You are on page 1of 2

Phan Trần Hữu Duy-9-12a8

Phân tích nhân vật Tràng

Nói đến các nhà văn trong nền văn học hiện đại thì không thể không nói đến Kim Lân. Và khi nói đến Kim Lân thì
người đọc sẽ nhớ ngay đến “Vợ nhặt”. Tác phẩm được xem là một trong những tác phẩm điển hình của văn học Việt
Nam. “Vợ Nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân, được sáng tác năm 1945 giữa nạn đói khủng khiếp,
thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc trong từng câu văn, hình ảnh, chi tiết của tác phẩm. Qua đó, người đọc ấn tượng
với các nhân vật, từ ngoại hình tính cách, gia cảnh, đến việc quan trọng. Với “Vợ nhặt” Kim Lân đã làm nổi bật nhân
vật Tràng- hình tượng người nông dân hiền lành chất phác, giàu lòng yêu thương trong hoàn cảnh hết sức éo le
ngang trái.

Giải thích về ý nghĩa nhan đề của tác phẩm, lấy vợ là một trong những việc thiêng liêng, hệ trọng nhất trong cuộc
sống của con người nên rất cần sự kĩ càng và thận trọng. Còn hành động “nhặt” thường đi đôi với những thứ người
khác bỏ đi. Qua nhan đề Kim Lân đã phản ánh cuộc sống khó khăn của người nông dân nghèo. Và ta cũng đã hiểu
được tình huống đặc biệt của tác phẩm, Tràng nhặt được vợ chỉ qua vài lời nói và bốn bát bánh đúc, đã gợi lên một
tình huống éo le, một số phận bi thảm của người phụ nữ trong nạn đói năm 1945.

Dẫn vào tác phẩm, ta được giới thiệu với nhân vật Tràng, là một anh nông dân nghèo khổ, kém duyên. Anh hiện lên
với thân phận nghèo hèn: là dân ngụ cư bị khinh rẻ; nhà cửa thì “rúm ró lụp xụp, rách nát, tuềnh toàng Nghề nghiệp
thấp kém, bấp bênh, chỉ là anh phu xe với đồng lương chẳng đáng là bao. Đã vậy, anh còn có một ngoại hình thô
kệch, xấu xí: “đầu trọc nhẵn”, “mắt nhỏ tí lại còn gà gà”, “quai hàm bạnh” “lưng to như lưng gấu”. Tính cách thì ngờ
nghệch, vô tư, chỉ thích chơi với trẻ con. Nghèo khổ cộng với ngoại hình xấu xí đã khiến Tràng chẳng còn có gì để hấp
dẫn.

Tràng còn là người đàn ông nhân hậu, tốt bụng, cởi mở, sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã ngời
lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo Tràng nhặt vợ. Gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước,
Tràng không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người đồng cảnh ngộ: “áo quần tả tơi
như tổ địa, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói cũng khiến người con gái chẳng còn
biết giữ thể diện là gì, cứ thế mà trơ trẽn, nanh nọc, thô thiển, bất chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương,
bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường ở người đàn bà ấy.

Lòng thương đã đánh thức con người nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, cởi mở, phóng khoáng, đãi người đàn bà
xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Đó là lòng thương người đồng cảnh ngộ, là vẻ đẹp tình người trong nạn đói. Khi lời bông
đùa của Tràng trở thành cái phao cứu sinh của người đàn bà giữa biển đời mênh mông; Tràng có “chợn”, có lo lắng,
có hoang mang về tương lai của mình. Nhưng lòng thương người, khát vọng được gắn bó với người đàn bà xa lạ đã
khiến anh chiến thắng cả lý trí của mình, để rồi nhanh chóng trở thành chỗ dựa cho người đàn bà. Đây không phải
quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người
cùng cảnh ngộ.

Tràng là người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức chăm sóc cho hạnh phúc gia đình. Đồng ý cưu mang
người đàn bà xa lạ khiến Tràng trở nên chín chắn, biết lo lắng, quan tâm chăm sóc. Anh “bỏ tiền mua cho thị cái
thúng con để đựng vài thứ lặt vặt”. Chăm sóc từ cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Mua cho thị
cái thúng là để thị tự tin hơn khi về nhà chồng, vả lại ai lại để vợ mình về nhà băng tay không bao giờ. Anh còn mua
hai hào dầu thắp sáng. Hai hào dầu có thể là “hoang phí” vào lúc này, nhất là khi “không nhà nào có ánh đèn lửa”.
Nhưng nó mang lại giá trị tinh thần rất lớn, cho thấy, Tràng rất trân trọng giá trị của hạnh phúc, trân trọng người vợ.
Với hai hào dầu phải chăng Tràng cũng muốn thắp sáng cả tương lai của mình. Điều đó cũng cho thấy, Tràng không
còn hời hợt nông cạn nữa mà đã thực sự nghiêm túc, chu đáo trước quyết định lấy vợ.

Trên đường về nhà, Tràng hiện lên với hình ảnh “mắt sáng lên lấp lánh”, cái mặt “phớn phở. Tất cả đều biểu lộ niềm
vui, niềm hạnh phúc lâng lâng của một con người lần đầu tiên được đón nhận tình yêu. Khi thưa chuyện với mẹ,
Tràng tạo ra không khí gia đình ấm áp, thiêng liêng. Tràng cảm nhận được việc lập gia đình là việc hệ trọng, là chuyện
cả đời. Anh khéo léo khi gọi người đàn bà xa lạ là “nhà tôi”; tránh làm vợ tổn thương bằng cách gọi mối lương duyên
này là “do số”. Anh cũng khéo léo “ép” mẹ mình phải chấp nhận cuộc hôn nhân.

Và bây giờ Tràng đã không còn thô kệch, vụng về nữa mà trở thành người có ý thức xây dựng hạnh phúc gia đình.
Điều đó thể hiện rõ ở tâm trạng của anh vào sáng hôm sau, tâm trạng của Tràng lâng lâng hạnh phúc: “lửng lơ êm ái
như vừa đi từ trong giấc mơ ra”. Chuyện lấy vợ của Tràng giống như cổ tích, giống như giấc mơ nhưng là giấc mơ có
thật. - Quan sát xung quanh, Tràng cảm nhận được sự thay đổi mới mẻ. Nhà cửa được bàn tay đảm đang của người
vợ vun vén đã trở nên gọn gàng. Người mẹ đang giẫy những búi cỏ dại, người vợ đang quét lại cái sân. Cảnh tượng
sinh hoạt gia đình bình dị khiến Tràng cảm động.

Tình cảm, suy nghĩ của Tràng có nhiều thay đổi. Lần đầu tiên ở người nông phu ấy thấy yêu thương gắn bó với căn
nhà thấy cần có trách nhiệm với gia đình. Đó là những suy nghĩ chín chắn của người đàn ông trưởng thành chứ
không còn là một anh Tràng ngốc ngếch, khờ khạo trước đó. Tràng trở nên lễ phép, ngoan ngoãn, luôn biết vâng lời
trước mẹ là biểu hiện của lòng hiếu thảo. Điều này cũng đã được Kim Lân nhắc đến trong tác phẩm “chưa bao giờ
mẹ con lại đầm ấm hòa hợp đến thế”.

Tràng có niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng. Trong hình ảnh “Trong óc Tràng hiện lên thấy đám người đói và
lá cờ đỏ bay phấp phới”, tác giả Kim Lân đã gián tiếp nói về nhận thức cách mạng và nhận thức về sự đổi đời của
Tràng. Tác giả dự báo, Tràng sẽ xuất hiện dưới lá cờ đó, trong đoàn người đó. Bởi muốn thay đổi được cuộc sống
hiện tại, không còn con đường nào khác ngoài con đường đi theo cách mạng, bởi chỉ có cách mạng mới có thể mang
lại sự đổi đời cho những người nông dân.

Nghệ thuật xây xây dựng nhân vật bằng bút pháp miêu tả, phân tích tâm lý chân thực, tinh tế. Khắc họa nhân vật
bằng ngôn ngữ đối thoại sống động, giàu cá tính. Xây dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ. Ngôn ngữ kể tự
nhiên, mộc mạc, trần thuật hấp dẫn. Miêu tả tâm lý nội tâm nhân vật sắc sảo, Tạo tình huống truyện độc đáo để các
nhân vật bộc lộ phẩm giá của mình. Tất cả đã tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo sắc sảo.

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca về tình
người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng
thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc
quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm
mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

You might also like