You are on page 1of 59

“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

VỢ NHẶT
--Kim Lân--

I. TÌM HIỂU CHUNG


1. Tác giả (1920- 2007)
- Kim Lân là cây bút chuyên viết về truyện ngắn, thường viết về nông thôn và người nông dân nghèo khổ,
cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn nhưng họ vẫn yêu đời và yêu cuộc sống.
- Phong cách nghệ thuật: tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; miêu tả tinh tế, sâu sắc tâm lí nhân vật.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh ra đời
- Truyện ngắn “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945.
Truyện “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí”. Tiền thân của truyện ngắn “Vợ nhặt” là tiểu thuyết
“Xóm ngụ cư” được viết ngay sau CM8 nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954),
ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
- “Vợ nhặt” được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm 1945 với hai triệu người chết đói. (Nhân dân Việt
Nam cùng lúc bị áp bức, bóc lột bởi phát xít Nhật và thực dân Pháp. Ở miền Bắc, Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng
đay, trong khi đó thực dân Pháp ra sức vơ vét thóc gạo. Hậu quả là cuối năm 1945 dân ta rơi vào thảm cảnh bi
cùng. Đó là nạn đói chưa từng có trong lịch sử.) Nhưng điều kì lạ là trong đói khát tăm tối ấy, cận kề bên miệng
vực của cái chết, những người lao động Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống, ánh
sáng, hạnh phúc, tương lai. Đó là chất người kì diệu, là khát vọng sống mạnh mẽ của con người Việt Nam đã
khơi nguồn cảm hứng cho Kim Lân sáng tác nên thiên truyện ngắn đặc sắc này.
* Một số liên hệ, mở rộng:
- Đọc “Vợ nhặt” một tác giả đã viết:
“Biến bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi
Xin từ điển hãy thêm từ “vợ nhặt”
Ngòi bút Kim Lân tưởng như đùa như khóc
Đói quắt quay nhưng tha thiết con người”.
- Kim Lân rất tài khi viết những lời đối thoại giữa hai vợ chồng Tràng. Nó thật lửng lơ với toàn là câu nói
trống không, nó nhấm nhẳng, dấm dẳn đến hay. Đó là cái lửng lơ, nhấm nhẳng của hai kẻ "chân đất" cùng
khốn, bất ngờ trở thành vợ chồng nhanh quá, nên tới tận lúc đi bên nhau vẫn còn chưa hết lạ, chưa hết ngượng
với nhau. Nhưng đó cũng là cái dấm dẳn của hai người biết rằng họ đã có nhau" (Đỗ Kim Hồi, Giảng văn văn
học Việt Nam, NXB GD, 2000).
- Khi trao đổi về nghệ thuật truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã nói với nhà nghiên cứu – phê bình Văn
học Hà Minh Đức: “Tôi quan niệm: truyện ngắn cũng là tiểu thuyết và điều quan trọng là nhân vật. Nhân vật
phải có tính cách và phải hành động theo tính cách nhân vật một cách tự nhiên, không giả tạo, sáo rỗng”. Mỗi
nhân vật trong truyện được Kim Lân dựng mỗi cách khác nhau, dù thiên về tính cách hay nội tâm đều rất chân
thực, sống động.
b. Tóm tắt tác phẩm
- Anh Tràng có vợ gây ngạc nhiên cho xóm ngụ cư. Họ ngạc nhiên vì một người nghèo, xấu trai như Tràng
bỗng nhiên lại có được vợ, nhất là trong hoàn cảnh nạn đói đang đe dọa cuộc sống của tất cả mọi người.
- Người đàn bà nhận lời làm vợ Tràng được miêu tả như một người không tên tuổi. Thị không có công ăn
việc làm, ngồi vêu nhặt hạt rơi hạt vãi ở cửa nhà kho, tính khí lại cong cớn, táo bạo. Chỉ hai lần gặp, thị đã
không khách khí ăn liền một lúc bốn bát bánh đúc. Rồi theo câu gợi ý của Tràng, thị đồng ý theo Tràng về làm
vợ. Đúng là anh đã “nhặt” được thị như nhặt được một đồ vô chủ rơi vãi. Kể từ ngày về làm vợ Tràng, thị đã
thay đổi hẳn, trở nên hiền hậu, đúng mực và biết lo toan.
- Thấy con trai bỗng nhiên có vợ, bà cụ Tứ ngạc nhiên rồi vui mừng, buồn lo lẫn lộn. Nhưng trên hết bà vẫn
vui vì Tràng đã có vợ. Bà cụ Tứ cũng không hề rẻ rúng người con dâu mới, trái lại bà yêu thương và cảm thông
cho cảnh ngộ của người vợ nhặt. Niềm vui ấy khiến “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên,...Bà lão
toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 1


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Các thành viên trong gia đình tủi hờn khi bữa cơm đầu tiên chỉ có niêu cháo loãng và “chè khoán” (cháo
cám). Nhưng khi nghĩ đến hình ảnh đoàn người đi phá kho Nhật chia cho dân nghèo và lá cờ Việt Minh bay
phất phới, lòng họ nhen nhóm niềm hi vọng về sự thay đổi tươi sáng hơn ở tương lai.
c.Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt”
-“Vợ nhặt” hiểu theo nghĩa đen là “nhặt được vợ”. Nhan đề ấy tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người
đọc vì cái giá của con người quá rẻ rúng.
- Qua nhan đề “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phản ánh tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân
nghèo trong một nạn đói khủng khiếp; sự đen tối, bế tắc của xã hội Việt Nam trước CM tháng 8.
II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN
1. Nhân vật Tràng
- Tràng là một gã trai nghèo, làm nghề kéo xe bò thuê, lại là dân ngụ cư. Tràng sống với người mẹ già trong
căn nhà rúm ró với những tấm phên rách nát trên “mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”.
- Tràng có ngoại hình thô kệch, xấu xí: “Thân hình to lớn, vập vạp”, “cái đầu trọc nhẵn”, “cái lưng to
rộng như lưng gấu”. “Hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những
người ngụ cư vào trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai
bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của bắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ
gì vừa lý thú vừa dữ tợn…” . Dưới ngòi bút của Kim Lân, Tràng hiện lên như một bức chân dung vẽ vội, một
hình hài mà tạo hóa đẽo gọt quá sơ sài.
- Không chỉ xấu xí, nghèo khổ, ở tầng lớp cùng đinh mà Tràng còn là người dở tính, “hắn có tật vừa đi vừa
nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ”, thỉnh thoảng còn ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch.
- Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu Tràng nữa, “chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó
đường không buồn nhúc nhích” vì chúng đã không còn sức lực. Xung quanh xóm ngụ cư được phủ lên một
khung cảnh chết chóc ảm đạm. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “Tràng đi từng
bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước. Hình như
những lo lắng, chật vật trong một ngày đè xuống cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn”.
b. Tính cách
b1. Tràng là người vô tư, hời hợt
- Tràng thích chơi đùa với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong
xóm “ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên”. “Đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa
lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch”. Anh vô tư chơi đùa với chúng, làm
“cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút”.
- Ngay cả chuyện quan trong như lấy vợ, Tràng cũng chỉ quyết định trong chốc lát. Đó là lần gò lưng kéo
cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa. Thế rồi, một người
đàn bà đang đói bám lấy để được ăn bánh, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận. Lần thứ hai, cô ta tới ăn vạ, Tràng
chấp nhận đưa về nhà để thành… vợ chồng. Lúc đầu, Tràng cũng lo lắng, chợn nghĩ : “thóc gạo này đến cái
thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Sau không biết nghĩ thế nào Tràng tặc lưỡi
“Chậc, kệ” đánh liều với số phận.
b2. Tràng là người hiền lành, tốt bụng sẵn sàng cưu mang người cùng cảnh ngộ trong nạn đói khủng
khiếp.
- Giữ lúc đói, Tràng vẫn sẵn lòng đãi người đàn bà xa lạ 4 bát bánh đúc.
- Khi gặp thị, chỉ tầm phơ tầm phào đôi bận, Tràng cũng tưởng nói đùa, không ngờ cô gái theo về thật. Mới
đầu, Tràng cũng lo lắng, chợn nghĩ “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo
bòng”. Sau không biết nghĩ thế nào Tràng tặc lưỡi “Chậc, kệ”. Lòng nhân hậu khiến anh không nỡ từ chối bởi
trong cái đói quay quắt thế này, cho miếng ăn là cho nhau sự sống, gắn thêm miệng ăn vào mình là thêm một
nguy cơ chết đói.
- Sau sự quyết định táo bạo ấy là cách xử sự đầy ân tình của Tràng đối với vợ: đưa vợ vào hàng cơm chén
một bữa no nê, mua cho thị một cái thúng con để đựng vài thứ lặt vặt, đó vừa là món quà, vừa là tình ý, sự quan
tâm anh dành cho vợ. Tràng còn sẵn sàng tiêu hoang bỏ ra 2 hào mua dầu thắp sáng để “vợ mới vợ miếc cũng

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 2


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

phải cho nó sáng sủa một tí”. Đối với thị, Tràng không hề có một thái độ khinh thị mà đầy trân trọng. Ở đây có
sự đồng cảm, tương thân, tương ái giữa những con người đói nghèo.
b3. Dù trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn có khát vọng hạnh phúc
* Hai lần gặp thị ở ngoài chợ tỉnh:
- Tràng có được vợ trong một quyết định tầm vơ tầm phào, liều lĩnh, bởi ban đầu chủ tâm Tràng chỉ là hò
một câu cho đỡ nhọc:
“Muốn ăn cơm trắng với giò, này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”

- Ai ngờ được bắt quen với một cô trong đám “đàn bà con gái đang ngồi nhặt hạt rơi hạt vãi bên đường”. Lần
thứ hai, người con gái ấy chủ động đến bắt chuyện với Tràng, sưng sỉa trách móc hắn không giữ lời nhưng thực
chất, chủ ý của thị là muốn được Tràng mời ăn. Từ lòng tốt đãi ăn một người đàn bà xa lạ đến câu nói nửa thật
nửa đùa “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” thế là Tràng đã có được vợ. Câu
nói này của Tràng khiến người đọc nhớ đến “lời tỏ tình” khéo léo của nhân vật Chí Phèo “ Hay là mình về đây ở
với tớ một nhà cho vui”. Câu nói của Chí cũng thể hiện khát vọng hạnh phúc, được yêu thương ẩn sâu trong con
quỷ dữ Chí Phèo sau bao năm tháng bị vùi lấp bởi rượu, máu và nước mắt. Chí không dám nói một lời “ cầu
hôn” thẳng thắn, rõ ràng mà chọn cách nói lấp lửng thể hiện sự âu lo, phấp phỏng của một thân phận bị chối bỏ
với một niềm hi vọng mong manh.
- Tràng mới đầu cũng "chợn" nghĩa là sợ, nhưng rồi tặc lưỡi: “Chậc! kệ”. Song hoàn cảnh ấy, cái tặc lưỡi
của Tràng là một sự táo bạo liều lĩnh. Tràng đã dám đánh cuộc với cái đói, cái nghèo để có được hạnh phúc,
mái ấm gia đình.
* Trên đường đưa thị về nhà:
- Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc niềm khao khát hạnh phúc của Tràng. Sự kiện bất ngờ nhặt
được vợ làm thay đổi cuộc đời và số phận của Tràng:
+ Niềm vui đã theo bước chân Tràng về xóm ngụ cư. Khác với vẻ mệt mỏi hàng ngày, hôm nay trên nét mặt
Tràng có vẻ gì "phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai con mắt sáng lên lấp lánh". Đó là
ánh mắt nụ cười của con người đang sống trong cảm giác hạnh phúc. Với ba từ láy “phớn phở”, “tủm tỉm”, “lấp
lánh”, Kim Lân đã làm sáng lên hình ảnh một anh cu Tràng bấy lâu bị vùi lấp bởi nỗi cơ cực, bần hàn của cuộc
mưu sinh tủi nhục. Đó là chân dung của một người đàn ông hạnh phúc với gương mặt “phớn phở” đầy kiêu hãnh,
với nụ cười “tủm tỉm” đầy ý vị, với đôi mắt “lấp lánh” đầy vẻ mãn nguyện. Lần đầu tiên đi bên cạnh người đàn
bà, Tràng lấy làm hãnh diện vô cùng, mốn nói một câu cho thật tình tứ nhưng chẳng biết nói thế nào thành ra
những câu đối đáp với vợ trở nên cộc lốc, nhát gừng, rời rạc, bởi hạnh phúc đến với Tràng quá bất ngờ.
+ Biết mọi người trong xóm ngụ cư đang chăm chú nhìn mình, Tràng thích ý, “cái mặt vênh lên tự đắc với
mình”. Nhưng chính Tràng cũng không khỏi có lúc “cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia đi bên
người đàn bà”. Kim Lân đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động niềm khao khát tổ ấm gia đình và tình thương giữa
những con người nghèo khổ đã vượt lên tất cả, bất chấp cả cái đói và cái chết.
+ Kim Lân đã làm người đọc thấy được sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Trong lòng Tràng tràn ngập niềm
vui sướng miên man khiến "Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng
ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây
giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”. Niềm hạnh phúc đã hiện hình ở người đàn ông thô
mộc: “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da
thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng" . Thế là rõ, hạnh phúc đang làm Tràng thay đổi.
* Về đến nhà:
+ Về đến nhà, “Tràng xăm xăm bước vào trong nhà… Hắn quay lại nhìn thị cười cười”. Rõ là hắn thay đổi
thật. Động thái “xăm xăm” của hắn đã là câu trả lời chính xác cho một người đàn ông đang bắt đầu tư thế làm
chủ gia đình, làm chủ cuộc sống mới của mình. Tràng cũng tỏ ra rất thân thiện với người vợ nhặt khi “cười
cười” và thú nhận với thị những câu rất thành thật nhưng cũng đầy hàm ý: “Không có người đàn bà, nhà cửa
thế đấy!”. Như vậy, Kim Lân đã xóa đi trong suy nghĩ của người đọc về một người đàn ông ngờ nghệch, chỉ

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 3


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

còn lại trong cảm thức người đọc một anh Tràng nhanh nhẹn và rất biết cách bày tỏ cảm xúc qua một vài từ láy
có khả năng biểu đạt cao.
+ Thế nhưng, cái cảm giác ngỡ ngàng trước hạnh phúc vẫn khiến Tràng bối rối. Hắn “ngượng nghịu”, “đứng
tây ngây ra giữa nhà một lúc., chợt hắn thấy sờ sợ…, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân…”. Một loạt từ láy
“ngượng nghịu” “tây ngây”, “sờ sợ”, “lấm lét” đã diễn tả thật chính xác tâm trạng của Tràng lúc đó. Người đọc
hình dung ra hình ảnh một người đàn ông lóng ngóng, vụng về đầy lo lắng. Cứ tưởng anh chàng lúc nào cũng
lầm lì và bặm trợn, ai ngờ cũng có lúc trông thật rất đáng yêu.
+ Rồi khi nhìn thấy người đàn bà có vẻ buồn ra mặt, Tràng “nhổ vu vơ một bãi nước bọt”, lại “tủm tỉm cười
một mình” và “ngờ ngợ như không phải thế, Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?". Kim Lân quả là có biệt tài khi luôn
đặt các từ láy đúng chỗ để những từ ấy không chỉ vẽ ra cụ thể hơn chân dung nhân vật mà còn có ý nghĩa kết
nối diễn biến tâm trạng của các nhân vật. Vì thế, chân dung Tràng hiện lên rất sống động. Những từ “vu vơ”,
“tủm tỉm”, “ngờ ngợ” đã cho thấy rõ điều này.
 Nụ cười của Tràng đã góp phần khắc họa tính cách thuần phác, nhân hậu, yêu đời của gã trai quê mùa,
thô kệch. Đó là niềm hạnh phúc của con người trong tận cùng đói khát vẫn không thôi khao khát tình yêu, tổ ấm
gia đình. Đặt trong bối cảnh của câu truyện viết về nạn đói thảm thương 1945, hình ảnh nụ cười của Tràng (lặp
lại 8 lần) giống như cơn gió mát lành làm dịu đi cái căng thẳng ngột ngạt, cái đắng cay tủi cực của con người
ngày đói, thể hiện cái nhìn lạc quan, niềm hi vọng của nhà văn vào cuộc sống. Phải chăng, nhà văn đã gửi gắm
một thông điệp giản dị: chỉ có tình yêu thương mới có thể mang đến niềm vui, nụ cười hạnh phúc cho con
người.
+ Kim Lân đã miêu tả nỗi vui mừng của Tràng khi nghe tiếng bà cụ Tứ gọi: “Hắn lật đật chạy ra đón”.
Tràng ra tận ngõ để đón mẹ. Tràng giới thiệu với mẹ: "Kìa nhà tôi nó chào u". Lời nói tuy giản đơn nhưng đầy
yêu thương trân trọng, đón người đàn bà về làm vợ, không cưới xin, không rước dâu, không mâm cao cổ đầy,
cô dâu trong bộ áo rách bươm như tổ đỉa. Bằng câu nói ấy, Tràng đã xác định rõ ràng mối quan hệ của mình với
người phụ nữ đẩy người nghe và bà cụ Tứ buộc phải chấp nhận. Không chỉ vậy câu nói còn lý giải mối quan hệ
với vợ là duyên số - một cách lý giải của một người từng trải, chín chắn, chững chạc “Nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả...”. Kim Lân
chỉ bằng vài câu đơn giản mộc mạc nhưng đã giới thiệu được một cuộc đại lễ trịnh trọng nghiêm túc của những
con người khốn khổ đến với nhau trong ngày đói.
*Buổi sáng đầu tiên có vợ:
- Tràng được sống trong những suy nghĩ, cảm xúc rất mới mẻ. Tràng cảm thấy “trong người êm ái lửng lơ
như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Hai từ “lửng lơ”, “ngỡ ngàng” thật tinh tế và gợi ấn tượng thú vị đối với
người đọc. Đúng là hình ảnh cảm động về một người đàn ông hạnh phúc – người đàn ông có tên Tràng – người
đàn ông chưa bao giờ dám nghĩ mình được hưởng cái hạnh phúc êm ái, ngọt ngào như thế. Kim Lân miêu tả
tiếp: “hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân… hai con mắt cay sè của hắn … chớp chớp liên hồi”,
thật khó mà chọn được từ nào có thể mô tả chính xác hơn hai từ “lững thững” và “chớp chớp” để làm bật lên
chân dung của Tràng vào thời điểm đó, khi mà hắn “thấm thía cảm động” trước “cảnh tượng thật đơn giản” về
hạnh phúc gia đình đang diễn ra trước mắt mình.
- Từ giây phút ấy, lòng Tràng rộn lên “một nguồn vui sướng”, hắn “phấn chấn” hẳn lên và “xăm xăm chạy ra
giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.
+ Từ láy tượng hình “xăm xăm” gợi lên bao nhiêu là hăm hở, háo hức trong bước chân của Tràng tìm đến
hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng hơn đấy là dấu hiệu một bước ngoặt lớn ở Tràng. So với cái dáng “ ngật
ngưỡng” ở mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này là một sự thay đổi không chỉ ở dáng đi mà còn là thay
đổi cả số phận, tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ ngây dại sang ý thức. Nàng Kiều xưa từng
“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Gót chân đến với hạnh phúc của Kiều
táo bạo thế mà cứ chênh vênh, đơn độc. Còn bước đi “xăm xăm” ở Tràng mới vững khỏe, tự tin làm sao, bởi
Tràng có cả một gia đình. Và đó là cái xăm xăm của con người trong hạnh phúc.
+ Hành động “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”
là một biến đổi quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh
phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: hắn thấy hắn

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 4


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Tràng đã thật sự phục sinh tâm hồn. Đó là giá trị lớn lao của hạnh
phúc.
+ Mong mong muốn dự phần tu sửa ngôi nhà nghĩa là Tràng và gia đình mình không chấp nhận cuộc sống
tạm bợ nữa, là chuẩn bị cho cuộc sống lâu dài. Họ bướng bỉnh tuyên chiến với nạn đói.
- Và hắn chợt nhận ra “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm
nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng...”. Thấy bà mẹ rẫy cỏ, nàng dâu quét tước nấu nướng, cảnh
tượng diễn ra thật bình thường đối với Tràng nó thật cảm động thấm thía biết bao. Có lẽ giờ đây, nhân vật
Tràng mới hiểu được giá trị của một gia đình đầy đủ. Tràng bỗng thấy yêu, gắn bó với ngôi nhà dù nghèo khó
nhưng nó vẫn là nơi che mưa che nắng cho cả gia đình anh.
+ Tràng thấy thấm thía, cảm động trước những cảnh tượng quen thuộc hằng ngày vốn thật đơn giản, bình
thường: “bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”.
+Tràng có ý thức hơn về bổn phận, trách nhiệm đối với gia đình: “Bây giờ hắn thấy hắn mới nên người, hắn
thấy hắn phải có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Hai chữ “nên người” như một điểm nhấn xác
nhận sự thay đổi nhận thức ở Tràng. Nên người là điều quan trọng đối với những ai bị cuộc sống đẩy vào tình
cảnh bế tắc, bị biến thành một kiểu người mà chính mình không mong muốn.
Trong khung cảnh đói khát chết chóc những người dân đói khổ như Tràng biết vượt lên trong hoàn cảnh
trong niềm vui nương tựa lẫn nhau. Chỉ có tình người, tình yêu thương chân thực mới giúp họ có sức mạnh
vượt qua thật nghiệt ngã của cuộc đời khẳng định bên bờ vực thẳm của cái chết con người ta không nghĩ đến
chết, vẫn yêu thương đùm bọc, vẫn khát khao hạnh phúc và vẫn muốn sống cho ra một con người.
* Liên hệ với diễn biến tâm lý của Chí Phèo vào buổi sáng sau khi gặp thị Nở để thấy được tấm lòng
nhân đạo của mỗi nhà văn:
Cuộc gặp gỡ với thị Nở có sức mạnh diệu kì làm Chí Phèo dần dần tỉnh rượu, tỉnh ngộ. Hắn bắt đầu nhận ra
vẻ đẹp bình dị của cuộc sống mà bất lâu nay hắn triền miên trong cơn say không thể nhận ra. Một kẻ triền miên
say như hắn nhưng giờ đây đã biết sợ rượu như người ốm sợ cơm. Dù muộn nhưng dẫu sao Chí cũng nhận nỗi
sợ lớn nhất của đời hắn không phải là “đói rét, ốm đau” mà là “cô độc”. Trước sự chăm sóc chân thành của Thị
Nở, Chí Phèo bỗng thấy: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Sự
chăm sóc ân cần của thị Nở xuất phát từ tấm lòng đã giúp Chí hoàn toàn tỉnh ngộ để nhận thức rõ bi kịch cuộc
đời, đồng thời ấp ủ khao khát được hoàn lương.
 Bình luận về chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút của Kim Lân và Nam Cao:
Qua sự biến đổi tâm trạng của Tràng và Chí Phèo, ta thấy cả Kim Lân và Nam Cao đều là những nhà văn có
niềm tin yêu vào bản chất tốt đẹp của người nông dân. Dù cuộc sống khốn cùng đến đâu họ vẫn thương yêu,
đùm bọc nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, khát khao lương thiện. Các nhà văn cũng đề cao và ngợi ca sức mạnh
của tình người chân thành trong sáng. Sự đổi thay trong tâm trạng, nhận thức của Tràng và Chí Phèo chính là
nhờ sức mạnh to lớn ấy. Hay nói cách khác: Cội nguồn sự thay đổi chính là sức mạnh cảm hóa của tình yêu.
* Bữa cơm ngày đói:
“Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn
bứ trong cổ”. Cách ứng xử này vừa cho thấy Tràng là người chồng có trách nhiệm (nỗi thẹn không thể dành
cho người vợ mới cưới của mình một bữa ăn đủ đầy) vừa cho thấy Tràng là người con hết sức khéo léo trong
cách cư xử với mẹ, hiểu rõ được hoàn cảnh của gia đình mình.
b4. Tràng khát khao đổi đời, có niềm tin vào tương lai tươi sáng
- Khi ý thức được tương lai hạnh phúc của riêng mình, tâm trạng Tràng chuyển biến sang một dự cảm đổi
đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, khi nghe thị nhắc đến chuyện “Trên mạn
Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia
cho người đói nữa đấy”, “Tràng thần mặt ra nghĩ ngợ. Cái mặt to lớn bặm lại khó đăm đăm. Miếng cám
ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít.... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”. Đây là
điều hiếm có đối với Tràng xưa nay bởi trước đây, Tràng chỉ biết việc trước mắt, sống vô tư, không mấy quan
tâm đến những chuyện ngoài xã hội.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 5


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để cướp
kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm. Khi nhận thức được “À ra họ đi phá kho thóc chia cho
người đói” thì tự dưng Tràng thấy lòng ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.
- Kết thúc tác phẩm là “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...”. Hai
hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” hiện lên trong óc Tràng vừa gợi lên cảnh ngộ đói
khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng. Cả hai đều là những hình ảnh chân thực trong
bức tranh đời sống bấy giờ. Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân: trân
trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo và niềm tin bất diệt vào tương
lai tươi sáng.
- Với ý nghĩa đó, hai hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới” hiện lên trong tâm trí Tràng là
triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối. Đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại. Vì thế, nó quyết định
đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện. Đây là kiểu kết thúc mở giúp thể hiện xu hướng vận động tích
cực của cuộc sống được mô tả trong toàn bộ câu chuyện, dành khoảng trống cho người đọc suy tưởng, phán
đoán.
- Cùng phản ánh hiện tăm tối của con người trước CM.8, cùng chọn kết thúc mở để khép lại tác phẩm,
nhưng kết thúc mở (kết cấu vòng tròn) trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao phản ánh hiện bế tắc luẩn
quẩn của số phận người nông dân VN trước CM, tương lai chỉ là sự lặp lại của hiện tại; còn kết thúc mở trong
truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân lại phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, thể hiện
qua kết cấu đối lập với hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.
=> Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi mang tính đột phá, nhưng cuộc sống đã bắt đầu hé mở cho anh
một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng một cách tự nhiên và tất yếu mà những người như
Tràng sẽ đi và trong thực tế lịch sử, người nông dân Việt Nam đã đi.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật Tràng:
- Nhân vật được đặt trong tình huống độc đáo.
- Diễn biến tâm lí nhân vật được miêu tả chân thực, tinh tế.
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật.
* Tóm lại:
- Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, hiền lành và tốt bụng; luôn khát khao hạnh phúc và có ý thức tạo dựng
hạnh phúc gia đình. Tràng cũng nghĩ về sự thay đổi cho dù vẫn chưa ý thức thật đầy đủ.
- Niềm khát khao hạnh phúc gia đình và lòng thương người đã giúp Tràng vượt qua những khó khăn, đấu tranh
với cái chết để giành sự sống cho gia đình bé nhỏ của mình. Dù đứng bên bờ vực của cái chết, Tràng vẫn luôn
hướng về ngày mai tươi sáng, một niềm tin bất diệt về tình yêu thương con người. Đó là ý nghĩa nhân văn của
tác phẩm.
2. Nhân vật thị (người vợ nhặt)
a. Giới thiệu chung
- Tuy không được miêu tả thật nhiều nhưng người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng trong tác
phẩm. Nhân vật này được khắc họa sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.
- Hình tượng nhân vật người vợ nhặt được ngòi bút Kim Lân tập trung khắc họa trong tình huống éo le, trớ trêu
nhưng cũng rất hiện thực trong bối cảnh xã hội Việt Nam những năm trước CM.8. Đó là tình huống một người
phụ nữ liều lĩnh theo không về làm vợ một người đàn ông xa lạ mới chỉ gặp hai lần. Đây cũng chính là tình
huống được lựa chọn làm nhan đề của tác phẩm.
- Nhân vật này không được tác giả đặt tên, chỉ gọi là “thị” hoặc “cô ả” gợi lên một thân phận hèn mọn, vô
nghĩa.
b. Số phận đáng thương
- Thị không nghề nghiệp, không người thân, không quá khứ, không tên tuổi, trong suốt tác phẩm
nhân vật chỉ được gọi là “thị” hoặc “cô ả”. Đã bấy lâu, thị vẫn hay ngồi vêu nhặt hạt rơi, hạt vãi ở cửa kho
thóc với đám đàn bà con gái hay ai có công việc gì gọi đến thì làm.
- Người vợ nhặt còn là nạn nhân của nạn đói khủng khiếp năm 1945

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 6


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

+ Cái đói đã để lại dấu ấn sâu đậm trên những nét ngoại hình của nhân vật: Cái đói đã làm thị tiều tụy cả
hình hài: “Thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
còn thấy hai con mắt”. “Ngực thì gầy lép nhô lên”.
Chân dung của thị hiện lên thật thảm thương, tội nghiệp.
+ Cái đói còn đẩy thị vào con đường liều lĩnh: Vì đói, người đàn bà đáng thương ấy đã sẵn sàng “gạ ăn” giữa
đường chợ với một người đàn ông xa lạ. Thậm chí, chỉ sau hai lần gặp gỡ, trước những lời nửa đùa nửa thật của
Tràng, thị đã tự nguyện theo không về làm vợ một người đàn ông nghèo, xấu, lại là dân ngụ cư như Tràng.
Chưa bao giờ, địa vị và giá trị của người phụ nữ làm vợ bị rẻ rúng đến thế. Người ta nhặt được vợ như nhặt
cọng rơm, cái rác bên đường.
Cái đói chẳng những dồn đẩy thị vào cảnh sống trôi dạt, vất vưởng mà còn bất chấp cả sỉ diện và tự
trọng để được ăn, để được sống. Tính cách ấy của thị suy cho cùng cũng là sản phẩm của một cuộc sống
nghèo đói, vất vưởng, chứ dứt quyết không phải là sản phẩm của cái xấu hay cái ác. Tình cảnh thảm thương
của thị đã góp phần tô đậm giá trị hiện thực của tác phẩm.
c. Tính cách
c1. Thị là cô gái đanh đá, chao chát vì cái đói sẵn sàng đánh đổi cả sỉ diện và tự trọng
* Lần đầu tiên gặp Tràng:
- Lần đầu tiên Tràng gặp thị, khi thị cùng với mấy chị con gái đang “ngồi vêu” nhặt hạt rơi hạt vãi bên
đường, hay ai có công việc gì gọi đến làm.
- Thị sẵn sàng bắt quen với Tràng từ một câu hò vu vơ:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò, này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì”.
Thị cong cớn đáp: “Có khối cơm trắng mấy giò đấy!” để phủ định câu hò của Tràng nhưng lại để lộ ra một
sự hi vọng, một sự thèm khát về miếng ăn “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Cách nói năng của thị
thật chớt nhã, đùa cợt qua cách gọi “nhà tôi ơi” đối với một người đàn ông xa lạ mới gặp lần đầu. Hình thức thì
nói đùa nhưng thật ra để lộ một sự hi vọng thảm hại về miếng ăn, cái đói.
- Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng: “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ?’. Thị liếc
mắt cười tít. Hành động chạy lại “ton ton” trông cử chỉ thị thật nhanh nhẹn và có phần hứng khởi khi đẩy xe
giúp Tràng nhưng thực ra hành động ấy do miếng ăn thôi thúc. Cái bạo dạn ở người con gái “liếc mắt, cười tít”
với một người đàn ông xa lạ ở giữa đường chợ khiến người đọc không những không trách thị mà trái lại, càng
cảm thông cho cảnh ngộ của thị. Liếc mắt cười không phải cái cười lúng liếng, trao duyên trao tình của đôi lứa
yêu nhau mà thảm hại là thị tít mắt cười vì nghĩ sắp được mời ăn.
* Lần thứ hai gặp Tràng:
- Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì “thị ở đâu sầm sập chạy đến”.
Kim Lân thật tài tình khi đắc dụng từ láy “sầm sập” để miêu tả hành động của thị. “Sầm sập” chẳng những là
bước đi nhanh vội mà có chứa đựng sức nặng của điệu bộ giận dỗi, trách móc. Thị chủ động đến bắt chuyện với
Tràng với thái độ sưng sỉa:
“Điêu! Người thế mà điêu!”.
“Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.”
- Tràng giương mắt nhìn thị, không hiểu. Vì Tràng chưa nhận ra thị là ai bởi “Hôm nay thị rách quá, áo
quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.”
- Tràng vì đùa nên không nhớ, thị có vẻ trách móc, hờn dỗi nhưng thực chất mong được Tràng cho ăn. Cái
khéo ở thị là xin ăn nhưng không nói đến miếng ăn. Trước mắt mọi người thị gán cho Tràng cái tội bội tín. Câu
“Người thế mà điêu!” vừa nâng Tràng lên (đáng mặt nam nhi “người thế”) vừa bóc mẽ anh ta chỉ có cái vẻ bên
ngoài là tử tế mà thôi.
- Tình thế ấy buộc Tràng phải chống chế, không muốn bị xem là thất tín, mất mặt trước mọi người: “Chả
hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hãy ngồi xuống ăn miếng giầu đã”.
Tràng đã sập vào cái bẫy thị giăng ra. Chớp thời cơ, thị đứng cong cớn trước mặt hắn nói luôn: “Có ăn gì thì
ăn, chả ăn giầu”. Thị nói thẳng thừng ý định của mình. Với thị, không ăn lấy vị “ăn trầu” mà cần ăn cho lấy
no.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 7


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Khi Tràng nói “muốn ăn gì thì ăn” tức thì “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên…Thế là thị ngồi
sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Ăn xong, thị cầm đôi
đũa quệt dọc ngang miệng và thở “Hà, ngon”. Chi tiết ăn xong “thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”
thật đắt. Nó vừa cho ta thấy hành vi văn hóa chẳng mấy đẹp, vừa cho thấy thị đói đến nhường nào. Lần trước
gặp Tràng, thị cùng mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa kho nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì thì gọi
đến làm.
- Trước những lời nửa đùa nửa thật của Tràng, thị đã tự nguyện theo không về làm vợ một người đàn ông
nghèo, xấu, lại là dân ngụ cư như Tràng. Chưa bao giờ, địa vị và giá trị của người phụ nữ làm vợ bị rẻ rúng đến
thế. Người ta nhặt được vợ như nhặt cọng rơm, cái rác bên đường. Trong suy nghĩ của các nhân vật khác, người
vợ nhặt trở thành gánh nặng “đèo bòng”, thậm chí bị coi là “của nợ đời” trong lúc nạn đói khủng khiếp đang
hoành hành.
=>Qua việc khắc họa nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân vừa khẳng định được sự am hiểu tâm lí người nông
dân nghèo vừa thể hiện được lòng thương cảm đối với họ. Dù thị đói ăn đến mức trơ trẽn, đánh mất vẻ nữ tính
nhưng người đọc vẫn cảm nhận được phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng là một tấm lòng ham sống đến
mãnh liệt. Tính cách ấy của thị suy cho cùng cũng là sản phẩm của một cuộc sống nghèo đói, vất vưởng, chứ
dứt quyết không phải là sản phẩm của cái xấu hay cái ác.
* Liên hệ với nhân vật bà lão trong truyện “Một bữa no” của Nam Cao:
Sau bữa cơm ăn vội, người nhà chủ đã đứng dậy hết. Bà lão vẫn ngồi trơ ra đấy. “Vậy thì bà cứ ăn. Ăn đến kì
no. Đã ăn rình thì ăn ít cũng là ăn. Đằng nào cũng mang tiếng rồi thì dại gì mà chịu đói? Bà ăn nữa thật… Bà
cứ ăn như không biết gì.”. “Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn
mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt
lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa”. Số
phận thảm thương “Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết.”
c2. Thị là người có tấm lòng ham sống mãnh liệt
- Vì bản năng sinh tồn, thị phải đánh đổi cả danh dự, cái duyên của người con gái để kiếm miếng ăn và nuôi
hi vọng được sống. Thị đặt sự tồn tại của mình, miếng ăn lên trên nhân cách. Nhưng qua đó, ta thấy lòng ham
sống mãnh liệt ở người phụ nữ này. Thị đang cố bám lấy sự sống và tỏ ra chua ngoa cũng để bảo vệ sự sống.
- Hành động thị tự nguyện theo không về làm vợ Tràng thật liều lĩnh. Nhưng chính sự liều lĩnh ấy ẩn chứa
một tấm lòng ham sống đến mãnh liệt ở thị. Và hành động liều lĩnh ấy đã đem đến cho họ một trang đời mới,
bất ngờ đầy hạnh phúc. Nói như Kim Lân: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những
con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
 Phía sau tình cảnh vất vưởng, trôi dạt là một tấm lòng ham sống đến mãnh liệt.
c3. Thị là một người biết điều, ý tứ
- Lần thứ nhất khi gặp Tràng, nghe mấy câu hò vu vơ của Tràng “Có ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà
đẩy xe bò với anh, nì!”, thị cong cớn đáp trả “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì”. Một cô gái đanh đá, bạo dạn như thị
thì ai dám bảo thị sợ gì. Câu thoại của thị không phải muốn nói với mọi người mà là đang nói với chính mình,
đang cố trấn an cho phần sĩ diện còn sót lại trong thị. Người phụ nữ đáng thương ấy cũng biết xấu hổ, ý thức về
hành động bạo dạn, sấn sổ vào người khác để kiếm miếng ăn. Thị càng muốn phủ định nỗi sợ hãi càng làm lộ rõ
mặc cảm xấu hổ, sợ sệt của thị.
- Và lần thứ hai, khi gặp lại Tràng, thị cũng nhắc về nỗi sợ. Trước khi được Tràng mời ăn vẫn không quên
vớt vát một câu: “Ăn thật nhá! Ừ, ăn thì ăn chứ sợ gì”. Một lần nữa thị muốn phủ định nỗi sợ, luôn phải
thường trực chiến đấu với nó. Đó là nỗi sợ của người có lòng tự trọng và có nhân cách. Nó luôn hiện diện trong
suy nghĩ của thị, khiến thị phải khổ sở, dày vò trong cuộc giao tranh dữ dội với cái đói. Ăn xong, biết bày tỏ sự
hàm ơn kín đáo bằng một lời khen “Hà! Ngon!”. Chính cách cư xử này khiến người đọc không thấy khinh ghét
mà chỉ thấy ái ngại, thương xót nhân vật.
- Trên đường theo Tràng về nhà, “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng
nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Rõ là những biểu hiện rất ngượng ngùng, e lệ và có
vẻ sợ sệt của nàng dâu mới về nhà chồng. Hình ảnh thị và Tràng “lủi thủi đi về bên” trông thật đáng thương,
dường như mọi nỗi tủi cực đang đè nặng trong lòng người đàn bà khốn khổ ấy. Khi cả xóm ngụ cư cùng đổ xô

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 8


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

ra bàn tán về sự có mặt của mình bên cạnh Tràng, “thị càng ngượng nghịu”, “chân nọ bước díu vào chân kia”.
Như vậy, vẻ đanh đá, chao chát lúc đầu ở thị đã không còn nữa, thay vào đó người đọc cảm nhận được vẻ đẹp
của sự ý tứ, e thẹn của một cô dâu mới.
- Về đến trước cửa nhà Tràng, phải chứng kiến “cảnh nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, “thị đảo mắt nhìn xung quanh” rồi “nén tiếng thở dài”. Dù Tràng tỏ ra rất vui thì thị
chỉ “nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Tiếng thở dài và cái cười “nhạt nhẽo” đã gợi lên nỗi thất vọng sâu xa của thị
trước gia cảnh nghèo khó của gia đình chồng. Thị không thể ngờ được gia cảnh của anh Tràng hào phóng lại
thảm hại như vậy. Biết đâu cuộc sống nghèo túng đang bày ra trước mắt thị cũng sẽ là viễn cảnh cho tương lai
của vợ chồng thị sau này. Song, đằng sau “tiếng thở dài” ấy hơn hết vẫn là thái độ chấp nhận hiện tại, chấp
nhận làm vợ Tràng, làm cô dâu mới của gia đình này. Phải chăng khi đó ý thức trách nhiệm đối với gia đình
trong thị đã được đánh thức?
- Đi vào bên trong nhà Tràng, thị ý tứ “ngồi mớm xuống mép giường”, tỏ ra “ngượng nghịu” nhưng “hai tay
ôm khư khư cái thúng mặt bần thần”. Hành động và trạng thái tâm lí của người đàn bà lộ rõ những lo lắng trong
lòng thị về hạnh phúc vật vờ mà thị có được nhờ cái đói, qua những từ láy “khư khư”, “bần thần”.
- Sau khi được mẹ Tràng chấp nhận làm dâu, “người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên
chỗ cũ”. Từ “nhúc nhích” cho thấy thị đang dần thoát khỏi cái tâm lí nặng trĩu từ lúc bước chân vào ngôi nhà
“rúm ró” của Tràng. Còn trước mặt mẹ chồng, Kim Lân khéo tìm một từ thích hợp – “khép nép” – để thị trở về
đúng với hình ảnh của cô dâu ngày cưới.
- Đứng trước bà cụ Tứ, thị cúi mặt và “tay vân vê tà áo rách bợt”. Hình ảnh ấy gợi lên sự thảm thương của
thân phận “vợ nhặt” vừa nói lên sự đúng mực, dịu dàng của một cô dâu mới.
 Sự lo lắng, ngượng ngùng ấy khẳng định phẩm chất của người con gái trong thị vẫn còn. Cái chết không
còn đe dọa nữa, thị sẽ lại là một người đàn bà hiền hậu đúng mực, đảm đang như bao người phụ nữ khác.
- Trong mắt Tràng, sau đêm tân hôn, người vợ nhặt “rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không
còn gì vẻ chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. “Hiền hậu” mới đúng là hình ảnh mà Kim
Lân muốn đem đến cho người đọc về người đàn bà đặc biệt này. Không phải miếng ăn mà chính mái ấm gia
đình và tình yêu thương của mẹ con Tràng đã đưa thị trở về với đúng bản chất của mình. Điều này được Kim
Lân bổ sung ở hai từ láy cuối cùng của truyện qua chi tiết “thị nói lí nhí trong miệng” khi nghe tiếng trống rồi
hỏi mẹ chồng: “Trống gì đấy, u nhỉ?” và khi “thị lẩm bẩm” ngạc nhiên khi biết đó là tiếng trống thúc thuế. Âm
thanh của “tiếng trống thúc thuế dồn dập” cùng hình ảnh bầy quạ “lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời
như những đám mây đen” càng làm nổi bật tình cảnh bi đát, kiệt cùng, không lối thoát của con người. Cái chết
bủa vây khắp nơi, trên trời, dưới đất giống như một tấm mạng nhện khổng lồ sắn sàng úp chụp lên những sinh
linh bé nhỏ.
- Bữa cơm đón nàng dâu mới minh họa rõ nét hơn cho cái thực trạng thảm thương của những con người
khốn khó đó: một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng mà mỗi người chỉ
được lưng lưng hai bát và nồi “chè khoán” - cháo cám.
+ Cháo cám dẫu được bà cụ Tú gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng ngắt, chát xít
nơi cổ họng, không sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người.
+ Hình ảnh nồi chè khoán trong bữa cơm ngày đói làm tăng giá trị tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp và
phát xít Nhật gây ra đồng bào ta, khiến nhân dân lâm vào nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã cướp đi sinh mạng
hàng triệu người Việt. Hiện thực về cái đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh một lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh
phúc của con người. Thứ hạnh phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm ngay lập tức bị đe dọa bởi cái đói.
+ Chi tiết bát cháo cám còn thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Thị nhắm mắt
đưa chân không đơn thuần vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến gia cảnh bần hàn của Tràng. Ta càng
thấu hiểu sâu sắc hơn cái khát vọng có một bến đỗ cho con thuyền phiêu dạt, một tổ ấm dừng chân nơi thị trong
cái cử chỉ “điềm nhiên và vào miệng miếng cháo cám”. Cái cử chỉ “điềm nhiên” cho thấy Thị coi không có
chuyện gì xảy ra, ăn một cách tự nhiên như đang thưởng thức một bữa cơm ngon lành, đầm ấm. Và thái độ ấy
cho thấy thị biết giữ ý tứ không muốn mẹ chồng phải ngượng ngùng khó xử, sẵn sàng đồng cam cộng khổ với
gia đình Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy, phải chăng cần lắm những đôi bàn tay nâng niu như

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 9


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

vậy. Lời nói của bà cụ Tứ và hành động của người con dâu chính là cách những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ
và vun đắp cho niềm hạnh phúc vừa mới chớm nở.
+ Chi tiết bát cháo cám còn đã bộc lộ sự trân trọng khát khao ham sống ở người nông dân. Với họ, từng cơ
hội sống đều được nâng niu.
Tóm lại, hình ảnh nồi chè khoán chính là biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào
phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói.
-->Sáng tạo chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ gợi lại sinh động thảm trạng ngày đói năm nào mà nhà
văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi những tấm lòng thuần hậu, chất phác. Trong cảnh đói bi
thương ấy, họ vẫn không thôi yêu thương, vẫn nương tựa vào nhau cùng sẻ chia và cùng hi vọng.
c4. Thị là người phụ nữ là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan
- Thị trở nên hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. Trong cái nhìn của Tràng, “nom thị hôm nay khác lắm, rõ
ràng là người đà bà, hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn”. Thị thức dậy sớm quét dọn
nhà cửa, trở thành người vợ siêng năng, đảm đang: “Nhà cửa, sân vườn hôm nay được quét tước, thu dọn sạch
sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân
hong. Hai cái ang vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót
sạch”. Sự xuất hiện của thị đã thổi vào cuộc sống nghèo khổ của mẹ con Tràng một luồng sinh khí mới và
chính cái gia đình ấy đã trả lại cho người vợ nhặt bản chất tốt đẹp vốn có - một người vợ đảm đang, tháo vát,
một người con dâu hiếu thảo. Dường như người vợ nhặt mong muốn chuẩn bị cho cuộc sống gia đình lâu dài.
Cùng với Tràng và bà cụ Tứ, thị như đang bướng bỉnh tuyên chiến với nạn đói, không thôi hi vọng về một sự
thay đổi tốt đẹp hơn, sáng sủa hơn.
- Thiên chức, bổn phận làm vợ ở thị được đánh thức. Đó là những tình cảm vấn vương mới mẻ, thị cư xử với
Tràng mộc mạc chân thành, mắng yêu khi Tràng khoe chai dầu mới mua,…
c5. Thị cũng là người mở ra ánh sáng nơi chân trời tối tăm của nạn đói, là người báo tin cho cuộc cách
mạng đang đến gần, “trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta
còn phá kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”.
*Tóm lại:
- Hình tượng nhân vật người vợ nhặt được khắc họa chân thực từ ngoại hình đến tính cách, số phận. Đó là
một người phụ nữ có thân phận bé mọn, là nạn nhân của cái đói nhưng cũng là một người phụ nữ rất mực hiền
hậu, đúng mực, biết lo toan và lòng ham sống mãnh liệt. Thị cố giữ nhân cách trong hoàn cảnh nghiệt ngã.
- Hình tượng người vợ nhặt góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm: con người
dù bị cái đói xô đẩy đến bờ vực của cái chết nhưng bằng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc âm thầm mãnh
liệt đã vượt lên hoàn cảnh để khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của mình.
* Liên hệ với nhân vật Thị Nở:
– Người phụ nữ hội tụ nhiều thiệt thòi, hèn kém: xấu xí, dở hơi, nghèo khổ, gia đình có dòng giống mả hủi…
– Hiện thân cho tình người duy nhất hiếm hoi giữa làng Vũ Đại: thức tỉnh phần nhân tính trong Chí Phèo .
*Nghệ thuật xây dựng nhân vật người vợ nhặt:
- Nhân vật được đặt trong tình huống độc đáo.
- Diễn biến tâm lí nhân vật được miêu tả chân thực, tinh tế.
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật.
- Ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ đối thoại sinh động.
- Nhân vật được khắc họa theo kiểu đối lập giữa lúc đầu và về sau, giữa dáng vẻ bên ngoài và phẩm chất tốt
đẹp bên trong.
3. Nhân vật bà cụ Tứ
a. Hoàn cảnh sống
- Nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện trong không gian câu chuyện: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một
bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Những từ láy
“húng hắng”, “lọng khọng”, “lẩm bẩm” đã làm toát lên hình ảnh một bà mẹ nghèo tội nghiệp trong ngày đói.
Đó là dáng hình của một người đã lớn tuổi (“lọng khọng”), cái lưng còng như đã hứng chịu cả một đời gió
sương, hơn nữa, “lọng khọng” còn vẽ lên cái dáng hình gầy guộc của người mẹ nghèo. Tiếng ho “húng hắng”

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 10


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

gợi sự ốm yếu thường thấy ở những người già và miệng thì lẩm bẩm tính toán (có lẽ cả đời bà, vì không còn
chồng, nên chẳng phút thảnh thơi, phải lo chắt chiu, ki cóp, phải lo từng đồng, từng bữa. Và tội nghiệp thay,
đến cả lúc già cả, gần đất xa trời, cái toan tính vẫn chẳng thể bỏ được, cái khốn khổ, trách nhiệm đã đeo đẵng cả
cuộc đời bà).
- Đây là tình huống dễ gợi cảm thương đối với một người mẹ nông dân nghèo, già nua và nghèo khổ. Hơn
nữa, chính tình huống Tràng “nhặt” được vợ đã tác động sâu sắc đến tâm trạng người mẹ nghèo: từ ngạc nhiên,
lo lắng đến buồn vui lẫn lộn và hơn hết ở bà cụ Tứ là niềm tin hi vọng vào cuộc sống.
b. Diễn biến tâm trạng:
- Trước thái độ xởi lởi, nôn nóng bất thường kèm theo lời trách móc của con trai, bà lão chỉ “nhấp nháy
hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi: – Có việc gì thế vậy?”. Hai từ “nhấp nháy”, “chậm chạp” cho thấy,
hình như cái đói đã khiến bà không còn đủ niềm tin để hi vọng về những thay đổi trong cuộc sống của gia đình
mình nên bà không thể nhận ra thái độ và tâm trạng của Tràng.
- Đầu tiên, bà cụ Tứ ngạc nhiên khi thấy người đàn bà lạ ngồi ở mép giường của con trai bà. Bà cụ
ngạc nhiên vì sự xuất hiện của cô gái lạ trong nhà bà. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả rất tinh tế diễn biến tâm
trạng của nhân vật này qua chi tiết:
+ Động tác “đứng sững người lại” của bà cụ Tứ.
+ Hàng loạt những câu hỏi luẩn quẩn trong đầu bà: "Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?
Người đàn bà nào đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con
cái Đục mà. Ai thế nhỉ?"
- Nhưng khi Tràng bảo: “Thì u cứ hẵng vào trong nhà đã nào” thì “bà lão phấp phỏng bước theo con vào
trong nhà”. Từ “phấp phỏng” vừa diễn tả những bước đi không vững chãi, vừa cho thấy bà lão đã bắt đầu để
tâm đến cái cách mà Tràng đối xử với mình. Đến lúc nhìn thấy có người đàn bà lạ đứng ở đầu giường thằng con
trai mình thì thái độ bà lão thay đổi hẳn, bà hết sức ngạc nhiên với hàng loạt câu hỏi xuất hiện cùng lúc trong
đầu. Bà “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn” để nhìn kĩ người đàn bà lạ đó. Khác hẳn với từ “nhấp nháy” ở trên, từ
“hấp háy” bộc lộ rõ vẻ lúng túng nhưng có chủ ý của bà. Có thể thấy, bà cụ Tứ bắt đầu chủ động trước tình
huống bất ngờ đang diễn ra khi bà “lập cập bước vào” nhà trong niềm vui khôn tả của Tràng. Bà “lập cập” tức
là bà đang run rẩy trong cả bước đi lẫn ý nghĩ trước điều gì đó rất hệ trọng đang xảy ra trong ngôi nhà của mình
mà bà chưa thể xác định được.
- Khi hiểu ra người đàn bà ấy chính là vợ của con trai bà, bà cụ Tứ càng ngạc nhiên hơn. Bà ngạc nhiên vì
con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, lại đang thời đói khát nuôi thân mình còn chưa xong. Việc xảy ra quá đột
ngột làm bà lão không tin vào mắt mình, tai mình “bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”. Thật tội nghiệp
thay cho người mẹ ấy, cái đói và nỗi ám ảnh về chết chóc đã làm cho mẹ mất đi sự nhạy cảm vốn có của người
phụ nữ.
- Khi nghe lời giải thích đồng thời cũng là lời giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy ý nhị của Tràng: “Nhà tôi nó mới
về làm bạn với tôi đấy u ạ!”, ở bà cụ Tứ đã có một phản ứng không lời nhưng lại chất chứa đầy cảm xúc phức
tạp: “Bà lão hiểu rồi, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương
cho số kiếp đứa con mình”. Như vậy, trong cái nín lặng của bà cụ Tứ là sự nén chặt, sự dồn tụ rất nhiều cảm
xúc: vừa là niềm hạnh phúc khi thằng con mình có một người bạn đời để sẻ chia buồn vui, vừa là sự xót xa vì
việc trọng đại với đứa con trai lại diễn ra chóng vánh, bất ngờ đến thế, vừa là sự tủi phận của người mẹ cảm
thấy mình đã không làm tròn trách nhiệm, không lo lắng được cho hạnh phúc của con cái. Phải rất tinh tế Kim
Lân mới bắt được khoảnh khắc tâm lý tưởng như rất tĩnh tại nhưng thực chất lại đầy phức tạp, uẩn khúc này của
bà cụ Tứ.
- Dường như nhà văn đã hóa thân vào cảnh ngộ của nhân vật để lắng nghe, thấu hiểu nỗi lòng ai oán, xót xa của
người mẹ nghèo khi rơi vào hoàn cảnh éo le: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc ăn nên làm
nổi những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này...Còn mình thì... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không". Đằng sau lời độc thoại đó người đọc có thể thấy được nỗi cay đắng của bà đang
dâng lên tột đỉnh và người mẹ nghèo khổ ấy đã khóc: "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước
mắt...". Câu văn thật cảm động. Nó vừa nhoi nhói một tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa như cố nén cái

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 11


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

cảm giác bất đắc dĩ trước một việc đã rồi, lại vừa rưng rưng, xao xuyến một niềm vui. Bà khóc vì bà cảm thấy
mình chưa làm tròn trách nhiệm của một người mẹ. Vì người mẹ, nào chỉ sinh con ra, nuôi con lớn lên mà còn
có trách nhiệm dựng vợ, gả chồng cho con. Rồi khi có cháu, mẹ lại trở thành bà để nuôi dạy cháu. Như vậy,
trách nhiệm của người mẹ là trách nhiệm của cả một đời. Vì vậy, sự tủi thân của bà cụ Tứ cũng là điều dễ hiểu.
* Phân tích chi tiết: "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt...".
+ Những dòng nước mắt ấy là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến
bàlão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng…
+ Giọt nước mắt chỉ “rỉ” ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ
dằng dặc…
+ “Kẽ mắt kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân
lớn tuổi.
+ Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng.
 Đánh giá:
– Giá trị nội dung: Dòng nước mắt đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:
+ Hiện thực: phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945
+ Nhân đạo: cảm thông thương xót; tố cáo xã hội; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ
-Đặc sắc nghệ thuật: chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội tâm nhân vật đặc
sắc.
Liên hệ với hình ảnh “dòng nước mắt” của người mẹ - người đàn bà hàng chài trong “Chiếc
thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu:
+ Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ; bà cụ cảm thấy
ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình. Nhưng phía trước bà cụ
là ánh sáng của hạnh phúc nhen nhóm
+ Còn dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo
vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình bà đã diễn ra trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ
nữ vùng biển này thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho
con. Phía trước chị là một màu mù xám, bế tắc
– Về nghệ thuật thể hiện: Để khắc họa chi tiết dòng nước mắt, Kim Lân sử dụng hình thức diễn đạt
trực tiếp, giản dị, Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.
- Điều khiến cho người đọc bất ngờ và cảm phục là cách ứng xử đầy tình người của bà cụ Tứ đối
với người con dâu mới:
+ Dù Tràng không hề đề cập đến việc nhặt vợ ở đầu đường, xó chợ qua loa và chóng vánh như thế nào, nhưng
bằng kinh nghiệm sống của một người đã đi gần hết cả cuộc đời, bà cụ có thề hoàn toàn hiểu được sự thật trần
trụi, đắng chát của cuộc hôn nhân đó. Nhưng bà không hề nhìn cô con dâu bằng sự phán xét khắt khe đay
nghiến thường thấy của một bà mẹ chồng, mà bằng con mắt đầy bao dung và cảm thông.
+ Bà cụ Tứ không những không rẻ rúng mà còn thương xót, cảm thông với con dâu mới: "Bà lão khẽ thở dài”,
“đăm đăm nhìn người đàn bà” . Từ “đăm đăm” diễn tả sâu sắc sự thấu hiểu cảnh ngộ và sẵn sàng chia sẻ của bà
cụ đối với người đàn bà chấp nhận theo không con trai mình. Bà như tự bào chữa cho chính cho người con dâu:
“Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ. May ra
mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó"”. Với chi tiết này, bà cụ Tứ hiện lên
không chỉ là hình ảnh của tình mẫu tử thiêng liêng cao cả mà còn là biểu hiện của tình người ấm áp, bao dung.
Bằng sự nhân hậu, vị tha, bà đã sẵn sàng mở rộng lòng và dang đôi bàn tay để cưu mang, che chở, nâng đỡ
những kiếp người khốn khổ hơn mình. Ở đó, truyền thống đạo lý tốt đẹp của người Việt Nam “Lá lành đùm lá
rách” được thể hiện rất rõ.
+ Đối với người con dâu, bà tỏ ra rất chân tình nhằm xóa đi mặc cảm ở thị. Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng
và nhẹ nhàng nói với nàng dâu: "Ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng
mừng lòng...",“cốt sao chúng mày hòa thuận là u vui rồi”:

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 12


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

 Từ “dặng hắng” được Kim Lân dùng để giúp người đọc nhận ra sự thay đổi ngấm ngầm trong người
mẹ khốn khổ ấy, “dặng hắng” để trút đi những gánh nặng trong lòng, để bắt đầu một cuộc sống mới nhẹ nhõm
và vui vẻ hơn, để xóa đi những ngày u tối đã qua.
 Lời nói ấy đã thể hiện được vẻ đẹp tình người và tấm lòng bao dung, vị tha của người mẹ nghèo.
“Mừng lòng” chứ không phải “bằng lòng” bởi bà cụ Tứ đã chấp nhận tư cách con dâu của người phụ nữ xa lạ
hoàn toàn là vì tình. Bà lấy cái tình mà đối xử với con dâu. Câu nói ấy của bà cụ Tứ chẳng những giúp người
vợ nhặt trút bỏ gánh nặng tâm lí mà còn giúp con trai bà thở phào nhẹ nhõm.
+ Bà cụ còn nhắc nhở con dâu bằng cách nói rất chân thành về gia cảnh, rồi như để thanh minh, bà lão
lại nói với con dâu những lời đầy ân tình mà thương xót: "Kể có được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà
mình nghèo cũng chẳng ai người ta chấp nhặt chi lúc này. Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi.
Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá".
*Liên hệ với mẹ chồng của Dần trong “Một đám cưới” của Nam Cao:
Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng của Dần trong “một đám cưới”(Nam Cao). Người mẹ ấy “mở tài
ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khoả lấp sự “không có nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần.
Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả
năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói...
+ Bà buồn tủi vì bản thân chưa làm tròn bổn phận của người mẹ đối với con:
Nén lòng để tạo tâm lý thoải mái cũng như sự khởi đầu tốt đẹp nhất cho hai đứa con nhưng bà lão không
thể quên đi những ám ảnh về đói rét, chết chóc. Có thể nói đây là một nét tâm lý rất phức tạp và sâu kín của bà
cụ Tứ. Khi trở về với cõi riêng của mình, lòng người mẹ nghèo lạiquặn thắt với những đau đớn, xót xa. Điều
đó được thể hiện rất rõ qua chi tiết: “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa
dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối....Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà
lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình.” Kim Lân đã thấu suốt vào cái nhìn của bà cụ Tứ để
nhận thấy trong đó sắc màu chủ đạo là màu đen đặc của bóng tối. Cái bóng tối ở đây không chỉ là bóng tối của
đêm mà còn là bóng tối của đói nghèo, cực khổ đã bao trùm lên toàn bộ cuộc đời bà, là bóng tối của sự chết
chóc, ám ảnh qua nỗi nhớ về những người thân đã khuất là chồng và đứa con gái út. Bóng tối này đã đè nặng
lên ánh nhìn, đè nặng lên tấm lòng của người mẹ nghèo để trong lòng bà tràn lên một nỗi xót xa cho số phận
mình, nhưng lớn hơn là sự lo lắng đến xót một cho sự tồn tại, cho tương lai các con. Bởi vậy, sau phút trọn
vẹn với những cảm xúc của riêng mình, khi trở về với thực tại bà không còn nén nổi cảm xúc như trước đó mà
những lời nói ra đã nghẹn ngào trong nước mắt: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u
thương quá”. Những lời nghẹn ngào, xót xa của bà cụ Tứ đã tạo nên sự xúc động cao độ của câu chuyện về vẻ
đẹp của tình mẫu tử, lớn hơn là tình người. Kết thúc chuỗi tâm lí phức tạp của bà cụ Tứ trong đoạn văn này là
những giọt “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng” trên gương mặt khắc khổ với những nét buồn vui lẫn lộn vì
nghĩ đến ông lão chết sớm, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời cơ cực dài dằng dặc của mình.
+ Nhưng trên hết ở bà cụ Tứ vẫn là niềm vui trước hạnh phúc của con trai và niềm tin mãnh liệt
vào cuộc sống:
 Buổi sáng đầu tiên có con dâu mới, bà cụ Tứ “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng
beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Hình ảnh mới của bà cụ Tứ được Kim Lân diễn tả ngắn gọn trong bốn từ láy
“nhẹ nhõm”, “tươi tỉnh”, “rạng rỡ”, “xăm xắn”. Từ “bủng beo’ được đặt trong sự đối sánh với bốn từ trên là
cách để Kim Lân vẽ lên chân dung của một người mẹ hạnh phúc.
 Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: Bà an ủi các con bằng kinh nghiệm sống, bằng triết lí dân gian gần
gũi "Rồi may ra ông giời cho khá...Biết thế nào hở con, ai giầu ba họ, ai khó ba đời?". Câu tục ngữ: “Không ai
giàu ba họ, không ai khó ba đời” mà bà nói ra chính là cách động viên ấm áp nhất để Tràng và người vợ nhặt có
thể tin vào sự thay đổi tốt đẹp hơn.Điều này chứng tỏ bà là một bà mẹ chu toàn. Đây chính là niềm tin lạc quan,
hi vọng đổi đời ở bà cụ Tứ.
 Vui trong dự tính đan phên, ngăn phòng hạnh phúc cho con hay ước mơ “khi nào có tiền ta mua lấy
đôi gà….chẳng mấy chốc có ngay đàn gà cho mà xem..”.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 13


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

 Vui trong việc làm ở hiện tại: bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, sân vườn sạch sẽ. Bà chuẩn
bị bữa ăn đầm ấm cho gia đình. Trong bữa cơm ngày đói, bà chỉ toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng về
sau này. Để bổ sung cho bữa cơm chỉ có cháo loãng ăn với muối và độc một chùm rau chuối thái rối, “Bà lão
lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút”. Bà nở nụ cười tươi tắn và “đon đả”
động viên các con ăn món “chè khoán” do bà nghĩ ra. Bà lão gọi đó là món “chè khoán”, “chè khoán ngon đáo
để”. Chữ “ngon” ấy cần được cảm thụ một cách đặc biệt, đó không phải là xúc cảm về vật chất (ngon của cháo
cám) mà là cảm xúc về tinh thần. Phải chăng niềm vui trước hạnh phúc của con khiến bà biến đắng chát thành
ngọt ngào?
Bữa cơm đón nàng dâu mới minh họa rõ nét hơn cho cái thực trạng thảm thương của những con người
khốn khó đó: giữa cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng, một lùm rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo
cám. Cháo cám dẫu được mẹ già sang trọng gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng
ngắt, chát xít nơi cổ họng, không sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo cám như
đập tan cái không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh một lần nữa
xuất hiện, đe dọa hạnh phúc của con người. Thứ hạnh phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm ngay lập
tức bị đe dọa bởi cái đói. Nỗi xót xa, buồn tủi thấm trong trang văn của Kim Lân như lan sang người đọc.
Nhưng vượt lên trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm lòng, tình cảm của
người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “ Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Nào phải bà
không thấu cái vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà không hay về tương lai mù xám của những đứa
con mình? Người mẹ già ấy đã có nén lại nỗi lo lắng thắt lòng cho tương lai đôi trẻ, đã vượt qua mọi sượng
sùng, ngần ngại với người con dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy chút nguuồn vui cho không khí gia đình.
Bên tận cùng nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng trước mênh mông tấm lòng người mẹ. Hơn nữa, chẳng phải
ngẫu nhiên Kim Lân lại để cho người mẹ già nua tuổi tác, xế bóng ngả chiều lại là người khơi niềm vui trong
thảm cảnh ngày đói. Là Kim Lân thấy lửa, khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn,
thấy mầm xanh sự sống chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn khỏe khoắn
vươn lên từ chính một gốc cây sắp tròn cổ thục. Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một
chi tiết Kim Lân trọn vẹn gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người.
 Như để tránh đi những tủi hổ lại một lần nữa gợn lên trong lòng, bà vẫn gắng an ủi những đứa con của
mình bằng cách: “… Cám đấy mày ạ. Hì, ngon đáo để. Xóm ta khối nhà còn có cám mà ăn đấy”… Câu nói như
cắt cứa mãi trong mỗi chúng ta, mặc dù ăn cháo cám đắng ngắt nhưng không ai chê trách, ai cũng cảm thấy ấm
lòng. Nồi cháo cám yêu thương đong đầy tình mẹ và có cả lòng vị tha. Chính trái tim trìu mến bà cụ dành cho
con là nơi sản sinh ra dũng khí, giúp bà có thể vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã, tiếp tự ước mơ, tiếp tục khát
vong; và truyền thổi vào tâm hồn người con niềm tin yêu mãnh liệt, vào một ngày mai tươi sáng hơn. Sống cho
con trai, sống cho bản thân và sống cho cả cuộc đời. Ở người mẹ này, người ta không chỉ thấy một tình yêu
thương con thiết tha, mà còn có một tình yêu đời sâu sắc, với cái nhìn trìu mến đầy thương yêu với sự đời.
Tóm lại, hình ảnh nồi chè khoán chính là biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng
vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói.
 Một người mẹ nông dân già nua, “đứng ở bên kia cái dốc của cuộc đời” mà trong lòng chưa bao giờ,
chưa khi nào nguội tắt niềm hi vọng vào sự sống và tương lai.
- Khi nghe “ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống thúc thuế, dồn dập, vội vã”, “đàn quạ trên những cây gạo
chót vót ngoài chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen”,
bà lão ngoảnh vội ra ngoài, không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc. Giọt nước mắt khổ đau ấy như lời
kết án sâu sắc thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy dân ta đến thảm cảnh cùng cực. Giọt nước mắt cho thấy tấm
lòng chan chứa yêu thương con của người mẹ, những giọt nước mắt như cố kìm nén ( rỉ ra hai dòng nước mắt,
ngoảnh vội ra ngoài). Thương con, mừng lòng trước hạnh phúc của con, bà đào sâu chôn chặt, dấu đi nỗi lo
lắng, bà khóc thầm, khóc vụng để rồi để rồi chỉ nói những lời yêu thương, động viên con.
* Tóm lại:
- Bà cụ Tứ là người mẹ từng trải, hiểu biết, nhân hậu, bao dung, lạc quan, là nhân vật điển hình về những người
nông dân nghèo khổ.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 14


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

-Miêu tả chân thực, tinh tế diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã khắc họa thành công hình
tượng một người mẹ nông dân tuy trong hoàn cảnh nghèo khổ nhưng lại ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm
cao quý: giàu lòng tình yêu thương đùm bọc người cùng cảnh ngộ, bao dung, vị tha và luôn có niềm tin vào sự
sống, tương lai.
-Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ góp phần quan trọng làm nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của của
tác phẩm. Qua đó, gửi gắm niềm tin mãnh liệt của nhà văn vào con người, sự sống khi đối mặt với những thử
thách nghiệt ngã của hoàn cảnh: “Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con
đường sống. Dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng
về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra con người” (Kim
Lân)
* Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí của Kim Lân
- Đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo để phát hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.
- Với năng lực phân tích tâm lí tinh tế, ngôn ngữ chọn lọc và lựa chọn những chi tiết đặc sắc, Kim Lân đã diễn
tả đúng tâm lí một bà cụ nông dân nghèo khổ, tội nghiệp nhưng rất hiểu đời và có tấm lòng nhân ái cảm động.
- Nhờ có bà cụ Tứ mà câu chuyện nhặt vợ của Tràng được soi chiếu từ một góc mới, làm bật lên các âm hưởng
khác nhau: đau buồn và hứng khởi, bi quan và lạc quan, lãng mạn và đời thường. Với cách sử dụng điểm nhìn
của bà cụ Tứ, tâm trạng riêng của người mẹ từng trải, rất thương con, vừa mừng vừa lo trước cảnh hai đứa con
về với nhau, tác giả Kim Lân đã thể hiện tài năng xây dựng tâm lí nhân vật, am hiểu con người nông thôn.
- Mở rộng: Theo lời nhà văn Kim Lân, “Khi viết về cái đói, thường mọi người có ý nghĩ là khi đói con người ta
khổ cực và đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù trong tình huống
bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc,vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và
vẫn hi vọng ở tương lai”. (Học sinh có thể liên hệ, mở rộng và so sánh với giá trị nhân đạo trong tác phẩm của
các tác giả khác cùng viết về đề tài người nông dân).
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, đối thọai sinh động, hấp dẫn; ngôn
ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể; miêu tả tâm lí nhân
vật tinh tế, sắc sảo…
4. Giá trị của tác phẩm
4.1 Giá trị hiện thực
-Phơi bày bức tranh nạn đói năm 1945
-Phơi bày bức tranh về số phận con người: xóm ngụ cư, Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt.
-Tố cáo tội ác của thực dân phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
4.2 Giá trị nhân đạo
* Giải thích khái niệm giá trị nhân đạo: Gía trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học
chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng
những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ.
* Biểu hiện:
1. Tác phẩm bộc lộ niềm xót xa, thương cảm với những con người có số phận bất hạnh, đói khổ, cận kề
với cái chết, qua đó, tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít đã gây nên nạn đói khủng khiếp năm 1945
(điểm qua những chi tiết miêu tả xóm ngụ cư trong nạn đói………)
2. Tác phẩm đi sâu khám phá và nâng niu trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống và niềm tin
vào tương lai ở ba nhân vật
- Những khát khao hạnh phúc ở Tràng: cái tặc lưỡi liều lĩnh của Tràng, cảm giác mới mẻ “mơn man khắp
da thịt”, những sắc thái khác nhau của tiếng cười, sự tiêu hoang mua hai hào dầu, cảm giác êm ái lơ lửng sau
đêm tân hôn.
- Ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật thị: chấp nhận theo không Tràng, bỏ qua ý thức về danh
dự.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 15


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Ý thức vun đắp cho cuộc sống ở các nhân vật: bà cụ Tứ bàn về chuyện đan phên ngăn phòng, việc nuôi
gà, mẹ chồng nàng dâu dọn cửa nhà cho quang quẻ,…
- Niềm hi vọng về một cuộc đổi đời của các nhân vật: hình ảnh lá cờ đỏ hiện lên trong óc Tràng,…
3. Tác phẩm thể hiện lòng tin sâu sắc vào phẩm giá và lòng nhân hậu của con người.
- Cái đẹp tiềm ẩn ở Tràng: sự cảm thông, lòng thương người, sự hào phóng, chu đáo, tình nghĩa và thái độ
trách nhiệm..
- Sự biến đổi ở người vợ nhặt sau khi về làm vợ Tràng: đảm đang, ý tứ, đúng mực,…
- Tấm lòng nhân hậu ở bà cụ Tứ: thương con rất mực, cảm thông trước tình cảnh của nàng dâu mới, trăn trở
về bổn phận làm mẹ, cố tạo niềm vui cho gia đình giữa cảnh sống thê thảm…
*Đánh giá chung:
- Điểm đáng nói nhất ở gái trị nhân đạo của tác phẩm này là niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao
động, vào bản năng sống, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo ở đây, rõ ràng có nét mới mẽ
hơn so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học hiện thực trước CM8.
- Giá trị nhân đạo đã tạo nên sức hấp dẫn, chiều sâu tư tưởng của tác phẩm. Có được giá trị nhân đạo này
bởi KL có sự gắn bó ân tình sâu nặng với người nông dân.
5. Nghệ thuật
- Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất
hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình và góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm.
- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, dựng nên các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người
đọc.
- Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, thể hiện tâm lí tinh tế.
- Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ - một trong những đặc
trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân.
III. TỔNG KẾT
Qua tác phẩm, Kim Lân muốn tố cáo tội ác của bọn thực dân phát xít gây ra nạn đói khủng khiếp năm
1945 và khẳng định: ngay trên bờ vực của cái chết, con người vẫn hướng về sự sống, tin tưởng ở tương lai, khát
khao tổ ấm gia đình và yêu thương đùm bọc nhau.
Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Trong tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tôi thế
đấy, nhà văn Nga Nhicôlai Oxtrôpxki đã để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả
những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”. “Vợ nhặt” là bài ca về tình người ở những người nghèo
khổ đã “biết sống” như con người ngay giữa thời túng đói quay quắt.
CÁC ĐOẠN VĂN TIÊU BIỂU
Đề 1: Nhân vật người vợ nhặt
Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười
như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt, cười tít.
Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế.
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy
đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 16


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Điêu! Người thế mà điêu!


Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo
quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
-Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.
– Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này, hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
– Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
– Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi.
– Rích bố cu, hở !
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả :
– Ăn thật nhá ! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm
dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở :
– Hà, ngon ! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười :
– Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một
cái:
– Chậc, kệ!
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn văn trên. Từ đó nhận xét về cái nhìn
mang tính phát hiện của nhà văn Kim Lân khi viết về số phận con người trong nạn đói năm 1945.

Đề 2: Nhân vật người vợ nhặt


Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mộc lổn nhổn những
búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh cái ngực gầy lép nhô lên nén một tiếng thở dài. Tràng xăm xăm bước
vào trong nhà, nhấc tấm phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát niêu áo vứt bừa bộn cả trên giường,
dưới đất. Hắn quay lại nhìn thì cười cười:
- Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!
Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng
đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét
bước vội mấy bước ra sân.
Hắn chạy loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn
ngồi mớm ở mép giường. Hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần.
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn văn trên. Từ đó nhận xét về sự thay
đổi tính cách của nhân vật người vợ nhặt.
Đề 3: Nhân vật người vợ nhặt
Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui
bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống
bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 17


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng.
Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy….
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn văn trên. Từ đó nhận xét về tinh thần
nhân đạo của nhà văn Kim Lân.
Đề 4: Nhân vật Tràng
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con
mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mây cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì
vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy
chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang
nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi
từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đôi với hắn lại rất thấm thía
cảm động. Bỗng nhiên hắn thây hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn
chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo
lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại
căn nhà.
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về tài năng miêu tả
tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Đề 5: Nhân vật Tràng
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã
bã ra chát xít… Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
– Việt Minh phải không?
– Ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi
trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đây. Họ đi cướp thóc đây. Tràng không hiểu gì
sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.
À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thây ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.
Ngoài đình tiếng trông thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về cái nhìn nhân
đạo của nhà văn Kim Lân về cảnh ngộ của người nông dân trong xã hội cũ.
Đề 6: Nhân vật bà cụ Tứ
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự,
vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong
nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của
bà rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách
bợt. Bà lão nhìn thì và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 18


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng
phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
-Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ
Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
-Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà báo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá…
Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối chùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc
trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ
ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng
dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...
- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ
nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật :
- Kể ra làm được dăm bà mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái
lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này,
u thương quá…
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về tài năng miêu
tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Đề 7: Nhân vật bà cụ Tứ
Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui
bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống
bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng.
Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy….
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và
nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau.
Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người. Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Ngoài đình
bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng
bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.Người con dâu khẽ thở dài, thị
nói lí nhí trong miệng:
-Trống gì đấy, u nhỉ?
-Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã
sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.

(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét cái nhìn của nhà
văn Kim Lân về tình người trong nạn đói.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 19


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích tình huống truyện lạ và éo le mà Kim Lân đã xây dựng trong truyện ngắn Vợ nhặt.

I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Một trong những yếu tố làm nên giá trị và thành công của truyện Vợ nhặt là
nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: lạ và éo le.
II. Thân bài:
1. Khái niệm tình huống truyện:
- Tình huống truyện luôn giữ vai trò hạt nhân của cấu trúc thể loại. Nó là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi
sự kiện đặc biệt, khiến hiện thực đời sống đó hiện lên đậm đặc nhất, ý đồ tư tưởng của tác giả cũng bộc lộ đậm
nét nhất, tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét nhất.
- Tình huống trong Vợ nhặt là tình huống nhặt vợ giữa lúc nạn đói khủng khiếp đang xảy ra ở miền Bắc
nước ta. Đây là tình huống lạ, éo le, hấp dẫn. Qua đó giá trị hiện thức và giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể
hiện rất sâu sắc.
2. Phân tích cụ thể:
a. Tình huống lạ:
- Cái lạ của tình huống thể hiện ngay ở nhan đề Vợ nhặt:
+ Lấy vợ, lấy chồng là chuyện quan trọng của đời người. Vậy mà anh nông dân trong truyện đã nghèo,
lại xấu trai, lại là dân ngụ cư lại nhặt được vợ giữa cảnh đói khát đang tràn vào xóm ngụ cư “ người chết như
ngả rạ… những cái thây nằm còng queo bên đường”
+ Chuyện nghiêm túc thiêng liêng trở thành trò đùa. Chuyện tưởng đùa lại là sự thật. Tình huống lạ
này đã gợi đến thân phận bị rẻ rung của các nhân vật trong truyện nói riêng, của nhân dân ta nói chung trong
nạn đói 1945 do bạn thực dân Pháp và phát xít Nhât gây ra.
- Cái lạ của tình huống thể hiện ở số phận các nhân vật:
+ Những người dân trong xóm ngụ cư hết sức ngạc nhiên, xôn xao, thắc mắc.
+ Ngay cả bà cụ Tứ cũng sững sờ ngạc nhiên.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 20


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

+ Tình huống bất ngờ càng trở nên lạ khi chính Tràng, kẻ nhặt được vợ cũng bán tín, bán nghi “ Ra
hắn đã có vợ rồi ư?”.
- Tình huống này lạ bởi:
+ Sau hai lần gặp gỡ, một lời nói đùa “tầm phơ tầm phào”, bốn bát bánh đúc anh ta có vợ liền, mà lại là
vợ theo không.
+ Thời buổi đói khát mà Tràng lại đèo bong, đưa thêm miệng ăn về nhà.
b. Tình huống éo le:
- Éo le với các nhân vật:
+ Với Tràng: cũng lo lắng “ chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không
lại còn đèo bòng”. Nhưng vì thương cảm, Tràng đã “chậc,kệ” dứt khoát, chấp nhận bởi trước mắt anh là người
đàn bà tiều tụy vì đói khát, lại trông cậy vào anh. Hơn nữa, như mẹ anh nghĩ “ Người ta có gặp bước khó khăn,
đói khổ này mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”
+ Với người vợ nhặt: đói đến tiều tụy, thảm hại; đói đến mức quên cả sĩ diện và cái duyên con gái, gợi ý
để được ăn, đói đến mức theo không một người đàn ông gặp ngòi đường.
+ Với bà cụ Tứ: lòng đầy mâu thuẫn trước cảnh ngộ éo le này
- Éo le trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới: thật tội nghiệp
Bữa ăn chỉ có cháo loãng ăn với muối và một lùm rau chuối thái rối; cám nấu. tất cả bày trên cái mẹt
rách. Đây là chi tiết chân thật đến đắng lòng, đẩy tình huống truyện đến cao trào của sự éo le.
3. Ý nghĩa của tình huống truyện:
- Tình huống truyện làm nổi bật giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
+ Tố cáo tội ác của bọn thống trị, gây nên số phận bi thảm cho đồng bào ta.
+ Thể hiện và ca ngợi tình thương, niềm khát khao hạnh phúc bình dị của người lao động.
- Tình huống truyện lạ và éo le khiến truyện thêm độc đáo, hấp dẫn và xúc động.
III. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề nghị luận.
- Cảm nhận của bản thân: Tình huống lạ và éo le mà Kim Lân sáng tạo đã giấu kín thái độ của người kệ
chuyện. Nhưng đằng sau các câu chữ, vẫn ân chứa tấm lòng thương cảm sâu sắc của nhà văn với kiếp người
đau khổ, bằng một cái nhìn xót xa, trìu mến, một tấm lòng đôn hậu, trắc ẩn. Giá trị hiện thực và nhân đạo được
lồng trong một tình huống éo le nên càng có sức hấp dẫn người đọc.
Đề : Phân tích tình huống truyên độc đáo trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân.
GỢI Ý LÀM BÀI
A. MỞ BÀI
(Có thể tham khảo đoạn văn sau:
Một trong yếu tố làm nên nét đặc sắc của truyện “Vợ nhặt” là Kim Lân đã sáng tạo một tình huống truyện độc
đáo, hấp dẫn. Tình huống truyện góp phần thể hiện giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm và thể hiện
sâu sắc chủ đề của tác phẩm).
B. THÂN BÀI
1. Khái niệm tình huống truyện
-Tình huống truyện là sự kiện quan trọng, thu hút tất cả các nhân vật xoay quanh nó, được xem là cái cốt
lõi của truyện ngắn. Tình huống là hoàn cảnh xảy ra làm điều kiện cho câu chuyện phát triển, đồng thời là hoàn
cảnh sống và hoạt động của nhân vật góp phần thể hiện tính cách nhân vật và chủ đề tác phẩm.
- Tài năng sáng tạo của nhà văn được thể hiện trước hết ở việc tạo tình huống truyện. Trong truyện ngắn
“Vợ nhặt”, Kim Lân đã sáng tạo một tình huống truyện độc đáo: tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ giữa
những ngày tối sầm vì đói khát chỉ bằng bốn bát bánh đúc và mấy câu tầm phơ, tầm phào.
2. Tình huống truyện trong “Vợ nhặt” độc đáo, hấp dẫn
-Tình huống truyện của tác phẩm này thể hiện ở ngay nhan đề tác phẩm: "Vợ nhặt". Anh Tràng đã nhặt
được vợ như người ta nhặt được thứ đồ vật vô chủ nào đó. Người ta lấy vợ có dạm hỏi, cưới xin, cỗ bàn nhưng
Tràng lấy vợ “chỉ tầm phơ tầm phào mấy câu” và bốn bát bánh đúc.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 21


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

-Hơn nữa, Tràng là một người nghèo khổ, thô kệch, lại là dân xóm ngụ cư. Với lai lịch ấy, Tràng khó lòng
kiếm được vợ. Đã vậy, gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn đeo bám, Tràng lại có vợ. Trong hoàn cảnh đó,
Tràng "nhặt" được vợ là nhặt thêm một miệng ăn, cũng đồng thời là nhặt thêm một gánh nặng cho mình, đẩy
mình đến gần hơn với cái chết. Cho nên, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra
nước mắt. Vì thế chưa ở đâu, địa vị người vợ trở nên thê thảm đến thế, và cũng chưa bao giờ hạnh phúc của con
người lại trở nên mong manh đến thế.
- Cảnh nên vợ nên chồng của Tràng trong cảnh đói khát diễn ra thật nhếch nhác, thảm hại: Trong bóng
chiều chạng vạng, khi đôi trai gái dắt nhau về xóm ngụ cư. Họ đi trong sự bao vây của cái chết. Những bóng
người đói…, tiếng quạ…mùi gây các xác người chết…tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm tân hôn…
3. Ý nghĩa (tác dụng) của tình huống truyện
3.1.Tình huống “nhặt vợ” oái oăm của Tràng giữa ngày đói kém đã gây ngạc nhiên cho mọi người:
- Xóm ngụ cư: Tình huống Tràng nhặt vợ đã đem luồng sinh khí mới cho xóm nhỏ từ trẻ con đến người lớn.
Họ nhìn theo bóng Tràng và người đàn bà, mỗi người một suy nghĩ khác nhau, ai cũng ngạc nhiên, phân vân "ai
đấy nhỉ ? Hay là người nhà bà cụ Tứ dưới quê lên", " hay là vợ anh cu Tràng ?". Họ cùng bàn tán, phán đoán
rồi cùng nghĩ: "biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?", cùng nín lặng.
- Bà cụ Tứ: Bà lão ngạc nhiên vì sự xuất hiện của người phụ nữ lạ trong nhà bà. Bà “đứng sững người lại”
và hàng loạt những câu hỏi lẩn quẩn trong đầu bà: "Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người
đàn bà nào đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục
mà. Ai thế nhỉ?".
- Tràng: Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình: "Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến
bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn có vợ rồi đấy ư?". Thậm chí sáng hôm sau, Tràng vẫn
chưa hết bàng hoàng “Việc hắn có vợ đến hôm nay, hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.
3.2. Tình huống truyện góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
Những con người bị hoàn cảnh đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng nhưng họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự
sống, niềm khát khao tổ ấm gia đình; họ nương tựa vào nhau, cùng nhau hi vọng vào tương lai.
(Phân tích cụ thể niềm khát khao sống, khát khao hạnh phúc và lòng yêu thương của các nhân vật Tràng, bà cụ
Tứ và người vợ nhặt).
3.3. Tình huống truyện góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm
+Giá trị hiện thực: lên tiếng tố cáo xã hội thuộc địa, phong kiến đã gây nên nạn đói khủng khiếp năm
1945. Nạn đói đã khiến nhân phẩm của con người bị hạ thấp đến mức người ta có thể “nhặt được” vợ.
+Giá trị nhân đạo: niềm tin vào con người trong cuộc đấu tranh chống lại cái đói và cái chết.
=> Truyện “Vợ nhặt” là bài ca về tình nghĩa, về những khát vọng chân chính của con người:
- Là bài ca về tình nghĩa:
+ Tình mẫu tử: Việc Tràng lấy vợ gây cho bà cụ Tứ những phản ứng tâm lí trái ngược nhau (vui - buồn tủi,
thương - lo), xuất phát từ lòng mẹ thương con.
+ Tình cảm của mọi người.
- Bài ca về những khát vọng chân chính của con người:
+ Đề cao, khẳng định khát vọng hạnh phúc của con người: Trong tình cảnh bi đát, con người vẫn có thể tạo
dựng được hạnh phúc. Người nhặt vợ và người vợ nhặt khi đến với nhau tạo thành một gia đình hạnh phúc. Niềm
hạnh phúc ấy lớn lao, thiêng liêng đến mức làm thay đổi tất cả mọi người, khiến con người trở nên người hơn.
+ Khẳng định mạnh mẽ khát vọng sống, niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống, vào tương lai.
4. Nghệ thuật tạo tình huống
Kim Lân đã chuẩn bị cho tình huống xuất hiện tự nhiên. Nhà văn dụng công miêu tả nạn đói khủng
khiếp để làm nền cho tình huống éo le, đầy kịch tính là việc Tràng lấy vợ:
+ Một đám cưới dâu về buổi chiều đi qua con ngõ xóm đầy bóng người dật dờ, xanh xám, bầu trời vọng tiếng
quạ kêu.
+ Đêm tối tân hôn của đôi vợ chồng trẻ lại nghe tiếng hờ khóc từ ngoài xóm vọng vào.
+ Bữa ăn sáng đón nàng dâu chỉ toàn là cháo lõng bõng cùng lùm rau chuối và món chè khoán.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 22


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

=>Thế nhưng, nếu không có nạn đói ấy thì làm sao họ nên duyên chồng vợ, làm sao thấy được bản chất tốt đẹp
của con người.
C. KẾT BÀI
-Nghệ thuật tạo dựng tình huống độc đáo của Kim Lân đã tạo điều kiện cho câu chuyện phát triển hợp logic và
góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề của tác phẩm.
- Tác phẩm của Kim Lân chính là một bài ca về sự sống, là lời khích lệ động viên con người phải biết hướng tới
sự sống, tin tưởng ở tương lai.

Đề : Hãy phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” để làm sáng tỏ ý kiến sau:
“Dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng những người dân xóm ngụ cư vẫn yêu thương và khao khát hạnh
phúc”.

Phần thân bài cần đảm bảo các luận điểm sau:
1. Hoàn cảnh khốn cùng
- Bức tranh ngày đói được dựng lên bằng: hình ảnh, âm thanh, mùi vị.
 Câu chuyện mở ra trong không khí thê thảm của người đói. Cái đói đã hiện ra ở những hình ảnh ghê rợn
thảm thương: bóng người xanh xám như bóng ma. Cái đói làm cho con đường về làng trở nên khẳng khiu, lũ trẻ
ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích.
 Âm thanh của tiếng quạ kêu cứ gào lên từng hồi thê thiết, càng khiến bức tranh ngày đói trở nên ảm
đạm.
 Bao trùm lên toàn bộ bức tranh ngày đói là mùi thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
 Tất cả những âm thanh, hình ảnh, mùi vị đó gợi lên bầu không khí chết chóc của cõi âm, cõi địa ngục.
Qua những trang văn của KL ta như được trải lòng cùng nỗi đau của cả dân tộc.
- Không chỉ dừng lại ở bức tranh chung, cái đói thực sự lan đến từng gia đình, đe dọa từng sinh mạng.
 Trong những ngày đói, miếng ăn trở thành vấn đề cấp thiết. Tất cả mọi người đều lo lắng cho sự tồn tại,
giằng co giữa sự sống và cái chết. Ranh giới ấy thật mong manh. Cái đói đã đẩy người lao động đến bước
đường cùng: giá trị con người trở nên rẻ rúng đến thảm hại. Người ta có thể nhặt được vợ như nhặt bất kì cái
rơm cái rác vương trên đường. Tràng chỉ bằng bốn bát bánh đúc và mấy lời tầm phào, tầm phơ mà lấy được
vợ.
 Cái đói đã đẩy người vợ nhặt đến bước đường cùng, làm xấu đi cả nhân hình, nhân tính. Vì đói mà thị
tả tơi, gầy sọp hẳn đi đến Tràng cũng không nhận ra. Vì đói mà thị trơ tráo bám lấy Tràng, gạ gẫm miếng ăn
dù mới quen biết. Và thị đã không ngần ngại theo Tràng về nhà khi anh ta nói đùa “có về với tớ thì ra khuân
hàng lên xe cùng về”.
 Thân phận con người đã đẩy xuống hạng bèo bọt.
 Cái đói còn hiện ra thảm hại trong gia đình Tràng: đêm tân hôn diễn ra trong tiếng hờ khóc tỉ tê, mùi
đốt…Bữa ăn đón dâu mới chỉ có lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo…Mọi người ăn mà không
dám nhìn nhau trong khi ngoài đường tiếng trống thúc thuế vẫn cứ dồn dập. Thật ai oán, xót xa.
 Qua những trang văn của Kim Lân ta hiểu nỗi khốn cùng của người nông dân trong nạn đói 1945 và
càng hiểu hơn tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay gây lên thảm
cảnh đau đớn. Đó cũng là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm này.
2. Những người dân xóm ngụ cư vẫn yêu thương và khát khao hạnh phúc (Phân tích lần lượt các
nhân vật trong truyện…)
Đề: Khung cảnh làng quê Việt Nam ngày đói
* Khái quát
- Bối cảnh lịch sử có thật: nạn đói 1945, cướp đi 1/10 dân số của Việt Nam.
- Tác phẩm hoàn thành khá lâu sau sự kiện lịch sử này nhưng cảm quan về cái đói vẫn ngấm trong từng chữ, ám
ảnh cái nhìn làng quê của nhà văn.
* Không gian làng quê Việt Nam ngày đói quay quắt, xơ xác, tiêu điều

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 23


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Cái đói “tràn đến”: Sự hiện hình của cái đói giống như một thảm họa, một cuồng phong, càn quét mọi sinh
linh.
- Thời gian: chiều “chạng vạng”
- Không gian: Con đường vì cái đói mà “ khẳng khiu”.
- Con người:
+ Trẻ con: ủ rũ, không buồn nhúc nhích.
+ Người sống: Xanh xám như những bóng ma, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma.
+ Người chết: “như ngả rạ”, ba, bốn cái thây nằm cỏng queo bên đường”
-Bút pháp tả thực đến trần trụi, qua những so sánh cụ thể, tạo ám ảnh. Câu văn tả người sống liền kề câu văn tả
người chết, hao hao nhau, từa tựa nhau, nhấn mạnh ấn tượng về ranh giới mong manh giữa sống và chết, cõi âm
và cõi dương, chỉ chút sơ sẩy là sa vào âm địa.
Những con người dắt díu bồng bế nhau hôm nay có thể sẽ là mấy cái “thây nằm còng queo bên đường” ngày
mai.
+ Âm thanh: Tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” --> “sứ giả” của cái chết, cõi âm --> gợi ám ảnh rợn lạnh,
âm khí.
+ Mùi vị: “vẩn lên mùi ẩm thối”: rác, mùi gây của xác người.
* Tóm lại: Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã khơi lật được mảng hiện thực “tối sầm lại vì đói khát” tạo ấn
tượng về một cõi dương đậm đặc âm khí. Cả làng quê giống như một đám ma khổng lồ mà bản nhạc huyên
luôn ám ảnh chỉ chực cất lên khi có thêm một ma đói.
* Câu hỏi: Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân:
- Nhan đề gây ấn tượng, thu hút người đọc vì không phải cưới vợ theo phong tục cưới xin truyền thống
mà là “nhặt được vợ”
- Nhan đề Vợ nhặt đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận rẻ rúng của người dân nghèo trong nạn
đói khủng khiếp năm 1945: nhặt vợ như nhặt một thứ đồ vô chủ nào đó.
- Nhan đề tác phẩm thể hiện nét đẹp của con người lao động Việt Nam: giàu lòng thương người, khát
khao sự sống, hạnh phúc gia đình…
- Nhan đề còn mở ra một tình huống truyện éo le, độc đáo.
Câu hỏi: Trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân có chi tiết sau:
“Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi
xuống bên cạnh cái mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy, vừa cười:
- Chè đây. – Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”
Chè khoán được nhắc đến trong tác phẩm thực sự là gì? Hãy nêu suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa của chi
tiết nghệ thuật này.
- Chi tiết “chè khoán” được nhắc đến trong tác phẩm thực sự là nồi cháo cám trong bữa cơm đón nàng
dâu mới.
- Ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật này:
+ là chi tiết nghệ thuật thật “đắt” tạo nên dư vị trong lòng người đọc .Với nồi cháo cám, bà cụ Tứ
vừa mừng đón dâu mới, vừa cố tạo niềm vui dù là mỏng manh cho hai con
+ nói lên tình cảnh vô cùng thảm hại của người dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
+ thể hiện tấm lòng thương người, thương con, đôn hậu của người mẹ già nghèo khổ.
+ thấm đượm giá trị nhân đạo cao cả và chứa đựng giá trị hiện thực sâu sắc trong tác phẩm.
Câu hỏi: Cảm hứng sáng tác và ý nghĩa truyện ngắn “ Vợ nhặt”.
- Cảm hứng sáng tác truyện ngắn Vợ nhặt bắt nguồn từ nạn đói năm 1945 và chủ yếu là từ những con
người trong nạn đói ấy.
- Ý nghĩa truyện ngắn Vợ nhặt: Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người
nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui , mà hi vọng.
Câu hỏi: Ở phần cuối truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, khi nghe tiếng trống thúc thuế dồn dập, trong
suy nghĩ của nhân vật Tràng hiện lên những hình ảnh nào? Cho biết ý nghĩa của những hình ảnh đó?
- Hình ảnh trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện Vợ nhặt: đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 24


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Ý nghĩa:
+ Về nội dung: Tràng đã nghĩ đến những người đói được Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho. Lá cờ
đỏ thắm là hình ảnh của cách mạng. Lá cờ đỏ gắn với ước mơ, tín hiệu dự báo về một sự đổi đời.
+ Về nghệ thuật: Tạo kết thúc mở cho tác phẩm.
DẠNG ĐỀ BÁM SÁT CẤU TRÚC ĐỀ THI MINH HỌA CỦA BỘ 2019
Đề 1: Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã miêu tả diễn biến tâm lí của Tràng khi có vợ thật đặc sắc. Đó
là vào buổi chiều khi đưa thị về nhà: “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính
hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân…Hắn loanh quanh chạy ra ngõ đứng
ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà”, và vào buổi sáng đầu tiên khi có vợ, khi Tràng thức dậy:
“Bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương gắn bó với cái nhà hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ
sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che nắng che mưa. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn
ngập trong lòng. Bây giờ hắn thấy hắn mới nên người, hắn thấy hắn phải có bổn phận phải lo lắng cho vợ con
sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sữa lại căn nhà”.
Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng qua hai lần miêu tả trên, từ đó nhận xét về sự thay đổi ở nhân vật này.
GỢI Ý
1. Chi tiết 1
a.Hoàn cảnh:
- Tràng là người dân lao động nghèo của xóm ngụ cư. Anh làm nghề kéo xe bò thuê.
- Sau hai lần gặp gỡ, chỉ với mấy câu đùa vu vơ và bốn bát bánh đúc, Tràng đã có được vợ.
- Trên đường về nhà, Tràng cảm thấy vừa ngượng nghịu vừa vui mừng.
b. Phân tích:
- “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà”: Tràng thấy bối rối, ngại ngùng khi một mình đối diện với người vợ
mới cưới. Đó là người mà Tràng chỉ mới hai lần gặp gỡ mà bây giờ đã thành người bạn đời của Tràng. Cảm
xúc ngạc nhiên đến mức tội nghiệp ấy là nét tâm lí chân thực ở một người đàn ông nghèo khổ, cùng đinh
đến mức không tin vào hạnh phúc bất ngờ của mình.
- Sở dĩ “chợt hắn thấy sờ sợ” là vì chàng sợ thị sẽ không chấp nhận gia cảnh của mình. Nó trái ngược hoàn
toàn với hành động hào phóng đãi một người đàn bà xa lạ ăn liền một chặp bốn bánh đúc, mua cho thị cái
thúng con, sẵn sàng bỏ ra hai hào để mua dầu thắp đèn cho sáng. Tràng còn sợ chính hành động “nhặt vợ”
đường đột của mình sẽ khiến mẹ Tràng khó có thể chấp nhận.
- Hành động “lấm lét bước vội ra sân: Từ láy “lấm lét” thể hiện sự thiếu tự tin của Tràng khi anh đang ở
trong chính ngôi nhà của mình. Có lẽ sự mặc cảm về thân phận đã luôn ám ảnh anh. Tràng “bước vội ra
sân” chủ yếu là tránh mặt thị, không muốn thị thấy thái độ lúng ta lúng túng vụng về của Tràng.
- “Hắn loanh quanh chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà”: cử chỉ ngây
thơ như một đứa trẻ. Tràng không cố ý đón mẹ mà là đang cố ý tránh mặt thị, rồi lại “nhìn trộm vào trong
nhà” như muốn dò ý tứ của người vợ nhặt.
c. Ý nghĩa
- Chi tiết trên đã cho thấy diễn biến tâm lí đầy phức tạp ở Tràng. Đó là cảm xúc vui sướng, hạnh phúc xen
lẫn cả sự hồi hộp, lo lắng. Những cử chỉ, hành động của Tràng đã cho thấy Tràng vẫn chưa thực là người
đàn ông chững chạc của gia đình, vẫn còn nét hồn nhiên của một chàng trai mới lớn.
- Thể hiện tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân. Tác giả quan sát tinh tế mọi diễn biến tâm lí, hành
động, cử chỉ của nhân vật. Sử dụng đắt các từ láy diễn tả tâm lí, tính cách nhân vật.
2.Chi tiết 2
a.Hoàn cảnh:
Buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng cảm thấy “trong người lửng lơ, êm ái như người từ trong giấc mơ đi ra”
và bắt đầu cảm nhận được sự thay đổi của cảnh vật xung quanh. Quang cảnh nhà cửa sạch sẽ, mẹ đang giẫy
cỏ, vợ đang quét sân. Khung cảnh hiện lên bình dị nhưng ấm cùng tình cảm gia đình. Tất cả như tạo nên
một sinh khí mới mẻ thổi lên ngọn lửa sự sống trong cuộc đời của mẹ con Tràng.
b.Phân tích

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 25


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- “Hắn thấy hắn yêu thương và gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”: Tràng ý thức về cuộc sống gia đình,
thấy yêu thương và gắn bó với những điều giản dị, gần gũi quanh mình. “Cái nhà” của hắn bấy giờ đã trở
thành tổ ấm của hạnh phúc, không chỉ đơn thuần là nơi che mưa che nắng cho một ngày mưu sinh vất vả
như trước. Đặc biệt là, tình cảm yêu thương, gắn bó ấy chính Tràng không sao lí giải cho rõ được vì thế hắn
mới thấy “lạ lùng”. Bởi vì trước đây, Tràng là một người vô ưu, vô lo, lại phải bươn chải mưu sinh kiếm
sống nên anh không có thời gian để nhận những điều giản dị nhưng vô cùng ý nghĩa đang hiển hiện trong
cuộc sống của mình. Từ suy nghĩ đó, với Tràng, cái nhà ấy giờ đã trở thành “một gia đình” đúng nghĩa.
Tràng có mẹ, có vợ và có cả một tương lai, cuộc đời trước mắt.
-Tràng thấy “vui sướng, phấn chấn”. Tâm trạng Tràng như vui hẳn lên khi đón nhận niềm hạnh phúc mới
mẻ đang đến với mình.
-Tràng thấy mình phải có bổn phận, trách nhiệm lo cho vợ con sau này. Đây là bước chuyển biến quan
trọng trong suy nghĩ, nhận thức của Tràng đối với gia đình. Tràng chẳng những “yêu thương”, “gắn bó” mà
còn phải có trách nhiệm với nó. Từ một chàng trai vô tư, hời hợt giờ đây Tràng đã thực sự là người đàn ông
chững chạc, là một người chồng, người con có trách nhiệm.
- “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sữa lại căn nhà”: Từ láy
“xăm xăm” cho thấy hành động của Tràng rất sốt sắng, xông xáo “muốn làm một việc gì đó để tu sữa lại cho
căn nhà”.
c. Ý nghĩa
- Tràng mơ ước hạnh phúc, liều lĩnh vì hạnh phúc và tìm thấy hạnh phúc ngay trong tận cùng của đói khát,
khổ cực. Đây cũng chính là tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
- Vẻ đẹp của người dân lao động nghèo, dù trong hoàn cảnh khốn cùng, ranh giới giữa sự sống và cái chết
vô cùng mong manh nhưng họ vẫn luôn có ý thức vun vén cho hạnh phúc gia đình. Chính mái ấm gia đình đã
đánh thức trong Tràng biết bao điều tốt đẹp: biết rung cảm trước những cảnh vật bình dị của cuộc sống, biết yêu
thương, gắn bó và sẻ chia trách nhiệm đối với những người thân trong gia đình.
3. Nhận xét về sự thay đổi ở nhân vật
- Tràng từ một anh thanh niên cục mịch, vô tâm, vô tư nay đã trở thành một người đàn ông biết quan tâm
người khác, có trách nhiệm với gia đình và sống nghĩa tình.
- Tính cách, tâm lí nhân vật vận động theo chiều hướng tích cực, qua đó thể hiện niềm tin yêu, trân trọng
của Kim Lân vào phẩm giá tốt đẹp của con người, nhất là khát vọng sống của con người trong cảnh ngộ bị
cái đói đe dọa đến bờ vực của cái chết làm nên nét độc đáo trong biểu hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Đề 2: Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã để Tràng nhiều lần nói về chuyện hệ trọng trong đời mình.
Khi đãi thị ăn bánh đúc xong, hắn buông câu nói đùa: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra
khuân hàng lên xe rồi cùng về”, và khi thưa chuyện với bà cụ Tứ về sự việc “nhặt vợ”: “Nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…chẳng qua nó cũng là cái số cả”.
Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng qua hai lần miêu tả trên, từ đó nhận xét về khát vọng hạnh phúc ở nhân vật.
Đề 3: Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã nhiều lần miêu tả bà cụ Tứ. Vào buổi nhá nhem bà xuất hiện:
“ngoài đầu ngõ tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào. Bà lão vừa đi vừa
lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Và buổi sáng hôm sau, trong bữa cơm ngày đói: “Bà lão lật đật chạy xuống
bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi
vừa khuấy vừa cười”
Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ qua hai lần miêu tả trên, từ đó nhận xét về sự thay đổi ở nhân vật này.
Đề 4: Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã nhiều lần miêu tả bà cụ Tứ khóc. Vào buổi tối, khi biết con
trai mình có vợ: “Bà lão cuối đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao
nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con
là lúc nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này, còn mình thì…Trong kẻ mắt kèm nhèm
của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Và buổi sáng hôm sau, trong bữa cơm ngày đói, khi nghe tiếng trống
thúc thuế: “Trống thúc thế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc
đã sống qua được đâu các con ạ…-Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để cho con dâu nhìn thấy bà
khóc”.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 26


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

Phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ qua hai lần miêu tả trên, từ đó nhận xét về giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo của tác phẩm.

Đề: Phân tích hình ảnh nồi cháo cám và vẻ đẹp của các nhân vật trong đoạn văn sau:
“ ...Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đìa
muối ăn với chảo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyên làm ăn, gia cảnh với con
dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
-Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện
quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như
thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng
hai bát đã hết nhẵn. Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên
cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuây khuây vừa cười:
-Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng
cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy.
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn
bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một
nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người... ”
(Vợ nhặt - Kim Lân - SGK Ngữ văn 12, tập hai)
DÀN Ý
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và đoạn trích
- Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông có những trang viết đặc sắc về con người, phong tục làng
quê với những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người dân đồng bằng Bắc Bộ được gọi là những
“thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng” như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà...Cách viết chân
thực xúc động về những người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc, cảnh ngộ và tâm lý.
- Vợ nhặt là truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân viết về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng khi mà cái đói cái
chết đang rình rập. Truyện được in trong tập Con chó xấu xí (1962). Qua Vợ nhặt Kim Lân đã tái hiện hình ảnh
của người nông dân lao động nghèo trong đời sống xã hội chênh vênh cực nhọc. Thế nhưng, khác với Nam
Cao, khác với người nông dân bị tha hóa, bị ruồng bỏ gay gắt, bị hủy hoại về cả nhân hình lẫn nhân tính, người
nông dân trong sáng tác của Kim Lân là những con người bình dị ở những làng quê bình dị nhưng phải chịu
cảnh cái đói hành hạ, cái chết rình rập. Nhưng trong cái cảnh khốn cùng ấy, ở những người nông dân như
Tràng, như bà cụ Tứ, như thị vẫn sáng lên tình yêu.
Phân tích đoạn văn bản:
* Dẫn dắt truyện, giới thiệu khái quát nội dung đoạn văn bản
- Đoạn văn xuất hiện ở phần gần cuối của truyện ngắn Vợ nhặt. Đoạn văn miêu tả trong bữa cơm đầu tiên khi
người vợ nhặt phải về làm dâu.
- Trở lại với truyện Vợ nhặt, câu chuyện là bức tranh ngày đói tàn tạ xơ xác của nông thôn Việt Nam trước cách
mạng. Anh cu Tràng là anh phu xe cục mịch, xấu xí và ế vợ. Nhưng trong những ngày đói kém, tình cờ anh
“nhặt” được vợ. Người đàn bà theo không anh về là người đàn bà xa lạ, không tên, không quê quán. Chỉ với
bốn bát bánh đúc và câu hò vu vơ, Thị đã theo về làm vợ Tràng. Cái đói đã hủy hoại nhân hình của thị, biến thị
thành người đàn bà gầy khô, quần áo rách “như tổ đỉa”, cái đói cũng hủy hoại luôn cả nhân cách của con người,
khiến thị bỏ qua sĩ diện của một người con gái theo không về làm vợ người đàn ông xa lạ. Qua ngòi bút miêu tả
của Kim Lân, số phận con người hiện lên thật rẻ rúng, nhỏ nhoi. Trong cái đói, thị lấy Tràng để có nơi bấu víu,
để chạy trốn cái chết đang rình rập. Nhưng không, gia cảnh Tràng cũng nghèo đói, khó khăn không kém. Thị
nhìn gia cảnh ấy và “thở dài”. Cái thở dài của thị là sự chấp nhận làm hòa với số phận. Thị lấy Tràng để chạy

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 27


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

trốn cái đói, nhưng cũng không thể trốn được. Nhưng bù lại, thị được Tràng và bà cụ Tứ hết lòng đón nhận, hết
lòng yêu thương. Sau một ngày về làm vợ Tràng, thị đã trở lại là một người phụ nữ nết na, hiền thục, không còn
cái vẻ chao chát, chỏng lỏn như khi Tràng gặp thị ngoài chợ nữa. Sáng hôm sau, trong bữa cơm đầu tiên khi thị
về làm vợ Tràng được nhà văn Kim Lân miêu tả thật thảm hại “chỉ có độc một lùm chuối thái rối, một đĩa muối
ăn với cháo”... Bữa cơm trôi qua trong vui vẻ, nhưng chỉ một loáng là hết sạch. “Nồi cháo cám” được bà cụ Tứ
chuẩn bị rồi mang lên cho con trai và con dâu ăn.
* Phân tích đoạn văn bản
- Hiện thực của ngày đói, mối đe dọa của cái chết hiện diện trong bữa cơm:
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối
ăn với cháo: Một bữa sáng ít ỏi và đầy chắt chiu. “Thảm hại” nghĩa là sự thê thảm đến tận cùng. Đây là bữa
cơm chào đón nàng dâu mới nhưng nỗi lo lắng và ám ảnh về cái đói vẫn không thể xua đi được. Cháo đã quấy
loãng hết mức, đồ ăn cùng chỉ là rau chuối bòn mót ở vườn nhà, là đĩa muối tráng. Cuộc Sống của ba con
người đang trông chờ vào những thứ đồ ăn ít ỏi cuối cùng.
+ Hiện thực của đói nghèo hiện diện ngay trong “nồi cháo cám”: “Tràng nhăn mặt, chun mũi” “miếng cám
đắng chát nghẹn bứ trong cổ”, không khí gia đình vui vẻ đã biến mất, bữa cơm không ai nói với ai câu gỉ... có
một nỗi tủi hờn len lỏi vào trong tâm trí họ. Cháo cám vốn không phải là thứ đồ ăn dành cho con người, nhưng
khi cuộc sống đến bước đường cùng thì mọi khả năng để sống sót đều được mang ra chống chọi. Cả gia đình ấy
đã gắng gượng để ăn từng miếng, nuốt mọi cay đắng vào lòng mà vẫn thấy chua xót cho phận người rẻ mạt.
Hiện thực cay đắng đói khổ len lỏi vào trong tâm tư của từng người. Hiện thực ấy xua tan đi những ảo vọng về
tương lai mà mẹ con bà cụ Tứ vừa mới vẽ lên “Khi nào có tiền ta mua mấy đôi gà... ngoảnh đi ngoảnh lại chả
mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”.
- Hình ảnh các nhân vật xung quanh bữa cơm ngày đói cũng thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của họ:
+ Bà cụ Tứ: Trong ngày đói kém, tình yêu thương của người mẹ già ấy hiện lên thật đáng thương. “Bà lão lật
đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng lên một cái nồi nghi ngút”, “vừa khuấy vừa cười”... Hình ảnh của người mẹ
nông dân dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn Kim Lân hiện lên thật xót xa nhưng cũng đầy trân trọng. Người mẹ
đảm đang, yêu thương con hết mực (bà đã dậy sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa khi cái đói đang
rình rập bà vẫn cố gắng để có được bữa ăn giản dị cho con trai của mình; để các con đỡ tủi hờn, bà gọi chệch
“cháo cám” là “chè khoán” và tạo không khí vui vẻ trong bữa ăn).
+ Người vợ nhặt: Cô con dâu mới được nhà văn miêu tả “Hai con mắt thị tối lại”, “thị điềm nhiên và vào
miệng”. Có thể nói Kim Lân là nhà văn thấu hiểu tâm lí người nông dân rất sâu sắc. Cái “tối mắt lại” của người
vợ nhặt là chi tiết miêu tả hiện thực đói kém và chết chóc. Thị lấy Tràng để chạy trốn cái chết, nhưng cuối cùng
cái chết cái đói lại vẫn không buông tha thị. Như thái độ của thị lại “điềm nhiên và vào miệng” tức là thị chấp
nhận. Chấp nhận gắn bó với gia đình này, chấp nhận thỏa hiệp với cuộc sống đói nghèo, thỏa hiệp với cái chết.
Hơn thế, thị làm vậy cũng là để làm vui lòng mẹ chồng, là tấm lòng trân trọng, yêu thương mà cô dành cho mẹ
chồng. Điều đó cũng cho thấy vợ Tràng là người tế nhị, thị đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những
tháng ngày khó khăn sắp tới.
+ Tràng: “Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát
và nghẹn bứ trong cổ”, cách ứng xử này vừa cho thấy Tràng là người chồng có trách nhiệm với nỗi thẹn không
thể dành cho người vợ mới cưới của mình một bữa ăn đủ đầy; vừa cho thấy Tràng là người con hết sức khéo léo
trong cách cư xử với mẹ, hiểu rõ được hoàn cảnh của gia đình mình.
Đánh giá chung
- Đoạn văn mang giá trị hiện thực sâu sắc, thể hiện chân thực cuộc sống của những người dân lao động nghèo
bị dồn vào bước đường tuyệt vọng, cận kề cái chết trong nạn đói năm 1945. Kim Lân đã lên tiếng tố cáo hiện
thực đen tối đương thời. Nạn đói và cái chết luôn rình rập cuộc sống của người nông dân.
- Nhưng đằng sau đó, đoạn văn cũng lấp lánh niềm tin, tình yêu thương của nhà văn vào con người, rằng Tràng,
thị, bà cụ Tử, họ sẽ đổi đời, sẽ có một cuộc sống tương lai tươi sáng hơn. Chi tiết “lá cờ đỏ bay phấp phới”
trong suy nghĩ của Tràng ngay sau đoạn văn này là chi tiết thể hiện niềm tin đó. Và bát cháo cám trong đoạn
văn cũng là hiện thân cho tình thương yêu bao la của bà cụ Tứ dành cho các con của mình trong những ngày
đói kém. Tuy nó mặn chát nơi đầu lưỡi nhưng chan chứa tình yêu của người mẹ.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 28


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Đoạn văn cho thấy tài năng miêu tả tâm lí nhân vật và việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn của nhà văn
Kim Lân.
Đề (DẠNG ĐỀ LIÊN HỆ NĂM 2018): Cảm nhận của anh/chị về sự thay đổi trong tâm trạng, nhận thức của
Tràng vào buổi sáng (sau đêm tân hôn) trong tác phẩm Vợ nhặt - Kim Lân. Từ đó liên hệ với tâm trạng của Chí
Phèo vào buổi sáng sau khi gặp Thị Nở trong tác phẩm Chí Phèo - Nam Cao?
Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0,25đ
Có đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển
khai được vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,5đ
Phân tích, bình giá sự biến chuyển tâm lý một cách tích cực của nhân vật Tràng trong buổi
sớm mai thức dậy, liên hệ với sự thay đổi tâm lý của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở để thấy
được chiều sâu nhân đạo của các nhà văn: thức tỉnh, cải tạo con người nhờ tình yêu.
Triển khai vấn đề cần nghị luận 3,5đ
Khái quát về tác giả tác phẩm, nhân vật
- Kim Lân là nhà văn của người nông dân, là cây bút của đồng ruộng. Tác phẩm của Kim
Lân thể hiện sự am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí những người ở thôn quê: dù cuộc sống có
tăm tối đến đâu họ vẫn yêu thương đùm bọc nhau, vẫn hi vọng vào tương lai. Tư tưởng đó
được gửi gắm trong tất cả các nhân vật của truyện; tiêu biểu là Tràng vốn là một chàng trai
thô kệch, xấu xí, nghèo khổ, lại là dân ngụ cư. Anh đang cũng như bao người khác đang là
nạn nhân của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945). Trong hoàn cảnh thân mình không
biết có nuôi nổi không ấy, Tràng bỗng nhiên lấy vợ. Hành động tưởng như liều lĩnh ấy ngờ
đâu lại mở ra một cuộc sống hoàn toàn khác với Tràng.
- Cùng viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng Tám, Chí Phèo của Nam Cao
cũng là một kiệt tác bất hủ. Nếu cuộc gặp gỡ, đính ước với thị khiến Tràng có sự đổi thay kì
diệu trong tâm trạng và nhận thức thì cuộc gặp gỡ với Thị Nở cũng khiến Chí Phèo - con quỷ
dữ của làng Vũ Đại cũng bừng lên khát vọng được sống lương thiện.
—> Qua diễn biến tâm trạng của hai nhân vật giúp người đọc nhận thấy chiều sâu nhân đạo
trong ngòi bút của Kim Lân và Nam Cao khi viết về số phận bất hạnh của người nông dân:
Cái đói, cái rét, cái nghiệt ngã của cuộc sống không giết chết bản chất tốt đẹp của con người.
Cảm nhận về sự thay đổi trong tâm trạng và nhận thức của Tràng
- Diễn biến tâm lí của Tràng sau khi “nhặt vợ” trong truyện ngắn Vợ nhặt thể hiện tập trung
rõ chủ đề tư tưởng của tác phẩm... Khi Tràng tỉnh dậy vào buổi sáng hôm sau, một cảm giác
lạ đang ngập tràn trong anh. Tràng thấy "trong người êm ái như từ giấc mơ đi ra". Việc có vợ
vẫn hình như không phải. Hạnh phúc như một thứ men say làm anh lâng lâng hạnh phúc!
- Tràng bước ra sân và nhận thấy xung quanh mình có cái gì đổi mới. Nhà cửa, sân vườn,
lối đi được quét dọn sạch sẽ. Thấy bà mẹ rẫy cỏ, vợ mình quét tước nấu nướng, cảnh tượng
diễn ra thật bình thường nhưng đối với Tràng nó thật cảm động thấm thía biết bao —> Sự
thay đổi về quang cảnh ngôi nhà làm Tràng có sự trưởng thành hơn về nhận thức:
+ Tràng bỗng thấy thương yêu, gắn bó với gia đình lạ lùng: ngôi nhà dù nghèo khó nhưng
nó vẫn là tổ ấm che mưa che nắng cho cả gia đình anh. Hai chữ tổ ấm ẩn chứa niềm hạnh
phúc lớn lao mà bấy lâu nay anh nông dân nghèo khổ dẫu mong ước nhưng chưa bao giờ
chạm tay đến được.
+ Không chỉ thấy thương yêu, gắn bó, Tràng còn ý thức được trách nhiệm với gia đình của
mình: Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây, Tràng xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng
muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. Bước chân xăm xăm thật khỏe khoắn, tự
tin, khác hẳn bước đi ngật ngưỡng mở đầu tác phẩm. Tu sửa ngôi nhà nghĩa là Tràng và gia
đình mình không chấp nhận cuộc sống tạm bợ nữa, là chuẩn bị cho cuộc sống lâu dài. Họ
bướng bỉnh tuyên chiến với nạn đói. Lần đầu tiên trong đời Tràng thấy mình “nên người”.
Nên người là điều quan trong đối với những ai bị cuộc sống đẩy vào tình cảnh không được

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 29


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

làm người.
- Trong bữa cơm ngày đói, nghe lời người vợ kể chuyện Tràng nhớ đến “lá cờ đỏ ” của
đoàn người đói kéo nhau đi cướp kho thóc Nhật. Tràng hỏi vợ như để xác minh điều mình đã
biết “Việt Minh phải không” —> Một tương lai gần đang vẫy gọi Tràng: Trong một ngày
không xa chắc chắn Tràng, vợ Tràng, bà cụ Tứ sẽ hòa vào đoàn người cùng khổ kia đi đòi
quyền sống. Sự đổi đời chưa thực sự diễn ra nhưng ánh hồng của cuộc đời mới đã thấp
thoáng. Đó là hình ảnh của một nông thôn Việt Nam đã thức tỉnh với những cuộc chống thuế,
phá kho thóc Nhật. Nạn đói khủng khiếp như một cơn lũ lớn cuốn đi biết bao sinh mạng
nhưng nó cũng đã đem đến cho Tràng một người vợ, một mái ấm gia đình. Tình người đã
đưa người con gái ấy về nhà Tràng nhưng tình người cũng đã đưa Tràng về bến lành của cõi
nhân sinh.
Liên hệ với diễn biến tâm lý của Chí Phèo vào buổi sáng sau khi gặp Thị Nở để thấy
được chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút của các nhà văn
Khái quát diễn biến tâm trạng của Chí Phèo trong buổi sáng sau khi tỉnh dậy: Cuộc gặp gỡ
với Thị Nở có sức mạnh diệu kì làm Chí Phèo dần dần tỉnh rượu, tỉnh ngộ, hắn nhận ra vẻ
đẹp đích thực của cuộc sống mà bất lâu nay hắn triền miên trong cơn say không thể nhận
ra...Trước sự chăm sóc chân thành của Thị Nở, Chí Phèo bỗng thấy: “Trời ơi! Hắn thèm
lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!” ...;hắn đã có những suy nghĩ về quá
khứ, hiện tại và tự xe xót cho bản thân hắn thấy hắn đã già mà vẫn còn cô độc...Sự chăm sóc
ân cần của Thị Nở xuất phát từ tấm lòng đã giúp Chí hoàn toàn tỉnh ngộ để nhận thức rõ bi
kịch cuộc đời đồng thời ôm trong mình một khao khát hoàn lương.
Bình giá về chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút của Kim Lân và Nam Cao:
- Qua sự biến đổi tâm trạng của Tràng và Chí Phèo, ta thấy cả Kim Lân và Nam Cao đều là
những nhà văn có niềm tin yêu vào bản chất tốt đẹp của người nông dân. Dù cuộc sống khốn
cùng đến đâu họ vẫn thương yêu, đùm bọc nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, khát khao lương
thiện. Các nhà văn cũng đề cao và ngợi ca sức mạnh của tình người chân thành trong sáng.
Sự đổi thay trong tâm trạng, nhận thức của Tràng và Chí Phèo chính là nhờ sức mạnh to lớn
ấy hay nói cách khác: Cội nguồn sự thay đổi chính là sức mạnh cảm hóa của tình yêu.
- Tuy nhiên, do thời điểm sáng tác khác nhau nên tư tưởng nhân đạo của Kim Lân và Nam
Cao cũng có những điểm riêng biệt:
+ Diễn biến tâm lí của Chí Phèo là hành trình thức tỉnh, khao khát trở lại làm người lương
thiện. Qua đó thấy được khát vọng lương thiện của những người nông dân bị lưu manh tha
hóa. Tuy nhiên, cuối cùng khát vọng của Chí Phèo vẫn bị chặn đứng. Điều ấy phản ánh sự bế
tắc trong tư tưởng của Nam Cao trong việc tìm đường giải thoát cho nhân vật. Đó cũng là sự
bế tắc của nhiều nhà văn hiện thực trước cách mạng tháng Tám.
+ Kim Lân sáng tác Vợ nhặt khi kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, ánh sáng
của Đảng đã giúp nhà văn có cái nhìn mới về tương lai của người nông dân. Tràng trưởng
thành, vững vàng hơn, nhiều lần nghĩ tới lá cờ đỏ của Việt Minh dẫn đầu đoàn người đói đi
cướp kho thóc Nhật. Đó là cái nhìn lạc quan chỉ có được ở lớp nhà văn đã thức tỉnh.
Chính tả, dùng từ, đặt câu 0,25đ
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt
Sáng tạo: 0,5đ
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận
Đề:
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người
đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng
lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau.
...Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi
từng nhát kều sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 30


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn
chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo
lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại
căn nhà."
... Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi
trên đê Sộp. Đàng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ
quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh đồng đi lối khác. À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự
dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng
đã buông đũa đứng dậy. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...
(Vợ nhặt, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, cơ bản, NXB Giáo dục, 2018)
Cảm nhận của anh/chị về sự thay đổi về tình cảm và nhận thức của Tràng sau khi nhặt được vợ trong truyện
ngắn Vợ nhặt - Kim Lân.
HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
1. Mở bài
Kim Lân là nhà văn sớm nhập cuộc xã hội. Ông là tấm gương lớn về sự nỗ lực tự học. Do hoàn cảnh gia
đình khó khăn Kim Lân chỉ học hết bậc tiểu học. Cuộc đời rộng lớn chính là trường đại học của ông. Đây là cơ
sở cho những trang viết vừa bề bộn chất sống, vừa rất đỗi tinh tế, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm
xuất sắc của Kim Lân. Truyện ngắn này không chỉ hấp dẫn người đọc bởi tình huống truyện độc đáo, bất ngờ,
mà còn ở chỗ nhà văn đã xây dựng thành công những nhân vật chính như anh cu Tràng để lại trong lòng bạn
đọc những ấn tượng sâu sắc. Diễn biến tâm trạng của nhân vật cũng thể hiện giá trị nhân đạo và vẻ đẹp của tình
người trong tác phẩm.
2. Thân bài
a. Khái quát hoàn cảnh ra đời và các nhân vật
Vợ nhặt được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm 1945 với hai triệu người chết đói. (Nhân dân Việt
Nam cùng lúc bị áp bức, bóc lột bởi phát xít Nhật và thực dân Pháp. Ở miền Bắc, Nhật bắt dân ta nhổ lúa trồng
đay, trong khi đó thực dân Pháp ra sức vơ vét thóc gạo. Hậu quả là cuối năm 1945 dân ta rơi vào thảm cảnh bi
cùng. Đó là nạn đói chưa từng có trong lịch sử.) Nhưng điều kì lạ là trong đói khát tăm tối ấy, cận kề bên miệng
vực của cái chết, những người lao động Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống, ánh
sáng, hạnh phúc, tương lai. Đó là chất người kì diệu, là khát vọng sống mạnh mẽ của con người Việt Nam đã
khơi nguồn cảm hứng cho Kim Lân sáng tác nên thiên truyện ngắn đặc sắc này.
Tràng là một gã trai nghèo khổ, cái nghèo khổ đến tột cùng. Cái nghèo ấy hiện hữu trong chiếc áo nâu tàng,
cái nhà Tràng thì vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổm nhổm những búi cỏ dại, và Tràng chỉ là người
kéo xe bò thuê. Đến cái tên cũng thể hiện sự thô kệch, nghèo khó: Tràng - một dụng cụ dùng trong nghề mộc.
Ngòi bút của Kim Lân đã vô cùng sống động khi khắc họa bức chân dung của Tràng: hai con mắt nhỏ tí, gà gà
đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, cái đầu thì trọc lốc... Dưới
ngòi bút của Kim Lân Tràng hiện lên như một bức chân dung vẽ vội, một hình hài mà tạo hóa đẽo gọt, quá ư sơ
sài, cẩu thả. Không chỉ xấu xí, nghèo khổ, ở tầng lớp cùng đinh mà Tràng còn là người dở tính, hắn có tật vừa
đi vừa nói, hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ thỉnh thoảng còn ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch.
b. Trước tình huống nhặt được vợ
Tràng là một thân phận thấp hèn nhưng lại là một chú rể thực sự hạnh phúc. Trước tình huống "nhặt" vợ, tâm
lý của Tràng diễn biến thành những chặng sau:
+ Chặng một là Tràng đến với người vợ nhặt trong một quyết định tầm vơ tầm phào, liều lĩnh, bởi ban đầu
chủ tâm Tràng hò một câu cho đỡ nhọc:
Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì!
Mọi sự mời mọc nhất nhất là đùa, về phía cô vợ nhặt, ban đầu chủ yếu cũng là đùa. Tràng mới đầu cũng
"chợn" nghĩa là sợ, nhưng rồi tặc lưỡi: Chậc! kệ - một quyết định có vẻ như đùa đối với sự kiện trọng đại của

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 31


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

đời người. Song hoàn cảnh ấy, cái tặc lưỡi của Tràng là một sự táo bạo liều lĩnh. Tràng đã dám đánh cuộc với
cái đói, cái nghèo để đi đến miền hạnh phúc của đời thường.
+ Chặng hai của diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng là những cảm xúc tự đắc, hồi hộp xen lẫn niềm vui
khi "nhặt" được vợ. Hạnh phúc tạo niềm vui lớn cho Tràng, nhà văn Kim Lân nhắc ta nhớ đến hình ảnh đôi mắt
của Tràng lúc này sáng lên lấp lánh, nụ cười tủm tỉm. Đó là ánh mắt nụ cười của con người đang sống trong
cảm giác hạnh phúc. Lần đầu tiên đi bên cạnh người đàn bà, Tràng lấy làm hãnh diện vô cùng, mốn nói một câu
cho thật tình tứ nhưng chẳng biết nói thế nào thành ra những câu đối đáp với vợ trở nên cộc lốc, nhát gừng, rời
rạc, bởi hạnh phúc đến với Tràng quá bất ngờ. Tràng đã sống trong cảm giác hạnh phúc: mặt hắn có một vẻ gì
phớn phở. Kim Lân đã chọn được một từ chân quê nhưng rất chính xác phớn phở để diễn tả tâm trạng sung
sướng, hồ hởi, hân hoan được biểu lộ ra ngoài gương mặt nhân vật. Khi chứng kiến hình ảnh những người dân
ngụ cư tò mò quan sát sự xuất hiện của mình với người đàn bà lạ, Tràng lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ
vênh vênh tự đắc. Càng về gần nhà thì dường như chất men tình say sưa trong Tràng càng ngấm nhiều hơn và
trở thành cái nghĩa tình hết sức thấm thía: Trong một lúc, hình như Tràng quên hết những cảnh sống khổ cực ê
trề... trong lòng hắn lúc đó chỉ còn lại cái nghĩa tình giữa hắn và người đàn bà đang đi bên cạnh. Có cái gì mới
mẻ, lạ lắm "ở người đàn ông nghèo khổ này. Cũng trên đường về nhà, hình tượng Tràng cũng được nhà văn
Kim Lân khắc họa rất chân thực, người đàn ông ấy hình như cũng có cái nhìn bối rối khi thấy người dân xóm
ngụ cư quan tâm. Nhưng có lẽ, cùng với niềm vui hạnh phúc, người ta bắt gặp ở Tràng một người đàn ông đã
trưởng thành, chững trạc, điều đó bộc lộ ở cách ứng xử. Trước lời trên đùa của đám trẻ con Tràng đã mắng yêu:
Bố ranh. Tràng khéo léo từ chối những lời chèo khéo mời mọc của những người dân xóm ngụ cư để đưa vợ về
nhà. Tràng khoe chai dầu mới mua bằng hai hào với lí do vợ mới vợ miết cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ.
Lời nói giản dị nhưng chứa đựng trong đó bao nhiêu nhận thức, tình cảm của nhân vật: có được vợ một cách dễ
dàng nhưng không vì thế mà Tràng coi thường vợ, ngược lại vẫn trân trọng hạnh phúc.
Khi vào nhà, với người đàn ông, lấy vợ là một việc hệ trọng trong cuộc đời, quyết định tương lai hạnh phúc.
Thông thường việc này phải được hai bên cha mẹ cho phép. Nhưng việc lấy vợ của của Tràng hoàn toàn bất
ngờ. Bởi vậy ban đầu Tràng cũng có tâm lý lo âu hồi hộp. Tràng bước ra sân, khi gặp mẹ, Tràng như một đứa
trẻ, reo lên: u đã về đấy!... .sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột. Nhưng sau thoáng lo âu hồi hộp ấy,
Tràng lấy lại được sự bình tĩnh cần thiết, giới thiệu vợ với mẹ bằng một câu ý nghĩa kìa nhà tôi nó chào u. Thây
mẹ vẫn chưa hiểu Tràng lại nói: nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đây u ạ. ..chẳng qua nó cũng là cái số cả...
Bằng câu nói ấy, Tràng đã xác định rõ ràng mối quan hệ của mình với người phụ nữ đẩy người nghe và bà cụ
Tứ buộc phải chấp nhận. Không chỉ vậy câu nói còn lý giải mối quan hệ với vợ là duyên số - một cách lý giải
của một người từng trải, chín chắn, chững chạc.
Bên cạnh cảm giác tự đắc, phớn phở, hạnh phúc, Tràng vẫn còn tâm lý nghi hoặc, bàng hoàng. Nhìn cô vợ
ngồi ngay giữa nhà mà Tràng vẫn không thể tin là vợ mình. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?. Chao ôi! hạnh phúc
giữa năm đói như một điều xa xỉ, cầm nắm ở trong tay mà vẫn không tin đó là sự thật.
c. Cảm giác hạnh phúc khi có vợ
Những cảm xúc hồi hộp, lo lắng, hạnh phúc lẫn lộn Tràng dần chuyển sang ý thức được hạnh phúc bản thân.
Con người mong hạnh phúc đến và hạnh phúc đến lượt nó có thể làm thay đổi con người. Trước hạnh phúc,
Tràng như lột xác, lần đầu tiên, anh ta run rẩy sống trong một cảm giác rất người: bỗng nhiên hắn thấy thương
yêu, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây... Bây
giờ hắn mới thấy hắn nên người. Hai chữ nên người hạ xuống như một điểm nhấn xác nhận sự biến đổi về chất
ở Tràng. Cái gốc của sự biến đổi ấy chính là gia đình. Nó là nền tảng của xã hội. Là căn cốt của nhân tính.
Tràng phục sinh nhân tính nhờ vươn tới ý thức về gia đình.
Song chi tiết đắt nhất của Kim Lân không phải ở đó mà có lẽ là ở câu văn này: Hắn xăm xăm chạy ra giữa
sân, hắn cũng muốn là một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. Hai chữ xăm xăm gợi lên bao nhiêu là hăm
hở, háo hức trong bước chân của Tràng tìm đến hạnh phúc. Nhưng điều quan trọng hơn đấy là dấu hiệu một
bước ngoặt lớn ở Tràng. So với cái dáng ngật ngưỡng ở mở đầu tác phẩm, hành động xăm xăm này là một đột
biến không chỉ ở dáng đi mà còn là thay đổi cả số phận, tính cách của Tràng: từ đau khổ sang hạnh phúc, từ
ngây dại sang ý thức. Nàng Kiều xưa từng xăm xăm băng lối vườn khuya một mình (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
Gót chân đến với hạnh phúc của Kiều táo bạo thế mà cứ chênh vênh, đơn độc khiến cho người đọc lo lắng bởi

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 32


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

chỉ có một mình giữa đêm trăng trung cổ. Còn cái xăm xăm của Tràng mới vững khỏe, tự tin làm sao, bởi Tràng
có cả một gia đình. Và đó là cái xăm xăm của con người trong hạnh phúc.
d. Ý thức trách nhiệm và khát khao đổi đời
Khi ý thức được tương lai hạnh phúc của riêng mình, tâm trạng Tràng chuyển biến sang một dự cảm đổi đời.
Khi miếng cám đắng chát, ngậm ứ xuất hiện trong âm thanh tiếng trống thu thuế, dồn dập, tức là lúc cuộc sống
đã bị đẩy đến miệng vực của cái đói, cái chết thì cũng là lúc hình ảnh lá cờ đỏ hiện lên làm nên một câu rất
quan trọng của tác phẩm. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Lá cờ đỏ - hình
tượng thoáng qua ấy khi được đặt vào đoạn kết mang bao sức nặng về tư tưởng và nghệ thuật cho thiên truyện.
Nếu vắng chi tiết này tác phẩm sẽ xa lối kết cấu khép của văn học hiện thực phê phán. Sự có mặt của chi tiết
nghệ thuật này khiến cho câu chuyện có một cái kết mở nhờ thế thiên truyện đã đóng lại. Nhưng số phận nhân
vật vẫn tiếp tục được vận động theo hướng lạc quan, đi lên chứ không bế tắc như anh Pha của Nguyễn Công
Hoan, chị Dậu của Ngô Tất Tố, Chí Phèo của Nam Cao... Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng đã vẫy lên như một tín
hiệu đổi đời, một tương lai tươi sáng.
3. Kết bài
Qua hình tượng nhân vật Tràng, nhà văn Kim Lân còn khẳng định hiện thực cuộc sống có ngột ngạt, tăm tối
đến đâu thì sự sống vẫn trỗi dậy, vươn lên mãnh liệt, con người vẫn cố gắng vật lộn với hoàn cảnh để khẳng
định tư cách Người ngời sáng của mình. Xét cho cùng, hình tượng nhân vật Tràng đã giúp Kim Lân thể hiện
được thành công một khúc ca chứa đựng niềm tin mãnh liệt của con người vào sự sống: sự sông chẳng bao giờ
chán nản (Xuân Diệu), chính là biểu hiện giá trị nhân đạo mang những nét nhân văn cao cả và rất riêng của
Kim Lân. Nó giúp người đọc nhận ra được nét đặc sắc riêng của tác phẩm khi đặt bên cạnh những sáng tác viết
về người nông dân trước sự thử thách của cái nghèo, cái đói.

Đề: Hai tác phẩm viết trước và sau Cách mạng nhưng đều xây dựng chi tiết người đàn ông mời người phụ nữ
về chung một nhà.
- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí Phèo, Nam Cao)
- Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. (Vợ nhặt, Kim Lân)
Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về hai chi tiết trên.
Câu 2: Hai tác phẩm viết trước và sau Cách mạng nhưng đều xây dựng chi tiết người đàn ông mời người 5,0
phụ nữ về chung một nhà.
- Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí Phèo, Nam Cao)
- Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. (Vợ nhặt, Kim Lân)
Anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về hai chi tiết trên.
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0,25
Mở bài giới thiệu được vấn đề; Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận 0,5
So sánh hai câu nói của các nhân vật Chí Phèo và Tràng trong hai tác phẩm, từ đó rút ra được vẻ đẹp
của các nhân vật và những nét riêng biệt trong sáng tạo của từng nhà văn.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm 0,5
Vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẻ và dẫn chứng.
* Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, nhân vật và chi tiết được nhắc đến.
- Nam Cao là một cây bút hiện thực xuất sắc của văn học trước Cách mạng. Là một nhà văn luôn băn
khoăn trăn trở về lẽ sống và cách viết, Nam Cao đã từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”. Một nhà văn
muốn viết được nhân đạo trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương.
Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương, đôi mắt của lòng nhân ái. Ngòi bút Nam Cao có
những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp.
- Chí Phèo là kiệt tác kết tinh cao nhất cho phong cách nghệ thuật nhà văn. Hình tượng nhân vật Chí
Phèo - một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc
đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao. Chi tiết lời nói của Chí Phèo “Hay

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 33


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” là một trong những chi tiết đặc sắc thể hiện sự tinh tế của nhà
văn, từ đó bộc lộ giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm.
- Kim Lân là nhà văn của nông thôn Việt Nam, những tác phẩm của ông tập trung nhiều vào khung
cảnh làng quê trước Cách mạng. Kim Lân không miêu tả về văn hóa, phong tục, những hương âm xôi thịt
ở chôn làng quê mà ông thường nói về cuộc sống bình dị, nghèo hèn nơi đây, vì vậy tác phẩm của ông rất
gần gũi với người đọc.
- Vợ nhặt có tiền thân từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư song vì kháng chiến mà bản thảo đã thất lạc và rơi rớt
khá nhiều. Kim Lân viết tác phẩm này bằng hình dung, tưởng tượng về nạn đói khủng khiếp năm 1945
mà từ Quảng Trị đến Bắc Kì có hai triệu đồng bào ta chết đói. Vợ nhặt sau được in vào tập Con chó xấu
xí (1962) và trở thành tác phẩm thành công nhất khi viết về nạn đói. Chi tiết lời nói của Tràng “Này nói
đùa chứ có về với tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về ” thể hiện cái nhìn độc đáo của Kim Lân về hoàn
cảnh sống của con người lúc đó, qua đó cũng tái hiện những giá trị nhân đạo mới mẻ về cách nhìn người,
nhìn đời của ông.
1. Phân tích câu nói của Chí Phèo 3,0
- Khái quát hoàn cảnh xảy ra câu nói: Chi tiết xuất hiện sau khi Chí Phèo bất ngờ gặp thị Nở. Một trận
say, một trận ốm đã làm cho “con quỷ dữ" Chí Phèo có sự thay đổi hẳn cả về sinh lí lẫn tâm lí, từ tỉnh
rượu đến tỉnh ngộ tới ăn năn, hối hận, khát khao trở thành người lương thiện.
- Quá trình nhận thức của nhân vật trước khi nói:
+ Chí vốn là kẻ sống triền miên trong những cơn say và chuyên nghề “rạch mặt ăn vạ”. Hắn trở thành
tay sai cho Bá Kiến, “hắn đã phá bao cảnh yên vui”, “làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người
lương thiện”. Nhưng trong đêm say rượu, hắn gặp thị Nở ở bờ sông, hắn ăn nằm với thị một đêm. Sáng
hôm sau, khi tỉnh dậy, hắn nhận thấy cảnh vật xung quanh thay đổi “Mặt trời chắc đã lên cao, và nắng
chắc là rực rỡ”. Hắn bắt đầu cảm nhận được âm thanh của tiếng chim hót nghe sao mà vui tai quá, tiếng
anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của những người đàn bà đi bán vải về... hay chính là tiếng
của cuộc sống lương thiện?
+ Sau sự nhận thức về cuộc sống xung quanh Chí bắt đầu nhận thức được về bản thân mình, nhận thức
được tuổi tác, rằng hắn đã ở cái dốc bên kia của cuộc đời, nhận thức được hẳn cô độc, tương lai của hắn
là những ngày dài tăm tối... Tất cả những cảm nhận mới mẻ của Chí trong buổi sáng hôm sau đều là dấu
hiệu đánh dấu sự thức tỉnh dần dần của Chí Phèo.
+ Quá trình thức tỉnh của Chí có sự tác động to lớn của thị Nở thông qua hành động mang cho bát
cháo hành. Bát cháo hành của thị trước hết là một món ăn giải rượu, sau đó là bát cháo của tình yêu
thương. Lần đầu tiên hắn được người ta cho, hắn cảm thấy đau đớn trước hiện thực đó, và bất giác hắn
nghĩ về cuộc đời mình có ai cho hắn cái gì bao giờ đâu, muốn có cái gì là đều do hắn cướp giật về.
- Ý nghĩa của câu nói:
+ Câu nói thể hiện ước mơ thẳm sâu trong Chí, đó là khao khát được yêu thương thức tỉnh sau bao
nhiêu năm tháng bị vùi lấp bởi rượu, máu và nước mắt. Khát vọng đó không hề biến mất mà nó chỉ bị che
lấp trong suốt những năm tháng chìm đắm trong men say và làm tay sai cho Bá Kiến. Bây giờ, khát khao
đó lại trở về, khát khao có một người ở bên, khát khao có một gia đình nho nhỏ “chồng cày thuê, vợ dệt
vải”. Chí không dám nói một lời “cầu hôn” thẳng thắn, rõ ràng mà chọn cách nói lấp lửng thể hiện sự âu
lo, phấp phỏng của một thân phận bị chối bỏ với một niềm hi vọng mong manh.
+ Câu nói đó của Chí thốt lên với một niềm phấp phỏng lo lắng, bởi chính hắn cũng cảm thấy đó là
một điều ước xa vời và khó khăn với hắn. Lời đề nghị hay là mình sang đây ở chung với tớ một nhà cho
vui của Chí Phèo với thị Nở không chỉ là lời đề nghị của một người yêu đối với một người yêu mà còn là
lời đề nghị của một con người muốn trở về với cuộc sống lương thiện.
- Đặc sắc về nghệ thuật: Đây là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện,
khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và cảnh ngộ của nhân vật, tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu
sắc bất ngờ của ngòi bút Nam Cao. Chi tiết đó đặt dấu hỏi cho thị Nở về việc có chấp nhận Chí Phèo hay
không, có thể cho hắn trở về làm một người lương thiện được hay không.
2. Phân tích câu nói của Tràng

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 34


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Khái quát hoàn cảnh xảy ra câu nói: Sau khi mời thị ăn bốn chặp bánh đúc, với tính hay đùa, Tràng
nói: Này, nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Câu nói đùa nhưng lại thể hiện
niềm khát khao hạnh phúc có thật, mãnh liệt cháy bỏng thẳm sâu trong người nông dân nghèo ấy mà
ngay cả nạn đói và cái chết cũng không thể dập tắt.
- Quá trình nhận thức của nhân vật trước khi nói:
+ Lời nói của Tràng có vẻ như đùa song ngọn lửa hạnh phúc trong Tràng được thắp lên từ câu nói đùa
ấy lại thật sự bùng cháy. Tràng trân trọng hạnh phúc của mình cũng như bằng tất cả những gì có thể, anh
biến cuộc hôn nhân với thị trở nên đàng hoàng, nghiêm túc. Người nông dân nghèo như Tràng, ngày
ngày đối diện với cái đói và cái chết như Tràng lại luôn luôn khát khao hạnh phúc đời thường, hạnh phúc
có một gia đình nhỏ nhoi. Khát khao cháy bỏng ấy luôn thường trực trong Tràng mà ngay cả cái đói cái
chết cũng không thể làm nó dập tắt. Mà chính trong cái đói cái chết, khát khao bình dị ấy trở nên cháy
bỏng hơn bao giờ hết.
+ Không thể ngờ rằng, chỉ với một câu nói đùa, anh đã có được vợ. Tràng chợt nghĩ, đói thế này,
không biết có nuôi được cái thân mình không mà còn đèo bòng. Nhưng cuối cùng Tràng lại chậc lưỡi
“Thôi kệ”. Rõ ràng, người nông dân này ý thức rất rõ hoàn cảnh đói kém của mình, nhưng Tràng lại
giang tay đỡ lấy một người đàn bà xa lạ mới quen, cưu mang và đùm bọc người đàn bà ấy trong những
ngày đói kém. Xây dựng chi tiết tình người nảy sinh từ trong đói khó, nhà văn đã đem đến cho người đọc
những hình dung chân thực nhất về nhân cách con người.
- Ý nghĩa của câu nói:
+ Câu nói thể hiện khát khao có một gia đình bình dị của anh cu Tràng. Qua đây chúng ta mới cảm
nhận được sâu sắc rằng, số phận con người thật nhỏ bé, thật rẻ rúng, bọt bèo.
+ Câu nói cũng thể hiện thái độ chấp nhận đánh cược với số phận của Tràng, chấp nhận buộc cuộc đời
mình vào một người đàn ông xa lạ của thị. Khi Tràng và người vợ nhặt vô danh chấp nhận làm hòa với số
phận, họ lại sẵn lòng và tràn đầy niềm tin xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng thấy lơ lửng như
mới ở trong giấc mơ ra... Tràng thấy dường như mình “nên người”. Cuối cùng, có một gia đình với
người vợ nhặt, Tràng đã trở nên có ý thức, có trách nhiệm vào tương lai, coi cuộc hôn nhân bất ngờ với
người đàn bà xa lạ này là nghiêm túc chúng sẽ sinh con đẻ cái ở đấy, hắn cảm thấy có trách nhiệm với
cái gia đình này... suy nghĩ đó ở một người nông dân nghèo như Tràng thật đáng trân trọng.
- Đặc sắc về nghệ thuật: Chi tiết Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về là
một chi tiết góp phần tạo nên một tình huống truyện độc đáo và ý nghĩa, tạo bước ngoặt cuộc đời và tâm
lí của nhân vật, thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất
ngờ của ngòi bút Kim Lân.
3. Đánh giá
- Cả hai chi tiết đều là những câu nói đặc biệt, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong cuộc đời các nhân
vật và có sức tác động diệu kì, tạo nên những khoảnh khắc ngọt ngào hạnh phúc cho họ.
- Đây cũng chính là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ trong
hai tác phẩm: Phát hiện và ngợi ca khát vọng yêu thương, khát vọng hạnh phúc ở những con người những
tưởng như đã hoàn toàn lụi tắt cảm xúc tình yêu trong những hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc đời. Nếu ở
Chí Phèo, chi tiết thể hiện khát vọng mang bản chất người ẩn sâu trong con quỷ dữ Chí Phèo, sau khi
cảm nhận được tình yêu thương mộc mạc, chân thành ở thị Nở. Câu nói cho thấy anh nông dân Chí hiền
lành, chân chất ngày xưa đã sống lại, thay thế hoàn toàn cho con quỷ dữ Chí Phèo thì ở Vợ nhặt, chi tiết
khẳng định sức mạnh tình người, của khát vọng mái ấm gia đình, sống trong tình yêu thương chiến thắng
sự đe dọa của nạn đói và cái chết.
- Hai chi tiết nhỏ đã thể hiện khả năng thấu hiểu, đồng cảm và sự trân trọng của hai nhà văn đối với vẻ
đẹp và sức sống tâm hồn của những người nông dân nghèo. Đó là sự tiếp nối xuất sắc của Nam Cao và
Kim Lân trong mạch nguồn nhân đạo xuyên suốt trong văn học Việt Nam.
d. Chính tả, dùng từ đặt câu 0,25
Đảm bảo chuẩn chính tả, dùng từ, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo 0,5

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 35


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Đề:
Phân tích chi tiết nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Từ đó phát hiện về vẻ đẹp của
các nhân vật qua tài miêu tả và khắc hoạ tâm lý của nhà văn.

PHÂN TÍCH CHI TIẾT

-Từ những trang viết độc đáo về nông thôn, với những truyện ngắn được xếp vào hàng kinh điển trong văn
xuôi Việt Nam thế kỷ XX như Vợ nhặt, Làng có người đã gọi Kim Lân là cây bút độc đáo của làng quê Việt
Nam. Nhà văn Nguyên Hồng cũng từng nhận xét về người bạn đồng nghiệp của mình rằng: Kim Lân là nhà
văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn. Hay nói cách
khác, Nhà văn Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền Văn học Việt Nam
đương đại.
- Vợ nhặt nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư -
được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lặp lại (1954),
ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. Như vậy, có thể nói, sự dang dở và thất lạc bản
thảo giống chuyện Tái ông thất mã, trong cái rủi lại có cái may. Bởi, từ khởi nguyên là một tiểu thuyết dày
dặn, không phải sở trường của Kim Lân, qua thời gian và sự chiêm nghiệm, cốt truyện, tình huống, nhân vật
và sức nặng giá trị tăng lên, lại dồn nén và lắng hơn trong một dung lượng truyện ngắn, đã biến Vợ nhặt trở
thành một tác phẩm bất hủ của văn học Việt Nam hiện đại.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 36


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Bối cảnh chi tiết nghệ thuật Nồi cháo cám


- Chi tiết “nồi cháo cám” nếu như nó xuất hiện trong bữa ăn giữa nạn đói năm 1945 lại dường như dễ hiểu,
nhưng trong tác phẩm nó lại được xuất hiện ngay sau buổi sáng hôm sau. Buổi sáng mà nhà bà cụ Tứ có thêm
người con dâu. Lễ ra mắt con dâu bình thường không có cao lương mĩ vị thì cũng phải mâm cao cỗ đầy,
nhưng trong tình thế đó đã khiến người ta không khỏi nghẹn ngào. Bữa cơm trong ngày đói thật thê thảm, mà
bất cứ ai nhìn vào cũng đều chạnh lòng. Đó là cảnh “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và
một đĩa muối ăn với cháo” nhưng ngạc nhiên thay là cả nhà đều ăn rất ngon lành. Tất cả đều vui vẻ, không khí
thật đầm ấm, và bao viễn cảnh được vẽ ra.
- Cho đến khi nồi cháo loãng đã hết veo. Bữa chính kết thúc hơi sớm so với nhu cầu của cái dạ dày. Và đến
phần thứ hai, bữa ăn phụ, ăn chơi, là cách mà bà cụ Tứ gọi là chè khoán.
- Nồi chè ăn chơi nhu một thú rất tao nhã sau bữa chính, khiến câu chuyện vui như được kéo dài hơn, cái ngọt
ngào của chè làm dư vị của miệng thêm đậm đà, cảm xúc thêm lâng lâng khoan khoái. Thế nhưng “nồi chè”
trong bữa cơm đón dâu mới ấy đã làm điều ngược lại, phá tan đi mọi xúc cảm vui tươi, sung sướng và góp
phần ném trả lại thực tại tàn khốc.
Hương vị nồi cháo cám
- Theo lời quảng cáo của bà cụ Tứ, nồi chè, thực chất là cháo cám, ngon đáo để, là thức ăn mà ối nhà còn
không có, ăn vậy là ăn sang trong cái nạn đói tàn khốc này.
- Khác với lời quảng cáo, hãy nhìn phản ứng của Tràng và Thị. Thị là nạn nhân của cái đói, sống vật vờ và lay
lắt qua ngày, có gì là Thị chưa trải trong đại nạn này. Cho nên, ngay khi nhận bát cháo cám, Thị hiểu ngay ra
bao điều. Có rất nhiều điều ta sáng ra qua đôi mắt tối sầm lại của Thị.
- Anh Tràng thì bao biểu hiện đã rõ cả trên phản ứng khuôn mặt. Bằng thủ pháp liệt kê: chun, đắng chát,
nghẹn bứ có thể thấy thứ thức ăn đó nó khó nuốt như thế nào, tình cảnh người dân ngày đó cơ cực như thế
nào.

Nồi cháo cám - đậm đà dư vị tình thân và lòng nhân ái, làm bật lên vẻ đẹp của các nhân vật
- Đầu tiên là qua thái độ, qua hành động của bà cụ Tứ. Hàng loạt các hành động miêu tả cách bà cụ đưa nồi
cháo cám ra: “lật đật chạy xuống, lễ mễ, bưng, đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi, khuấy
khuấy, cười... ” giống như một sự trì hoãn. Bởi bữa cơm đang vui, bà muốn nó kéo dài hơn chút nữa. Và vì bà
là người chuẩn bị bữa cơm, nên bà biết khi ăn cháo cám, cái thứ thức ăn dành cho vật này, bao niềm vui sẽ

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 37


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

biến mất, nên trong sự gắng gượng, bà cố tình kéo dài thêm ra. Người mẹ ấy, bằng tình thương con, đã không
nỡ phá đi cảm xúc vui tươi, không khí đầm ấm này.
- Người con dâu điềm nhiên và cám vào miệng, sau phút tối sầm lại của ưu tư, Thị đã mặc nhiên gạt đi, điềm
nhiên đón nhận bát cháo cám - bát cháo đại diện cho gia cảnh nhà chồng. Thị đã lấy chồng, Thị đã lựa chọn,
Thị thấu hiểu, Thị chấp nhận.
- Anh cu Tràng và vội vào miệng, cái đắng đến từ cháo, nhưng cái đắng còn đến từ ý thức trách nhiệm của
người trụ cột, của cái sĩ diện khi để vợ và mẹ phải ăn thứ thức ăn này. Cái bứ cổ đó cho thấy cả cái trách
nhiệm phải chăm lo tốt hơn cho gia đình của anh ta. Điển hình là sau bữa ăn đó, trong đầu Tràng chỉ còn nghĩ
đến hình ảnh đoàn người phá kho thóc Nhật, hay cụ thể hơn, đó là hình ảnh bữa cơm trắng mà Tràng, sẽ cướp
được từ kho thóc Nhật, mang về cho gia đình mình.
Tóm lại - nồi cháo cám, vừa đại diện cho hiện thực tàn khốc, cho sự ám ảnh kinh hoàng, nhưng đồng thời nó
đại diện cho cả tình người. Cả Tràng, Thị hay bà cụ Tứ đều nghĩ cho người khác khi ăn. Đó chính là tình
người, là tình thân, luôn nghĩ cho nhau, cùng nhau chống lại nạn đói, dắt díu nhau qua cơn bĩ cực này.
- Nghệ thuật từ ngòi bút Kim Lân: Nhìn một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm
Kim Lân viết trước Cách mạng tháng Tám đến các tác phẩm sau này, người đọc dễ dàng nhận ra nét riêng của
ông là một ngòi bút sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà
ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng.
Nhà văn Kim Lân xứng đáng là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam
đương đại, là người đã viết những trang hay nhất về làng quê bằng cả lòng yêu thương, sự gắn bó.
Đề:
Cảm nhận về hành động nhân vật Mị chạy theo A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) và hành động theo Tràng
của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) trong hai đoạn văn sau:
“Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất”.
(Trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài)
"Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon ! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật.
(Trích Vợ nhặt của Kim Lân)
Từ đó làm nổi bật được giá trị nhân đạo mà hai nhà văn gửi gắm.

GỢI Ý

- Nhà văn Tô Hoài có sự nghiệp trải dài hơn bảy thập niên, khi ông ra đi, tưởng chừng như một ngôi sao rất
sáng đã vụt tắt trên bầu trời văn học. Tô Hoài là bút danh, ông tên thật là Nguyễn Sen. Thời trẻ, ông kiếm sống
bằng nhiều nghề, từ gia sư, thư ký cho tới bán hàng, làm chân kế toán cho một hiệu buôn... Đây chính là quãng
thời gian ông bắt đầu khơi mạch cho vốn sống ngồn ngộn của mình tuôn trào trên những trang văn. Tô Hoài đi
nhiều, trải nghiệm nhiều, với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cộng vốn hiểu biết giàu
có về phong tục và đời viết không ngừng nghỉ đưa nhà văn Tô Hoài lên vị trí không thể nhầm lẫn, khó có thế
thay thế.
- Truyện Tây Bắc ra đời năm 1953 khơi mạch cho một dòng chảy sáng tác khác, mang lại nhiều thành công hơn
cho ông. Núi rừng Tây Bắc từ đấy đã trở thành đề tài mà ông gắn bó lâu dài, nặng tình và nặng nghĩa. Vợ chồng
A Phủ, một trong ba truyện in trong tập Truyện Tây Bắc, có thể nói là một tác phẩm thành công bậc nhất của

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 38


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

nhà văn Tô Hoài khi ông khơi ngòi vào mảnh đất văn chương các dân tộc miền núi.
- Nhà văn Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của nền Văn học Việt Nam đương
đại, là người đã viết những trang hay nhất về làng quê bằng cả lòng yêu thương, sự gắn bó và trái tim hết mực
chân thành. Là một ngòi bút sâu lắng, cẩn trọng, tỉ mẩn, viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê
mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những con người gắn bó tha thiết với quê hương và Cách
mạng. Trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam
nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh.
- Tác phẩm Vợ nhặt nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm
ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lặp lại
(1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
1. Vợ chồng A Phủ
- Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời
mình.
+ Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: Trước khi làm dâu và sau khi làm
dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ
trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Thế nhưng số phận bi kịch đã không buông tha
cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui
vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát.
Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay
nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi.
+ Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối
cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Quá khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê
chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhỏm nhận thức bên trong Mị để đến đêm
mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói
đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một
cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày.
+ Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng
thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương
mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng
con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”... Mị cũng sẽ chẳng còn
phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng
chính là cuộc đời mới, là con đường mới.
- Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến
với ánh sáng Cách mạng.
+ Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng,
vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, Khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối,
khoảnh khắc ấy, trong Mị trào lên niềm khao khát sống, lúc này, cùng với nỗi sợ và lòng ham sống mãnh liệt,
lúc này, cùng với nỗi sợ và lòng ham sống mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ. Mị vụt chạy theo A Phủ.
+ Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói
trong cơn gió thốc “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Ta hãy nhớ lại Mị của trước kia, từng nhiều lần
muốn tìm đến cái chết, thì giờ đây, Mị lại thèm được sống. Con ma đã bất lực không thể giam giữ được Mị nữa,
Mị đã thành người tự do, chính Mị chứ không phải ai khác, tự quyết định vận mệnh cho cuộc đời mình. Họ dìu
dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa - vùng đất
hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc.
2. Vợ nhặt
Thị là nhân vật không tên, cũng chẳng hề có quê quán, chẳng tài sản, không gia đình, cũng không có nghề
nghiệp. Thị như người trôi dạt giữa cơn lũ của nạn đói. Thật tội nghiệp!
Cái đói biến người phụ nữ ấy với ngoại hình chang mấy ưa nhìn: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi
cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 39


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

Bất chấp danh dự, sĩ diện: Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân
phẩm, điều đó được thể hiện từ lời nói đến hành động. Trước hết là trong lời nói, vì đói mà thị trở nên “chao
chát ”, “chỏng lỏn ”, “chua ngoa, đanh đá ”. Thị “cong cớn ”, “sưng sỉa ” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói
khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Rồi đến hành động, được cho ăn, thị sẵn
sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì ”, Thị đã đặt sự tồn tại của
mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Sẵn sàng theo Tràng về làm vợ: Trong cơn lũ của nạn đói, Thị là người đang chết đuối, vớ được cái cọc là
Tràng, Thị đã bấu víu lấy, bám lấy để duy trì sự sống. Thân phận người vợ thật rẻ rúng bởi chỉ bằng bốn bát
bánh đúc, một câu nói đùa, hai hào dầu... để làm vợ người ta.
- Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa,
lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng sau câu
đùa của Tràng. Nói đúng hơn là Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Nhưng có lẽ bởi Thị cảm
được cái chân thật, cái tốt bụng của anh Tràng, Tràng có lẽ là duyên phận, xuất hiện như chiếc phao cứu sinh
với đời Thị. Cho nên hành động theo Tràng của Thị, một mặt xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng
khao khát được sống. Nhưng ta còn thấy trong đó, một mong muốn tựa nương, một bến bờ sau những trôi dạt
của số phận.

- Giống: Đều là những con người đáng thương, bị số phận đưa đẩy vào chốn đường cùng. Họ cũng hiện lên là
những người phụ nữ đầy chủ động, không chấp nhận thực tại, bằng hành động mà thay đổi số phận mình.
- Khác biệt: Hành động của Mị là hành động thuộc phần cuối đoạn trích, đó là hành động đấu tranh, vùng lên
giải phóng cuộc đời mình. Còn với cô vợ nhặt, hành động đó là hành động mang tính khơi màn cho tác phẩm,
để bao hệ quả sau đó được đẩy đưa đến, đó là hành động thể hiện khát khao sống, bám lấy sự sống mãnh liệt
- Nếu như trước Cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ đến được với
sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái
kết của Mị, của A Phủ, Vợ nhặt, Tràng,...
- Khẳng định đề cao khát vọng sống, niềm hi vọng, niềm tin vào cuộc sống, đều mang tính phát hiện những vẻ
đẹp của con người, những vẻ đẹp không thể bị bất cứ một thực cảnh phũ phàng nào có thể làm tiêu mất đi, trái
lại càng toả sáng hơn.
Đề:
Xây dựng nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã để chi tiết dòng nước mắt xuất hiện hai lần trong buổi chiều
nhập nhoạng.
Lần đầu: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ
sự, vừa ai oán vừa xót thương cho so kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm
của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?
Lần thứ hai: Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp
nhặt chỉ cái lúc này. cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy
nhau lúc này, u thương quá... Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.
Qua việc cảm nhận chi tiết trên, hãy bàn luận vẻ đẹp tình mẫu tử qua hình tượng bà cụ Tứ.
GỢI Ý
1. Giới thiệu chung:
Bà cụ Tứ là mẹ của Tràng, cũng là dân xóm ngụ cư, bà là người phụ nữ đã mất chồng, chịu cảnh “mẹ góa, con
côi”. Nhân vật này xuất hiện ở giữa câu chuyện, hiện lên qua cái dáng lom khom (đó là dáng hình của một
người đã lớn tuổi, cái lưng còng như đã hứng chịu cả một đời gió sương, hơn nữa, lom khom còn vẽ lên cái
dáng hình gầy guộc), tiếng ho húng hắng (sự ốm yếu, cái đặc trưng của người già), và miệng thì lẩm bẩm tính
toán (có lẽ cả đời bà, vì không còn chồng, nên chẳng phút thảnh thơi, phải lo chắt chiu, ki cóp, phải lo từng
đồng, từng bữa, và tội nghiệp thay, đến cả lúc già cả, gần đất xa trời, cái toan tính vẫn chẳng thể bỏ được, cái
khốn khổ, trách nhiệm đã đeo đẵng cả cuộc đời bà).

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 40


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

2. Phân tích:
Đoạn 1: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khó ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ
sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm
của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?
+ Khi nghe Tràng giới thiệu về người vợ nhặt, bà lão chỉ cúi đầu nín lặng. Cái nín lặng của người mẹ già đã
hiểu ra bao cơ sự. Từ sự phấp phỏng, ngạc nhiên ban đầu, bà đã hiểu được gần như đầy đủ. Từ cái cúi đầu nín
lặng đến hiểu ra bao cơ sự là cả một sự ứng xử khéo léo, bao dung mà độ lượng. Cái cúi đầu hiểu ra bao cơ sự
cũng chứng tỏ sự thấu hiểu và từng trải lẽ đời. Bà đã giải được những éo le, lạ lùng trong ngôi nhà mình lúc bấy
giờ. Là những chuyện khó nói, mà Tràng không nêu rõ, có thể là điều mà người phụ nữ kia sẽ thấy xấu hổ khi
được hỏi hoặc được nói ra thẳng thắn. Bà hiểu ra, và bà không nỡ hỏi. Đó là trí tuệ của một người đã từng trải,
và đó là trái tim của một người mẹ vị tha, nhân hậu.
+ Trong nội tâm của bà cụ Tứ, bao ngổn ngang, bối rối. Mà trong những nỗi niềm đó, có một chữ lo. Đó là cái
lo không biết chúng nó có nuôi được nhau qua cảnh khốn khó này không. Cái đói, dường như phủ đầy trong
cuộc sống, xâm lấn vào tận mỗi tế bào. Vì thế, chuyện hỉ sự, vậy mà, người ta vẫn còn nhức nhối vì lo, vì sợ.
- Đoạn 2: Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt
chỉ cái lúc này. cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau
lúc này, u thương quá... Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.
+ Hình ảnh dăm ba mâm cho thấy được sự chu đáo và trân trọng người con dâu của bà cụ Tứ. Chỉ là cô gái tầm
phơ tầm phào anh cu Tràng nhặt ngoài đường ngoài chợ, nhưng bà không muốn vì thế mà cô bị rẻ rúng. Làm
dăm ba mâm để cho cô một thân phận, thế mới thấy người mẹ nghèo thật sâu sắc và tinh tế.
+ Hình ảnh dòng nước mắt lại xuất hiện như cả một bầu trời thương lo và trách nhiệm của người mẹ nghèo. Bà
không chỉ thương con, còn thấy mình có lỗi với con. Là mẹ, không lo được cho con, trong xúc cảm người mẹ,
thấy trào dâng niềm hờn tủi.
3. Bình luận:
- Có thể nói cả hai lần xuất hiện hình ảnh dòng nước mắt, ta đều thấy vẻ đẹp bà cụ Tứ hiện lên, đó là lòng
thương con vô hạn.
- Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người
mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945”. Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua
sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể
cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Đặc biệt với chi tiết dòng nước mắt cài vào và lặp lại, ta thấy
một sự am hiểu tâm lý rất sâu và tinh của nhà văn. Người già hay lo nghĩ, cũng hay tủi hờn, dòng nước mắt làm
ta nhớ đến cái dáng quen thuộc của những người bà, người mẹ nông thôn lam lũ mà cần cù, một đời lo cho con,
tất cả vì con.
Đề:
Về cách kết thúc truyện ngắn Vợ nhặt, có ý kiến cho rằng: Đó là một cái kết mở, tự nhiên và sáng, lại có ý kiến
cho rằng: Đó chưa phải là một cái kết thực sự tự nhiên, gượng ép về nghệ thuật. Bằng sự hiểu biết của mình,
anh/chị hãy làm sáng tỏ những ý kiến trên. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ đến cách kết thúc truyện ngắn Chí Phèo
của Nam Cao (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018).
HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
1. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề nghị luận
Đặc điểm của văn chương là sự sáng tạo, mỗi nhà văn có quyền chọn cho mình một con đường riêng và bản
thân mỗi tác phẩm cũng có sự phong phú về các tầng nghĩa. Vì thế quá trình tiếp nhận văn học cũng là một quá
trình đầy sáng tạo tùy thuộc vào vốn sống, năng lực bản thân, ý kiến, hoàn cảnh chủ quan của mỗi cá nhân.
- Dẫn ra vấn đề cần nghị luận

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 41


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

Đứng trước một hình tượng văn học có thể có những luồng ý kiến khác nhau như khi đánh giá về cách kết thúc
của truyện ngắn Vợ nhặt có ý kiến cho rằng: Đó là một cái kết mở, tự nhiên và sáng, lại có ý kiến cho: Đó chưa
phải là một cái kết thực sự tự nhiên, gượng ép về nghệ thuật.
2. Thân bài
a. Khái quát chung về tác giả và tác phẩm
- Kim Lân là nhà văn được coi là "con đẻ của đồng ruộng". Ông một lòng đi về với đất, với người với thuần hậu
nguyên thủy của cuộc sống nông thôn (Nguyên Hồng). Kim Lân có những trang viết chân thực về đời sống làng
quê với những thú vui tao nhã của người nông dân quê mình mà ông gọi đó là "thú đồng quê" hay "phong lưu
đồng ruộng". Ông cũng viết chân thực về những người nông dân quê mình chất phác, hóm hỉnh mà rất tài hoa.
- Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công
nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Kim Lân dựa vào một phần
của cốt truyện cũ để viết tác phẩm Vợ nhặt. Tác phẩm được đưa vào tập Con chó xấu xí (xuất bản 1962).
- Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống của người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói kinh hoàng
năm 1945. Nhưng trong hoàn cảnh đó người nông dân vẫn đùm bọc yêu thương, vẫn khao khát mái ấm gia đình
và luôn có một niềm hi vọng vào tương lai.
b. Tóm tắt cốt truyện
Truyện viết về cuộc sống của những người dân ở xóm ngụ cư trong nạn đói mà tiêu biểu là cuộc sống của gia
đình Tràng. Vì cái đói cái nghèo nên Tràng không thể có một đám cưới đàng hoàng và bữa cơm đón nàng dâu
mới của nhà Tràng cũng rất thảm hại: Giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối
ăn với cháo. Trong bữa ăn họ nghe thấy tiếng trống thúc thuế, qua lời của người vợ, Tràng đã nhớ lại có lần
mình gặp Việt Minh và trong óc Tràng bỗng hiện lên đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.
c. Bàn luận vê ý kiến "Đó là một cái kết mở, tự nhiên và sáng"
Đó là cách kết truyện tự nhiên phù hợp
- Kết thúc ấy có cơ sở từ thực tiễn đời sống. Câu chuyện có bối cảnh là nạn đói năm 1945 - một thời điểm lịch
sử có thật của đất nước ta vào những năm tháng chuẩn bị cho cuộc cách mạng và đó là những ngày tiền khởi
nghĩa với phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Vậy nên trong hoàn cảnh đói khát cùng cực ấy
người nông dân nhận ra kẻ thù gây đau khổ cho mình là bọn Pháp và Nhật. Thực dân Pháp thi hành những "luật
pháp dã man", vơ vét của cải còn phát xít Nhật thì bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu rồi cùng
với thiên tai, lũ lụt... Tất cả đều là căn nguyên dẫn đến thảm cảnh nạn đói năm 1945. Những người dân sống
trong hoàn cảnh đó họ sẽ ý thức được mình phải đứng lên đấu tranh tìm con đường cho mình. Họ sẽ tìm đến với
cách mạng như một điều tất yếu.
- Sự hợp lí ở đây là họ chỉ mới bắt đầu nhận thức về cách mạng, đó mới chỉ là ánh sáng le lói ở cuối đường
hầm. Nhà văn không kết thúc câu chuyện ở việc Tràng đi làm cách mạng rồi kêu gọi quần chúng nhân dân cùng
đứng lên đấu tranh. Nếu như vậy e rằng có phần gượng ép và ảo tưởng. Ở đây mới dừng lại ở việc qua lời người
vợ mà Tràng đã nhớ lại có lần anh đã nhìn thấy đoàn người đi phá kho thóc và được nghe nói họ là Việt Minh.
Quá trình nhận thức ấy được diễn tiến từ từ. Cách kết truyện như thế là phù hợp.
Đó còn là cách kết truyện mở và sáng
- Truyện kết thúc nhưng đã mở ra cho người đọc nhiều suy ngẫm. Truyện không nói cụ thể rõ ràng là cuộc sống
của Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt sẽ đi đến đâu, cuộc sống của họ tiếp theo sẽ như thế nào để gượng ép trói
buộc suy nghĩ của bạn đọc thiên về một hướng và nhiều khi chỉ suy nghĩ theo chiều hướng ấy. Và thật khéo léo
khi Kim Lân để "lửng". Kết thúc "lửng" ấy chứa đựng bao suy nghĩ của tác giả. Phải chăng nhà văn Kim Lân
đang thầm kín bày tỏ sự trân trọng với cách tiếp cận, nhận thức của độc giả đồng thời cũng hướng họ rằng nên
phải suy nghĩ, chiêm nghiệm để viết tiếp câu chuyện ấy với sự phù hợp và đúng đắn nhất theo quan điểm nhận
thức của mỗi người.
- Việc tạo ra kết thúc mở cũng khơi sâu sự tìm tòi khám phá một góc độ của cuộc sống, của xã hội thay vì chỉ là
đọc trên giấy và hiểu tác phẩm một cách đơn thuần. Rõ ràng với ánh sáng "le lói ở cuối đường hầm" kia người
đọc có quyền hiểu và ngẫm theo nhiều cách. Theo quan điểm của bản thân có thể suy ngẫm Tràng sẽ đi theo
cách mạng, theo ánh sáng của Đảng cùng với quần chúng khởi nghĩa và rồi cuộc sống của anh và gia đình cùng
những người nông dân Việt Nam sẽ ấm no hơn, hạnh phúc hơn khi cách mạng giành thắng lợi.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 42


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Một điểm nữa trong cách kết truyện của Kim Lân là có kết truyện "sáng" không giống như văn học hiện thực
phê phán trước Cách mạng. Trước đây, nhà văn Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo cảm nhận hương vị của
cuộc sống, để cho hắn cảm nhận tình yêu thương... nhưng rồi Chí Phèo lại rơi vào bi kịch bế tắc. Nhà văn Ngô
Tất Tố cũng để nhân vật của mình - chị Dậu vùng lên chống lại ách áp bức của bọn địa chủ nhưng rồi cuối cùng
trước mắt chị là trời tối đen như mực giống như cái tiền đồ của chị... Họ đều rơi vào vòng luẩn quẩn, bế tắc
không lối thoát. Ở Vợ nhặt, Kim Lân đã để cho những người nông dân hướng về tương lai. Liệu tác phẩm có
thể kết thúc trong cảnh "bữa cơm ngày đói" với khung cảnh trông thật thảm hại: Giữa cái mẹt rách chỉ có độc
một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo và không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ
tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người. Nếu kết thúc như thế thì cái đói, cái nghèo vẫn
bao trùm, cuộc sống của nhân dân vẫn rơi vào bế tắc... Nhưng Kim Lân không dừng lại ở đó. Ông đã hướng họ
vào ánh sáng của tương lai, của cách mạng: Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới.
Ông đã để những con người trong hoàn cảnh khốn cùng cận kề cái chết nhưng họ không nghĩ đến cái chết mà
vẫn hướng đến sự sống, vẫn hi vọng tin tưởng ở tương lai. Những người đói ấy vẫn khao khát về cuộc sống ấm
no, đầy đủ hơn. Nhà văn đã để người dân nhận thức đúng về cách mạng khơi lên tinh thần đấu tranh. Thực tiễn
lịch sử Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thắng lợi thì con người và đặc biệt là người nông dân càng có thêm
động lực, niềm tin vào tương lai tươi sáng ấm no. Thật là một cách kết truyện sáng mở ra cuộc sống tươi sáng
cho con người.
d. Bàn luận về ý kiến: Đó chưa phải là một cái kết thực sự tự nhiên.
- Còn có ý kiến cho rằng: Đó chưa phải là một cái kết thực sự tự nhiên, còn gượng ép về mặt nghệ thuật. Có thể
lí giải điều này bởi có người cho rằng không khí truyện còn ngập tràn trong cảnh đói khát, thiếu sinh khí và
hiện thực về cái chết là điều khó tránh khỏi.
- Những người nông dân ở đây chỉ là những con người nhỏ bé chưa hiểu gì về cách mạng và họ chưa đủ khả
năng để làm thay đổi cuộc sống của mình. Vì thế cho rằng âm thanh của tiếng trống thúc thuế và hình ảnh lá cờ
có phần gượng ép. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên, tất cả sự nhận thức về cách mạng của người nông dân có
thể đến bởi họ đang sống trong những ngày sôi sục, trong những ngày tiền khởi nghĩa của cuộc Cách mạng
tháng Tám.
e. Ý kiến cá nhân
- Dù có thể còn nhiều ý kiến khác nhau, đó là quyền của mỗi người trong việc cảm nhận văn chương nhưng với
bản thân có thể thấy mạch truyện vẫn lôgic về nội dung, tư tưởng.
- Tác phẩm đã phản ánh rõ hiện thực cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ, nó mang dấu ấn của thi pháp
thời đại, lối kết thúc có hậu đã phản ánh đúng những đặc điểm của văn học cách mạng lúc bấy giờ.
f. Liên hệ: Cách kết thúc trong truyện ngắn Chí Phèo
- Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn, một ngòi bút hiện thực xuất sắc, một bậc thầy về nghệ thuật truyện ngắn;
sáng tác mang triết lí nhân sinh sâu sắc. Chí Phèo là đỉnh cao trong sự nghiệp của Nam Cao; truyện có kết thúc
độc đáo, tô đậm được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
- "Cái lò gạch cũ" vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng, giờ đây khi Chí Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý
nghĩ của thị Nở ỏ kết thúc truyện, đã gợi ra được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt
quyền sống lương thiện của người nông dân.
- Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng gợi ra vòng tròn
luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tô đậm chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi
kịch Chí Phèo sẽ vẫn còn tiếp diễn.
- Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng tượng và suy ngẫm, tạo ra
được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận.
g. Làm rõ sự tương đồng, khác biệt trong tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn
- Tương đồng: Nhà văn Kim Lân và Nam Cao cùng thể hiện sự thấu hiểu, đồng cảm, xót thương đối với những
người lao động nghèo khổ trong xã hội cũ; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi; cùng cất lên tiếng
nói tố cáo các thế lực phi nhân tính chà đạp lên quyền sống của con người; cùng ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của
con người, ngợi ca tình người cao đẹp. Sự gặp gỡ của các nhà văn trong tư tưởng nhân đạo.
- Khác biệt:

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 43


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

+ Kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết
cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.
+ Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện
qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại.
→ Làm phong phú hơn cho giá trị nhân đạo của văn học Việt Nam.
- Lí giải sự khác biệt:
+ Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử xã hội: Kim Lân viết Vợ nhặt sau hòa bình lặp lại 1954 khi dân
tộc ta đã đi qua hai mốc lớn của lịch sử là Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống Pháp. Ánh sáng
của cách mạng giúp nhà văn thấy được hướng vận động và phát triển của lịch sử. Nam Cao viết Chí Phèo năm
1942 trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
+ Do khuynh hướng văn học và phương pháp sáng tác: Vợ nhặt được viết theo khuynh hướng hiện thực cách
mạng nên Kim Lân có thể nhìn thấy bóng tối và ánh sáng bao trùm hiện thực trước Cách mạng. Chí Phèo viết
theo khuynh hướng văn học hiện thực phê phán. Nam Cao phản ánh hiện thực đen tối nhằm phê phán xã hội.
Nhà văn yêu thương con người nhưng vẫn chưa nhìn thấy được lối thoát của người nông dân trong xã hội thực
dân phong kiến lúc bấy giờ.
+ Do tài năng và tính cách sáng tạo của từng nhà văn: Kim Lân cho rằng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào người
nông dân vẫn có thể vượt lên cái chết, cái thảm đạm để mà vui mà hi vọng. Cùng yêu thương tin tưởng con
người nhưng Nam Cao có cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh trước hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống.
3. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề vừa nghị luận
+ Trên con đường sáng tạo nghệ thuật không có đường biên nhưng Kim Lân và Nam Cao không hẹn mà lại gặp
nhau trên giao lộ về hành trình đi khám phá ra vẻ đẹp chân - thiện - mĩ trong các tác phẩm của mình. Cách kết
thúc truyện trong Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân đã thể hiện niềm cảm thông với nỗi khổ của con người qua đó
cũng tố cáo, lên án những chính sách tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân ta vào thảm
cảnh nạn đói thảm khốc. Đồng thời Kim Lân cũng ca ngợi vẻ đẹp của tình người ở người lao động trong hoàn
cảnh còn nhiều khó khăn. Với Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện tư tưởng nhân đạo đặc sắc ở sự bộc lộ của mỗi
nhân vật. Bằng một giọng điệu lạnh lùng với trái tim nồng ấm yêu thương, Nam Cao đã nhận ra phần người bị
khuất lấp đằng sau những hình dáng dữ tợn, xấu xí... Ông đã biện minh một cách lặng lẽ cho nhân tính của
những người dưới đáy xã hội như Chí Phèo, thị Nở, đồng thời cũng lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương
thời.
- Cảm xúc của bản thân: Cách kết thúc góp phần thúc đẩy cốt truyện, khắc họa số phận, phẩm chất, tính cách
của nhân vật. Đồng thời thể hiện được nét đặc sắc trong phong cách sáng tác của Kim Lân và Nam Cao.
Đề:
Cảm nhận về nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2018). Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ với nhân vật thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn
Nam Cao (Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018) để thấy điểm gặp gỡ trong quan niệm về vẻ
đẹp con người của các nhà văn.
HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
Câu 2 (5,0 điểm):
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Khái quát chung
- Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng
tháng Tám. Ông được mệnh danh là nhà văn một lòng đi về với đất với thuần hậu nguyên thủy làng quê
(Nguyên Hồng).
- Vợ nhặt được viết không lâu khi Cách mạng tháng Tám thành công. Nó có tiền thân từ truyện ngắn Con
chó xấu xí trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư trước Cách mạng, viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã cướp đi
hơn hai triệu sinh mạng con người Việt Nam.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 44


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Thị đã bất chấp tất cả để được ăn,
ăn để được tồn tại trong cơn lũ đói khát. Thị chấp nhận theo không Tràng về làm vợ.
b. Phân tích cụ thể
Lai lịch, ngoại hình
- Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa:
+ Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà.
+ Chỉ có bà cụ Tứ xem thị (vợ Tràng) là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là "nhà tôi" mà thôi.
+ Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ
nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm.
+ Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không
tuổi, mà còn biết bao người con gái như thế.
- Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương:
+ Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, nhưng gặp lần
hai, anh ta không nhận ra.
+ Vì đói rách mà chỉ vài hôm, áo quần của thị rách tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày
xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt trũng hoáy. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải.
 Chính hoàn cảnh cuộc sống, làm thay đổi diện mạo, dáng vẻ con người, càng thấy rõ tội ác của bọn thực
dân, phát xít chúng đã gây ra thảm cảnh đau thương trên đất nước ta lúc bấy giờ.
Tính cách
- Khi mới gặp Tràng:
+ Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng kéo xe bò hò một câu tầm phơ tầm
phào cho đỡ nhọc:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì
tức thì thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Lần gặp thứ hai:
+ Khi Tràng vừa trả hàng xong, thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt Tràng mà sưng sỉa nói:
Điêu! Người thế mà điêu. Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn: Hôm ấy leo lẻo cái mồm
hẹn xuống, thế mà mất mặt.
+ Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: "Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ
gì. Thế là rồi thị sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn
xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở.
+ Phải chăng đấy là tính cách vốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người
phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được... ăn!
 Chứng tỏ hành động, cử chỉ, lời nói của thị đã phá vỡ hoàn toàn tính cách của người phụ nữ nông thôn rụt rè,
ngại ngùng trước một môi trường xa lạ. Với thị, thông qua tình huống trên trở thành kẻ thô lỗ, sỗ sàng, trơ trẽn
trước một người đàn ông lạ, càng cho thấy rõ cái đói làm cho con người thị thay đổi, biến thái từ diện mạo đến
tính cách, đó là số phận đáng thương cho thị.
- Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng:
+ Trên con đường trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác
thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn bước,
cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt:
+ Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban
trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng (ai mà chẳng e thẹn).
+ Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy
nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.
+ Song, dù thế nào đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi
anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại
đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 45


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

làm cho thị càng ngượng ngịu, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ thấy vợ như vậy lấy
làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà "chồng" để
tránh sự dòm ngó của mọi người.
 Sẵn sàng theo không về làm vợ anh cu Tràng, nhưng nghĩ cho thật kĩ, mới thấy được bên trong con người
của thị, có một sức sống tiềm tàng, một khát vọng sống chính đáng là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ đáng
thương.
- Khi về nhà chồng:
+ Về đến nhà của anh Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới: Thị đảo
mắt nhìn xung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài.
+ Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiên, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường.
+ Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy chủ động chào bà bằng u: U đã về ạ!. Trước mặt người mẹ chồng, thị
càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái độ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ
Tứ, trái với sự dò xét thông thường của những ngươi mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót.
Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
- Thị nhanh chóng thích nghi với cuộc sống mới:
+ Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà
cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kì lạ ở thị: Tràng nom thị
hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn hà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chất chỏng lỏn như mấy
lần Tràng gặp ngoài tỉnh.
+ Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài
đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài.
+ Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta
không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.
+ Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm.
Có thể? Rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hon cả anh cu
Tràng!
+ Bữa com nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào
tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ.
+ Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải
buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế!
 Hóa ra cái đanh đá, trơ trẽn trước kia ở người đàn bà mà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra.
Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của
mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Số phận
- Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng.
- Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều
đe dọa của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
c. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lí nhân vật
để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lí
hết sức tỉ mỉ).
- Tác giả lại chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của
người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ
theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn xung quanh căn nhà của Tràng; hay
chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ
chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng... Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá
rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.
d. Liên hệ: Nhân vật thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 46


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Thị Nở - một nhân vật xuất hiện trong truyện của nhà văn Nam Cao, đã mang lại biết bao cảm nhận riêng cho
người đọc. Có người đọc sẽ thấu hiểu và thương xót, đau đớn thay cho thị nhưng cũng có những người cười
nhạt và coi đó như một câu chuyện cười châm biếm.
- Thị Nở một người phụ nữ với vẻ ngoài xấu ma chê quỷ hờn, tính tình vô duyên, ba mươi tuổi vẫn trong tình
trạng ế chồng nhưng từ khi gặp gỡ và sống chung với Chí Phèo, những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật bắt đầu
sáng ngời. Khác với những con người ở làng Vũ Đại, thị Nở đến với Chí Phèo tự nhiên mà không một chút định
kiến. Bằng tình thương vô tư của mình, thị Nở đã chăm sóc Chí Phèo, thức tỉnh Chí Phèo, mang Chí Phèo trở
về con đường lương thiện.
e. Đánh giá và nhận xét
- Nhân vật thị và thị Nở của nhà văn Kim Lân, Nam Cao có nhiều điểm gặp gỡ, tương đồng, tưởng như là một
mô típ nhân vật vậy: cả hai nhân vật đều có những nét ngoại hình, hoàn cảnh, tính cách nổi bật, nhưng khi được
sống trong tình yêu thương, họ lại toát lên vẻ đẹp phẩm chất có thể đại diện cho những phẩm chất đẹp nhất của
con người và người phụ nữ nói riêng.
- Là một sự gặp gỡ tình cờ trong quan niệm về vẻ đẹp con người hay do tính nhân văn, nhìn nhận đa chiều của
văn học đã ngấm trong tư tưởng của Kim Lân, Nam Cao? Nhưng quan trọng hơn hết thông qua hai nhân vật kể
trên, người đọc sẽ sống chậm lại, nhìn nhận đa chiều hơn để trân trọng những vẻ đẹp của con người.
3. Kết bài: Hai nhân vật trên đã thể hiện quan niệm của nhà văn Kim Lân, Nam Cao về vẻ đẹp của con người,
đặc biệt là người phụ nữ.
ĐỀ THI THỬ NLVH THEO ĐỊNH HƯỚNG CỦA BỘ GD NĂM 2021
TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” (KIM LÂN)

Đề 1: Nhân vật người vợ nhặt


Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười
như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt, cười tít.
Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế.
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy
đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Điêu! Người thế mà điêu!
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo
quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
-Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.
– Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này, hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
– Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
– Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi.
– Rích bố cu, hở !
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả :

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 47


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

– Ăn thật nhá ! Ừ ăn thì ăn sợ gì.


Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm
dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở :
– Hà, ngon ! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười :
– Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một
cái:
– Chậc, kệ!
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn văn trên. Từ đó nhận xét về cái nhìn
mang tính phát hiện của nhà văn Kim Lân khi viết về số phận con người trong nạn đói năm 1945.

Đề 2: Nhân vật người vợ nhặt


Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mộc lổn nhổn những
búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh cái ngực gầy lép nhô lên nén một tiếng thở dài. Tràng xăm xăm bước
vào trong nhà, nhấc tấm phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát niêu áo vứt bừa bộn cả trên giường,
dưới đất. Hắn quay lại nhìn thì cười cười:
- Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!
Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng
đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét
bước vội mấy bước ra sân.
Hắn chạy loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn
ngồi mớm ở mép giường. Hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần.
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn văn trên. Từ đó nhận xét về sự thay
đổi tính cách của nhân vật người vợ nhặt.
Đề 3: Nhân vật người vợ nhặt
Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui
bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống
bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng.
Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy….
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong đoạn văn trên. Từ đó nhận xét về tinh thần
nhân đạo của nhà văn Kim Lân.
Đề 4: Nhân vật Tràng
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con
mắt còn cay xè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mây cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì
vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 48


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang
nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi
từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đôi với hắn lại rất thấm thía
cảm động. Bỗng nhiên hắn thây hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình.
Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn
chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo
lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại
căn nhà.
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về tài năng miêu tả
tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Đề 5: Nhân vật Tràng
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã
bã ra chát xít… Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
– Việt Minh phải không?
– Ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi
trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đây. Họ đi cướp thóc đây. Tràng không hiểu gì
sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác.
À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thây ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.
Ngoài đình tiếng trông thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về cái nhìn nhân
đạo của nhà văn Kim Lân về cảnh ngộ của người nông dân trong xã hội cũ.
Đề 6: Nhân vật bà cụ Tứ
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự,
vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong
nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của
bà rủ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách
bợt. Bà lão nhìn thì và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà
qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng
phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
-Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ
Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
-Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà báo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá…
Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối chùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc
trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ
ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng
dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 49


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ
nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật :
- Kể ra làm được dăm bà mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái
lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này,
u thương quá…
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.
(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về tài năng miêu
tả tâm lí nhân vật của nhà văn Kim Lân.
Đề 7: Nhân vật bà cụ Tứ
Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui
bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống
bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng.
Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy….
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và
nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau.
Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người. Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Ngoài đình
bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng
bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.Người con dâu khẽ thở dài, thị
nói lí nhí trong miệng:
-Trống gì đấy, u nhỉ?
-Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã
sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.

(Trích “Vợ nhặt”, Kim Lân, SGK Ngữ văn 12, tập 2)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét cái nhìn của nhà
văn Kim Lân về tình người trong nạn đói.
ĐỀ THI THỬ THEO ĐỊNH HƯỚNG CỦA BỘ GD NĂM 2021
TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA ” (NGUYỄN MINH CHÂU)

Đề 1: Nhân vật người đàn bà hàng chài (Đề thi Ngữ văn THPT QG năm 2015)
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ
chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây
xương rộng luộc chấm muối…
- Lão ta hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? – Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính – bỗng mụ đỏ mặt nhưng cái lỗi chính là đám
đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách
mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? – Tôi hỏi

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 50


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Giá mà
lão uống rượu… thì tôi còn đỡ khổ…. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà
đánh…
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên - Là bởi vì các
chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc
thuyền không có đàn ông…
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát – trên thuyền phải có
một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải – Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú? Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hành chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người
đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục
đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con, cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái
khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được. Mong các
chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! – Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ
chợt sáng lên như một nụ cười – vả lại , ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa
thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? – Đột nhiên tôi hỏi
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no…
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập hai)
a) Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về
cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
b) Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về tinh
thần nhân đạo của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Đáp án của Bộ GD câu a:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích và nhân vật người đàn bà hàng chài.
- Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích: cuộc đời, số phận (nghèo khổ, bất
hạnh...); tính cách, phẩm chất (cam chịu, giàu đức hi sinh, thấu trải lẽ đời...); nghệ thuật xây dựng nhân vật...
- Bình luận về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa:
+ Khám phá bản chất cuộc sống và con người ở góc độ thế sự bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều (cuộc
sống của người dân chài còn nhiều nghịch lí, nhân vật người đàn bà vừa nhẫn nhục đến mức phi lí vừa có
những phẩm chất đẹp đẽ...).
+ Đánh giá về cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm.
(Gợi ý: Cách nhìn cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm CTNX là cái nhìn
mang tính chất khám phá sự thật, mang tính phát hiện và có chiều sâu. Ông đã nhìn cuộc sống đời thường
với một mối quan tâm đặc biệt để chỉ ra những vấn đề bên trong của nó. Từ đó, Nguyễn Minh Châu muốn phê
phán cái nhìn lãng mạn, một chiều với cuộc sống. Nhà văn đặt ra vấn đề trách nhiệm của người nghệ sĩ, của
nghệ thuật phải đào sâu, phải khám phá, đối diện với thực tế, dù thực tế ấy phũ phàng.
Sự đổi mới trong cách nhìn hiện thực, khát vọng của NMC về khả năng tác động kì diệu của văn học đối
với đời sống và con người từ đó, đặt vấn đề về mối quan hệ giữa văn học và đời sống.)
Đề 2: Nhân vật người đàn bà hàng chài
Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục
nhã.
- Phác, con ơi!
Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi
lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ đến lúc này vẫn chẳng hề hé
răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà,
làm rỏ xuống những dòng nước mắt, và cái thằng nhỏ, lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn
mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 51


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

Thế rồi bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng,
đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền.
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập hai)
Anh/chị hãy phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về cách nhìn
cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 3: Nhân vật Phùng
Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của
một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim, lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc
thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi.
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời cho như vậy : trước mặt tôi
là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi
im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua
những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi,
toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích
khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu đã
phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá
thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập hai)
Anh/chị hãy phân tích nhân vật Phùng trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về cách nhìn cuộc sống và con
người của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Đề 4: Nhân vật Phùng
Trong phần kết thúc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu viết:
Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều
nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn
thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn
lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển
cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt
rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn,
hòa lẫn trong đám đông.
( Theo Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, tr.77-78)
Anh/chị hãy phân tích nhân vật Phùng trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về quan niệm của nhà văn
Nguyễn Minh Châu về văn học và đời sống và trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

ĐỀ THI THỬ THEO ĐỊNH HƯỚNG CỦA BỘ GD NĂM 2021


TÁC PHẨM “HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT” (LƯU QUANG VŨ)

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 52


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

Đề 1: Đề thi THPT QG năm 2014


Trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ có đoạn:
Hồn Trương Ba: Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!
Hồn Trương Ba: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn.
Đế Thích: Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu
có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải
khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch
tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi
cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng
cần biết!
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 149)
Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích trên.
a. Từ đó, trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề: con người cần được sống là chính mình.
b. Từ đó, anh/chị hãy nhận xét về chiều sâu triết lý được tác gửi gắm qua đoạn trích.
Gợi ý câu b:
*Qua đoạn trích ta thấy được:
- Cảnh ngộ bi kịch của Hồn Trương Ba: phải hứng chịu những cái sai đáng tiếc của quan trời và phải rất
khó khăn trên trên con đường sửa sai, làm lại cuộc đời.
- Vẻ đẹp tâm hồn rất đáng trân trọng của nhân vật: nhân hậu, vị tha, sẵn sàng chết để tránh đau khổ cho
người khác và dành sự sống cho những người xung quanh; dũng cảm, có bản lĩnh; có những quan niệm sâu sắc,
thấm đẫm chất nhân văn về ý nghĩa đích thực của sự sống.
* Nghệ thuật
- Khắc họa nhân vật chân thực, sống động.
- Tác giả tạo ra xung đột kịch căng thẳng do khác nhau về quan niệm sống.
- Ngôn ngữ kịch giàu tính cá thể.
- Giọng điệu đa thanh, phức điệu, vừa hướng nội vừa hướng ngoại, vừa dí dỏm, hóm hỉnh vừa giàu triết lý.
Những triết lý có tính gợi mở, lột mặt nạ giải thiêng thần thánh mà mục đích cũng là tôn vinh con người với
những ước mơ, những khát vọng đời thường.
- Với cuộc đối thoại này, tác giả đã cởi nút cho xung đột của tác phẩm.
* Nhận xét chiều sâu triết lý mà tác giả chuyển tải qua đoạn trích:
- Một cuộc sống có ý nghĩa phải có sự hài hoà giữa đời sống vật chất và tinh thần, thể xác và linh hồn, phải
được sống là chính mình.
- Được sống là một điều may mắn, nhưng sống như thế nào mới quan trọng.
- Có rất nhiều trở lực ngăn cản con người vượt lên hoàn cảnh, con người phải luôn biết đấu tranh với
nghịch cảnh, với chính mình để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Đề 2:
Đế Thích: Ông Trương Ba... (đắn đo rất lâu rồi quyết định) Vì lòng quý mến ông, tôi sẽ làm cu Tị sống lại, dù
có bị phạt nặng... Nhưng còn ông... rốt cuộc ông muốn nhập vào thân thể ai?
Hồn Trương Ba (sau một hồi lâu): Tôi đã nghĩ kĩ... (nói chậm và khẽ) Tôi không nhập vào hình thù ai nữa! Tôi
đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!
Đế Thích: Không thể được! Việc ông phải chết chỉ là một lầm lẫn của quan thiên đình. Cái sai ấy đã được sửa
bằng cách làm cho hồn ông được sống.
Hồn Trương Ba: Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách
là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác. Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị
sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn...
Đế Thích: Không! Ông phải sống, dù với bất cứ giá nào...

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 53


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

Hồn Trương Ba: Không thể sống với bất cứ giá nào được, ông Đế Thích ạ! Có những cái giá đắt quá, không
thể trả được... Lạ thật, từ lúc tôi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tôi bỗng cảm thấy mình lại là Trương Ba
thật, tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa...
Đế Thích: Ông có biết ông quyết định điều gì không? Ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham
dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Rồi đây, ngay cả sự ân hận về quyết định này, ông cũng không có được nữa.
Hồn Trương Ba: Tôi hiểu. Ông tưởng tôi không ham sống hay sao? Nhưng sống thế này, còn khổ hơn là cái
chết. Mà không phải chỉ một mình tôi khổ! Những người thân của tôi sẽ còn phải khổ vì tôi! Còn lấy lí lẽ gì
khuyên thằng con tôi đi vào con đường ngay thẳng được? Cuộc sống giả tạo này có lợi cho ai? Hoạ chăng chỉ
có lão lý trưởng và đám trương tuần hỉ hả thu lợi lộc! Đúng, chỉ bọn khốn kiếp là lợi lộc.
(Trích‌‌Hồn‌‌Trương‌‌Ba,da‌‌hàng‌‌thịt, Lưu‌‌Quang‌‌Vũ, ‌Ngữ‌‌văn‌‌12,‌‌tập‌‌hai,‌tr.151-152)‌‌
‌Cảm‌‌nhận‌‌của‌‌anh/chị‌‌về‌‌nhân‌‌vật‌‌hồn‌‌Trương‌‌Ba‌‌trong‌‌đoạn‌‌trích‌‌trên.‌‌Từ‌‌đó,‌‌nhận‌‌xét‌‌chiều ‌ ‌sâu ‌ ‌triết ‌ ‌lí ‌ ‌về‌
‌con‌‌người‌‌của‌‌nhà‌‌văn‌‌Lưu‌‌Quang‌‌Vũ.‌‌
* Gợi ý:
- Bước 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Bước 2: Hoàn cảnh dẫn đến đoạn trích
- Bước 3: Phân tích nhân vật hồn Trương Ba trong đoạn tríchChốt lại vấn đề Nghệ thuật
--> Chốt lại vấn đề: Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ
trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời
càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông
điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời đại chúng ta đang sống, đồng
thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ
quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách.
--> Về nghệ thuật:
+ Sáng tạo lại cốt truyện dân gian.
+ Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách,
góp phần phát triển tình huống kịch.
+ Lời thoại nhân vật mang đậm chất triết lý.
- Bước 4: Nhận xét chiều sâu triết lí về con người của nhà văn Lưu Quang Vũ.
‌+
Màn‌‌thoại‌‌giữa‌‌Trương‌‌Ba‌‌và‌‌Đế‌‌Thích‌‌một‌‌lần‌‌nữa‌‌khắc‌‌sâu‌‌vấn‌‌đề‌‌trung‌‌tâm‌‌nhất,‌‌cốt‌‌lõi‌‌nhất‌‌của‌‌toàn‌‌bộ‌‌tá
c‌‌phẩm,‌‌đó‌‌là‌‌việc‌‌người‌‌sống‌‌vẫn‌‌có‌‌sự‌‌hài‌‌hòa‌‌giữa‌‌linh‌‌hồn‌‌và‌‌thể‌‌xác,‌‌giữa‌‌bên‌‌trong‌‌và‌‌bên‌‌ngoài.‌‌Việc‌‌mộ
t‌người‌‌vẫn‌‌còn‌‌đầy‌‌khao‌‌khát‌‌sống‌‌như‌‌Trương‌‌Ba‌‌sau‌‌quá‌‌trình‌‌trăn‌‌trở,‌‌lựa‌‌chọn‌‌đã‌‌chối‌‌từ‌‌cả‌‌hai‌‌cơ‌‌hội‌‌đượ
c‌sống‌‌để‌‌nhận‌‌về‌‌mình‌‌cái‌‌chết‌‌đã‌‌cho‌‌thấy‌‌để‌‌sống‌‌cho‌‌ra‌‌một‌‌người‌‌không‌‌hề‌‌dễ‌‌dàng.‌‌Người‌‌ta‌‌không‌‌thể‌‌số
ng‌‌bằng‌‌bất‌‌cứ‌‌giá‌‌nào,‌‌người‌‌chỉ‌‌thực‌‌sự‌‌được‌‌là‌‌mình‌‌khi‌‌có‌‌sự‌‌thống‌‌nhất,‌‌hòa‌‌hợp‌‌giữa‌‌hoạt‌‌động‌‌bên‌‌ngoài‌
‌với‌‌tâm‌‌trạng,‌‌cảm‌‌xúc‌‌bên‌‌trong.‌‌
‌+ ‌Tác‌‌giả‌‌không‌‌chỉ‌‌đặt‌‌ra‌‌vấn‌‌đề‌‌để‌‌người‌‌đọc‌‌trăn‌‌trở‌‌suy‌‌nghĩ‌‌mà‌‌đã‌‌đi‌‌đến‌‌trả‌‌lời‌‌cho‌‌câu‌‌hỏi:‌‌sống‌‌như‌
‌thế‌‌nào‌‌là‌‌sống‌‌có‌‌ý‌‌nghĩa?‌‌Trương‌‌Ba‌‌chết‌‌hẳn‌‌để‌‌đổi‌‌lại‌‌sự‌‌sống‌‌cho‌‌anh‌‌hàng‌‌thịt,‌‌cho‌‌cu‌‌Tị,‌‌để‌‌đổi‌‌lấy‌‌tiếng‌‌
cười‌‌và‌‌niềm‌‌hạnh‌‌phúc‌‌cho‌‌tất‌‌cả‌‌những‌‌người‌‌xung‌‌quanh‌‌thì‌‌câu‌‌hỏi:‌‌sống‌‌như‌‌thế‌‌nào‌‌là‌‌có‌‌ý‌‌nghĩa‌‌đã‌‌được‌
‌trả‌‌lời‌‌một‌cách‌‌rõ‌‌ràng:‌‌một‌‌sự‌‌sống‌‌chỉ‌‌thực‌‌sự‌‌có‌‌ý‌‌nghĩa‌‌khi‌‌người‌‌không‌‌chỉ‌‌biết‌‌sống‌‌vì‌‌mình‌‌mà‌‌còn‌‌biết‌‌s
ống,‌‌biết‌‌vun‌‌đắp,‌‌thậm‌‌chí‌‌biết‌‌hi‌‌sinh‌‌cho‌‌hạnh‌‌phúc‌‌của‌‌những‌‌người‌‌xung‌‌quanh.‌‌Rõ‌‌ràng‌‌ở‌‌đây‌‌nhà‌‌văn‌‌đã‌‌
đề‌‌cao‌‌lối‌‌sống‌‌vị‌‌tha,‌‌cao‌‌thượng.‌‌Đó‌‌cũng‌‌chính‌‌là‌‌lý‌‌do‌‌cho‌‌sự‌‌thay‌‌đổi‌‌đầy‌‌dụng‌‌ý‌‌của‌‌tác‌‌giả‌‌khi‌‌biến‌‌một‌‌n
gười‌‌nông‌‌dân‌‌chung‌‌chung‌‌trong‌‌truyện‌‌cổ‌‌dân‌‌gian‌‌thành‌‌một‌‌người‌‌làm‌‌vườn‌
trong‌‌tác‌‌phẩm‌‌của‌‌mình.‌‌Hình‌‌tượng‌‌người‌‌làm‌‌vườn‌‌chính‌‌là‌‌đại‌‌diện‌‌cho‌‌những‌‌người‌‌biết‌‌vun‌‌xới,‌‌chăm‌‌lo‌‌
cho‌‌hạnh‌‌phúc‌‌của‌‌người‌‌khác.‌‌Ở‌‌khía‌‌cạnh‌‌này‌chúng‌‌ta‌‌thấy‌‌tư‌‌tưởng‌‌của‌‌nhà‌‌văn‌‌dù‌‌tiến‌‌bộ‌‌và‌‌mới‌‌mẻ‌‌đến‌‌đ
âu‌‌vẫn‌‌có‌‌sự‌‌bắt‌‌rễ‌‌sâu‌‌và‌‌hoàn‌‌toàn‌‌thống‌‌nhất‌‌với‌‌truyền‌‌thống,‌‌đạo‌‌lý‌‌tốt‌‌đẹp‌‌của‌‌dân‌‌tộc.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 54


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

ĐỀ THI THỬ THEO ĐỊNH HƯỚNG CỦA BỘ GD NĂM 2021


TÁC PHẨM “NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” (NGUYỄN TUÂN)
Đề 1: Hình tượng sông Đà
...Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt
sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng
bên bờ này nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.
Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái
ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng
này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng con thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê
tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái
hút xoáy tít đáy, cũng đang lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy,
thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những
cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái
giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược
rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về cái tôi tài hoa, uyên bác
của nhà văn Nguyễn Tuân.
CÁCH LÀM
- Bước 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Bước 2: Hoàn cảnh dẫn đến đoạn trích
- Bước 3: Phân tích hình tượng sông Đà trong đoạn tríchChốt lại vấn đề Nghệ thuật
--> Chốt lại vấn đề:

--> Về nghệ thuật:


+ Ngôn ngữ gân guốc, góc cạnh, sắc sảo thể hiện tính cách dữ tợn, với âm mưu nham hiểm của các thạch trận
đá.

- Bước 4: Nhận xét về cái tôi tài hoa và cái tôi uyên bác
Gợi ý: Biểu hiện cái tôi tài hoa và cái tôi uyên bác của Nguyễn Tuân trong tác phẩm “NLĐSĐ”
– “Cái tôi” tài hoa:

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 55


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

+ Thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ và mĩ lệ của thiên nhiên đất nước.
+ Nhà văn đã phát hiện và miêu tả sông Đà như một sinh thể sống động, có hồn, với tính cách hung bạo và
trữ tình, để từ đó tấu lên một khúc tráng ca về con sông dũng mãnh trên chốn thượng nguồn; đồng thời ngân
nga những thanh âm dịu dàng, trong trẻo, êm ái chốn hạ lưu.
+ Phát hiện và ngợi ca phẩm chất tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động Tây Bắc. Nguyễn Tuân tỏ
ra hứng thú đặc biệt trong việc khám phá, thể hiện “chất vàng mười” trong tâm hồn con người Tây Bắc. Từ đó,
nhà văn đã tạc dựng hình ảnh người lái đò trong cuộc vượt thác đầy kịch tính và cũng thật ngoạn mục.
+ Thể hiện qua lối viết uyển chuyển, linh hoạt; cách liên tưởng, so sánh nhiều tầng bậc, bất ngờ và độc đáo.
Vì thế, đã tạo nên những trang văn đẹp như thơ, như nhạc, như hoạ.
– “Cái tôi” uyên bác thể hiện qua:
+ Cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của
đời sống một cách đa dạng, phong phú;ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành
quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn
tượng những cảm giác về đối tượng. Hình ảnh dòng sông Đà và người lái đò sông Đà đã được nhà văn miêu tả,
tái hiện một cách ấn tượng từ nhiều góc nhìn, với những chi tiết điển hình, tiêu biểu; những liên tưởng, so sánh
bất ngờ, thú vị. Tất cả đều cho thấy khả năng quan sát và sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện của Nguyễn
Tuân.
=> “Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái
đẹp của người nghệ sĩ chân chính; đồng thời cũng cho thấy quan niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng
định sự độc đáo của chính người cầm bút. Thể tuỳ bút với đặc điểm của một lối văn “độc tấu” (chữ dùng của
Nguyễn Tuân) đã phát huy tối đa hiệu quả của nó trong việc bộc lộ “cái tôi” trữ tình của nhà văn.
Đề 2: Hình tượng sông Đà
Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã nghe thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng
nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
Thế rồi nó rống lên như tiếng hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng....Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc
sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng
sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào
vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược,
hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc bin thủy điện
nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng
nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn.
Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi
ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn
trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ
cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng với đánh khuỷu quật vu hồi lại
Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boongke
chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền
trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác.
(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về cái tôi tài hoa, uyên bác
của nhà văn Nguyễn Tuân.
CÁCH LÀM
- Bước 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Bước 2: Hoàn cảnh dẫn đến đoạn trích
- Bước 3: Phân tích hình tượng sông Đà trong đoạn tríchChốt lại vấn đề Nghệ thuật
--> Chốt lại vấn đề:

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 56


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

--> Về nghệ thuật:


+ Ngôn ngữ gân guốc, góc cạnh, sắc sảo thể hiện tính cách dữ tợn, với âm mưu nham hiểm của các thạch trận
đá.

- Bước 4: Nhận xét về cái tôi tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.

Đề 3: Hình tượng sông Đà


Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây
mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu
nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè
ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai
chữ.

Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một
cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi
mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu
gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa
tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài
ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy
mình biết là lắm bệnh mà chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.

Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven song ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh
không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ -
Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp
mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng các tiếng nói riêng
của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá
dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt
biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người
tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi
để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và
con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ
điển trên dòng trên.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 57


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

(Trích Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Anh/chị hãy phân tích hình tượng sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về cái nhìn mang tính phát hiện
của Nguyễn Tuân khi miêu tả con sông.
CÁCH LÀM
- Bước 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Bước 2: Hoàn cảnh dẫn đến đoạn trích
- Bước 3: Phân tích hình tượng sông Đà trong đoạn tríchChốt lại vấn đề Nghệ thuật
--> Chốt lại vấn đề:

--> Về nghệ thuật:


+ Ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, sâu lắng thể hiện tính cách hiền hòa, thơ mộng, trữ tình của dòng sông.

- Bước 4: Nhận xét về


Đề 4: Hình tượng người lái đò
Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho
đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì như là đang hất hàm hỏi cái thuyền
phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến
gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la
vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều
mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám
lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.
Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt hạ bộ người lái
đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu
sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng
sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của
đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái.
Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất.
Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm
chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này.
Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông.
Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng
nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ
quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này,
đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng
tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền
đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là
luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 58


“Vợ nhặt”, 1954, in trong tập “Con chó xấu xí”, Kim Lân

thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại
cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn
được. Thế là hết thác.
Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước lại
thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm
xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng.
Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa
rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay
những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ... Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.
Anh/chị hãy phân tích hình tượng người lái đò qua đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cách tiếp cận của
Nguyễn Tuân về con người sau CM/8.
CÁCH LÀM
- Bước 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích
- Bước 2: Hoàn cảnh dẫn đến đoạn trích
- Bước 3: Phân tích hình tượng sông Đà trong đoạn tríchChốt lại vấn đề Nghệ thuật
--> Chốt lại vấn đề:
+ Ông lái đò là người tài trí, có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Đặc biệt, ông chỉ huy các cuộc vượt thác
một cách tài tình, khôn ngoan.
+ Ông lái đò rất mực dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy nguy hiểm.
+ Ông lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới- mang vẻ đẹp bình dị.

- Bước 4: Nhận xét cách tiếp cận của Nguyễn Tuân về con người sau CM/8.
* Cách tiếp cận có tính thống nhất từ quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước CM8:
+ Ông vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
+ Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật
khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.
+ Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo
hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu
luyện.
* Cách tiếp cận có tính khác biệt:
+ Người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày của
nhân dân. Ông lái đò chính là một người anh hùng như thế.
+ Ông đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi,
đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.

Tài liệu ôn thi THPTQG năm 2022 59

You might also like