You are on page 1of 9

VỢ NHẶT

“Trong nghệ thuật, bàn tay không bao giờ có thể tạo ra điều gì cao hơn điều trái tim có thể tưởng tượng”. ( Ralph Waldo Emerson )

01, Tác giả: 02, Tác phẩm: 03, Tổng kết:


Tiến trình bài học: - Tác giả Kim Lân - Nhân vật văn học - Tổng kết ghi nhớ nội dung
(Tiểu sử và quan niệm nghệ thuật) - Đọc hiểu văn bản - Tổng kết ghi nhớ nghệ thuật

01: Tác giả


Tác giả Kim Lân
- Kim Lân (1920-2007) tên khai sinh Nguyễn Văn Tài. Quê quán: Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh.Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ học
hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong, vừa viết văn. Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Sau đó liên
tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim).
- Kim Lân và những trang sách của ông ‘đong đầy vóc dáng đồng bằng Bắc Bộ’. Làng quê trong văn Kim Lân với những con người lam lũ thô
mộc. Từ bóng tối hoàn cảnh Kim Lân muốn làm tỏa sáng 1 chất thơ của hồn người, ánh sáng của nhân tâm tỏa ra hào quang đặc biệt của chủ
nghĩa nhân văn tha thiết và cảm động. Tư tưởng này xuyên suốt trong tác phẩm của Kim Lân và có thể nhận thấy rõ nhất trong truyện ngắn
‘Vợ nhặt’.

1
- Kim Lân khi nói về tác phẩm ‘Vợ nhặt’ đã cho biết: ‘Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người
năm đói người ta hay nghĩ về những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết 1 truyện ngắn vs ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng dù cận
kề bên cái chết mà những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống,
sống cho ra con người.’
Sau này vẫn viết về nông thôn, Kim Lân đề cập đến sự đổi mới về mặt tình cảm của người nông dân trong cách mạng và kháng chiến. Về
phương diện này, nhà thơ Trần Ninh Hồ nhận xét: ‘Tất cả, tất cả dường như đã đc ghi lại bằng những thân phận, tâm trạng sắc xảo đến cốt,
đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng của con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy’

Quan niệm nghệ thuật


1. ‘Lắm lúc tôi thấy văn chương như 1 thứ đạo, đạo làm người, như 1 thứ tôn giáo. Mà tôn giáo nào cũng đòi hỏi sự thương yêu giữa con người
với con người. Đòi con người có quyền làm người, bình đẳng, tự do, bác ái. Mỗi người truyền 1 cách nhưng cuối cùng con người vẫn thương
yêu nhau và làm cho con người có tư cách, có nhân phẩm, tài năng để đánh giá đúng’. Và nhà văn kết luận: ‘Rõ ràng văn chương là 1 thứ tôn
giáo mà tôn giáo này không cần đến súng gươm, không bắt buộc người ta phải theo, ai muốn theo thì theo. Và mỗi người truyền đạo theo 1
kiểu riêng của mình miễn sao nó chinh phục đc trái tim của con người. Bằng cảm nhận chứ không bằng lí lẽ hoặc bằng hăm dọa’.
2. “Cái đáng viết thì đã viết rồi, còn cái không đáng viết thì viết làm gì. Viết nhiều mà nhạt thì thà không viết còn hơn, vả lại giời cũng chỉ cho
mình có thế, muốn hơn cũng không được. Viết được thì viết, không viết được thì thôi. Những cái cố gượng viết đều giả, đều khô khan, đọc lại
thấy xấu hổ lắm”.
3. Người viết muốn nói một việc gì, một ý nghĩ gì thì chuyện đời thường hằng ngày tự thân đã có tiếng nói riêng của nó, còn tiếng nói của
chính tâm linh người viết chỉ có bịa mới ra được. Nhưng như vậy không có nghĩa là nó tách rời hoàn cảnh xã hội, tách rời đời sống, mà hình
như nó thực hơn. Chính vì vậy mà tôi cũng thường nói bịa lại thực hơn. Vì nó thực với chính mình trước tiên.

Nhân vật văn học


Khái niệm: nhân vật văn học là hình tượng cụ thể được khắc họa trong tác phẩm văn học bằng các phương tiện, phương thức nghệ thuật.
Đọc một tác phẩm văn học cái động lại sâu sắc trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người

2
được nhà văn thể hiện. Chính Tô Hoài đã từng phát biểu: “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hét thảy, giải quyết hết thảy mọi sáng tác”.
Chức năng nhân vật:
+ Nhân vật là phương tiện để văn học thể hiện và khái quát tính cách con người, đưa ra định hướng giá trị sống
+ Nhân vật là phương tiện dẫn dắt người đọc vào môi trường khác nhau của đời sống
+ Nhân vật thể hiện quan niệm, lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người tác phẩm văn học bằng các phương tiện, phương thức nghệ thuật.

02: Tác phẩm


1. Hoàn cảnh ra đời: Truyện "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư". Tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng
còn dang dở và mất bản thảo. Sau hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện "Vợ nhặt". Tác phẩm
được in trong tập truyện "Con chó xấu xí".
2. Ý nghĩa nhan đề: Vợ nhặt: Đây là 1 nhan đề lạ và nó là một nghịch lý. Người vợ thì phải đc tìm hiểu trân trọng, theo đuổi và nâng niu. Ấy
thế mà lại dùng từ ‘nhặt’: chỉ dùng vs những sự vật, con vật rất bình thường thậm chí rất tầm thường -> ‘Vợ nhặt’ thành một dạng vợ đặc biệt:
không cần theo đuổi, cưới xin đàng hoàng, không phải khổ công theo đuổi mà vẫn dễ dàng có được -> hé lộ hoàn cảnh, số phận bi thảm của
con người, bước đầu cho thấy sáng tạo nghệ thuật của người viết trong xây dựng tình huống truyện éo le, bi thảm nhưng lại là tình huống thấm
đẫm tình người.

a, Khung cảnh làng quê ngày đói


1. Nạn đói kinh hoàng năm 1945:
+ Thời điểm: buổi chiều trạng vạng
+ Không gian cảnh vật: xóm chợ tối om và xác xơ
3
+ Âm thanh: tiếng quạ kêu gào thê thiết
+ Mùi: mùi gây của xác người và mùi thối rữa của rác
=> Tả thực đến trần trụi, cho người đọc cảm giác về 1 cõi dương tràn ngập tử khí. Ở đây tác giả vừa là một chứng nhân, vừa là một nạn nhân.
- Con người:
+ người sống: xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ
+ người chết: ‘người chết như ngả rạ, những cái thây nằm còng queo bên đường’
=> Nhà văn không phải vô tình khi đặt câu văn người chết, người sống gần nhau. Ở đây tạo sự ấn tượng mạnh mẽ giữa danh giới mong manh
giữa sống và chết năm 45, tô đậm ấn tượng lành lạnh về cõi âm và tử khí. Đây là 1 trong những đoạn văn tả cảnh đặc sắc nhất trong truyện ngắn
dựng lại khung cảnh tối sầm lại vì đói khát của nông thôn VN.

“Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn
thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại.” (Lev Tolstoy)

b, Nhân vật
Cách giới thiệu của tác giả: nhân vật này đc Kim Lân cho xuất hiện ngay đầu tác phẩm giữa khung cảnh làng quê VN thời đói khát.
- Chân dung:
+ Ngoại hình: lưng vập vạp như lưng gấu, cái đầu trọc nhẵn, đôi mắt gà gà đắm vào bóng chiều
+ Trang phục: mặc áo nâu bạc
+ Hành động: cười hềnh hệch, lảm nhảm, than thở những điều hắn nghĩ
=> Kim Lân mô tả chi tiết, cụ thể, tỉ mỉ. Con người ấy như kết tinh phần hoang dã của tự nhiên, con người mà tạo hóa đẽo gọt quá sơ sài. Qua
các chi tiết về chân dung có thể nói Tràng là người lao động nghèo, xấu lại là người dân ngụ cư. Với Tràng cơ hội có được vợ rất xa vời lại còn

4
trong hoàn cảnh nạn đói khủng khiếp.
- Sự kiện nhặt vợ:
+ Chỉ qua 1 câu hò vu vơ -> 1 lời cầu hôn
+ 4 bát bánh đúc -> lễ dạm hỏi
=> Không gian gặp gỡ của tình yêu thường là những không gian thử thách vs nhiều cản trở khác nhau. Mỗi cản trở lại tạo ra một kiểu truyện
tình, trong ‘Vợ nhặt’ mà nơi 2 con người gặp gỡ nhau là 1 cái dốc.
Nhân vật anh cu Tràng:
+ Đầu tiên cảm thấy ‘chợn’ nhưng sau đó lại ‘Chậc, kệ!’
+ Trên đường về nhà mặt hắn phớn phở khác thường, hắn tủm tỉm cười nụ 1 mình và 2 mắt sáng lên lấp lánh
- Nhận xét về sự ngượng nghịu ngại ngùng nhưng vẫn bao trùm hạnh phúc:
+ Với đám trẻ: khi chúng nó ‘Chông vợ hài’, Tràng nghiêng mặt nói ‘Bố ranh’ -> đây là lời mắng yêu, mắng vs thái độ rất bao dung, từ 1 đứa
trẻ lớn tuổi, Tràng trở thành 1 người đàn ông thực sự
+ Với dân xóm: những người dân trong xóm mời vào nhà chơi nhưng Tràng từ chối -> biểu hiện của người đàn ông chín chắn, chu đáo (không
muốn vợ vào nơi không biết, không quen)
+ Với bà cụ Tứ: reo lên như một đứa trẻ, lật đật chạy ra đón, tiếp theo tươi cười mời mẹ ngồi lên giường
- Sau đêm có vợ, cảm xúc của Tràng:
+ Ngỡ ngàng như bước ra từ trong giấc mơ -> niềm hạnh phúc ngạc nhiên
+ Bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh có cái gì thay đổi mới mẻ
+ Hắn cảm thấy mình nên người
+ Hắn thấm thía cảm động một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng
+ Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này
+ Hán muốn làm 1 việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà

=> Hạnh phúc làm cho con người ta thay đổi, sự cưu mang, đùm bọc, yêu thương làm cho con người ta cảm thấy cuộc đời trở nên có ý nghĩa.
Trong khung cảnh đói khát, chết chóc, những người dân đói khổ như Tràng biết vượt lên trên hoàn cảnh bằng sự nương tựa lẫn nhau. Ở đây có

5
có sự thay đổi từ suy nghĩ, tình cảm đến hành động.
=> Tác giả Kim Lân đã khám phá trân trọng vẻ đẹp của một con người giàu tình thương, giàu trách nhiệm với gia đình -> Sở trường miêu tả
tâm lí của Kim Lân: sở trường miêu tả tâm lí người nông dân chân thực, tinh tế, ới những độc thoại nội tâm và đối thoại
Chính Nguyễn Khải là 1 trong những tác giả nổi tiếng của nền văn học VN hiện đại đã khái quát toàn bộ về truyện ngắn Kim Lân: ‘Nếu nhìn
một cách hệ thống từ những nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm viết trước cách mạng đến những tác phẩm sau này người
đọc dễ nhận ra nét riêng trong ngòi bút của Kim Lân: một ngòi bút cẩn thận, tỉ mỉ, sâu lắng luôn luôn cố gắng đi đến nỗi
niềm, tâm trạng từng con người, từng số phận riêng để từ đó đóng góp một tiếng riêng vào trang sử riêng, vào tâm tư tình cảm
con người Việt Nam hiện đại’

Người ta kể chuyện đời xưa, một nhà thi sĩ Ấn Độ trông thấy một con chim bị thương rơi xuống bên chân
mình. Thi sĩ thương hại quá, khóc nức lên, quả tim cùng hoà một nhịp với sự run rẩy của con chim sắp chết.
Tiếng khóc ấy, dịp đau thương ấy chính là nguồn gốc của thi ca.
Nhân vật người vợ nhặt:
“Tương lai có nhiều tên gọi. Với kẻ yếu đuối, tương lai là bất khả; với những kẻ nhát gan, nó là ẩn số; nhưng
với những con người can đảm, tương lai là lý tưởng.” (Victor Hugo)
- Hình tượng người phụ nữ vợ nhặt qua phác họa chân dung
+ Ngồi vêu ở cái dốc tỉnh để nhặt hạt rơi hạt vãi
+ Quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy 2 con mắt -> người vợ nhặt là nạn nhân thê
thảm của nạn đói
- Diễn biến cuộc gặp gỡ:
+ Lần đầu gặp gỡ: khi Tràng buông câu hò vu vơ giữa chợ ‘Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!/ Lại đây mà đẩy xe bò vs anh, nì!’ -> thị cong cớn:
‘Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?’ -> cơm trắng vs giò thật ra chỉ là 1 trò đùa nhưng ‘này, nhà tôi
ơi’ thể hiện khao khát có gia đình, có chỗ dựa để vượt qua nạn đói đã thế thị còn ‘cười tít’ -> làm Tràng cảm thấy cả đời chưa có người con gái
nào cười tình tứ với hắn như thế
6
+ Lần gặp thứ 2: Tràng không nhận ra thị là ai, thị chạy sầm sập đứng trước mặt hắn sưng sỉa ‘Điêu! Người thế mà điêu!’:
- Thị đã ngầm xem câu hò giữa chợ là lời hứa cho ăn nên mới trách Tràng ‘Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt’ nói vs một sự
trì chiết, cay nghiến
- Thị từ chối việc ăn giầu lái câu chuyện vào việc được ăn thật (bản năng sinh tồn)
- “Ăn thật nhá! Ăn thì ăn sợ gì.’ -> Biến nhu cầu ăn thật của mình thành nhu cầu thách thức, mời mọc của người mời.
- Sau khi ăn xong ‘Hà, ngon!’ -> câu nói bộc lộ cảm xúc hàm ơn của người ít học
- ‘Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố’ -> bộc lộ sự lo lắng với Tràng, biết cách quan tâm đến người khác, nhất là người đang đối xử tốt với mình.
Sâu xa đó cũng là cách thăm dò Tràng.
• Cô vợ nhặt dưới 3 điểm nhìn:
- Với dân ngụ cư:
+ rón rén, e thẹn
+ Khó chịu, nhíu mày, xóc xóc tà áo
+ Lấy cái nón rách tàng che mặt
=> Thị bối rối, sợ hãi, ngượng ngùng pha lẫn tâm trạng lo âu. Đây đúng là tâm lí của một cô dâu mới về nhà chồng.
- Với anh cu Tràng khi ở chợ tỉnh:
Niềm ước ao hạnh phúc không thể diệt trừ đc cái đói hay sự u tối nhưng nó cũng không thể bị diệt trừ (không xóa đc mùi gây của xác người
nhưng sự yêu thương của con người đc thể hiện ngay từ đầu khi Tràng dẫn vợ về, những người hàng xóm đã thể hiện nét mặt hạnh phúc) bởi
chính cái đói hay sự u tối của ngoại cảnh. Niềm ao ước ấy vẫn âm thầm vươn lên giữa khó khăn, đói khát và chính vì thế nó trở nên cảm động
và đáng quý.
- Khi theo Tràng về nhà, thị đã có những chuyển biến:
+ Không còn cái vẻ chao chát chỏng lỏn
+ Rõ là người đàn bà hiền hậu đúng mực biết thu xếp nhà cửa, quét tước sân vườn
=> Người phụ nữ vợ nhặt đã thổi vào gia đình Tràng một luồng sinh khí, thì ra đây là một người phụ nữ lương thiện, cuộc sống đói nghèo tạm
thời che lấp bản tính ấy mà thôi. Một người phụ nữ đổi phận, đổi đời từ một người sống cô độc không người thân, không mái ấm nhưng cuộc
hôn nhân với Tràng đã cho thị tất cả.

7
Khát vọng âm thầm mãnh liệt được sống. Khắc họa hình ảnh của người phụ nữ là người vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã tiếp tục phản ánh số
phận bi kịch của người nông dân nghèo, đói, xấu có nguy cơ tha hóa về nhân cách và chết vì đói khát. Đồng thời nhà văn cũng có những
khám phá đầy trân trọng về những vẻ đẹp đáng quý (giá trị hiện thực, gía trị nhân đạo): tinh tế, đoan trang, biết mình, biết người và luôn
khao khát âm thầm mãnh liệt đc sống, được hạnh phúc, làm đầy đặn hơn gía trị hiện thực và gía trị nhân đạo của tác phẩm, tiếp tục sở
trường miêu tả tâm lí những người dân nghèo tài tình thông qua hành động, đối thoại.

Nếu trong pho lịch sử loài người xoá các thi nhân, văn nhân và đồng thời trong tâm linh loài người xoá hết những dấu vết họ còn lưu lại thì
cái cảnh tượng nghèo nàn sẽ đến nhường nào.
“Nói cho cùng, nghệ thuật nào mà chẳng vị nhân sinh, không vì cái sinh hoạt vật chất thì cũng vì cái sinh hoạt tinh thần của người ta”. (Hoài
Thanh)

Nhân vật bà cụ Tứ: “Niềm tin là sức mạnh có thể khiến thế giới tan vỡ xuất hiện trong ánh sáng”. (Helen Keller)
- Từ ngoại hiện: ‘dáng lọng khọng và ho húng hắng -> một người phụ nữ gầy gò, già nua, nghèo khó và tiều tụy
- Tâm trạng:
+ Ban đầu nhìn thấy người phụ nữ lạ trong nhà, bà lão có hàng loạt các phản ứng: ngạc nhiên về những điều mình vừa nhìn thấy, nghe thấy -
> bối rối vì không xác định được mối quan hệ với nhân vật này
+ ‘Bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải’: trong bối rối ngạc nhiên thì có sự xúc động tinh tế, đây là kết quả của quá trình gắn bó, thấu hiểu
và từng trải
+ Sau khi nghe con trai nói về mối quan hệ hai người phải duyên, phải kiếp với nhau thì bà lão thấy ai oán, xót thương -> lo lắng cho tương lai
của cuộc hôn nhân này. Chừng ấy năm sống trên đời mách bảo bà lão rằng mối duyên kiếp chớ trêu kia hình như không nên có.
Bà luôn nghĩ đến cảm xúc của người vợ nhặt ‘Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình’ -> sự hàm ơn thật
lòng. Bà cụ Tứ không chỉ là người phụ nữ lđ sống sâu sắc, hiểu đời, hiểu người mà còn là người mẹ chồng nhân hậu, vị tha.
+ ‘Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…’:
=>Bà cụ Tứ rất bao dung khi chấp nhận cuộc hôn nhân của con, vì con mà bỏ qua tất cả những thủ tục.

8
+ Bà cụ Tứ là người nói nhiều đến hy vọng, nói nhiều đến ngày mai: từ việc đan cái phê nan chỗ của vợ chồng cho kín đáo, khi nào có tiền mua
đôi gà, đến việc tốt đẹp hơn ‘may ra ông giời cho khá’ ‘ai giàu 3 họ, ai khó 3 đời?’ => lạc quan. Người mẹ có lẽ đã không cho con thứ tài sản vật
chất nào nhưng lại giành cho các con tài sản vô cùng quý giá là niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai. Kim Lân đã làm hiện lên 1 người phụ nữ
lao động tràn đầy niềm tin vào sự sống.
=> Người mẹ ấy sống vì con, hy vọng cho lớp cháu con tìm thấy ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo, vun vén cho con. Nhờ đó mà để những
năm tháng cuối cùng của cuộc đời, niềm hy vọng của bà cụ Tứ không bị tàn theo đói nghèo và tuổi tác

03: TỔNG KẾT


a. Nội dung:
- Qua văn bản, Kim Lân đã phản ánh chân thực cuộc sống khốn cùng, bi thảm của con người trước sự đe dọa, rình rập của cái đói,
kín đáo phơi bày tội ác của phát xít Nhật (bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay)
- 3 biểu hiện của gía trị nhân đạo
+ Bày tỏ sự cảm thông, trân trọng người lao động nghèo
+ Phát hiện đầy tin tưởng vẻ đẹp tình người, đặc biệt là khát vọng được sống hạnh phúc của con người khi rơi vào hoàn cảnh khốn cùng
+ Khẳng định và khát quát bài học nhân sinh thấm thía: hoàn cảnh nghiệt ngã cố tình xô đẩy biến con người thành bèo bọt nhưng con
người bằng khát vọng được sống, được hạnh phúc đã vượt lên chiến thắng hoàn cảnh. Không những thế còn khẳng định và tỏa sáng những
phẩm chất đáng quý của chính mình
b. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện éo le và đầy ý nghĩa:
- Khắc họa nhân vật bằng miêu tả tâm lí tinh tế thông qua đối thoại, độc thoại nội tâm và hành động
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, trữ tình sâu lắng, pha chút hóm hỉnh của một tấm lòng nhân hậu là nhà văn Kim Lân
- Ngôn ngữ kể tự nhiên, gần gũi vs lời ăn, tiếng nói của người lao động nghèo

You might also like