You are on page 1of 20

BỔ SUNG: VỢ NHẶT

Đề 1: “Cái đói tràn đến xóm này…Từng hồi thê thiết”Phân tích đoạn trích trên nhận xét giá trị hiện thực của
đoạn trích (đã có trong tài liệu trước)
Đề 4: “Bà lão cúi đầu nín lặng …có hơn bố mẹ nó trước kia không”. Phân tích đoạn trích trên/ Phân tích bà cụ
Tứ, từ đó nhận xét thông điệp của nhà văn gửi gắm trong đoạn trích (đã có trong tài liệu trước)
Đề 5: “Sáng hôm sau mặt trời lên bằng con sào…tu sửa lại căn nhà.”. Phân tích đoạn trích trên/ Phân tích nhân
vật Tràng, từ đó nhận xét thông điệp của nhà văn gửi gắm trong đoạn trích (đã có trong tài liệu trước).
Đề 6 :Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại…chả có cám mà ăn ấy”. Phân tích đoạn trích trên từ đó nhận xét
tình cảm của nhà văn với người nghèo trong tác phẩm Vợ nhặt (đã có trong tài liệu trước).
Đề 7: “Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống…lá cờ đỏ bay phấp phới”. Phân tích đoạn trích trên từ đó nhận xét
sự mới mẻ khi viết về đề tài người nông dân trước CM tháng Tám.

ĐỀ 2
“Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi
cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài. Tràng xăm xăm bước
vào trong nhà, nhấc tấm phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường,
dưới đất. Hắn quay lại nhìn thị cười cười:

- Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!

Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả:

- Ngồi đây!... Ngồi xuống đây, tự nhiên...

Người đàn bà theo lời hắn ngồi mớm xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng đứng tây ngây
ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội mấy bước
ra sân gắt lên:

- Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!

Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần.

Hắn nghĩ bụng: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?... Ồ sao nó lại buồn thế nhỉ?...”. Hắn nhổ vu vơ một bãi nước
bọt, tủm tỉm cười một mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế.
Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào đâu có
hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng…”

Phân tích đoạn trích trên/ Phân tích nhân vật người vợ, từ đó nhận xét thông điệp của nhà văn gửi gắm
trong đoạn trích

I. MB

- Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân, nhà văn Nguyên Hồng đã nhận xét
“Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thuỷ của cuộc sống thôn quê”.
- Truyện ngắn Vợ nhặt in trong tập truyện Con chó xấu xí xuất bản năm 1962, tác phẩm phản ánh nạn đói thê
thảm của dân tộc năm 1945 và qua đó nhà văn đã ngợi ca lòng nhân hậu, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc
của con người đã vượt qua cái đói cái chết.
- Đoạn truyện từ “….”đến “…”đã làm nổi bật được tâm lí và hành động của nhân vật Tràng và người vợ về nhà
vào buổi chiều hôm trước., qua đó thể hiện thông điệp của nhà văn gửi gắm trong đoạn trích.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Kim Lân là gương mặt xuất sắc của VHVN, là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là
khung cảnh nông thôn hình tượng người nông dân. Kim Lân am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những
người nông dân nghèo nên ông có những trang viết rất đặc sắc về đời sống người thôn quê, họ thiếu thốn nhưng
rất yêu đời, tài hoa, sống nghĩa tình, tử tế.
- Truyện "Vợ nhặt”có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư", tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng Tám
nhưng mất bản thảo. Sau hòa bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện
"Vợ nhặt". Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí”(1962)
- Đoạn trích từ “….”đến “…”nằm ở phần đầu tác phẩm gắn với sự việc Tràng đưa vợ về nhà vào buổi chiều hôm
trước.
2. Phân tích đoạn truyện (phần trọng tâm)
a. Phân tích nhân vật người vợ
- Người vợ nhặt là nhân vật quan trọng xuất hiện ngay từ đầu đến cuối tác phẩm. Thân phận người vợ nhặt
rất tội nghiệp, thị là người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Thị là cánh bèo
trôi nổi trong nạn đói, là cành củi khô trôi dạt vào cuộc đời Tràng, là ng đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác
phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là cô ả, thị, người đàn bà, nàng dâu mới, nhà tôi. Nhân vật người vợ nhặt điển
hình cho người nông dân trong nạn đói năm 1945 cảnh ngộ phiêu dạt số phận đơn độc.
- Hoàn cảnh người đàn bà theo Tràng làm vợ. Chỉ qua hai lần gặp gỡ: Lần thứ nhất Tràng đẩy xe thóc lên
tỉnh, Tràng hò vu vơ “Có ăn cơm trắng với giò nì...”rồi có một cô gái chạy lại đẩy xe bò với Tràng. Lần thứ 2
Tràng đang ngồi ở cổng chợ, thị chạy vào chỏng lỏn “điêu, người đâu là điêu...”. Tràng mời, thị ăn liền bốn bát
bánh đúc, Tràng nói đùa “có về với tớ thì khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Tràng kéo xe bò thuê trên tỉnh, trêu
đùa bằng câu hò vu vơ, ai ngờ người phụ nữ theo Tràng về làm vợ.
- Tràng dẫn vợ về nhà, người vợ “lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh
vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Nếu như trước đó người đàn bà này cong cơn chua chát đáo để thì khi
theo Tràng về nhà: cái vẻ "cong cớn”biến mất, chỉ còn người phụ nữ xấu hổ, ngượng ngùng, từ láy “lẳng
lặng”cho thấy thị là người phụ nữ kín đáo và thận trọng từ từ tốn lặng lẽ theo chồng về nhà, thị ý thức được mình
là thân phận dâu mới.
+ Về tới nhà chồng nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại”, đây là chi tiết hiện thực miêu tả gia cảnh nghèo của Tràng, ngôn nhà tranh xiêu vẹo, cỏ dại mọc nham nhở,
ngôi nhà như không có sức sống, có bàn tay của người phụ nữ trông nom. “Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái
ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”. Câu văn miêu tả đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng
nhưng cũng là sự chấp nhận nén chặt vào trong. Có lẽ thị cũng không ngờ cái anh Tràng mà thị vừa bám vào hy
vọng để cứu cuộc đời nổi trôi của thị nhưng gia cảnh lại nghèo quá. Trong tiếng thở dài nuốt vào trong vừa có sự
lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh của nhà chồng. Đó
phải chăng là thị đã ý thức được trách nhiệm của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình.
Kim Lân đã phản ánh chân thực tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
+ Thị rất ý tứ biết điều, vào trong nhà: thị e thẹn dè dặt ngồi mớm vào mép giường (Ngồi mớm - tư thế ngồi bấp
bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị không bạo dạn như trước nữa mà thay vào đó là vẻ ngượng ngịu
của nàng dâu mới. Khi chờ bà cụ Tứ về, “thị vẫn ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt
bần thần.”. Nhà văn đã miêu tả chính xác nét tâm lí buồn vừa lo lắng vừa hoang mang của thị, bởi lẽ thị rơi vào
tình huống theo không Tràng về làm vợ, liệu về đến nhà người mẹ có chấp nhận nàng dâu không. Hơn nữa nét
“mặt bần thần”dáng vẻ ôm cái thúng càng cho thấy sự bồn chồn chờ đợi mong mỏi được gặp người mẹ của
Tràng. Chi tiết đó chứng tỏ Thị đã xác định lấy Tràng, chấp nhận theo Tràng về nhà, dù gia đình có nghèo thế
nào thì thị vẫn chấp nhận lẳng lặng để cùng nhau gây dựng cuộc sống mới.

b. Phân tích nhân vật Tràng

- Trái ngước với tâm lí bần thần của người vợ, Tràng cũng sốt sắng với nét tâm lí mới của chú rể hạnh
phúc lần đầu tiên dẫn người vợ về ra mắt mẹ.

+“Tràng xăm xăm bước vào trong nhà, nhấc tấm phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt
bừa bộn cả trên giường, dưới đất”. Từ láy “xăm xăm”diễn tả hành động mạnh mẽ dứt khoát, Tràng ra dáng của
một người chủ gia đình. Với những động tác thu dọn sự bừa bộn của căn nhà đã cho thấy ngôi nhà thiếu bàn tay
chăm sóc của người phụ nữ, người vợ. Tràng chủ động nói những câu rất có duyên, vừa là đùa, vừa là bóng gió
câu chuyện vợ con, Tràng thanh minh “Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!”. Tràng vui vẻ nhưng rồi lại
rơi vào cảm xúc ngượng nghịu nhìn thị cười.

+Trạng thái tâm lí của Tràng được nhà văn miêu tả qua câu văn “Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc,
chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ…”. Kim Lân đã miêu tả rất chính xác nét tâm lí của
Tràng qua từ “đứng tây ngây”ra giữa nhà. Đứng tây ngây vừa diễn tả tâm trạng và hành động bối rối với nhiều
cảm xúc đan xen. Tràng vừa lo, vừa sợ vừa không tin hạnh phúc đến với mình đột ngột và bất ngờ quá. Một anh
Tràng vụng dại tưởng chừng rất khó có được vợ vậy mà anh lại có vợ dễ đến không ngờ. Để đánh thức mình ra
khỏi tâm lí đó Tràng gắt lên bồn chồn mong u về “Sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!”Khi bà cụ Tứ
chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ”vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột
khỏi tay. Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của
mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
+ Tràng bồn chồn “Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà”,
Tràng hết ngóng mẹ rồi lại quan sát người vợ để nghe ngóng tâm lí thị thế nào. Tràng băn khoăn “Quái sao nó
lại buồn thế nhỉ?... Ồ sao nó lại buồn thế nhỉ?...”, hàng loạt các câu hỏi đặt ra cho thấy Tràng rất có trách nhiệm
với người đàn bà. Thị ngồi trong nhà là có thật, hạnh phúc của Tràng là có thật chứ không phải mơ. Ra hắn đã có
vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ”. Tràng như bay bổng trong giấc mơ hạnh phúc, Kim
Lân đã năm bát rất tài tình nét tâm lí của chàng trai lao động nghèo lần đầu tiên đón nhận hạnh phúc lớn trong
tay. Cảm xúc đó đó chứng tỏ Tràng rất khát khao mong mỏi và trân trọng hạnh phúc gia đình.

=> Đánh giá: Đoạn văn trên nhà văn Kim Lân đã thành công trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí và phẩm
chất tính cách của nhân vật Tràng và người vợ trong buổi chiều Tràng đưa vợ về nhà. Lần đầu tiên về nhà chồng
người vợ đã nổi bật phẩm chất của người phụ nữ thẹn thùng, biết điều ý tứ. Lần đầu tiên Tràng cảm nhận được
hạnh phúc ngất ngây có trong tay mà vẫn không tin là sự thật.
3. Lệnh phụ:Đoạn trich đã thể hiện thông điệp của nhà văn gửi gắm trong đoạn trích

- Qua đoạn truyện trên nhà văn muốn ngợi ca vẻ đẹp của tình người, của niềm khát khao hạnh phúc
- Khằng định giá trị lớn lao của hạnh phúc gia đình đối với con người, hạnh phúc gia đình đã làm mọi người thay
đổi tích cực lạc quan cùng hướng tới tương lai.
- Đặt niềm tin vào tâm hồn nhân hậu giàu yêu thương của người lao động nghèo họ nương tựa vào nhau vượt qua
cái chết có niềm tin vào cuộc sống vào tương lai -> giá trị nhân văn của tác phẩm.
III. Kết bài: Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn KL. Nhà văn Nguyễn Khải đã viết “đó là thần viết, thần mượn
tay người để viết lên những trang sâu sắc bất hủ”. Quả thật, viết về nạn đói nhưng nhà văn lại viết về sự sống trên nền cái
chết. Chính điều đó đã củng cố trong lòng người đọc niềm tin mãnh liệt vào sức sống, khát vọng hạnh phúc của con người
vượt qua cái đói để hướng về tương lai. Vợ nhặt đã lan tỏa tinh thần nhân văn trong lòng bạn đọc muôn đời.
ĐỀ 3

“Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến.
Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:

- Điêu! Người thế mà điêu!

Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo
quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.

- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. à, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:

- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.

- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.

Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.

- Đây, muốn ăn gì thì ăn.

Hắn vỗ vỗ vào túi:

- Rích bố cu, hở!

Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:

- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.

Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong
thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:

- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.

Hắn cười:

- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.

Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau không biết nghĩ thế nào hắn chặc lưỡi một
cái:

- Chặc, kệ!

Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh
một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...”

Phân tích đoạn trích trên/ từ đó nhận xét cái nhìn về người nông dân của tác giả.

I. MB/ II. Thân bài/ 1. Khái quát chung

2. Phân tích đoạn truyện :


Lđ1: Đoạn truyện đã làm nổi bật sự việc Tràng nhặt được vợ trong nạn đói.
- Tràng là người nông dân nghèo khổ, kém may mắn xuất thân trong gia đình mẹ góa con côi phải phiêu dạt đến
xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê, cái tên Tràng cũng gợi sự lam lũ cực nhọc. Tràng Xấu xí thô kệch: lưng
to bè như lưng gấu, hai mắt gà gà nhỏ tí. Tràng có thói quen vừa đi vừa ngửa mặt lên cười hềnh hệch hay bị trẻ
con trêu. Tràng nghèo, xấu trai khó lấy được vợ.
- Tràng lấy vợ rất dễ chỉ qua chỉ qua hai lần gặp gỡ: Lần thứ nhất Tràng đẩy xe thóc lên tỉnh, Tràng hò vu vơ
“Có ăn cơm trắng với giò nì...”rồi có một cô gái chạy lại đẩy xe bò với Tràng. Lần thứ 2 Tràng đang ngồi ở
cổng chợ, thị chạy vào chỏng lỏn “điêu, người đâu là điêu...”. Trong nạn đói, Tràng không hề dư giả nhưng
Tràng sẵn sàng mời người phụ nữ không thân thiết “đấy muốn ăn gì thì ăn”. Tràng mời, thị ăn liền bốn bát bánh
đúc. Tràng rất nhân hậu, dù nghèo nhưng vẫn sắn lòng cưu mang người đói. Khi người phụ nữ chấp nhận theo
mình về làm vợ thì Tràng không xua đuổi mà trái lại tràng đối sửu với thị bằng cả một tấm lòng.
- Tràng hào phóng tốt bụng mời người đàn bà xa lạ ăn 4 bát bánh đúc giữa nạn đói  Tràng thấy người lạ
theo mình đã không xua đuổi, thấy người đói sẵn sàng cho ăn.
- Tràng nói đùa “Này nói đùa chứ, có về với tớ thì khuân hàng ra xe rồi cùng về”-> Mặc dù đây là câu nói đùa
nhưng người đọc vẫn nhận ra niềm khát khao hạnh phúc của Tràng. Lúc đầu khi thấy người đàn bà theo mình
thật anh cũng “chợn nghĩ”. Đây là tâm trạng lo lắng có phần hoảng sợ trước sự táo bạo liều lĩnh không ngờ của
người phụ nữ. Rồi Tràng lo lắng vì Tràng hiểu “thóc gạo này đến thân mình còn chăng nuôi nổi nữa là đèo
bòng”. Nhưng rồi sự lo lắng ấy thoáng qua rất nhanh bởi anh hiểu rằng người đàn bà kia cần mình che chở, hơn
nữa cũng không thể đùa cợt câu chuyện nghiêm túc vì thế mà anh “tặc lưỡi, chặc kệ”.-> Niềm khát khao hạnh
phúc được thể hiện cao nhất ở chỗ anh đã dám chấp nhận thách thức của hoàn cảnh để có hạnh phúc có mái ấm
gia đình.
- Sau tiếng “chặc kệ”sự tầm phào khép lại, nhường chỗ cho sự nghiêm trang đứng đắn, trách nhiệm. Anh ta dẫn
thị vào chợ mua cho thị cái thúng - ra dáng một người phụ nữ về nhà chồng và đánh một bữa no rồi cùng đẩy xe
bò về → Hành động của Tràng không còn là sự cưu mang sẻ chia nữa mà cao hơn là ý thức về hạnh phúc và
trách nhiệm với người đàn bà -> Tràng là người đàn ông có lòng nhân hậu hào hiệp, có khát vọng hạnh
phúc.
Lđ2 : Đoạn truyện đã làm nổi bật khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của người vợ
- Thị là người phụ nữ không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Thị là cánh bèo trôi nổi trong
nạn đói, là cành củi khô trôi dạt vào cuộc đời Tràng, là ng đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật
này chỉ được gọi là cô ả, thị, người đàn bà, nàng dâu mới, nhà tôi.
- Nhân vật người vợ nhặt điển hình cho người nông dân trong nạn đói năm 1945 cảnh ngộ phiêu dạt số phận
đơn độc. Hình ảnh người vợ xuất hiện trong đoạn trích trông thật Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ
đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Đây là chi tiết giàu tính
hiện thực khi nhà văn miêu tả hình ảnh những con người ngày đói. Bên cạnh hình ảnh người đói chết như ngả
rạ”thì người vợ nhặt mấp mé bờ vực của cái chết. Kim Lân đã miêu tả thị kiệt cùng xơ xác của sự sống qua phép
so sánh quần áo như tổ đỉa. Kết hợp với phép liệt kê chi tiết trên khuôn mặt lộ rõ sự hốc hác đói ăn. Khuôn mặt
xám xịt hiện thân cho sự sống cạn dần, cái đói cái chết đến rất gần.

- Thị là người phụ nữ có khát vọng sống mãnh liệt: Người đàn bà gặp lần thứ 2 tại cổng chợ, sắn sàng bỏ qua
sĩ diện, nhân phẩm, lòng tự trọng theo người đàn ông xa lạ vì lí do bám víu để có cơ hội sống. Từ câu đùa vu vơ
của anh Tràng “muốn ăn cơm trắng, lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”…, từ hành động tỏ ra phong lưu phóng
khoáng của Tràng khi vỗ tay vào túi bảo “Rích bố cu”, “đấy muốn ăn gì thì ăn”. Vì lòng tốt của người đàn ông
này thị sẵn sàng bỏ qua lòng tự trong, bám víu vào Tràng cần chỗ nương thân “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát
bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Thị ăn như chưa bao giờ
được miếng no, cái cách ăn của thị nhìn qua thì nghĩ là không có lòng tự trọng, ăn tham, ăn gạ, nhưng trong hoàn
cảnh đói khát ấy, lại được người đàn ông mời, người đàn bà đó đã ăn để tồn tại. Cái cách ăn một chập bốn bát
bánh đúc của Mị suy cho cùng là biểu hiện của khát vọng sống, nỗ lực ăn để tồn tại, để sống thật đáng trận trọng.
- Thị là người phụ nữ có khát vọng hạnh phúc. Ăn xong bánh đúc thị đùa “- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt
tiền thì bỏ bố”, Tràng đùa lại “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi
cùng về”Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Như vậy hành động đó có vẻ liều lĩnh, thị táo
bạo dám theo một người đàn ông chính là thể hiện khát khao được sống mong mỏi sự tồn tại. Người đàn bà theo
không một người đàn ông người đàn bà chấp nhận bỏ qua việc không cưới hỏi cốt là tìm được nơi để nương tựa,
để có một gia đình giữa lúc đơn độc bơ vơ. Việc người vợ theo Tràng không phải là hành động cợt nhả, đĩ thoã,
đùa chơi mà là sự nghiêm túc đứng đắn. Nhà văn KL đã rất mực trân trọng khát vọng sống của người nông dân
trong tình cảnh khốn khổ. Phản ánh chi tiết này chứng tỏ nhà văn đã khám phá ra được chân lí giản dị của đời
sống: khi đói cần ăn để sống, khi bơ vơ cần nương tựa, khi cô độc cần bám víu. Trong nạn đói thê thảm thị đã
không nghĩ đến cái chết, thi cần sống, nỗ lực bám vào sự sống để tồn tại thật đáng trận trọng.

=> Đánh giá: Đoạn văn trên nhà văn Kim Lân đã miêu tả thành công tình huống Tràng nhặt được vợ trong nạn
đói. Với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, tạo tình huống truyện độc đáo, lối văn trần thuật linh hoạt, ngôn ngữ
mộc mạc giản dị nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói. Qua tình
huống trớ trêu đó, nhà văn đã khẳng định tâm lòng đôn hậu bao dung, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của
những người lao động nghèo sẽ giúp họ vượt qua cái đói cái chết cùng nhau hướng về tương lai.
3. Lệnh phụ:Đoạn trich đã thể hiện cái nhìn về người nông dân của tác giả.

- Đồng cảm xót thương…Nhà văn trân trọng ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người lao động…Đặt niềm tin vào
những người nông dân với bản chất nhân hậu, giàu yêu thương, giàu khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc, họ
nương tựa vào nhau để vượt lên cái đói và cái chết .

- Cái nhìn mới mẻ về người nông dân, nhà văn tin tưởng người nông dân sẽ đi theo con đường cách mạng đi
theo lá cờ đỏ bay phấp phời. Người nông dân như Tràng, người vợ nhặt hiểu rằng đi theo CM đấu tranh giải
phóng dân tộc thoát khỏi áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, mới có thể đem lại hạnh phúc cho mỗi cá nhân.
Như vậy hạnh phúc của gia đình Tràng chỉ trọn vẹn khi đất nước được độc lập tự do. Cái nhìn mới mẻ có tính
chất dự báo của nhà văn về tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân đã đem lại cho tác phẩm giá trị nhân
văn mới mẻ và sâu sắc.

III. Kết luận

ĐỀ 7

“Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối
ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà
lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:

- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá.
Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...

Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế.
Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai
bát đã hết nhẵn.

Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:

- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.

Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh
mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:

- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng
cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:

- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy.

Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ
trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi
hờn len vào tâm trí mọi người.

“Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi
chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.

Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:

- Trống gì đấy, u nhỉ?

- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống
qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.

Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:

- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?

Im lặng một lúc thị lại tiếp:

- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của
Nhật, chia cho người đói nữa đấy.

Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra
chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.

Tràng hỏi vội trong miếng ăn:

- Việt Minh phải không?

- Ừ, sao nhà biết?

Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê
Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.

Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ
quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh động đi lối khác. À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự
dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu.

Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.

Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ, nhân vật Tràng và người vợ trong đoạn trích trên/ từ đó nhận xét về sự
thay đổi của các nhân vật, qua đó chỉ ra nét mới mẻ của nhà văn khi viết về người nông dân

I. MB

- Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân, nhà văn Nguyên Hồng đã nhận xét
“Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thuỷ của cuộc sống thôn quê”.
- Truyện ngắn Vợ nhặt in trong tập truyện Con chó xấu xí xuất bản năm 1962, tác phẩm phản ánh nạn đói thê
thảm của dân tộc năm 1945 và qua đó nhà văn đã ngợi ca lòng nhân hậu, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc
của con người đã vượt qua cái đói cái chết.
- Đoạn truyện từ “….”đến “…”đã làm nổi bật được vẻ đẹp các nhân vật bà cụ Tứ, Tràng, và người vợ nhặt
trong buổi sáng đầu tiên Tràng có vợ, qua đó làm nổi bật nét mới mẻ của nhà văn khi viết về người nông dân.

I. MB/ II. Thân bài/ 1. Khái quát chung

2. Phân tích các nhân vật trong đoạn truyện


a. Bà cụ Tứ ( Số phận nghèo khổ/ Tấm lòng nhân hậu, tinh thần lạc quan, khát vọng hạnh phúc)
- Bà cụ Tứ là người mẹ nông dân nghèo, là người dân xóm ngụ cư gia cảnh rất khốn khó, bà cụ Tứ rất đơn độc,
chồng và con gái đã mất từ lâu, chỉ còn Tràng là người con trai duy nhất. Giữa cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy,
một buổi chiều Tràng dẫn về một người đàn bà về làm vợ. Đây là tình huống thử thách bà cụ Tứ, hoặc là chấp
nhận hoặc là chối bỏ hạnh phúc của người con trai. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả rất chân thực và tinh tế diễn
biến tâm trạng của người mẹ nghèo với những uẩn khúc, âu lo, tủi hờn… Nhưng nổi bật nhất vẫn là tình người,
tình mẫu tử thiêng liêng, niềm tin vào cuộc sống đã giúp người mẹ vui vẻ nhận nàng dâu mới. Tấm lòng của mẹ
thể hiện rõ trong buổi sáng đầu tiên đón nàng dâu mới.
- Nhà văn miêu tả hình ảnh bà cụ Tứ vào buổi sáng đầu tiên có nàng dâu mới, người mẹ đã có sự thay đổi
khác hắn so với cái “dáng đi lọng khọng”già nua của buổi chiều hôm trước. Mẹ rất vui, niềm vui của mẹ tỏ sáng
trên khuôn mặt tươi tỉnh khác hẳn ngày thường. Mặt mẹ rạng rõ hẳn lên, dáng đi đon đả.
+Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới gia cảnh rất nghèo “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái
rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”mẹ toàn nói chuyện vui, chuyện sung
sướng về sau. Mẹ tìm mọi cách để vun vén cho hạnh phúc cho lứa đôi. Mẹ bàn chuyện nuôi gà "Tao tính khi nào
có tiền mua lấy con gà về nuôi, chả mấy mà có đàn gà cho xem Đây là chi tiêt giản dị chứa đựng triết lí sống
hướng về cuộc sống tương lai, hi vọng về cuộc sống sinh sôi nảy nở. Người mẹ muốn con mình hiểu được đạo
sống bằng chính sức lao động chân chính để gây dựng cuộc sống tương lai. Mẹ gieo vào lòng các con lối sống
của niềm tin bất diệt.
+ Mẹ tạo niềm vui bất ngờ : Trong bữa cơm đón nàng dâu mới chỉ có một niêu cháo lõng bõng, niêu cháo
lõng bõng mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn. Người mẹ dấu kín tạo sự bất ngờ “chúng mày đợi u,
u có cái này hay lắm”. Rồi mẹ lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc nghi ngút, bà lão gọi là “chè khoán”đây, ngon
đáo để cơ. Người mẹ múc ra từng bát đưa cho mọi người vẫn tươi cười đon đả. Mẹ còn nói đùa rất hóm
hỉnh :”Cám đấy mày ạ. Ngon đáo để cơ,…xóm ta khối nhà chẳng có cám mà ăn”.
+ Chi tiết nồi cháo cám trong ngày đói đón nàng dâu mới không phải là xúc cảm về vật chất mà là xúc cảm
tinh thần. Với niêm tin vào hạnh phúc, người mẹ đã biến cái đắng chát thành ngọt ngào. Nồi cháo cám là tấm
lòng của mẹ là tình chất người là hạnh phúc mà mẹ muốn tạo dựng lên. Bữa cơm đầu đón nàng dâu trong cái
nghèo cái tủi, người mẹ giấu nỗi lo nuốt nước mắt vào trong, người mẹ vẫn rất vui. Mẹ vui trong cảnh nghèo, vui
để động viên con cái, vui để thấy niềm lạc quan. Vui để để làm điểm tựa cho các con dựa vào, vui để thấy trân
trọng hạnh phúc và để vun vén gia đình mới cho các con nương tựa vào nhau để vượt qua cái đói. Chính niềm tin
và sự lạc quan của mẹ đã làm cho không khí gia đình trong buổi sáng hôm sau trong đầm ấm hạnh phúc hứa hẹn
nhiều hy vọng.
=> Với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế và sắc sảo, nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật nhân vật bà cụ Tứ
mặc dù số phận cuộc đời rất nghèo khổ nhưng trên hết là tâm lòng nhân hậu bao dung và tinh thần lạc quan của
mẹ. Qua nhân vật bà cụ Tứ nhà văn đã ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người lao động dù trong hoàn cảnh cơ cực vẫn
sáng ngời lòng nhân hậu bao dung niềm lạc quan và tin tưởng vào cuộc sống. Nhà văn khẳng định chính giá trị
của đạo lí tình người, giá trị của hạnh phúc gia đình giúp con người nương tựa vào nhau để vượt qua cái đói,
hướng về tương lai.
b. Nhân vật người vợ (Thân phận con người ngày đói/ Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc)
- Người vợ nhặt là nhân vật quan trọng xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm mang thân phận con người ngày
đói. Thị không có tên riêng, nhà văn gọi là thị, là người đàn bà, là người vợ người đàn bà không tên tuổi, không
quê quán, thị là cánh bèo trôi nổi trong nạn đói, là cành củi khô trôi dạt vào cuộc đời Tràng. Nhân vật người đàn
bà vô danh đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc về thân phận và khát vọng sống của con người trong
nạn đói.
- Người vợ ý tứ biết điều thể hiện rõ trong buổi sáng đầu tiên về nhà chồng. Thị dậy sớm cùng mẹ dọn nhà, giãy
cỏ, gánh nước, thu xếp đồ đạc gọn gàng. Bữa cơm đón nàng dâu mới chỉ có một niêu cháo lõng bõng, giữa mâm
là đĩa chuối thái rối...Niêu cháo long bõng mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn. Người mẹ dấu kín
tạo sự bất ngờ “chúng mày đợi u, u có cái này hay lắm”. Rồi mẹ lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc nghi ngút,
bà lão gọi là “chè khoán”đây, ngon đáo để cơ. Người mẹ múc ra từng bát đưa cho mọi người vẫn tươi cười đon
đả.
- Người vợ lễ độ trân trọng bát cháo cám của mẹ đưa cho. Vẫn là cái ăn của những người trong nạn đói,
nếu như trước đó thị chao chát, chỏng lỏn, chẳng ý tứ gì khi “cắm mặt ăn một chập bốn bát bánh
đúc”nhưng khi đã là con dâu trong nhà thì “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị
tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”. Rõ ràng khi nghe người mẹ nói “chè khoán”- một thứ chè rất ngon của
người dân Bắc Ninh, “chè khoán”lại trở nên rất sang nếu có trong bữa cơm đầu tiên này đón nàng dâu mới. Cái
cách “người con dâu đón lấy cái bát”rất lễ độ, nhưng tại sao khi đưa lên mắt nhìn “hai con mắt của thị lại tối lại”,
bởi vì thị nhận ra đó không phải là chè khoán mà là cháo cám. Trong khi Tràng ăn cháo cám “mặt hắn chun
lại”thể hiện sự chát chúa khó ăn nhưng thị lại khác “thị điềm nhiên và vào miệng”. Trước thái độ bà cụ Tứ múc
ra từng bát đưa cho mọi người vẫn tươi cười đon đả, thị đã tỏ ra rất hiểu và trân trọng người mẹ. Thị ăn để mẹ
vui, thị ăn một cách có ý tứ của nàng dâu hiền thảo. Lúc này thì cái ăn của thị đã chứa đựng cả nếp văn hóa, cách
cư xử biết trước biết sau của đạo lí tình người.
- Thị còn là nhân vật đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc
thuế thị nói với mẹ chồng: “Ở trên Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta
còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị đã giúp Tràng giác ngộ về
con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc tràng vẫn thấy đám người đói đi trên con đê Sộp, phía trước
có lá cờ đỏ to lắm”.
=> Nhân vật nhân vật người vợ nhặt đã thể hiện sự thành công trong bút pháp xây dựng nhân vật của
Kim Lân. Nhà văn đã ngợi ca vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ. Nhà văn khẳng định người đàn bà dù số phận
có bi đát nhưng vẫn sáng ngời phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ truyền thống Việt Nam muôn đời đảm đang
tảo tần có lòng nhân hậu tha, có niềm tin vào tương lai hạnh phúc.
C. Tràng : Là nhân vật chính, là chủ nhân của gia đình, trong đoạn cuối Tràng xuất hiện không nhiều nhưng
tiếng trong và câu chuyện của người vợ về những người phá kho thóc của Nhậtđã thức tỉnh Tràng về đoàn người
Việt minh, trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng
trước có lá cờ đỏ to lắm. Tràng thoáng thấy ân hận tiếc rẻ vì mình chẳng hiểu gì, thấy đoàn người lại sợ quá kéo
vội xe thóc liên đoàn đi tắt cánh đồng khác.Tự dưng hắn thấy tiếc rẻ vớ vẩn. Kết thúc tác phẩm là chi tiết “Trong
óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”.
- Hình ảnh “lá cờ đỏ”là biểu tượng cho lá cờ cánh mạng, “đoàn người đói”là giai cấp nông dân, đây là một lực
lượng đông đảo của cách mạng khi họ được giác ngộ họ sẽ đi làm cách mạng để giải phóng dân tộc. Nhà văn đã
để cho nhân vật Tràng nghĩ về hình lá cờ đỏ sao vàng và đoàn người ở cuối truyện có ngụ ý sâu xa. Tràng đó có
dự cảm về sự đổi đời trong tương lai. Với bao suy nghĩ mới mẻ và tích cực vào buổi sáng đầu tiên có vợ, về trách
nhiệm với gia đình, thì suy nghĩ ấy có thể mở rộng ra ở nhận thức về cách mạng. Tràng đã hiểu ra chỉ có con
đường cách mạng mới giải phóng được dân tộc và số phận cá nhân. Đất nước không còn nô lệ nghèo đói thì cá
nhân con người mới hạnh phúc. Nằm trong mạch tâm lí thay đổi về nhận thức trước hạnh phúc mới của cá nhân,
nhà văn đã thể hiện niềm tin tưởng vào những người nông dân nghèo, họ sẽ giác ngộ và đi theo cách mạng để
đem đến sự thay đổi lớn.
Chốt: Có thể nói đoạn truyện cuối bằng bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, nghệ thuật dựng truyện, sự thay đổi
thời gian không gian, nhà văn đã miêu tả thành công ba nhân vật vào buối sáng hôm sau. Điểm chung ở cả ba
nhân vật là đều có sự thay đổi mới về nhận thức, ở họ đều có niềm tin, sự lạc quan hướng tới tương lai tươi sáng.
3. Lệnh đề phụ: Đoạn truyện đã thể hiện nét mới mẻ của nhà văn khi viết về người nông dân. Trong nạn đói
đứng trên bờ vực của cái chết người nông dân không nguôi:
- Niềm khát khao tổ ấm gia đình, niềm tin vào cuộc sống và tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những con
người nghèo khổ.
- Người nông dân có bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu, lòng nhân hậu, tinh thần lạc quan, niềm tin vào cuộc
sống mới dã giúp họ nương tựa vào nhau vượt qua nạn đói.
- Đặc biệt người nông dân đã có suy nghĩ tích cực hướng về cách mạng nhà văn đã thể hiện niềm tin tưởng vào
những người nông dân nghèo, họ sẽ giác ngộ và đi theo cách mạng để đem đến sự thay đổi lớn.
 Nét mới mẻ của nhà văn khi viết về người nông dân đã đem đến giá trị hiện thực và nhân đạo độc đáo thể
hiện những đóng góp mới mẻ phần tác phẩm Vợ nhặt trong văn xuôi kháng chiến chống Pháp.
III. Kết bài
VỢ NHẶT
( Kiểu bài Phân tích đoạn truyện/ phân tích tâm lí )
KHUNG BÀI:
1. Mở bài:
- Dẫn dắt giới thiệu TG, TP, vấn đề nghị luận.
- Nêu vấn đền NL (đoạn trích, LDDC, LĐP)
2. Thân bài
- Giới thiệu chung
+ Tác giả: Đặc điểm, sở trường, phong cách nghệ thuật
+ Tác phẩm: Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ
+ Đoạn trích: Vị trí, nội dung chính
- Luận điểm chính (phân tích đoạn trích – chia nhỏ, chia ngang, gọi tên các đoạn trích nhỏ)
+ Phân tích nội dung đoạn truyện thứ nhất (phân tích ND- NT)
+ Phân tích nội dung đoạn truyện thứ hai (phân tích ND- NT)
+ Phân tích nội dung đoạn truyện thứ ba (phân tích ND- NT)
 Giá trị nổi bật về nghệ thuật và nội dung của đoạn trích.
- Luận điểm phụ (3 bước: Giải thích/ biểu hiện/ mở rộng)
3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề trong luận điểm chính và luận điểm phụ/ suy nghĩ của bản thân
Đề 1: Phân tích đoạn truyện “Bà lão cúi đầu nín lặng ... nước mắt chảy ròng ròng”, nhận xét về nghệ thuật miêu
tả tâm lí nhân vật trong đoạn trích.
“Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn
thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ
được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì
thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết
được?

Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:

– Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…

Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp
lời:

– Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào
hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.

Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng
tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ
đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy
nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?…

– Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.

Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị
vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:
– Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt
làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…

Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.

I. MB
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân, nhà văn Nguyên Hồng đã nhận xét “Kim Lân là
nhà văn một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thuỷ của cuộc sống thôn quê”.
- Truyện ngắn Vợ nhặt in trong tập truyện Con chó xấu xí xuất bản năm 1962, tác phẩm phản ánh nạn đói thê thảm của
dân tộc năm 1945 và qua đó nhà văn đã ngợi ca lòng nhân hậu, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của con người đã
vượt qua cái đói cái chết.
- Đoạn truyện từ “….” đến “…” đã làm nổi bật được …(lệnh chính/ lệnh phụ trong đề văn)
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- Kim Lân là gương mặt xuất sắc của VHVN, là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là khung
cảnh nông thôn hình tượng người nông dân. Kim Lân am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những người nông dân
nghèo nên ông có những trang viết rất đặc sắc về đời sống người thôn quê, họ thiếu thốn nhưng rất yêu đời, tài hoa, sống
nghĩa tình, tử tế.
- Truyện "Vợ nhặt”có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư", tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng
mất bản thảo. Sau hòa bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện "Vợ nhặt". Tác
phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí”(1962)
- Đoạn trích từ “….”đến “…”(vị trí, nội dung) nằm ở phần…
2. Phân tích đoạn truyện (phần trọng tâm)
- ND1: Trước hết là suy nghĩ của bà cụ Tứ khi đã hiểu ra mọi chuyện.
D/C: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán
vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”.
+ “Bà lão cúi đầu nín lặng”-> Câu văn ngắn gọn miêu tả cảm rất cảm động dáng vẻ đầy nội tâm của người mẹ. Bà mẹ cúi
đầu nín lặng”là trạng thái im lặng để giấu đi cảm xúc bất ngờ, không tin trước sự việc Tràng lấy vợ về trong nạn đói. Cụm
từ “cúi đầu nín lặng”vừa miêu tả dáng vẻ tội nghiệp đầy xót xa của mẹ vừa thể hiện khoảng lặng chiều sâu trong tâm hồn
của người mẹ nghèo từng trải.
+ Sau phút giây “Bà lão cúi đầu nín lặng”là nét tâm trạng trải lòng của mẹ “Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy
còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự”. Nhà văn sử dụng điệp từ “hiểu rồi”, “hiểu ra”đã nhấn mạnh trạng thái người mẹ dứt
khỏi sự ngạc nhiên và chìm vào nỗi suy tư. Bằng sự từng trải của cuộc đời, bà mẹ đã hiều ra bao nhiêu “cơ sự”, hiểu ra sự
tình, sự thể xảy ra câu chuyện, hiểu ra bao khó khăn. Bà hiểu con trai lấy vợ vào lúc này thì cuộc sống và hạnh phúc của nó
bị đe doạ bởi cái đói và cái chết nên khó có thể bền lâu. Vif vì vậy lòng người mẹ buồn tủi xót xa thương cho số kiếp đứa
con mình.
=> Như vậy chỉ qua mấy câu văn trần thuật ngắn gọn, nhà văn Kim Lân đã rất tài tình trong việc dựng lên một chân dung
người mẹ nông dân nghèo với những nét nội tâm sâu kín tinh tế trước sự việc bất ngờ. Nét tâm trạng đó đã làm nổi bật
phẩm chất đẹp của người mẹ giàu trải nghiệm, sống sâu sắc.
- ND2: Đoạn truyện đã phản ánh nhiều cảm xúc xáo trộn trong nội tâm người mẹ
+ Trước hết là tâm trạng xót thương, bà mẹ thương mình, thương con, thương người đàn bà “Chao ôi, người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”
-> Tác giả sử dụng kiểu câu cảm thán với lời than thở thật não nề “chao ôi”, nỗi xót xa tủi hờn của mẹ lặn vào trong tiếng
thở dài. Bà mẹ hiểu câu chuyện dựng vợ gả chồng cho con là chuyện hệ trọng cả đời người, khi nào gia đình khá giả thì lấy
vợ lấy chồng cho con để cho con cái dư giả hạnh phúc. Nhưng đấy là “người ta”, nghĩ đến phận mình “Còn mình thì…”.
Tác giả sử dụng dấu ba chấm, câu văn nghẹn lại đắng chát nghĩ đến cảnh đời cơ cực, người mẹ nghẹn lời không nói được
nữa, mẹ khóc
“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn
đói khát này không?”
-> Chi tiết dòng nước mắt rỉ ra trong kẽ mắt kèm nhèm của người mẹ thật xúc động và xót xa. Có lẽ cả cuộc đời dài dằng
dặc của mẹ đã đi qua bao nỗi khổ cực nghèo khó mẹ cũng đã khóc nhiều rồi. Dòng nước mắt hiếm hoi mà đau đớn của mẹ
già nua khắc khổ giờ đây lại xuất hiện vào tình cảnh con trai lấy vợ trong nạn đói. Dòng nước mắt chất chứa bao nỗi buồn
âu lo tủi phận con trai lấy vợ trong nạn đói nên mừng hay nên lo, hạnh phúc của chúng nó bị đe doạ bởi cái đói và và cái
chết nên khó có thể bền lâu, liệu chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
+ Từ âu lo, người mẹ cảm thông sâu sắc với người vợ nhặt: “Người mẹ khẽ thở dài ngẩng lên “đăm đăm”nhìn người
đàn bà”. -> Câu văn đã diễn tả rất tinh tế hình ảnh người mẹ luôn cố dấu đi cảm xúc buồn khổ vào trong để không cho các
con biết. Từ láy “đăm đăm”diễn tả cái nhìn gần gũi đầy cảm thông. Bà thương người đàn bà đói khổ đứng trước mặt mình
“tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Bà nghĩ trước nghĩ sau cặn kẽ “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này mới lấy đến con
mình. Mà con mình mới lấy được vợ”. Như vậy việc Tràng liều lĩnh lấy vợ lúc này với người mẹ dù có lo lắng nhưng suy
cho cùng cũng là một điều may mắn, là duyên là phúc cho con trai bà. Suy nghĩ được như vậy chứng tỏ bà lão hiểu gia
cảnh nhà mình, hiểu người con trai, hiểu cả người đàn bà kia. Suy nghĩ như vậy có nghĩa là trong thâm tâm của bà cụ Tứ đã
chấp nhận việc con trai mình lấy vợ.
+ Bà mẹ nghĩ đến bổn phận và trách nhiệm của mình “Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con...
May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng
phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được”
-> Câu văn diễn tả những trăn trở day dứt trong lòng người mẹ nghèo, người mẹ này vừa mong con hạnh phúc lại vừa
không lo nổi cho con, những mâu thuẫn nội tâm cứ dày vò mẹ vì thấy bổn phận làm không tròn. Mặc dù vậy mẹ vẫn hy
vọng vào tương lai vào điều may mắn, những điểu tốt đẹp con cái yên bề gia thất.
=> Như vậy nhà văn Kim Lân đã miêu tả thành công nhiều tâm trạng xáo trộn trong lòng bà cụ Tứ, người mẹ vừa lo, vừa
tủi, vừa cảm thông vừa thương xót… chứng tỏ được tài năng miêu tả tâm lí sắc sảo của Kim Lân
- ND3: Người mẹ ưng thuận nhận nàng dâu mới.
+ Bà mẹ khẽ khàng dặng hắng một tiếng nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới “Ừ, thôi thì các con phải duyên, phải kiếp với
nhau u cũng mừng lòng…”.
->“bà lão khẽ dặng hắng”-> Tâm trạng hồi hộp thể hiên cách nói từ tốn.
-> Từ ngữ giản dị “Ừ, thôi thì “lời nói mộc mạc mà chân thực của người mẹ nông dân.
-> Chủ nhân dùng cách xưng hô “u”với “các con”, gợi sự gần gũi thân mật. U đồng ý qua câu “u cũng mừng lòng -> Hai
chữ “mừng lòng”nghĩa là bằng lòng, bằng tất cả niềm vui, Tràng lấy được vợ là niềm mong mỏi rất đỗi thiêng liêng của
mẹ. Người mẹ mừng cho con trai vì nó có vợ, mừng cho chính mình vì đã nhìn thấy vợ chồng nó yên bề gia thất. Mừng
lòng là chúc phúc cho con, hai chữ “mừng lòng”vô cùng tinh tế đã diễn tả tấm lòng nhân hậu của mẹ nông dân nghèo. Sự
ưng thuận của mẹ đã khiến Tràng từ lo lắng chờ đợi “thở đánh phào một cái”ngực nhẹ hẳn đi trút hết sự âu lo.
+ Bà mẹ tiếp tục giãi bày gia cảnh với nàng dâu, người mẹ không dấu diếm cốt là để nàng dâu hiểu và cảm thông “Nhà ta
thì nghèo con ạ”, rồi mẹ khuyên nhủ “Chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”, mẹ động viên “May ra ông trời cho khá… biết
thế nào hả con ai giàu ba họ ai khó ba đời”.
-> Nhà văn đã sử dụng đan xen nhiều kiểu câu trần thuật, câu nghi vấn, dấu ba chấm đã diễn tả xúc động lời nói chân thành
và tâm lòng nhân hậu của bà cụ Tứ. Bà lão cảm thông đồng thuận đón nàng dâu mới, bà cụ lo lắng và động viên tin tưởng
vào tương lai con cháu về sau. Bà cụ Tứ là niềm tin cho chân lí lạc quan của người lao động “Chớ than phận khó ai ơi/ Còn
da lông mọc còn chồi nảy cây”.
- Dù hết lời động viên con nhưng bà mẹ cũng không dấu được nỗi tủi hờn qua “ánh mắt đăm đăm nhìn ra ngoài, bóng
tối trùm lấy hai con mắt”. Hình ảnh u ám của ngày đói hiện lên lạnh lẽo hoang vu “cánh đồng tối, mùi đốt đống rấm ở
những nhà có người chết”không khỏi ám ảnh bà lão. Rồi bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến con gái út, nghĩ đến cuộc đời
khổ cực của mình”
-> Câu văn là lời độc thoại nội tâm thể hiện chuỗi suy nghĩ của bà cụ rất dài, người mẹ lại chìm vào nỗi lo cho con “vợ
chồng chúng nó lấy nhau cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?
- Khi đã ưng thuận nhận nàng dâu, bà cụ Tứ nhẹ nhàng thân mật, bà hiểu đạo lí làm cha làm mẹ “Bây giờ nó là dâu con
trong nhà rồi”, bà hạ giọng thân mật, trò chuyện, mẹ vẫn băn khoăn chưa làm được “dăm ba mâm” cho phải đạo đón dâu
con. Nhưng u lại gạt đi và u mong “Cốt làm sao chúng mày chúng mày hoà thuận là u mừng rồi”.
- Khép lại đoạn truyện người mẹ lại chìm vào nỗi lo, nỗi tủi, niềm thương con, u lại nhắc như nỗi ám ảnh “năm nay thì đói
to đấy”, “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…”bà lão nghẹn lời không nói được nữa nước mắt cứ chảy ròng ròng.
-> Đoạn truyện đã hai lần miêu tả người mẹ khóc vô cùng cảm động, mẹ khóc vì mừng cho con cũng có mà lo cho sự sống
và hạnh phúc của con nhiều hơn. Mẹ khóc thương cho mình, thương cho con, lo lắng cho tương lai hạnh phúc của con bị
đe doạ bởi nạn đói.
Chốt: Như vật đoạn truyện đã miêu tả thành công diễn biến tâm lí nhân vật bà cụ Tứ với sự vận động đa chiều tâm trạng
đầy uẩn khúc qua các hình thức đối thoai, độc thoại nội tâm. Nhà văn sử dụng sinh động các kiểu câu trần thuật, câu nghi
vấn, câu cảm thán kết hợp với ngôn ngữ giản dị phù hợp với lời ăn tiếng nói của người nông dân. Đoạn truyện trên đã làm
nổi bật tấm lòng nhân hậu, giàu yêu thương, giàu lòng bao dung và niềm tin của người mẹ vào tương lại. Bà cụ Tứ là tiêu
biểu cho vẻ đẹp của người mẹ Việt Nam truyền thống giàu đạo lí tình người, có khát vọng hạnh phúc đó gốc rễ tạo nên lối
sống tử tế cưu mang con người, biết nương tựa vào nhau vượt qua cái đói, cái chết.
2. Lệnh phụ: Đoạn truyện trên đã làm nổi bật…
III. Kết bài
Có thể nói bằng bút pháp nghệ thuật độc đáo, tác giả đã xây dựng hình tượng nhân vật, bà cụ Tứ điển hình cho vẻ đẹp
của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu,giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha đã vượt qua cái qua cái chết để hướng về tương lai.
Từ tấm lòng của bà mẹ Tứ, tác phẩm truyện đến người đọc một niềm tin mãnh liệt vào sức sống, khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc của con người giúp con người vượt lên mọi hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Vợ nhặt thực sự là một tác phẩm truyện
ngắn xuất sắc của nhà văn Kim Lân, nhà văn Nguyễn Khải viết “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những
trang sâu sắc bất hủ”.

Đề 2: Phân tích đoạn truyện “Cái đói tràn đến...kêu từng hồi thê thiết”
“Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng
bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi
sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.
Mặt hắn có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn
bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất
đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như trước, Tràng vội
vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng.

Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào lên:

- Anh Tràng ơi! - Tràng quay đầu lại. Nó cong cổ gào lên lần nữa - Chồng vợ hài.

Tràng bật cười:

- Bố ranh!

Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng
xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh
đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên
mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.

I. MB
II. Thân bài
1. Khái quát chung
2. Phân tích đoạn truyện (phần trọng tâm)
a. Nội dung 1: Trước hết đoạn truyện đã miêu tả bối cảnh xóm ngụ cư và hình ảnh những con người trong nạn đói
- Câu văn mở đầu đoạn truyện ngắn gọn nhưng đầy ám ảnh “Cái đói đã tràn đến xóm này từ lúc nào?”-> cái đói được đặt
cạnh động từ mạnh “tràn đến”gợi ấn tượng về cái đói tràn đến, mạnh như thác như lũ ập đến bất ngờ. Câu văn không cụ thể
tên xóm tên làng, gợi cái nhìn khái quát đến tất cả các xóm thôn ngõ ngách ở làng quê miền Bắc Việt Nam. Cái đói gây ra
bao hiểm họa khôn lường, đe dọa cuộc sống con người, gây ám ảnh thê lương.
- Hình ảnh những người hành khất “từ Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như
những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ”.-> Câu văn miêu tả hình ảnh những người sắp chết đói những từ láy “lũ
lượt”,“dắt díu”,“bồng bế”, “ngổn ngang, những người hành khất diện mạo hốc hác, xơ xác, đội chiếu cù bất cù bơ, họ
giống như cuộc chạy loạn, tha hương, đi tìm sự sống mong manh trong vô vọng.
->Đặc biệt nhà văn sử dụng hai lần nghệ thuật so sánh “bóng người với bóng ma”. -> Gợi dáng vẻ vật vờ mất hết cả sức
sống, khi so sánh bóng người với bóng ma, KL không chỉ gợi cảm nhận cụ thể về dáng vẻ của con người khi bị cái đói săn
đuổi mà ông còn thể hiện cảm quan đặc biệt của cái đói. Sức tàn phá của cái đói “tràn đến”khủng khiếp đến mức cõi hoà
vào cõi dương, trần gian mấp mé địa ngục âm phủ.
- Người chết “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái
thây năm còng queo bên đường”-> So sánh “Người chết như ngả rạ”xác chết xuất hiện và cứ mỗi lại thêm nhiều, Con
người bị đặt giữa mong manh của sự sống và cái chết, bị cái chết dồn đuổi.
- Đặc biệt mùi trong không gian ngày đói thật sợ hãi, đó là “mùi gây của xác người”và “mùi hôi thối của rác rưởi “mùi
khét của đống rác ở nhà có người chết ->mùi trong không gian cũng mang dấu ấn của sự chết chóc.
- Không gian nạn đói trải dài, phủ rộng từ làng quê đến các ngõ ngách, từ xóm ngụ cư cho đến ngõ chợ, từ sáng đến chiều
tối.
- Câu văn miêu tả cái xơ xác, heo hút lạnh lẽo của xóm chợ không có sức sống “Ngã tư xóm chợ về chiều càng xơ xác.
Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào ngăn ngắt”. Tác giả sử dụng từ láy, tính từ “xơ xác”, “ngăn ngắt”đã miêu tả chính xác
sức sống đang tàn lụi.
- Bóng tối bao trùm tất cả “các dãy phố úp xúp không có ánh đèn lửa”. Đây là chi tiết rất đắt khi Kim Lân không miêu tả
“ánh đèn lửa”, “ánh đèn lửa”là dấu hiệu của sự sống, của cuộc sống bình thường ở đây cũng không xuất hiện. Ngõ quê sâu
hun hút những khuôn mặt tối, những gương mặt hốc hác những ánh mắt tối sầm lại “Dưới những gốc gạo xù xì, bóng
những người đói đi lại dật dờ những bóng ma”. Đây là lần thứ hai nhà văn miêu tả bóng người như bóng ma. Cõi âm và cõi
dương, bóng người với bóng ma lẫn lộn. Cách so sánh gợi cảm quan kính hoàng về nạn đói, con người đứng trước bờ vực
của cái chết.
- Âm thanh chết chóc thảm thiết “Tiếng quạ gào lên từng hồi thê thảm”, tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm tối.
=> Suốt từ đầu đến cuối đoạn truyện chỉ có một lần KL nhắc đến tiếng trêu đùa của bọn trẻ, nhưng ngay sau tiếng bọn trẻ
đó là cảnh tối tăm chết chóc lại hiện lên. Mở đầu đoạn truyện là cảnh người đói, người chết, kết thúc đoạn truyện là cảnh
tối tăm, tiếng quạ gào không ngớt, âm thanh ám ảnh về cái chết đang bủa vây sự sống của con người . KL đã săn đuổi ráo
riết những chi tiết giàu tính hiện thực để đưa vào tác phẩm của mình tạo nên những trang văn phản ánh nạn đói năm 1945
với sức tố cáo và lòng thương cảm vô cùng sâu sắc.
=> Không gian và con người năm đói là kết quả của cái nhìn hiện thực thẳng thắn không hề né tránh, vừa thể hiện nỗi đau
xót xuất hiện từ trái tim nhân đạo đầy yêu thương cuả nhà văn đối với người nông dân.
b. Nội dung 2: Đoạn truyện không chỉ miêu tả khung cảnh nạn đói mà còn phản ánh sự việc Tràng đưa người đàn
bà về trong nạn đói.
- D/C “Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.
-> Câu văn gây chú ý đặc biệt về sự đối lập, “Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy”, hai chữ “tối sầm”, đã miêu tả chân
thực cuộc sống hiện tại của của con người trước mắt là tăm tối là cái chết, chẳng ai có thể nghĩ đến hạnh phúc hay vui vẻ gì
lúc này . Vậy mà Tràng lại đưa một người đàn bà về với một trạng thái rất vui, người đàn bà đó là ai? điều đó tạo nên sự
ngạc nhiên và chú ý và gợi sự tò mò cho người dân xóm ngụ cư.
- Dáng vẻ của Tràng và người đàn bà được nhà văn miêu tả chi tiết
+ Tràng “Mặt có vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai con mắt sáng lên lấp lánh”-> Từ láy
“phởn phơ”miêu tả chính xác niềm vui của Tràng, niềm vui ấy không giấu được nên hớn hở trên khuôn mặt. Tràng “tủm
tỉm cười”, nụ cười hân hoan một niềm vui khó tả, nhất là “hai con mắt lấp lánh”tràn đầy hy vọng, sáng bừng lên giữa cảnh
“tối sầm”.
+ Người đàn bà đi sau Tràng “Cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng tàng cho khuất nửa khuôn mặt. Thị
rón rén e thẹn”-> Dáng vẻ người đàn bà ngượng nghịu, e thẹn, rụt rè đúng dáng vẻ của một cô đàn bà mới về làm dâu.
Chính dáng vẻ e thẹn đó đã gây sự chú ý cho mọi người trong xóm. Đám trẻ con trông thấy thế có đứa gào lên “chông vợ
hài”, Tràng bật cười “bố ranh”.
=>Nhà văn Kim Lân rất tài tình khi ông đặt nhân vật Tràng và người đàn bà dẫn nhau về vào đúng cảnh “tối sầm lại vì
đói”. Chi tiết đó đưa đến sự ngạc nhiên, bất ngờ và cả sự lo lắng của người dân xóm ngụ cư. Nhưng chi tiết Tràng dẫn vợ
về đã đem đến sự đổi thay cho Tràng, cho người dân trong xóm. Tràng vui “phởn phơ”, bọn trẻ trêu đùa, người dân bàn
tán…Tràng đem vợ về đã thổi vào xóm ngụ cự một luồng ấm áp của hạnh phúc, giữa cuộc sống tăm tối chết chóc có một
chút gì đó sinh động hẳn lên. Nhà văn Kim Lân rất tài tình khi dựng cảnh chết chóc thê thảm ông không để cho sự tuyệt
vọng rơi xuống tận đáy cùng của sự tuyệt chủng mà ông nhen nhóm lên sự đổi thay, sự hy vọng từ một đám cưới bất ngờ
vào ngày đói.
CHỐT: Như vậy đoạn truyện đã thể hiện tài năng bút pháp nghệ thuật hiện thực và tài dựng cảnh của nhà văn Kim Lân.
Ông đã miêu tả được bối cảnh xóm ngụ cư, một không gian điển hình mang tới cái nhìn bao quát ra không khí chung đối
với toàn xã hội, một không khí đầy chết chóc vào năm 1945. Đoạn truyện trên đã làm nổi bật giá trị hiện thực tố cáo xã hội
thực dân phát xít và phong kiến đã gây ra cuộc sống đau khổ cho con người. Đoạn truyện thể hiện tấm lòng nhân đạo sự
cảm thông thương xót của nhà văn đối với người nông dân trong nạn đói. Nhà văn cũng thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng
vào tấm lòng nhân hậu của người nông dân nghèo họ nương tựa vài nhau, cưu mang nhau vượt qua cái chết để hướng về
tương lai.
3.Lệnh phụ: Đoạn truyện đã làm nổi bật
III. Kết bài:
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn KL. Nhà văn Nguyễn Khải đã viết “đó là thần viết, thần mượn tay người để
viết lên những trang sâu sắc bất hủ”. Quả thật, viết về nạn đói nhưng nhà văn lại viết về sự sống trên nền cái chết. Chính
điều đó đã củng cố trong lòng người đọc niềm tin mãnh liệt vào sức sống, khát vọng hạnh phúc của con người vượt qua cái
đói để hướng về tương lai. Vợ nhặt đã lan tỏa tinh thần nhân văn trong lòng bạn đọc muôn đời.

Đề 3 : Phân tích đoạn truyện từ “Bữa cơm ngày đói…bà khóc”, qua đó nhận xét về…
“Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với
cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:

- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này
ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...

Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu
chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.

Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:

- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.

Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm,
cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:

- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.

Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát
thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:

- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy.

Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong
cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm
trí mọi người.

Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt
hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.

Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:

- Trống gì đấy, u nhỉ?

- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt gồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được
đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”.

I. Mở bài / II.Thân bài

1. Khái quát chung (TG, TP) tham khảo đề 1

- Đoạn trích: Vị trí nằm ở phần cuối của truyện, đoạn trích miêu tả bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới vào buổi sáng hôm
sau.

ND1: Trước hết đoạn truyện đã miêu tả mâm cơm đón nàng dâu mới trong ngày đói

- “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.”-> câu văn mở đầu ngắn gọn nhưng gợi bao nỗi xót xa. Có được bữa cơm vào
ngày đói lẽ ra phải mừng, nhưng sao lại “thảm hại”? Nhà văn miêu tả thật chân thực mâm cơm buổi sáng đón nàng dâu
mới. “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”.

->Nhà văn KL có tài quan sát, cái bản chất “thôn quê”thấm sâu vào trong cốt tủy của ông nên ông đã viết ra câu văn giản dị
như chân lí của đất nghèo từ muôn đời muôn kiếp. -> Cái nghèo phô ra từ hình ảnh “cái mẹt rách”, đồ ăn đạm bạc đơn sơ
“lùm rau chuối thái rối”và có thêm đĩa muối ăn với cháo. Nhà văn có nhắc đến bữa cơm nhưng không có cơm, chỉ có nồi
cháo loãng. Tác giả sử dụng hình ảnh liệt kê, từ đồng nghĩa “một”, “độc”, gợi cái nghèo cái khổ đến tận cùng.

-> Nhưng có lẽ đây là bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới nên càng gợi nỗi xót xa tội nghiệp. Tuy bữa cơm về vật chất
chẳng có gì nhưng vẫn thấy nó có phần tươm hơn, thịnh soạn hơn bởi không khí gia đình rất đầm ấm.
- “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau
này”

-> Hình ảnh bà cụ Tứ sáng nay khác hẳn bà cụ Tứ buổi chiều hôm trước, dường như không con âu lo, buồn tủi nữa mà thay
vào đó là sự vui tươi, rạng ngời. “bà kể chuyện làm ăn”có nghĩa là đã bàn tính đến chuyện tương lai. Bà nói toàn chuyện
vui chuyện sung sướng sau này. Bà mẹ đã gợi ra bao viễn cảnh tươi sáng về tương lai cho các con. Bà mẹ cố làm ra vẻ vui
nhưng sâu thẳm cũng là để che đi cái nghèo trong bữa cơm đầu thiết đãi nàng dâu mới. Sự ngại ngừng thay thế bằng niềm
vui, nỗi tủi hờn đổi bằng niềm tin và hy vọng.

- Bà mẹ bàn với Tràng “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì
tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem...”

->Hình thức đối thoại giữa mẹ và con, bà lão vẫn chủ động bàn tính. Câu chuyện làm chuồng “nuôi gà”rất giản dị mà thực
tế của bà mẹ nông thôn nghèo. Bà mẹ tính toán cắt đặt trù liệu cho con từng việc nhỏ nhất cốt là để gây dựng gia đình
chúng nó. Suy nghĩ làm chuồng nuôi gà của bà cụ Tứ thật thà chất phác nhưng bắt nguồn từ triết lí dân gian biết trân trọng
lao động chân chính, luôn lạc quan mong muốn hy vọng cuộc sống sinh sôi nảy nở về sau.

- “Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn”. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hòa hợp như thế.

=> Khung cảnh gia đình đơn sơ nhưng đầm ấm hòa hợp gợi bao cảm động về tình người.

ND2: Đoạn truyện đã miêu tả cách ứng xử của người mẹ trước nồi cháo cám.

- “Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã
hết nhẵn”.

-> Đâu là câu văn tạo nên tình huống bất ngờ cho bữa cơm đầu đón nàng dâu mới. Kim Lân đã rất tài tình tạo dựng tình
huống truyện, nhà văn các nhân vật vào tình huống thử thách rất đời thường khi nồi cháo đã hết và câu chuyện vui bị
khựng lại. Bà mẹ - chủ nhân của bữa cơm sẽ ứng xử thế nào đây?

“Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:

- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.

Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm,
cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:

-> Nhà văn dùng nhiều tính từ miêu tả dáng vẻ và giọng điệu của bà lão: Vẫn trạng thái vui vẻ trong lời nói đầy bí mật “tao
có cái này hay lắm cơ”. Dáng vẻ “lật đật”rất vui, hành động nâng niu “lễ mễ bưng”gợi cảm giác no đủ. Hình ảnh “cái nối
khói bốc lên nghi ngút”gợi sự hấp dẫn. Hành động “vừa khuấy khuấy vừa cười”chủ động tạo nên niềm vui.

- “Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ. Nồi cháo cám mà bà lão gọi là “chè khoán”, chè
khoán là thứ chè đặc sản của Bác Ninh nấu bằng đậu xanh. Bà lão đã sử dụng cách nói khoa trương tạo niềm vui tinh thần
cho ngày đói, làm cho bữa cơm ngày đói sang hẳn lên.

- “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái
bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:

- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy.

-> Đoạn văn đã cho thấy tài quan sát và sự miêu tả tinh tế sắc sảo của nhà văn KL khi ông nắm bắt tâm lí nhân vật chính
xác. Người mẹ nhân hậu từng trải, là điểm tưạ tinh thần cho các con, cảm xúc và tâm lí của mẹ chỉ có một trạng thái là
niềm vui, là vun vén, là lạc quan. Có lẽ mẹ hiểu lúc này khi các con đã nên vợ nên chồng, người mẹ không được phép nghĩ
đến chuyện buồn. Bằng mọi giá, mẹ luôn vui vẻ để các con có điểm tựa.

- Còn người dâu mới, khi đón bát cháo từ tay mẹ, thị đã nhận ra không phải chè khoán mà là cháo cám. Sự thật nghèo đói
khiến “hai con mắt thị tối lại”. Nhưng thật tự nhiên, thi điềm nhiên và vào miệng. Thị ứng xử vô cùng có ý tứ, thị ăn để mẹ
vui, thi ăn để tránh đi nỗi tủi hờn gợn lên trong lòng mẹ. Như vậy là thị chấp thuận cảnh nghèo và xác định cùng chung
sống.
- Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ.

-> Trở về với thực tại là nỗi tủi hờn là sự đau xót “Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ
tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người.”

=> KL đã miêu tả đến tận cùng của nỗi xót xa về thân phận người, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ ăn như để nuốt cay nuốt
đắng, nuốt tủi hờn vào trong. Bữa cơm chìm trong im lặng, nặng nề họ không dám nhìn mặt nhau bởi ai cũng hiểu sự khó
khăn thiếu thốn, ai cũng lo lắng về sự sinh tồn. Kim Lân đã không né tránh hiện thực tàn nhẫn và đau đớn, ông chuyển hóa
nỗi đau đó trên khuôn mặt từng thành viên trong gia đình trong thời khắc lẽ ra phải vui nhất, nhưng “niềm vui ngắn chẳng
tày gang”, nhường chỗ cho niềm vui là sự thật đắng chát… Nhưng dù sao nồi cháo cám trong ngày đói là cảm xúc về tinh
thần chứ không phải cảm xúc về vật chất. Nồi cháo cám đã thể hiện tấm lòng của người mẹ nông dân nghèo mà nhân hậu
giàu yêu thương và giàu nghị lực và khát vọng hạnh phúc luôn vun vén cho con.

ND3: Đoạn truyện gợi ra tín hiệu về tương lai trong buổi sáng hôm sau

“Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt
hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời như những đám mây đen.

Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:

- Trống gì đấy, u nhỉ?”

- Âm thanh tiếng trống “dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã”, tác giả sử dụng nhiều từ láy gợi âm thanh mạnh mẽ làm
thay đổi không khí câu chuyễn đang nặng trĩu nỗi buồn. Tiếng trống xua đi tà khí chết chóc ảm đạm khiến đàn quạ hoảng
hốt bay đi. Tiếng trống gợi ra bao điều mới mẻ và kết nối câu chuyện sang hướng mở.

- Từ tiếng trống thúc thuế, người vợ nhặt đưa đến thông tin cho gia đình là trên Thái Nguyên họ không chịu đóng thuế, họ
phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo. Từ tiếng trống, làm cho Tràng nghĩ đến đoàn người Việt Minh và lá cờ đỏ, Tràng
tiếc vẩn vơ…Tiếng trống gợi tín hiệu về tương, về cách mạng mà các nhân vật trong truyện hướng theo.

=> Như vậy người vợ nhặt đã làm thay đổi ngôi nhà của Tràng, đã thổi vào gia đình Tràng một luồng không khí mới của
thơi đại. Chính người vợ nhặt đã gợi ra tương lai tươi sáng cho Tràng khiến Tràng quan tâm đến thời cuộc. Hình ảnh lá cờ
đỏ sao vàng và đoàn người đi trên đê Sộp cứ ám ảnh Tràng. Phải chăng trong tương lai không xa, Tràng cũng sẽ đi theo
cách mạng, Tràng hiểu rằng muốn hạnh phúc cá nhân bền lâu thi hạnh phúc đó phải nằm trong hạnh phúc chung của dân
tộc. Chỉ có giải phóng dân tộc thì hạnh phúc cá nhân mới được bền chặt.

3. Lệnh phụ: Đoạn truyện đã làm nổi bật …


III. Kết bài:
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn KL. Nhà văn Nguyễn Khải đã viết “đó là thần viết, thần mượn tay người để
viết lên những trang sâu sắc bất hủ”. Quả thật, viết về nạn đói nhưng nhà văn lại viết về sự sống trên nền cái chết. Chính
điều đó đã củng cố trong lòng người đọc niềm tin mãnh liệt vào sức sống, khát vọng hạnh phúc của con người vượt qua cái
đói để hướng về tương lai. Vợ nhặt đã lan tỏa tinh thần nhân văn và có sức sống bền chặt trong lòng bạn đọc.

Đề 3: Phân tích tâm trạng nhân vật Tràng trong đoạn truyện “Sáng hôm sau ... Hắn muốn sửa lại căn nhà ”
“Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc
mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.

Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt còn cay xè
của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác
lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt
khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước
đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch.

Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn
sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn
thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.
Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn
mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn
cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.”

I. MB
II. Thân bài
1. Khái quát chung
2. Phân tích đoạn truyện
Đoạn truyện đặt trong bối cảnh giữa nạn đói khủng khiếp, Tràng dẫn người đàn bà về giới thiệu với mẹ và mẹ được mẹ
ưng thuận đồng ý nhận nàng dâu. Đây là buổi sáng đầu tiên Tràng sống trong cảm giác mới của người đàn ông đã có vợ.
Trước hết, đoạn truyện đã miêu tả nét tâm lí ngỡ ngàng của Tràng trước hạnh phúc mới.
- Tràng thức dậy trong trạng thái “êm ái, lơ lửng như người ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn
còn ngỡ ngàng như không phải ”
-> Nhà văn KL đã xây dựng nhân vật Tràng bằng bút pháp miêu tả tâm lí rất tinh tế. Trong buổi sáng đầu tiên có vợ
Tràng thức dậy trong cảm giác mới mẻ, Tràng ngỡ ngàng trước hạnh phúc. Tác giả đã sử dụng từ láy “êm ái, lơ lửng” đã
diễn trạng thái hạnh phúc thăng hoa nó như làm mất đi trọng lượng của cơ thể làm cho con người đang ở trong cõi mơ,
cõi ảo. Hạnh phúc đến quá nhanh bất ngờ khiến Tràng “ngỡ ngàng như không phải”.
-> Rõ ràng hạnh phúc yêu thương và được yêu thương nó như một thứ men say có phép màu nhiệm mang đến cho Tràng
một cảm giác kì diệu. Nhà văn hiện thực KL như đang bay bổng say sưa cùng nhân vật, ông như đứng giữa ranh giới của
cõi thực và cõi mơ để cảm nhận hết được giá trị của hạnh phúc.
Đoạn truyện không chỉ…mà còn miêu tả tâm trạng ngạc nhiên trước sự thay đổi của ngôi nhà.
+ Tâm trạng ngạc nhiên của Tràng trước sự thay đổi của ngôi nhà được nhà văn KL miêu tả qua dáng vẻ “Hắn chắp
hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân”-> Từ láy “lững thững”với cái dáng vẻ chắp tay sau lưng khiến Tràng trở lên
đàng hoàng đĩnh đạc của người đàn ông làm chủ gia đình. Không còn bước đi ngật ngưỡng ngưỡng mệt mỏi nữa, không
còn dáng vẻ tất tưởi vội vã của mỗi buổi sớm mai thức dậy lên chợ tỉnh chở hàng thuê. Bước đi “lững thững”cho thấy sự
thư thái không hề vội vã điều này chắc hẳn hiếm khi xuất hiện trong cuộc sống nghèo khó của Tràng.
+ Tâm trạng ngạc nhiên của Tràng ngày đầu có vợ còn được thể hiện qua cho tiết “hắn chớp chớp mắt liên hồi mấy
cái” nhận ra xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ. Vẫn là ngôi nhà xiêu vẹo trên mảnh vườn lổn nhổn cỏ dại
nhưng buổi sáng mùa hè hôm nay dường như đã thổi lên sức sống mới khiến ngôi nhà thay đổi mới mẻ khác lạ. Hành
động “chớp chớp mắt liên hồi”đã biểu hiện sinh động cho tâm trạng ngạc nhiên trước sự thay đổi của ngôi nhà. Bởi ngạc
nhiên về ngôi nhà và cảnh vật xung quanh nên Tràng mới quan sát kĩ lưỡng, tất cả mọi thứ thu vào tâm mắt của anh
“Nhà cừa sân vườn hôm nay đều được quét tước thu dọn sạch sẽ. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa được đem ra sân
hong. Hai ang nước đã kín đầy. Đống rác tung bành đã được hót sạch”
-> Rõ ràng Tràng đã nhận ra gia đình có sự thay đổi mới mẻ, mọi thứ đều quang quẻ tươi mới. -> Chính người vợ đã làm
cho ngôi thay đổi, người vỡ đã dậy sớm quét tước thu dọn. Căn nhà vốn tềnh toàng có bàn tay của người phụ nữ đảm
đang đã trở nên gọn gàng ấm áp. Và chính niềm hạnh phúc bay bổng khiến Tràng quan tâm đến thế giới xung quanh như
khoác lên màu áo mới sạch sẽ ngăn nắp. Như vậy hạnh phúc mới mẻ đã thổi hồn cho cuộc sống đầy khó khăn thử thách
với gia đình nhà Tràng.
- Tràng không chỉ ngạc nhiên mà anh còn vô cùng xúc động khi nhìn thấy hình ảnh những người thân yêu”Mẹ lúi
húi giãy cỏ. Vợ hắn quét sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt tên mặt đất”-> Người mẹ, người vợ dậy sớm quét dọn sân
vườn. Một gia đình nhỏ bé đầy đủ trọn vẹn khiến Tràng trào lên nỗi xúc động “Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường
nhưng đối với hắn thì hắn lại rất thấm thía và cảm động”, cụm từ “thấm thía và cảm động”đã miêu tả chính xác nỗi xúc
động trong lòng Tràng đang dâng trào. Phải chăng hạnh phúc gia đình là niềm khát khao mong mỏi cháy bỏng của người
đàn ông nghèo. Cảnh gia đình trước mắt là thực mà như mơ, làm cho Tràng thấy hai chữ “gia đình” thật thiêng liêng.
Không những thế Tràng còn nhận thức được hạnh phúc của mình đang có là gia đình, “Hắn đã có một gia
đình”Tràng cảm thấy “yêu thương và gắn bó với căn nhà của mình”. Nếu so sánh với Chí Phèo của nhà văn Nam Cao thì
Tràng may mắn hơn nhiều bởi vì Chí Phèo ước mơ “gia đình nho nhỏ”nhưng không đạt được. Hạnh phúc của Tràng đang
ở thì hiện tại, hiển hiện ngay trước mắt, tương lai của Tràng cũng rất gần “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở cái nhà
này”, ngôi nhà tựa như tổ ấm “cái nhà là tổ ấm che nắng che mưa”. Câu văn giản dị nhưng chứa đựng một triết lí lớn
lao, nhà là gia đình, nhà là hạnh phúc bình yên, nhà là tổ ấm là nơi đoàn tụ nơi đi về sum họp. Hai chữ “tổ ấm”thấm thía
và cảm động, Tràng đã nhìn thấy giá trị và động lực to lớn từ gia đình mà biết bao mong chờ mới có được. Nhà văn KL
đã nỗ lực đi đến tận cùng nỗi niềm và cảm xúc của nhân vật để thấy niềm hạnh phúc lớn lao của Tràng.
Tràng còn có tâm trạng vui sướng hạnh phúc khi thấy mình nên người có trách nhiệm với gia đình. Khi đã có
vợ Tràng bắt đầu một cuộc đời mới. Tràng đã có suy nghĩ và cảm xúc tích cực đó là “nguồn hạnh phúc phấn chấn đột
ngột tràn ngập trong lòng Tràng”. -> Sức mạnh to lớn của tình người, sức mạnh của những khát khao bình dị đã trở thành
đôi cánh nâng đỡ con người vượt qua khỏi tăm tối khổ ải. Tràng thực sự thăng hoa trong cảm xúc và trưởng thành trong
nhận thức “Hắn thấy hắn nên người, hắn thấy có bổn phận phải lo lắng cho vợ con”-> Hai chữ “nên người”được nhà văn
Kim Lân dùng thật đắt đã thể hiện sự biến đổi về chất ở nhân vật Tràng. Tràng là người đàn ông đã trưởng thành chín
chắn, người đàn ông có trách nhiệm trụ cột gánh vác biết lo lắng cho vợ con. Dường như trong óc Tràng lúc này không
còn lo sợ bởi cái đói cái chết nữa, khát vọng hạnh phúc gia đình đã khơi sáng trí tuệ Tràng, đã thức tỉnh Tràng để Tràng
nhận thức người lớn hơn. Một anh Tràng ngô nghê ngờ ngệch giờ bỗng nhận ra trách nhiệm lo lắng cho gia đình, đó là
nhận thức sâu sắc mà không phải người khôn ngoan nào cũng nghĩ được.
Từ tâm trạng vui sướng hạnh phúc khi thấy mình nên người có trách nhiệm với gia đình đã thôi thúc Tràng có
hành động mới: “xăm xăm chạy ra giữa sân và muốn làm một việc gì đó góp phần tu sửa lại căn nhà”. -> “xăm xăm”vừa
là từ láy, vừa là động từ mạnh đã diễn tả rất tài tinh nét tâm lí của Tràng muốn biến cải cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng
không thể lững thững chắp tay sau lưng ngắm nhìn ngôi nhà nữa mà Tràng muốn hành động muốn làm ngay điều gì đó
thực tể để tu sửa căn nhà, bắt đầu một tương lai mới . Suy nghĩ tu sửa lại căn nhà là suy nghĩ vô cùng trách nhiệm xuất
phát từ từ chân lí “đàn ông xây nhà đàn bà xây tổ ấm”. Câu văn cuối Tràng hiện lên vô cùng mạnh mẽ, nhanh nhẹn, tháo
vát đảm đang của người đàn ông, người chồng có trách nhiệm.
CHỐT: Tràng là nhân vật tiêu biểu cho số phận người lao động nghèo trong nạn đói năm 1945 có lòng nhân hậu và
không lụi tắt khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc. Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật Tràng từ khổ đau -> hạnh phúc, từ
ngây dại -> ý thức, sự kiện nhặt được vợ đã làm cho nhân vật tràng có sự thay phục sinh trong tâm hồn đã chứng tỏ sức
mạnh kì diệu của hạnh phúc gia đình. Qua nhân vật Tràng, nhà văn muốn khằng định giá trị lớn lao của hạnh phúc gia
đình đối với con người, đặt niềm tin vào tâm hồn nhân hậu giàu yêu thương của người lao động nghèo họ nương tựa vào
nhau vượt qua cái chết có niềm tin vào cuộc sống vào tương lai.
3.Lệnh phụ: Đoạn truyện đã làm nổi bật …
III. Kết bài:
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn KL. Nhà văn Nguyễn Khải đã viết “đó là thần viết, thần mượn tay người
để viết lên những trang sâu sắc bất hủ”. Quả thật, viết về nạn đói nhưng nhà văn lại viết về sự sống trên nền cái chết.
Chính điều đó đã củng cố trong lòng người đọc niềm tin mãnh liệt vào sức sống, khát vọng hạnh phúc của con người
vượt qua cái đói để hướng về tương lai. Vợ nhặt đã lan tỏa tinh thần nhân văn trong lòng bạn đọc muôn đời.

You might also like