủi phận của một
người mẹ không làm tròn được bổn phận của mình "Chao ôi …còn mình thì …"
+ Rồi bà cũng "mừng lòng", vui lòng với người dâu mợi, khuyên nhủ hai đứa con với những lời lẽ lạc
quan "Nhà ta nghèo …ba đời".
+ Những giọt nước mắt của người mẹ già thương con "Chúng mày …thương quá!".
-   Ý nghĩa của tình huống truyện:
+ Làm nổi bật chủ đề của tác phẩm, đồng thời tạo điều kiện để nhà văn khai thác nội tâm các nhân vật.
+ Kim Lân đã dựng lên một tình huống truyện độc nhất vô nhị: làm nổi bật tình cảnh của con người trong
nạn đói năm 1945, vừa thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những số phận tăm tối của con người
trước Cách mạng tháng Tám.
+ Tình huống truyện éo le gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó tả.
Truyện mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc:
Thể hiện sâu sắc cho tư tưởng ấy là chân dung tính cách, tâm lý của bà cụ Tứ trước tình huống bất ngờ:
con trai mình đột ngột có vợ.
Tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp, với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng
trải và nhân hậu.
Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện
trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng
loạt những câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại
đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai
thế nhỉ?" Rồi lại:"Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của người viết: chính là
sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có
vợ.
Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão"cúi đầu nín lặng". Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo,
thương trộn lẫn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: "... chúng nó có nuôi nổi nhau
sống qua được cơn đói khát này không?". Trong chữ "chúng nó" người mẹ đã đi từ lòng thương con trai
sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự
trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà mẹ: nghĩ đến
bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến
tương lai của con..., để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:"chúng mày
lấy nhau lúc này, u thương quá..." Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên.
Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ... nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói:
"chè đây - Bà lão múc ra một bát - chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Chữ "ngon"này cần phải cảm thụ
một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh
thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi
cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi
vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống
tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm
vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ".
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca
về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người.
Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình
thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi
bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
3. Kết bài
-  Khẳng định lại vấn đề
 
2. Thân bài
- Một tình huống lạ lùng:
+ Một người vừa xấu, vừa nghèo lại không thông minh như Tràng lại có vợ
+ Cưới vợ trong cảnh khốn khó, đói kém
+ Việc lấy vợ vốn khó lại hệ trọng nhưng với Tràng lại là việc quá dễ dàng
- Tình huống truyện đầy éo le:
+ Tràng lấy thị về trong cảnh cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc. Niềm hạnh phúc nhỏ bé ấy
không thể thắng nổi cơn cuồng phong của đói khát đang hả hê nhấn chìm từng chút
+ Lấy vợ lại thêm cảnh đèo bồng, càng khó khăn hơn
+ Hạnh phúc của họ chỉ có thể được gặp gỡ trong cảnh khốn cùng
- Thái độ của mọi người trước tình huống ấy
+ Dân trong xóm vừa mừng, vừa xót, họ lo lắng cho đôi vợ chồng trẻ không biết còn dìu nhau vượt qua
kiếp nạn này
+ Bà cụ Tứ mừng mừng, tủi tủi, thương cho con, thương cho số phận đầy bạc bẽo
+ Anh cu Tràng bất ngờ, hắn cũng hạnh phúc, cũng sung sướng, thấy mình có trách nhiệm hơn với gia
đình
- Ý nghĩa của tình huống truyện:
+ Phản ánh hiện thực tăm tối của nạn đói
+ Làm sáng lên ánh sáng của tình người
Phân tích nhân vật Bà cụ Tứ - người mẹ nghèo trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân
Thể hiện sâu sắc cho tư tưởng ấy là chân dung tính cách, tâm lý của bà cụ Tứ trước tình huống bất ngờ:
con trai mình đột ngột có vợ.
Tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp, với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng
trải và nhân hậu.
Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện
trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng
loạt những câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại
đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai
thế nhỉ?" Rồi lại:"Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của người viết: chính là
sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có
vợ.
Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão"cúi đầu nín lặng". Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo,
thương trộn lẫn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: "... chúng nó có nuôi nổi nhau
sống qua được cơn đói khát này không?". Trong chữ "chúng nó" người mẹ đã đi từ lòng thương con trai
sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự
trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà mẹ: nghĩ đến
bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến
tương lai của con..., để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:"chúng mày
lấy nhau lúc này, u thương quá..." Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên.
Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ... nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói:
"chè đây - Bà lão múc ra một bát - chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Chữ "ngon"này cần phải cảm thụ
một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh
thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi
cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi
vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống
tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm
vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ".
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca
về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người.
Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình
thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi
bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Cảm nhận về tình huống truyện trong truyện ngắn Vợ nhặt


2. Giải thích ý kiến:

- Ý kiến thứ nhất: Bản chất đây là cấu chuyện hôn nhân lẽ ra phải là chuyện nghiêm túc nhưng đã bị biến
thành trò vui, là sự nô giỡn với hạnh phúc với tín điều thiêng liêng.
- Ý kiến thứ hai: Tình huống Tràng nhặt được vợ ban đầu là một trò đùa, bông lơn nhưng kết thúc lại trở
thành điều có ý nghĩa lớn với đời người, chuyện hạnh phúc nghiêm túc, thiêng liêng, chân thành. Đằng sau
tình huống tưởng như hài hước có chứa nhiều xót xa, tủi nhục.

3. Cảm nhận về tình huống truyện "Vợ nhặt"

Thí sinh có thể cảm nhận nhiều hướng khác nhau, nhưng cần làm rõ có hai mặt của tình huống: có câu
chuyện như đùa và có cả chuyện nghiêm túc.

a. Đó là câu chuyện có ý nghĩa hệ trọng của đời người đã bị biến thành một trò đùa.

- Đó là tình huống độc đáo, éo le được thâu tóm trong nhan đề "Vợ nhặt": Nhan đề hé mở một tình huống
truyện độc đáo. Theo truyền thống của người phương Đông, lấy vợ là việc hệ trọng nhất của mỗi đời người,
nó phải trải qua nhiều nghi lễ. Nhưng ở đây Tràng nhặt được vợ một cách dễ dàng, tình cờ, ngẫu nhiên theo
đúng nghĩa đe của từ này. Người phụ nữ vốn là biểu tượng của hạnh phúc gia đình, thường được nâng niu,
trân trọng. Tuy nhiên Tràng lại nhặt được vợ như cọng rơm cọng rác ven đường.
+ Một người như Tràng hội tụ đầy đủ những yếu tố để ế vợ (nghèo khổ, dân ngụ cư, xấu trai, tính tình ngờ
nghệch...) vậy mà bỗng nhiên có vợ một cách dễ dàng, lại còn là vợ theo không.
+ Người như Tràng giữa thời buổi đói kém, miếng ăn trở thành vấn đề sinh mệnh lại còn đèo bòng chuyện vợ
con. Tình huống lạ ấy đã dẫn đến sự ngạc nhiên cho tất cả mọi người, từ người dân xóm ngụ cư đến bà cụ Tứ
và ngay chính bản thân Tràng.
=> Có thể nói tình huống truyện độc đáo đã phản ánh một cách chân thực số phận khốn khổ của người dân
nghèo trong nạn đói năm 1945, đặc biệt là số phận người phụ nữ.

b. Đó là một trò đùa đã hóa thành điều nghiêm túc, thiêng liêng, một câu chuyện hài hước ẩn chứa những bi
kịch xót xa.
- Từ câu nói bông đùa của Tràng mà người đàn bà kia chịu theo không về làm vợ.
- Khi Tràng có vợ, người dân xóm ngụ cư mừng cho anh nhưng cũng lo cho anh: "những khuôn mặt hốc hác u
tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên...". Sau niềm vui ấy là những tiếng thở dài ngao ngán. Họ không biết đôi
vợ chồng trẻ ấy có nuôi nổi nhau qua được cái kì này không...
- Bà cụ Tứ một mặt mừng cho con đã lấy được vợ, yên bề gia thất nhưng mặt khác cũng rất lo cho cuộc sống
chênh vênh hiện tại của con.
- Tràng sống trong tâm trạng vui sướng đến bang hoàng nhưng anh cũng có lúc chợn nghĩ: "thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chẳng biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bong"
- Tình huống truyện càng éo le, cảm động hơn khi hạnh phúc cuuar vợ chồng Tràng được đặt trên bối cảnh
thê lương, ảm đạm của nạn đói năm 1945 (đêm tân hôn văng vẳng tiếng khóc, tiếng hờn, tiếng quạ kêu, tiếng
trống thúc thuế..., chi tiết bát cháo cám...)
=> Tình huống lạ của truyện ngắn "Vợ nhặt" không phải để hợi lên sự tò mò, hiếu kì mà để phản ánh hiện
thực, thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.

4. Bình luận về các ý kiến:

- Ý kiến thứ nhất chỉ xuất phát từ sự điểm nhìn xã hội, từ chuyện đời để đánh giá nên không chân xác. Ý kiến
thứ hai bám sát, căn cứ vào mạch vận động của câu chuyện, và tư tưởng nhân văn của nhà văn.
- Qua việc xây dựng tình huống truyện, ta thấy:
+ Tác phẩm đã phản ánh chân thực số phận rẻ rúng, tội nghiệp của con người trong xã hội thực dân - phong
kiến. Từ đó, cất lên tiếng nói tố cáo đanh thép cái xã hội tàn bạo đã đẩy con người vào cùng cực, khốn khổ.
+ Tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Kim Lân: khẳng định ngay cả trong đói khát, con người vẫn luôn
hướng về ánh sáng và sự sống; ngợi ca tình yêu thương, lòng bao dung của con người.
+ Tài năng xây dựng tình huống truyện của nhà văn.

"Vợ nhặt" xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của đời văn Kim Lân nói riêng và nền văn
học Việt Nam 1945 - 1975 nói chung.

You might also like