You are on page 1of 15

VỢ NHẶT

- Kim Lân-

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Kiến thức về tác giả
- Kim Lân (1920 - 2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Quê xã Tân
Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ
được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Năm 1944, ông tham gia Hội Văn hóa
cứu quốc, sau đó tiếp tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và CM.
- KL là nhà văn chuyên viết truyện ngắn về người nông dân làng quê VN -
mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Ông viết về cuộc sống và
con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của
đồng ruộng.
- Năm 2001, KL được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
2. Kiến thức về tác phẩm
a. Xuất xứ
Vợ nhặt có tiền thân từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được viết ngay sau CM
tháng Tám thành công nhưng còn dang dở và mất bản thảo trong kháng chiến.
Sau hòa bình lập lại (1954), KL dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết truyện
ngắn này. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí.
b. Nội dung
* Nhân vật Tràng:
- Ngoại hình: xấu, thô.
- Tính tình: có phần không bình thường, ăn nói cộc cằn, thô lỗ, nhưng
tốt bụng và cởi mở…
- Gia cảnh: nhà nghèo, dân ngụ cư, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
* Nhân vật người vợ nhặt:
- Là nạn nhân của nạn đói.
- Là 1 người vô danh, không tên tuổi, không có công ăn việc làm.
- Tính khí chua ngoa, đanh đá, táo bạo, không khách khí khi ăn liền 1
lúc 4 bát bánh đúc.
- Về làm vợ Tràng:. Từ 1 con người chao chát, chỏng lỏn, cong cớn,
thị trở thành rụt rè, dịu dàng, đúng mực.
* Bà cụ Tứ:
- Một người mẹ nghèo khổ, rất mực thương con
- Tâm trạng: buồn vui, mừng lo lẫn lộn.
- Một người phụ nữ VN nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha.
- Một con người lạc quan, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi
sáng.
=> Các thành viên của gia đình tủi hờn khi bữa cơm đầu tiên chỉ có niêu
cháo loãng và chè cám, nhưng nghĩ đến Việt Minh và đoàn người đi phá kho
thóc chia cho dân nghèo, lòng họ nhen nhóm nhiều hi vọng.
c. Nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí.
- Ngôn ngữ văn xuôi nhuần nhị, giản dị mà tinh tế.
II. LUYỆN ĐỀ - Lên dàn ý
ĐỀ 1. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt của Kim Lân, từ đó nêu
lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của TP.
Gợi ý trả lời:
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người”, “thuần
hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.
+ Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, trong đó có
Vợ nhặt của Kim Lân
- Vợ nhặt xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Qua tình huống truyện, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân
đạo sâu sắc.
II. Thân bài
1. Bối cảnh xây dựng tình huống truyện
- Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu
người chết.
- Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một không khí ảm đạm, thê
lương. Những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
2. Tình huống nhặt được vợ của nhân vật Tràng.
** Tình huống truyện
- Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ “ế” vợ:
+ Ngoại hình: xấu, thô.
+ Tính tình: có phần không bình thường, ăn nói cộc cằn, thô lỗ…
+ Gia cảnh: nhà nghèo, dân ngụ cư, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
+ Khi cái chết đang cận kề lại “nhặt “ được vợ, có vợ theo.
- Diễn biến của tình huống truyện.
+ Trên đường thị theo Tràng về nhà -> người dân xóm ngụ cư ngạc
nhiên, Tràng vui mừng, phấn khởi. Thị ngượng ngùng, e thẹn…
+ Về đến nhà: Thị vừa lo lắng vừa tủi cực. Bà cụ Tứ ngạc nhiên, lo
mừng lẫn lộn, bản thân Tràng cũng rất ngạc nhiên, ngỡ ngàng…
+ Buổi sáng đầu tiên: Tràng “êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc
mơ đi ra”, “ việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không
phải”. Thị dọn dẹp nhà cửa, không còn vẻ chao chát, chỏng lỏn ->một người
đàn bà hiền lành đúng mực, biết cảm thông chia sẻ …
** Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo
- Giá trị hiện thực
+ Tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
. Cái đói dồn đuổi con người.
. Cái đói bóp méo cả nhân cách.
. Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
+ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.
- Giá trị nhân đạo: Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau
của các nhân vật.
+ Tràng rất trân trọng người “vợ nhặt” của mình.
+ Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người “vợ
nhặt”
+ Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
+ Con người luôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương
lai:
III. Kết bài
- Khẳng định tài năng nhà văn qua việc XD tình huống truyện độc đáo, hấp
dẫn.
- Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của TP.

ĐỀ 2. Cảm nhận về nhân vật thị trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim
Lân).
1. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật thị.
2. Thân bài
* Lai lịch - xuất thân: 5 không: không tên (thị, ả, người đàn bà), không
nhà, không gia đình, không quê hương, không của cải (nghèo đói).
* Ngoại hình: Gầy yếu, xanh xao “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy
hai con mắt”, “áo quần tả tơi như tổ đĩa”
* Phẩm chất, tính cách: hai mặt đối lập.
- Trơ trẽn, thiếu lòng tự trọng:
+ Trong lần đầu tiên gặp Tràng, nghe câu hò vu vơ của Tràng “Muốn ăn
cơm trắng mấy giò này/Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì” thị cong cớn, vùng
dậy, chạy theo Tràng.
+ Lần thứ hai gặp Tràng, thị sưng sỉa, không hề ý tứ, ngượng ngùng
mà “đôi mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên… ngồi sà xuống ăn thật”.
- Khao khát hạnh phúc - mái ấm gia đình:
+ Trên đường về nhà, trước sự trêu ghẹo của mọi người -> e thẹn, rón
rén.
+ Khi về tới nhà, thị ngại ngùng, ngồi mớm vào mép giường, chào hỏi
mẹ Tràng lễ phép…
+ Buổi sáng đầu tiên ở nhà Tràng:
. Thị dọn dẹp nhà cửa
. Không còn vẻ chao chát, chỏng lỏn…
. Một người đàn bà hiền lành đúng mực, biết cảm thông chia sẻ
- Đánh giá chung:
+ Thị là nạn nhân của nạn đói, vì nạn đói đánh mất hết ý thức, nhân phẩm của
một người phụ nữ.
+ Khi được sống trong sự che chở của gia đình, những phẩm chất tiêu biểu
của một người phụ nữ Việt được bộc lộ: đảm đang, cảm thông, chia sẻ,…
* Nghệ thuật: khai thác nhân vật qua những cử chỉ, hành động -> tính cách,
phẩm chất của nhân vật được bộc lộ.
3. Kết bài:
Đánh giá khái quát về nhân vật thị (người vợ nhặt)
III. Phân tích chi tiết
Kim Lân thuộc vào số ít nhà văn có thể minh chứng cho chân lý “quý
hồ tinh bất quý hồ đa”. Kể từ khi in tác phẩm đầu tay (1942) cho đến hôm
nay, ông đã có dư năm mươi năm cầm bút. Ấy vậy nhưng khi kể ra những
gương mặt làm nên bản sắc của văn xuôi Việt Nam trong mấy chục năm trở
lại đây khó có thể bỏ qua tên tuổi của Kim Lân.
Đọc Vợ nhặt, tôi thường bất giác nhớ tới một ý của I.Bôndarep. Theo
nhà văn Nga này thì nghệ thuật sinh ra từ những thái cực và xung đột. Vợ
nhặt được xây dựng trên bối cảnh của năm Ất Dậu, cái năm vẫn được nhiều
người lớn tuổi quen gọi là năm đói. Cái nạn đói của năm Ất Dậu không bao
giờ quên được ấy có lẽ là tai họa thảm khốc nhất của một dân tộc mà số phận
vốn đã làm tại nhiều họa. Bởi là chưa có một thủy tai, hoả tai nào, chưa có
một dịch bệnh nào, và thậm chí chưa có một cuộc chiến tranh nào đã có thể
như cái nạn đói khủng khiếp kia – cướp đi của nước Việt Nam ngót một phần
mười dân số. Vợ nhặt được hoàn thành khá lâu sau năm đói. Nhưng cảm quan
về cái đói, có thể nói, đã thấm đến tận cái nhìn vào cảnh vật. Chẳng thế mà ở
những dòng đầu, khi tả con đường luồn qua xóm chợ vào trong bến, tác giả
thấy nó "khẳng khiu". Và cái ánh sáng đầu tiên mà tác giả muốn hắt vào trong
truyện cũng là thứ ánh sáng nhập nhoạng, mù mờ, không ra sáng mà cũng
không ra tối hẳn của buổi chiều tà "chạng vạng".
Trên đường ấy, và dưới thứ ánh sáng leo lét ấy, hiện lên vật vờ, ủ rũ
những bóng người đói "xanh xám như những bóng ma". Nhà văn chắc phải rất
hữu ý khi đặt câu văn tả người sống "nằm ngổn ngang khắp lều chợ ngay gần
cạnh câu tà những "cái thây nằm còng queo bên đường", để gây ấn tượng rờn
rợn về một cuộc sống mấp mé bên bờ cái chết, một cõi dương lởn vởn hơi
hướng của cõi âm, với cái không khí "vẫn lên mùi ẩm thổi của rác rưởi và mùi
gây của xác người". Tràng, nhân vật chính của Vợ nhật đã được Kim Lân cho
xuất hiện trên nền khung cảnh đó. Một con người hoang sơ ngật ngưỡng bước
đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống. Mang tên một
thứ đó vật của thợ mộc - cái tràng. Tràng là một nhân dạng được hóa công đéo
gọt quá sơ sài: hai con mắt gà gà, nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thì
thô kệch, thân hình thì "vập vạp". Cùng với cái kiểu "ngửa mặt lên cười hềnh
hệch", "cái đầu trọc nhằn", "cái lưng to rộng như lưng gấu" và tấm thân chắc
là trần trụi vì có cái áo nâu tàng thì đã vắt ở một bên tay, Tràng, qua cách
miêu tả của Kim Lân, như kết tỉnh cái phần thiên nhiên hoang dã trong con
người, cái phần xa lạ hẳn với mọi kiểu cách trau chuốt của xã hội văn minh.
Mà nhiều cái có liên quan tới Tràng, nhiều cái của Tràng xem ra cũng đều
hoang dã thế. Chẳng hạn như nơi ở: cành dong rấp cổng, tấm phên rách che
nhà, mảnh vườn lớn nhồn toàn cỏ dại. Chưa kể Tràng lại là một kẻ ngụ cư,
một loại người lúc bấy giờ vẫn bị coi khinh, ruồng bỏ, một thứ có rác của
hương thôn.
Nhưng phải chờ đến câu này thì cái sáng tạo nghệ thuật có ý nghĩa
quyết định của Kim Lân mới thực sự xuất hiện, và guồng máy nghệ thuật
trong thiên truyện ngắn kể từ đó mới thực sự vận hành: "Giữa cái cảnh tối
sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về
với một người đàn bà nữa". Một người đàn bà đã bước vào đời sống của
Tràng. Tràng có vợ. Người như Tràng mà có vợ. Cái kẻ mang bộ dạng giống
như con gấu hoặc như gốc cây xù xì, trần trụi ấy, lại trong một cuộc đời đang
bị đẩy sát tới cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và không tồn tại thế kia, mà
lại nhặt được dùng cái thứ vốn biểu trưng cho hạnh phúc. Tràng có vợ. Mà lại
có vợ một cách hiển hách, oanh liệt, cứ y như một anh chàng tốt số, đào hoa:
chỉ buông ra một lời ồm ờ tận tình, lời bông đùa, mấy chén bánh đúc mà cô
nàng đã vội và theo không.
Tưởng đầu một truyện truyền kì về một thời thảm hại. Nhưng Kim Lân
không hề định kể chuyện cổ tích. Không hề có à đây một môtíp nào từa tựa
như chàng ngốc gặp nàng tiên. Chỉ có sự thực, thực đến não lòng. Người vợ
mà Tràng tỉnh có nhất được trên đường đời ảm đạm cũng thuộc về một dạng
người giống như Tràng. Chân dung của chị ta cũng lại là một bức kí họa khác
của tự nhiên, với những đường nét thật tai hại cho người phụ nữ cái ngực gây
lép, khuôn mặt lưỡi cây xám xịt... Gấy xọp, rách mướp, áo quần tả tơi như tổ
đỉa. Đó là hình ảnh người đàn bà đã làm thay đổi cuộc đời Tràng. Nhưng khéo
nhất, phải là những dòng được viết, để qua đó, Kim Lân cho ta nhận ra: cái
người phụ nữ đói rách kia còn xa mới có thể coi là hiền thục.
Nhớ lại, từ lâu trước đây, đã không ít lần tự hỏi: làm sao mà Kim Lân
có thể tả cái đanh đá, cái trơ của người đàn bà lao động nghèo tài thế, sinh
động đến là như thể chị ta đi thẳng từ cuộc đời vào giữa trang vẫn mà không
hề bị cản ngăn bởi hàng rào chữ nghĩa. Mãi sau này, đọc lời Kim Lân kể rằng
thời đó, nhà văn cũng đã từng cùng vợ từ nhà quê ra Hà Nội bán cám, đẩy xe
bò, ta dần hiểu, ở đây, Kim Lân đã hội đủ cả hai điều kiện tài năng văn xuôi
và vốn sống. Vốn sống ấy, tài năng ấy - tấm lòng ấy của nhà văn đã giúp ông
không bước lạc sang bên kia cái sợi tóc mỏng manh nó phân chia chân thực
và giả tạo, bóp méo; yêu thương và khinh bạc, mia mai. Kim Lân dã rất giỏi
khi tả người vợ của anh Tràng có cong cớn, rất cong còn nữa nhưng không
nanh nọc, có trơ trẽn. Và cái cong còn, sưng sia, đanh đá, trơ trẽn kia, nó có
thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái
ác, cái xấu xa.
Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau. Bảo rằng giữa họ đã
có một tình yêu trước hôn nhân thì e đượm nhiều chua chát quá. Bởi lời yêu
của họ đại loại chỉ thế này: "Rích bó củ, hở", "Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt
tiền thì bỏ bố", "Làm đích gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân
hàng lên xe rồi cùng về". Là thế đấy, ngôn ngữ của tỉnh duyên! Có còn gì nữa
châng thì chắc cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông đã nổi hững
khao và người đàn bà cấm đấu ân liền một chập, chẳng chuyện trò gì. Bốn bát
bánh đúc trong những tháng ngày đói kém, chúng đủ phép màu để làm hai con
mắt trũng hoáy của người pầụ nữ đói rách sáng lên. Có xót xa không, khi tác
giả buộc ta phải nghĩ: cái đới quay đổi quất nọ, té ra nó cũng có thể xe duyên
cho một mối tình.
Tình huống trên và những chi tiết như trên, có thể nói, sẽ là chất liệu
ngàn vàng cho những cây bút muốn đi tìm thú vui độc địa trong việc chế nhạo
những cái bất thành người ở những con người. Nhưng Kim Lân lại không
thuộc vào số đó. Không giống như nhiều nhà văn cùng trang lứa, Kim Lân -
như ông đã hơn một lần tự nói ra - không hể cảm thấy có sự cách biệt giữa
mình với những người dân chất phác, nghèo khổ mà ông thường thể hiện.
Trong họ, ông luôn thấy có ông. Cũng như họ, ông đã từng long đong làn đạn
để kiếm miếng ăn, và ăn cháo cám thì tôi với nhà tôi cũng đã từng, ông kể thế.
Bởi vậy, đọc Vợ nhặt, ngay trong những chỗ có về buồn cười nhất thì bao giờ
bên dưới tiếng cười cũng lắng lại rất nhiều nỗi buồn và niềm thương cảm.
Những trang viết về mấy con người "dưới đáy" thế này không làm ta thấy
khinh ghét con người, mà chỉ thấy xót thương cho họ, buồn cho họ vì nổi đã
không có được đầy đủ điều kiện để sống cho ra người trong một xã hội dẫu
sao cũng mang danh là xã hội của con người. Thế nhưng phần tâm huyết sâu
xa nhất của tác giả Vợ nhặt chắc hẳn đã không được dồn cho việc làm hiển
hiện những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách.
Ngược lại, với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối, lắt lay,
nhà văn đã tìm được một cơ hội vô song để biểu hiện sự bất diệt của nỗi khát
thèm được sống, được thương yêu và hi vọng. Niềm ước ao hạnh phúc không
thể diệt trừ cái đói hay sự u tối, nhưng nó cũng không thể bị diệt trừ niềm ao
ước ấy cử âm thầm vươn lên từ đói khát, tối tăm, và chính bởi thế mà nó trở
nên đáng cảm động và đáng quý Khi "nhặt vợ về, Tràng không phải là không
biết chọn: "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không,
lại còn đèo bòng. Nhưng rồi anh ta chặc lưỡi: "Chậc, kệ” - Một quyết định có
vẻ rất tấm phơ đối với một sự việc trọng đại bậc nhất của đời người. Nhưng
cũng có thể hiểu, khi chậc lưỡi như vậy là Tràng đã đánh cược cùng cái đói,
để được sống đầy đủ cuộc sống bình thường như mọi con người. Nghĩa là
khát vọng làm người – mà một kẻ thô kệch, chất phác như Tràng vẫn có
nhưng chắc không tự biết - đã xui khiến Tràng liều lĩnh. Và anh ta đã được
đền bù: "Trong một lúc, Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tâm
tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những
tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bấy giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với
người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn
ông nghèo khổ ấy, ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay
vuốt nhẹ trên sống lưng.
Những câu văn người cho thiết tha nhường ấy rõ rang không thể viết ra
để chế giễu ai. Kim Lân chỉ muốn gieo vào long người cảm xúc. Theo Kim
Lân, con người mong hạnh phúc và hạnh phúc có thể thay đổi con người, lại
có thể làm thay đổi nhân vật Tràng chẳng hạn. Dĩ nhiên, không có chuyện lấy
vợ rồi là anh ta lập tức hết ngay thô kệch. Song nhà văn đã cho ta thấy, qua
những chi tiết rất đắt, rằng bấy giờ thì ngay trong những lúc vụng về nhất, anh
Tràng hôm nay đã không còn giống với anh Tràng của những hôm qua. Anh
Tràng hôm nay ngượng nghịu, khổ sở, tay nọ xoa xoa mãi vai kia, chỉ vì đi
bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ, muốn buông một câu cho tình tứ mà
chịu không sao nói nổi. Rồi đến khi vợ hỏi, anh chàng to xác ấy lại trả lời một
cách đến là ngờ nghệch, ngây thơ: "Có một mình tôi mấy (với) u. Hẳn nhiều
người sẽ cười Tràng. Cũng đúng thôi. Nhưng có ai đã từng sống qua mà
không thấy: có những cái ngương nghịu, cái ngờ nghệt, những sự khổ sở - êm
ái chỉ đến với con người vào những phút giây thật là hạnh phúc. Cái xúc động
mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ nhặt, ngắm ra cũng không
ít điều xót xa, đắng cay, nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc động lâng lâng nó
biển người đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ lớn hiền lành. Cái
chỉ tiết Tràng khoe chai dấu con trong tay cũng thế. Nó không chỉ là một sự
việc buồn cười. Có lẽ cũng nên nhận ra bên dưới cái cười, một tiếng thở dài
thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời cùng khốn đến mức việc mua
có hai hào dấu cũng đã là một cái gì hoang phí lắm, một cử chỉ có vẻ lãng
mạn "ga-lăng lắm lắm. Nhưng dẫu sao thì Tràng cũng đã có cái hãnh diện mà
trước kia anh ta chưa từng có, cái hãnh diện được làm một người chống, được
có một tối tân hôn, được tiêu hoang một chút cho đời mình có lấy một lần
sáng sủa. "Hai hào đấy, đắt quá, cơ mà thôi chả cần". Lời nói nghe tội nghiệp.
Nhưng cũng nên đọc lấy trong lời nói tội nghiệp ấy một niềm vui không phải
tấm thường, bởi trong hoàn cảnh của Tràng lúc ấy, được coi thường đồng tiên
vì một điều gì đó lớn hơn, trong trẻo quý báu hơn đâu có thể cho là một niềm
vui hạ cấp? Cũng có thể nghỉ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với
mẹ: "Kia nhà tôi nó chào u". Kim Lân quả rất tài trong việc xây dựng những
lời thoại thật ít chữ, văn xuôi hết sức - vì không một từ nào có thể coi là đã
được gọt giũa đi cho thơ mộng - thế mà tình cảm chứa đọng trong đó lại rất
nhiều. Câu văn vừa dẫn trên cũng vậy. Chao ôi, cái người mà Tràng gọi là
"nhà tôi" ấy, cái người nàng dâu đang thực hiện nghi lễ ra mắt mẹ chồng ấy
(người mẹ chồng mà anh con trai đã cẩn thận mời vào ngồi lên giường lên cho
"chỉnh chện") lại chỉ là một người đàn bà nhặt được, theo không, không cưới
hỏi, không nhan sắc, bộ áo cô dâu trong ngày vu quy thì xác xơ như tổ đỉa.
Tuy nhiên, mấy tiếng "kia nhà tôi nó chào u vẫn nghe như có gì nở ruột nở
gan, vì nó là một sự xác nhận rành rọt không chị cho mẹ Tràng, mà còn cho cả
chính Tràng rằng đã trở thành sự thực, một điều mà ít phút trước đó Tràng
còn ngờ như trong một giấc mơ "Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà (... Và cái sự
thực ấy, dẫu có nông nổi, ảm đạm thì nó vẫn là lí do duy nhất khiến Tràng lần
đầu tiên được sống trong một xúc cảm rất người: "Bỗng nhiên hắn thấy hắn
thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn
sẽ cùng vợ sinh con để cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng...
Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người". Tôi nghĩ, chính mới đóng cảm như thế
này đã làm cho Vợ nhặt hòa được vào cái tiếng nơi nhân bản mạnh mẽ, thiết
tha nó vẫn làm nên phần tình nhất cho văn học mọi thời, mọi nước. tủy Sự đổi
thay cũng đến với người vợ của Tràng, nhưng theo một cách có phần hơi
khác. Người đàn bà ấy đến với Tràng trước hết như đến với một chốn có thể
tựa nương trong cái thì đói kém. Hiểu như thế, nên tôi cho Kim Lân đã rất
tỉnh khi thi thoảng điểm vào truyện một vài biểu hiện thất vọng thầm kín của
chị vợ nhật ấy trước cảnh cùng tủng của nhà chồng: một tiếng thở dài cố nén
trong "cái ngực gấy lép nhô hẳn lên" trước túp nhà rách nát và rúm ró; cách
nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của anh chàng
mới lúc ban ngày còn vỡ túi khoe "rích bố cu"; hai con mắt thoáng tôi lại khi
được bà lão đơn đã mời ăn bát cám. Nhưng không thể không thấy chị ta đã trở
thành một người đàn bà khác kể từ khi làm vợ. Trên con đường dẫn dâu dài
dặc giữa xóm ngụ cư, cái cô nàng cong cớn và trơ trên hồi nào bỗng trở nên e
dè, ngượng ngập; và có khó chịu lắm trước những sự tò mò trêu cợt thì cũng
chỉ dám cầu nhàu trong miệng, khế đến mức anh chống đi bên cũng không
nghe thấy. So với Tràng, người vợ nhật đến với cuộc sống gia đình với nhiều
phấp phỏng hơn. Nhưng cả đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đạt bước chân trên con
đường mới, cả cái dáng điệu khép nép ngói mớm ở mép giường và tiếng chào
u lúng túng... tất cả những cái đó chỉ làm cho người đàn bà gấy rạc, xám xịt
và rách rưới kia bằng nhiên có được cái cảm giác của một nàng dâu. Đến
chính Tràng cũng còn phải ngạc nhiên trước sự thay đổi của vợ mình: "Tràng
nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không
còn vẻ gì chao chát chóng lớn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Cuộc đời
éo le và nhân hậu làm sao dưới ngòi bút Kim Lân. Chị vợ kia chịu đi theo một
kẻ đàn ông xấu xí và xa lạ thoạt tiên hình như chỉ để tránh sự cô đơn, sự đói.
Vậy mà đã về đến nhà chồng, mà cái cảnh đến quát đối quay xem ra
vẫn không tránh được. Nhưng đời đã bất ngờ dành cho tay xem một sự đền
bù: Không tránh được đói rách, nhưng chị ta đã đến để có được tình thân, có
được tình thương, có được ý thức về bổn phận đối với những con người khác -
những cái mà, như Kim Lân cho thấy, dù trong tình cảnh đói tột cùng thì vẫn
cử quý hơn bát cơm manh áo, vì chỉ có tình thương, chứ không phải miếng ăn,
mới có thể làm cho cái sinh vật khốn khổ ấy được sống như một con người.
Tôi thấy,
Kim Lân rất tài khi viết những lời đối thoại giữa hai vợ chồng Tràng.
Nó thật lững lờ với toàn là câu nói trống không, nó nhẩm nhằng, dấm dần đến
hay. Đó là cái lững lờ, nhẩm nhằng của hai kẻ "chân đất" cùng khốn, bất ngờ
trở thành vợ chồng nhanh quá, nên tới tận lúc đi bên nhau cũng còn chưa hết
lạ, chưa hết ngượng với nhau. Nhưng đó cũng là cái đắm dần của hai người
biết rằng họ đã có nhau. Và cái cảm giác có nhau ấy đã được vợ chống Tràng
biểu hiện ra không chỉ bằng lời nói. Còn cái củng vào trán cùng với một tiếng
"do", còn cái cười hì hì của người đàn ông tiếp ngay sau đó, và trước đó là cái
lườm của chị vợ... Tôi chợt nhớ đến câu văn cười ra nước mắt của Nam Cao:
"Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm". Trong trường hợp Vợ nhặt
này, đây là cái lườm yêu của một người đàn bà không chỉ thật xấu mà còn thật
rách, và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi dong dưa con mắt, họ đa quên đi cái
xấu, cái đói rách của mình, để chỉ còn nhớ đến sự yêu. Đáng quý và đáng
buồn thế đấy, cái hạnh phúc của đời thường! Đến khoảng giữa câu chuyện,
Kim Lân cho xuất hiện thêm hình tượng bà cụ Tử Cơ thể nhà văn đã cần đến
bà lão này để thêm một mối quan hệ với người vợ nhặt. Và từ đó, hoàn chỉnh
hơn ý niệm về một gia đình. Nhưng chắc không chỉ thế. Dễ thấy ngay rằng
nhân vật bà cụ Tử không mang nhiều nét hài hước như vợ chồng Tràng. Ta
muốn hiểu đó là do nhà văn kính trọng người mẹ, kính trọng tuổi già, kính
trọng nói khổ đau suốt một đời đã đè nặng lên đôi vai của con người. Và
châng, với nhân vật bà lão, nhà văn còn có dịp nhìn việc lấy vợ của Tràng từ
một góc độ khác, trong một tâm trạng khác. Con người già cả ấy đánh giá sự
việc bằng kinh nghiệm và từng trải, lòng đấy ám ảnh của một quá văng nặng
trìu những đắng cay: "Bà lão nghỉ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà
lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy
nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?". Vì thế nên
người mẹ ý thức rõ hơn vợ chồng Tràng rất nhiều về cái nghịch cảnh quá éo le
của cuộc hôn nhân. Chừng ấy năm sống trên đời mách bảo bà lão rằng mối
duyên kiếp trở trêu kia hình như không nên có: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả
chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con để cái
mở mặt sau này. Còn mình thị... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống
qua được cơn đói khát này không?". Nhưng muốn hay không, thì người con
dâu cũng đã đừng đấy, một cúi xuống, tay vẫn về tà áo đã rách bợt. Và thế là,
đã thức dậy trong bà lão, cái tâm thức ngàn đời của một dân tộc đã từng sinh
ra những câu tục ngữ kiểu như: "Người sống hơn đồng của ý nghĩ của bà cụ
chuyển về hướng: con mình có vợ có lẽ cũng là một cơ may: "Người ta có gặp
bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới
có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con...
Câu văn thật cảm động. Nó vừa nhoi nhói một tình cảm tủi hờn, ai oán
cho số kiếp, vừa như có nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước một việc đã rối, lại
vừa rưng rưng, xao xuyến một niềm vui. Đọc tác phẩm của Kim Lân, tôi cử
quý mãi cái câu bà cụ nhẹ nhàng nói với nàng dâu mới: "Thôi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng. Xin để ý rằng Kim Lân cho
người mẹ nói tu cũng mừng lòng chứ không phải "u cũng bằng lòng.... Và tôi
cũng cử thích mãi cái câu mà nhà văn đã tìm được cho bà cụ, nó vừa có cái vẻ
dỡ dẫn, không đâu vào đâu của người già, lại vừa lột tả đúng cái thấn thái của
một tấm lòng vị tha cao quý dang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu dòng
nước mắt xót thương vì sợ phiền cho chính người mình thương xót: "Có đèn
đấy à? Ừ thấp lên một tí cho sáng sủa... Dấu bây giờ đắt gớm lên mày ạ".
Những câu như thế, nói với ta về lòng nhân từ của những người nghèo khổ
còn thấm thía hơn bao nhiêu bài thuyết giảng dài dòng. Ngẫm nghĩ về nhân
vật bà cụ Tử, tôi còn thấy một điều này: Hóa ra chính cái bà lão gần đất xa
trời này lại là người nói đến hi vọng, đến ngày mai nhiều hơn tất cả: từ việc
đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chống đứa con cho kín đáo, chuyện "khi
nào có tiền ta mua lấy đôi gà đến những ước mơ xa vời hơn mà cũng đớn đau
hơn về một ngày "rối ra may mà ông giời cho khá... Có ra thì rồi con cái
chúng mày về sau". Có ngược đời chăng một khi xưa nay, hi vọng và tương
lai vẫn gắn liền cùng tuổi trẻ? Theo tôi, nếu cho đây là nghịch lí thì nó sẽ
thuộc về loại nghịch lí bao hàm một cái lí sâu xa. Vì con người già lão "long
khọng" này không ao ước cho mình. Người mẹ ấy sống vì con, hi vọng cho
lớp cháu còn, tìm thấy ý nghĩa đời mình trong sự châm lo vun vén cho con,
mơ ước cho con. Nhờ đó mà đến những năm tháng cuối cùng của đời bà, niềm
hi vọng không bị tàn theo đói nghèo và tuổi tác.
Trong thực tế, hai mặt đối lập ấy lại luôn luôn đan xen, hòa lẫn với
nhau trong một chỉnh thể nghệ thuật chung là thái độ của người dân xóm chợ
khi nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lui thủi đi về bến", nhà văn
viết: "Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dung rạng rỡ hẳn lên” Có
cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ.
Nhưng liền sau hai câu này lại là câu "Một người thở dài", và sau tiếng cười
rung rúc bất chợt nổi lên lại là sự nín làng - cái nín lặng của nỗi buồn lo. Thủ
pháp ấy sẽ còn được vận dụng mãi tới phần cuối truyện, chẳng hạn như trong
lời bà cụ Tử nói với các con: "Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng
rối. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Và
rồ hơn cả có lẽ là đoạn vân tà những giờ phút có thể gọi được là hạnh phúc
của đôi vợ chồng mới trên cái nên âm thanh của tiếng ai hờ khóc người chết
đói cử tỉ tê lúc to lúc nhỏ, dai dẳng tận đêm khuya Nhưng điều đó không có
nghĩa là câu chuyện không tiến triển theo một chiều hướng nhất định nào.
Truyện mở ra trong một buổi chiều chạng vạng mật người và khép lại trong
"ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa". Khi truyện bắt đầu, ta chỉ gập một anh
Tràng cô độc bước thấp, bước cao trên con đường khẳng khiu dưới ánh chiều
mờ của một gấm trời đấy đói khát. Nhưng đến khi kết thúc, Tràng đã có một
gia đình, mọi người đang xăm xắn quét tước, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ
và cố làm cho nhau vui trước một bữa ăn loàng thích và đắng chát. Nói đúng
ra, trong sáng ngày hôm ấy, cũng có len vào một nỗi tủi hờn trước việc phải
ăn cái món vốn không phải của con người, cũng có tiếng trống thúc thuế trên
mảnh đất đấy người chết đối, xua dàn quạ hốt hoảng vù bay, khiến nền trời
thành đen vần. Song bù lại, đã có câu chuyện về phá kho thóc Nhật và hình
ảnh là cờ đỏ phấp phới trong óc anh Tràng. Kim Lân kể rằng, Vợ nhặt được
viết nhân dịp kỉ niệm Cách mạng tháng Tám thành công. Nhà văn muốn thiên
truyện ngắn mang "màu sắc Cách mạng tháng Tám". Riêng về mật này, tôi e
nhà văn chưa thực sự đạt được mục đích nghệ thuật của mình. Hình ảnh và
khí thế Cách mạng tháng Tám đi vào Vợ nhật, theo tôi, còn yếu ớt và Ít nhiều
gượng gạo. Nhưng đọc đi đọc lại tác phẩm, ta không thể không thấy rằng, dù
có vậy, cái nhìn của nhà văn vào con người và cuộc sống vẫn là một cái nhìn
thật tin yêu và rất lạc quan.
Kể cũng còn có thể nói nhiều điều nữa về Vợ nhặt. Như về cái vốn
liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc của Kim Lân, cái lối viết văn tường như dễ
dàng mà không dễ phỏng theo, giản dị vô cùng mà sao cứ thấy ánh lên chất
hào hoa Kinh Bắc. Như về cách làm cho những tâm trạng kín đáo nhất phải
hiện lên qua những cử chỉ mà chỉ cần thiếu đi một chút tinh tế, người ta sẽ bỏ
qua: một tiếng gắt vô duyên vô cớ, một tiếng khẽ họ, những bước chân bước
vội ra sân, thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong miệng... Nhưng cái
đọng lại cuối cùng trong tôi vẫn là cách nhìn đời, nhìn người đấy xa xót và
thương yêu của nhà văn, là niềm tin mà dường như ông muốn trao gửi đến tất
cả chúng ta qua thiên truyện ngắn. Rằng dù cuộc sống có ảm đạm đến đâu thì
cái cội nguồn nhân bản lưu giữ trong nhân dân vẫn là bất diệt, rằng con người
không có khao khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con
người, được nên người. Và nếu có ai ngờ vực niềm tin ấy, nếu có ai cho rằng
cuộc đời độc ác, đắng cay không dành một chỗ nào cho niềm hi vọng hiền
lương, thì tôi tưởng Kim Lân có thể mượn hai câu thơ của L.Aragông để đáp
lời:
Các anh có thể tin hay không điều tôi nói.
Tôi đã khổ đau, nên có dù quyền...

You might also like