You are on page 1of 38

VỢ NHẶT

- Kim Lân -
ĐỀ 1:
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu
sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Điêu! Người thế mà điêu!
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm
nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám
xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười:
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Đây, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi:
- Rích bố cu, hở!
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:
- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn,
nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau
không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một cái:
- Chậc, kệ!
Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt
và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam)
Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về ...
I. Mở bài:
Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với cuộc sống của những người nông
dân Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như: “Làng”,
“Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”. Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là
tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm
1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của
người lao động nghèo. Dường như nạn đói định mệnh ấy đã làm cho con người ta quên đi cả danh
dự, họ bất chấp để được sống, thậm chí chuyện hạnh phúc cả đời cũng tặc lưỡi cho qua. Nhân vật
Thị là một điển hình trong số những nạn nhân xấu số của nạn đói đó.
II. Thân bài
1. Khái quát:
Vợ nhặt được viết lại dựa vào một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Truyện
kể về xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh niên nghèo, làm nghề đẩy xe
thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau
gặp lại, Tràng mời cô gái ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng
dẫn vợ về, cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên. Cuộc
sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai. Kết thúc truyện là tâm
trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người
đói. Người vợ nhặt là nhân vật chính trong tác phẩm giúp nhà văn gửi gắm những giá trị hiện thực
và nhân đạo sâu sắc.
Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi,
không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt
cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ
đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”,
“nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói. Lần đầu
thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh.
Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò
với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn
nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
2. Cảm nhận đoạn văn (Lần gặp thứ 2)
Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo
quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có
thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa.
Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.
Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng
sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy
thấy hụt tiền thì bỏ bố” .
Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà
đòi ăn: “Sầm sập chạy đến”, “sưng xỉa nói”...Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” “ăn xong cầm dọc đôi đũa quệt ngang
miệng”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng
về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý
mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị
nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng
chỉ vì miếng ăn ?
Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám
lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị
chấp nhận theo không Tràng.
Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự
sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu
sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý.
Nói như Kim Lân: ” Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con
người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương
lai”.Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên
cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm
chất rất đáng quý.
Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo;
diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách
nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. Kết bài:
Nhân vật người vợ nhặt trong truyện "Vợ nhặt" đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ
hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dân ta vẫn khao khát được sống ấm no hạnh phúc. Những người
nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách
khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"...
Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật người vợ nhặt đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo
của tác phẩm .
PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1. Giá trị nhân đạo của tác phẩm:
Qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những
phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tác giả trân trọng khát vọng sống ngay bên bờ
vực cái chết của người lao động nghèo, đó là tình cảm nhân đạo của nhà văn . Thông qua nhân
vật người vợ nhặt, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù
sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống
2. Nhận xét sự tác động của hoàn cảnh đến nhân phẩm của con người:
Qua việc miêu tả sự tha hóa của nhân vật “người vợ nhặt”, Kim Lân cho ta thấy: Hoàn cảnh
có sức mạnh ghê gớm, có thể làm biến dạng về cả nhân hình lẫn nhân tính của con người. Qua đó
ông lên tiếng tố cáo tội ác của các thế lực đen tối lúc bấy giờ đã đẩy người dân vào bước đường
cùng. Đồng thời, Kim Lân cũng giúp chúng ta thấy được một khát vọng bất diệt của con người mà
hoàn cảnh dù có bi đát đến đâu vẫn không thể dập tắt được: đấy chính là khát vọng hạnh phúc.
ĐỀ 2:
…Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi
cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.
- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này, hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.
- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.
Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.
- Đấy, muốn ăn gì thì ăn.
Hắn vỗ vỗ vào túi.
- Rích bố cu, hở !
Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả :
- Ăn thật nhá ! Ừ ăn thì ăn sợ gì.
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện
trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở :
- Hà, ngon ! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười :
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn,
nghĩ : thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Sau
không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một cái :
- Chậc, kệ!
( Vợ nhặt – Kim Lân, SGK Ngữ Văn 12, NXB Giáo dục )
Cái đói và tình người trong đoạn văn bản trên.

I. Mở bài:
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn
hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu
phong thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" khi hòa
bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện
ngắn "Vợ nhặt" đã ra đời.
II. Thân bài
1. Khái quát:
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ
nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận
kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn
hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Và điểm sáng mà nhà
văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc
sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng
lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lí nhân vật thật tinh
tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc
kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng hờ khóc
và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm
vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những
tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận
như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám
người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện. Đoạn trích “ Hôm nay thị rách quá... Chậc !Kệ!”
Đã cho nguời đọc thấy được tình người ngời sáng trong nạn đói tối tăm.
2. Cảm nhận đoạn văn
a. Cái đói hiện hữu ngay trong từng nhân vật. Trước hết Thị là nạn nhân của cái đói
Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi,
không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt
cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ
đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”,
“nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói. Lần đầu
thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh.
Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò
với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn
nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo
quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có
thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa.
Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.
Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng
sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chị ấy
thấy hụt tiền thì bỏ bố” .
Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà
đòi ăn: “Sầm sập chạy đến”, “sưng xỉa nói”...Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” “ăn xong cầm dọc đôi đũa quệt ngang
miệng”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng
về”. Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Hành động theo Tràng của thị xuất phát từ
nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được
tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng.
Hoàn cảnh xô đẩy khiến có lúc thị đánh mất lòng tự trọng, trở nên chanh chua, cong cớn, trơ
trẽn, có phần thô tục: chỉ cần “ bốn bát bánh đúc”, những câu đùa tầm phào thị chấp nhận làm “vợ
nhặt” để chạy trốn cái đói.
Còn anh cu Tràng, dù rất tốt bụng nhưng lúc đầu cũng tỏ ra phân vân, do dự, lo sợ khi
quyết định đưa người vợ nhặt về “Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ : thóc gạo này đến cái thân
mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”
b. Chính trong cái đói quay quắt ấy, tình thương ngời sáng mãnh liệt. Điều này được
thể hiện ở hành động và lời nói của Tràng: “Hắn vỗ vỗ vào túi.- Rích bố cu, hở !”. Thông qua lời
nói và hành động, Tràng kkhiến thị yên tâm, tin tưởng rằng hắn có tiền. Và rồi khi Thị đồng ý theo
không mình về nhà, Tràng lo sợ đấy nhưng “Hắn tặc lưỡi một cái : - Chậc, kệ!”. Tràng quyết định
cưu mang người “vợ nhặt” trong hoàn cảnh đói khát. Quyết định có vẻ giản đơn nhưng chứa đựng
tình thương, lòng nhân hậu của con người trong cảnh khốn cùng đồng thời thể hiện niềm khao khát
mái ấm gia đình của Tràng.
Đoạn đối thoại với ngôn từ dân dã góp phần bộc lộ tính cách, tâm lí nhân vật, đồng thời thể
hiện rõ giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm
III. Kết bài:
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để
đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước trước sức mạnh của cách mạng. Một lần
nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình."Cái
đẹp cứu vớt con người" (Đôxtôiepxki). Vâng, "vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh
kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn
thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng
một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất
trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.
ĐỀ 3:
“Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trò gì.” và “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị
điềm nhiên và vào miệng”.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng người “vợ nhặt” (“Vợ nhặt” – Kim Lân, SGK Ngữ
văn 12, tập 2) qua hai chi tiết trên? Qua đó làm rõ tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong cách xây
dựng nhân vật?
I. Mở bài
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại.
Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê , lam lũ hồn hậu , chất phác mà giàu
tình yêu thương . Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Tác phẩm đã khắc hoạ
thành
công nhân vật Thị , một người phụ nữ nghèo khổ nhưng luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản
dị, biết hướng tới tương lai tươi đẹp. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm
nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng
đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về
cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai tươi sáng. Điều này được thể
hiện qua hai chi tiết khi viết về người vợ nhặt: “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.” và “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên
mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”.
II. Thân bài
1. Khái quát:
Vợ nhặt được viết lại dựa vào một phần cốt truyện cũ của tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Truyện
kể về xóm ngụ cư trong nạn đói năm 1945. Anh Tràng là một thanh niên nghèo, làm nghề đẩy xe
thuê. Một lần chở lúa lên tỉnh, tình cờ Tràng đươc một cô gái giúp anh đẩy xe lân dốc. Lần sau
gặp lại, Tràng mời cô gái ăn bốn bát bánh đúc rồi rủ về với mình. Cô đã thành vợ Tràng. Tràng
dẫn vợ về, cả xóm ngụ cư ngạc nhiên, mẹ Tràng ngạc nhiên và cả Tràng cũng ngạc nhiên. Cuộc
sống của họ tuy nghèo nhưng rất đầm ấm và luôn hy vọng vào tương lai. Kết thúc truyện là tâm
trạng anh Tràng nghĩ về hình ảnh lá cờ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người
đói. Người vợ nhặt là nhân vật chính trong tác phẩm giúp nhà văn gửi gắm những giá trị hiện thực
và nhân đạo sâu sắc.
Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi,
không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt
cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ
đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”,
“nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói. Lần đầu
thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh.
Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò
với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng...cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn
nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
2. Cảm nhận 2 chi tiết
a. Chi tiết 1:
Lần thứ hai, khi Tràng ngoài chợ tỉnh, khi anh đang ngồi nghỉ và thị bỗng nhiên xuất hiện
với một ngoại hình của một con ma đói, quần áo rách như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xaám xịt, thị
gầy sọp hẳn đi , chỉ còn thấy hai con mắt. Sự biến đổi về ngoại hình ấy khiến Tràng không nhận
ra người đàn bà đã đẩy xe cho mình lần trước. Thị trông nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói đã khiến
người đàn bà không chỉ thay đổi về ngoại hình mà còn biến đổi cả nhân cách. Thị trở nên “chao
chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa”, “đanh đá”. Thị “cong cớn, sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện.
Thị gợi ý để được ăn. Và khi được cho ăn, Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một
chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì.”
Thị phải đánh đổi cả danh dự, cái duyên của người con gái , lòng tự trọng để kiếm miếng ăn
và nuôi niềm hi vọng sống…Thị đã đặt sự tồn tại của mình, miếng ăn lên trên cả nhân cách. Nhưng
qua đó ta thấy nhân vật có một lòng ham sống mãnh liệt . Thị đang cố gắng bám lấy sự sống. Thị
tỏ ra “đanh đá chua ngoa cũng là để bảo vệ sự sống. Sống rồi mới tính tiếp được. Và một hành
động tưởng như nông nổi, dễ dãi tiếp theo là sau câu nói đùa của Tràng, thị đã đồng ý theo người
đàn ông xa lạ về làm vợ. Hành động này cũng là xuất phát từ niềm ham sống mãnh liệt, thị như
người sắp chết đuối cố gắng bám lấy cái phao của sự sống, với một niềm hi vọng được sống, được
hạnh phúc.Cận kề bên cái chết, người đàn bà ấy không hề buông xuôi sự sống mà trái lại, thị vẫn
vượt lên cái thảm đạm để hướng đến hạnh phúc, tương lai. Niềm lạc quan yêu sống của thị thật
đáng quý, đáng trân trọng.
b. Chi tiết thứ 2:
Sau khi làm vợ Tràng, vào bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình ta thấy thị đã
thay đổi , không còn như trước.
Sáng hôm sau thị đã dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước dọn dẹp nhà cửa cho quang quẻ, sạch
sẽ. Thị cùng mẹ chồng dọn cơm. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại, giữa cái mẹt rách chỉ có
đĩa rau chuối thái rối và niêu cháo lõng bõng mà mỗi người chỉ được hai lưng bát là hết nhẵn. Bà
cụ Tứ vui vẻ đon đả bưng ra một nồi cháo cám mà bà gọi vui là chè khoán để đãi nàng dâu. Tràng
“chun mặt lại , miếng cám đắng chát nghẹn bứ trong cuống họng” không thể nuốt nổi. Nhưng
thị đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại, Thị điềm nhiên và vào miệng. Cách
ăn đó cho ta thấy thái độ chấp nhận sự nghèo khổ, khó khăn ở một gia đình mới, Thị không kêu
ca, phàn nàn trước cái đói nghèo, cũng không thấy khó chịu . Vậy đằng sau nỗi vất vưởng là sự ý
tứ biết điều , Thị cảm thông với những khó khăn của nhà chồng… cho nên dù phải ăn cháo cám
nhưng thị vẫn vui vẻ bằng lòng.
Thị đã đem đến sinh khí mới cho gia đình Tràng, trong bữa cơm mẹ con nói chuyện vui vẻ,
thị còn là người truyền tin cách mạng, đem đến cho gia đình này niềm hi vọng, niềm tin khi chia
sẻ: “Trên mạn Thái Nguyên…” Sự hiểu biết của thị đã đem đến cho Tràng sự giác ngộ về con
đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo ,
phân tích diễn biến tâm lí sâu sắc, lựa chọn chi tiết điển hình , ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù
hợp với tính cách nhân vật.
3. Bình luận về tư tưởng nhân đạo của nhà văn trong cách xây dựng nhân vật:
Hai chi tiết đã cho ta thấy ngòi bút nhân đạo đặc săc của nhà văn Kim lân: Cảm thông, chia
sẻ với thân phận rẻ rúng của con người, gián tiếp tố cáo tội ác thực dân, phong kiến, phát xít đối
với nhân dân ta. Đồng thời thể hiện niềm tin vào nhân cách tốt đẹp của con người cùng niềm khao
khát sống, hi vọng vào một tương lai tốt đẹp ở tương lai phía trước trong bối cảnh của nạn đói
khủng khiếp năm 1945 .
III. Kết bài:
Thông qua nhân vật người vợ nhặt, đặc biệt là hai chi tiết ta thấy nhà văn Kim Lân có tư
tưởng nhân đạo sâu sắc. Ông luôn quan tâm đến những biến đổi tinh tế trong tâm hồn người dân
nghèo để phát hiện những vẻ đẹp về nhân cách , để trân trọng nâng niu, ngợi ca họ. Qua nhân vật
này , nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn
cảnh khốn khổ như thế nào thì họ cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống.
ĐỀ 4:
“Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái
Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn
ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi
làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của
rác rưởi và mùi gây của xác người.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng
về với một người đàn bà nữa.Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ
một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh.
[…]Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ
lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán.Hình như họ cũng hiểu được đôi phần.
Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi
mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ.”
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, Nxb GD, 2016, trang 24-25)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét lời tâm sự của Kim Lân về ý đồ
và cảm hứng sáng tác truyện ngắn Vợ nhặt: “… Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không
át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ”.
I. Mở bài:
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn
hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu
phong thủy" ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" khi hòa
bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện
ngắn "Vợ nhặt" đã ra đời. Kim Lân từng tâm sự về ý đồ và cảm hứng sáng tác truyện ngắn “Vợ
nhặt”: “… Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn
họ”. Điều này được thể hiện rất rõ nét qua đoạn trích: “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào.
[…]Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến,...tăm tối ấy của họ.”
II. Thân bài
1. Khái quát:
Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ
nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận
kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn
hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Và điểm sáng mà nhà
văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc
sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết.
2. Cảm nhận đoạn văn
Bối cảnh câu chuyện diễn ra vào giữa nạn đói năm 1944-1945, khiến hơn hai triệu đồng bào
ta ở miền Bắc phải chịu cảnh chết đói, đó là cái nạn đói khủng khiếp mà nhà văn Nam Cao đã
không khỏi ám ảnh nhắc lại rằng "có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau
nghe để rùng mình". Ở xóm ngụ cư, nơi diễn ra câu chuyện, giữa nạn đói ấy Kim Lân đã gợi lại
một viễn cảnh thê thảm, tiêu điều của một giai đoạn đau thương nhất lịch sử dân tộc bằng những
câu văn nhẹ nhàng ẩn chứa nhiều nỗi niềm đau xót. Cảnh người dân từ khắp nơi bồng bế, dìu dắt,
thất thểu đi trên đường làng, ai nấy đều "xanh xám như bóng ma", người đói "ngổn ngang khắp
lều chợ", thần chết có lẽ đã triển khai ngay một cuộc tàn sát khi mà "người chết như ngả rạ",
"không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người". Những người còn sống
có lẽ cũng đã xác định trước cái chết của mình, họ lầm lũi bước chầm chậm về phía nghĩa địa, kẻ
"dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma". Bao trùm lên toàn bộ không gian ấy là tiếng quạ kêu thảm
thiết từng hồi, như một loại kèn quái dị đưa ma những kẻ xấu số, chết không có chỗ chôn. Chao
ôi, cái sự sống khốn khổ trong văn của Kim Lân nó thật thấm thía và nhiều ám ảnh. Bức tranh bao
quát về nạn đói có một không hai trong lịch sử dân tộc có sức tố cáo tội ác của thực dân Pháp và
phát xít Nhật đã gây ra cho nhân dân Việt Nam.
Kim Lân đã mượn bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 để khẳng định, ngợi ca sức sống
mãnh liệt, tiềm ẩn trong tâm hồn những con người cùng khổ – nhà văn phát hiện khát vọng đáng
trân trọng của người nông dân ngay khi cận kề cái chết:
Đó là anh cu Tràng: phớn phở khác thường, tủm tỉm cười, hai mắt sáng lên lấp lánh …Tràng
thành một con người khác: ân cần, quan tâm đến người đàn bà hãy còn xa lạ; lòng Tràng trỗi dậy
niềm vui sướng khiến anh “dường như quên hết những cảnh ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói
khát ghê gớm đang đe dọa, quên những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn chỉ còn tình nghĩa
với người đàn bà đi bên..”; Đó là điều “mới mẻ, lạ lẫm, chưa từng thấy ở người đàn ông khốn khổ
ấy” – niềm hạnh phúc bình dị, niềm khát khao mái ấm gia đình.
Những người trong xóm ngụ cư: lạ, bàn tán, hiểu, bỗng rạng rỡ hẳn lên…Tình huống đã tạo
nên sự thay đổi mới mẻ theo hướng tích cực của mọi người: bên bờ vực cái chết vì đói khát vẫn
biết cảm thông cho nhau, tin tưởng vào điều tốt đẹp.
Cách tạo tình huống truyện độc đáo; bút pháp tả thực tạo ấn tượng mạnh, miêu tả tâm lí nhân
vật tinh tế. Ngôn ngữ sinh động, so sánh độc đáo, giàu tính tạo hình... đã gó phần làm nên thành
công cho đoạn trích nói riêng và toàn bộ tác phẩm nói chung.
3. Nhận xét về quan niệm
Kim Lân đã thực hiện thành công ý đồ sáng tác của mình: biến câu chuyện ngày đói cay
đắng, đau khổ thành khúc ca chiến thắng của tình người và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
tha thiết, mãnh liệt. Đó cũng là tấm lòng, niềm thương cảm, xót xa của nhà văn trước những con
người nhỏ bé, sự trân trọng những ước mơ, khát vọng đẹp đẽ và niềm tin vào cuộc sống của những
con người nghèo khổ.
III. Kết bài
Vợ nhặt của Kim Lân là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc, ở đó vẻ đẹp của tình thân
tình người, niềm tin và niềm hy vọng vào cuộc sống vẫn hiện lên một cách tiềm tàng và âm ỉ trong
tâm hồn mỗi con người, mà không hề bị cái đói, cái chết vùi dập, chôn lấp. Trái lại dựa vào sức
nuôi dưỡng mạnh mẽ của tình thân, thì hy vọng sống còn của con người càng trở nên mạnh mẽ và
tỏa sáng, mở đường cho con người thoát khỏi cảnh bế tắc, khốn cùng.
ĐỀ 5:
Phân tích hình tượng các nhân vật trong đoạn văn sau để thấy được giá trị hiện thực và giá
trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.
“ Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định,
Thái Bình , đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi
chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên dường . Không khí vẩn lên mùi
ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.”
(…) Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây
gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hôt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vần trên nền trời
như những đám mây đen.
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
- Trống gì đấy, u nhỉ?
- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này
không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám
để con dâu nhìn thấy bà khóc.
Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lầm bầm:
- Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?
Im lặng một lúc thị lại tiếp:
- Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta
còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lặi, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm
trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật.
Tràng hỏi vội trong miếng ăn:
- Việt Minh phải không?
- Ừ, sao nhà biết?
Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm
ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.
Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng
không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh đồng đi lối khác.
À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó
hiểu.
Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy.
Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới...
(Trích, Vợ nhặt – Kim Lân. SGK 12, tập hai, tr 24)
I. Mở bài:
Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác phẩm xuất sắc
nhất trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, đồng thời cũng là một những tác phẩm tiêu biểu viết
về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ quan điểm sáng tác của tác giả. Tác phẩm thấm đẫm
giá trị hiện thực và nhân đạo. Điều này được thể hiện rõ nét ở đoạn văn mở đầu và kết thúc tác
phẩm.
II. Thân bài:
Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân đã tái hiện thành
công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần lớn người dân đã bị đẩy tới cái chết.
Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của mình để tạo dựng bối cảnh, không khí nạn đói ấy. Trong
văn ông cái đói, cái chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo nên những ám ảnh ghê rợn
Mở đầu truyện là cảnh cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam
Định, Thái Bình đội nón lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ,
đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm chỏng queo bên đường. Không khí vẩn lên một mùi
ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người… Dưới gốc đa… những người đói dật dờ lặng lẽ
đi như những bóng ma. Tiếng quạ., cứ gào lên từng hồi thê thiết.
Ấn tượng về cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng
nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ông đã hai lần sử dụng hình ảnh đầy sức ám
ảnh: bên cạnh những người chết như ngả rạ, là những người còn sống vật vờ như những bóng ma.
Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là ranh giới vô cùng
mong manh. Nạn đói đã vắt kiệt toàn bộ sự sống của con người để hiện hình thành những bóng
ma dật dờ. Ở khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân không chỉ nhìn thấy mà còn có thể
ngửi thấy đó là mù gây của xác người và mùi khét lẹt của các nhà đốt đống dấm. Còn thính giác
cũng là những ấn tượng ghê rợn. Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên, là tiếng hờn khóc
tỉ tê của những gia đình có người chết.
Ngoài ra, người đọc cũng có thể hình dung được bộ mặt thật của bọn phát xít, thực dân và
tay sai của chúng. Điều này được gói gọn trong một câu nói đầy phẫn uất của bà cụ tứ: “Tiếng
thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc gì
đã sống qua được đâu các con ạ!….”
Tác phẩm còn phản ánh được một hiện thực cơ bản khác. Đó là tấm lòng người dân hướng
về cách mạng và sự vận động của cuộc sống hướng về tương lai. Giữa những tiếng trống thúc thuế
dồn sưu dồn dập là hình ảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước
có lá cờ đỏ to lắm vụt hiện lên trong ý nghĩ của Tràng. Nó báo hiệu một bình minh mới của cách
mạng sẽ đến.
Bên cạnh những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác phẩm ánh lên giá trị nhân
đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất cả mọi người, tưởng chừng như người ta chỉ
quan tâm đến sự sống chết của mình, thì người nông dân Việt Nam vẫn sẵn sàng dang tay cứu vớt
những con người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu thương đùm
bọc “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta.
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn trước hết thể hiện trong sự bao dung, tình yêu thương mẹ
con Tràng dành cho người vợ nhặt. Họ sẵn sàng cưu mang một người đàn bà không quen biết với
một niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng và đổi khác. Bữa ăn ngày đói thảm đạm nhưng họ
vẫn ăn một cách ngon lành, toàn nói những chuyện sung sướng về sau. Đặc biệt, ở cuối tác phẩm
giá trị nhân đạo gắn với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc
chắn với tinh thần lành mạnh, lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng.
Hình ảnh lá cờ đó thể hiện niềm trân trọng khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người
lao động nghèo; thể hiện niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. Hình ảnh dùng để kết thúc
truyện là triển vọng sáng sủa của hiện thực tăm tối, đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì
thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.
III. Kết bài
Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực tàn khốc về nạn đói
năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực. Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối
ấy là ánh sáng của lòng nhân đạo, tình yêu thương, sự bao bọc, chở che lẫn nhau giữa những con
người khốn khổ. Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công cho
tác phẩm.
ĐỀ 6:
…“ Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi
vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng.
Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, và gọi với vào trong nhà:
- U đã về đấy!
Hắn lật đật chạy ra đón:
- Hôm nay sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột.
Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi:
- Có việc gì thế vậy?
- Thì u hẵng cứ vào trong nhà đã nào.
Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà
lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào
lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con
cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình
nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão
quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.
Tràng tươi cười:
- Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên diếc chĩnh chện cái đã nào.
Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng bà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào
lần nữa:
- U đã về ạ!
Ô hay, thế là thế nào nhỉ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường.
Tràng nhắc mẹ:
- Kìa nhà tôi nó chào u.
Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:
- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau...
Chẳng qua nó cũng là cái số cả...
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết
bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng
vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau
này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê
tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà
đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà
cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo
cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài
ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông
giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng
mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng
trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió
thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con
gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau,
cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...”
... Buổi sáng hôm sau: “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường,
cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa.
Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp, thì cuộc đời của
họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau
chuối thái rồi, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn
vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung
sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm
cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà
xem...”
(Vợ nhặt.Kim Lân .Sách giáo Khoa Ngữ văn 12,tập 2,NXB Giáo dục 2008.)
Anh/ chị hãy phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn văn trên. Nhận xét về...

I. MỞ BÀI
Kim Lân là cây bút chuyên viết về đề tài nông thôn. Sáng tác của ông phản ánh một cách
chân thực và xúc động cuộc sống của người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc về cảnh ngộ và tâm
lí của họ. Một trong những sáng tác xuất sắc của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm
vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp vừa là bài ca ca ngợi về sức sống và niềm tin
của con người Việt Nam. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã dựng lên một tình huống độc đáo: anh cu
Tràng nghèo khổ, xấu xí, ế vợ bỗng dưng lại nhặt được vợ giữa nạn đói khủng khiếp. Tình huống
dở khóc, dở cười, vui mà tội nghiệp, mừng mà vừa tủi vừa lo đã làm nổi bật tâm trạng của các
nhân vật trong truyện, trong đó có tâm trạng bà cụ Tứ – một người mẹ nghèo khổ nhưng nhân hậu,
bao dung.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
Vợ nhặt được coi là tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của Kim Lân, cũng là
một truyện ngắn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tiền thân của truyện ngắn Vợ nhặt là
một chương trong tiểu thuyết Xóm ngụ cư viết ngay sau 1945. Tới 1954, Kim Lân dựa vào một
phần cốt truyện cũ để viết Vợ nhặt. Do đó, tác phẩm không chỉ là kết quả một quá trình suy ngẫm,
gọt giũa về cả nội dung và nghệ thuật mà còn mang âm hưởng lạc quan của thời đại mới trong thời
điểm đất nước được giải phóng sau năm 1954. Đoạn trích thuộc phần cuối của truyện, diễn tả tâm
trạng của bà cụ Tứ khi Tràng dẫn vợ về và khi bà nói chuyện với nàng dâu mới. Việc con trai bà
lấy vợ quả thật là khó tin, điều này gây nên sự xáo trộn rất lớn trong tâm trí người mẹ. Miêu tả quá
trình thay đổi tâm trạng của người mẹ ngòi bút Kim Lân đã làm cho người đọc xúc động mãnh
liệt.
2. Cảm nhận, phân tích
Bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa thiên truyện với hình ảnh của một người mẹ đã già, sức cùng lực
kiệt. Trong cái u ám của ngày đói, cái chạng vạng của chiều hôm tê tái, dáng đi “lọng khọng” và
tiếng ho “húng hắng” của bà đã ám ảnh người đọc. Bà là một người mẹ nghèo khổ, góa bụa. Bà ở
vậy nuôi con, gia cảnh thì nghèo khổ. Cái được gọi là nhà thực chất lại là túp lều rách nát nằm bên
“mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Tràng – anh con trai của bà không được như con
nhà người. Tràng vụng về, gàn dở lại thêm xấu xí thô kệch.
Bà cụ Tứ là người mẹ nhân hậu, bao dung, giàu tình thương yêu với người đồng cảnh ngộ.
Vẻ đẹp ấy được Kim Lân miêu tả qua diễn biến tâm trạng của bà trong cảnh “đón dâu”.
Chính sự xuất hiện của người đàn bà lạ trong nhà đã làm cho người mẹ ấy ngổn ngang bao
tâm trạng, vừa ngạc nhiên, vừa tủi thân, mừng vừa lo.
Trước hết là tâm lý ngạc nhiên. Bà ngạc nhiên vì sự đon đả khác lạ của Tràng, ngạc nhiên
vì người đàn bà lạ ở trong nhà. Bởi thế đôi chân bà theo con mà cứ “đứng sững lại”, có lúc cứ
“phấp phỏng”. “Phấp phỏng” có nghĩa là tâm lý bất an, lo lắng, băn khoăn, không biết điều gì đón
đợi mình phía trước. Nếu như anh cu Tràng sau những giây phút “Chợn” thì anh ta đi thẳng vào
niềm vui, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng. Còn bà cụ Tứ thì sau giây phút ngạc nhiên của
bà là một tâm lý phức tạp, tâm lý phát triển theo đường cong. Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà
bấy lâu nay chỉ có bà và anh con trai, họ mạc thì đã thất tán nên sự xuất hiện của người đàn bà lạ
kia quả là một sự kiện. Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn dồn dập trong óc bà “Quái! Sao có người
đàn bà nào đứng trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng U? Không phải con cái Đục mà ai đấy nhỉ?”. Thực ra sự
ngạc nhiên của bà cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của biết bao người, từ xóm ngụ cư đến Tràng vẫn
không tin nổi. Nhưng thực sự mà nói, một người từng trải như bà sống mấy chục năm trên cõi đời
này, bà là người giàu kinh nghiệm. Hơn nữa việc con cái lớn lên, muốn thành thất thành gia thì
không người mẹ nào lại không nhạy cảm trước chuyện hệ trọng đó của con. Nhưng ở đây ta thấy
nạn đói đã làm cho người mẹ mất đi sự nhạy cảm ấy. Chính vì vậy sự ngạc nhiên đó kéo dài rồi
đến lúc bà không dám tin đó là sự thật, bà khẽ “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình như nó
lại nhoèn ra mãi”. Tuy nhiên thái độ của Tràng cùng không khí thiêng liêng của gia đình và câu
mở lời của Tràng “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà cụ mới hiểu ra cơ sự, bà không
ngạc nhiên nữa cũng không giận dữ lại càng không vui mừng mà lòng bà càng trở nên trăm mối
tơ vò.
Khi hiểu ra cơ sự, bà cụ Tứ “cúi đầu nín lặng”. Kim Lân dùng hai chữ “Cúi đầu” mang đến
cho người đọc một cảm nhận xót xa: đằng sau cái cúi đầu ấy có gì đó vừa uất nghẹn, vừa xót xa,
vừa cay đắng. Lòng người mẹ đa cảm ấy bỗng thấy xót xa, tủi thân tủi phận. Bà buồn vì tự thấy
mình chưa làm tròn bổn phận của người mẹ. Bởi cuộc đời của một người mẹ không chỉ sinh con
ra, nuôi con lớn lên mà còn có trách nhiệm gầy dựng gia đình cho con, chăm lo cháu chắt, còn bà
chỉ có hai bàn tay trắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm
nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì …”. Nhà văn đã bỏ lửng suy nghĩ
của bà bằng ba dấu chấm. Ba dấu chấm như là những nốt lặng trong tâm hồn người mẹ mà ở đó
sự tủi thân tủi phận dâng trào hơn bao giờ hết. Nhà văn đã để nhân vật của mình khóc: “Trong kẽ
mắt kèm nhèm của bà đã rỉ xuống hai dòng nước mắt”, đó là dòng nước mắt cơ cực của cuộc đời
và cũng là những giọt nước mắt đã cạn kiệt vì cuộc đời mẹ đã khóc quá nhiều.
Từ đó tâm lý bà cụ chuyển nỗi tủi thân thành lòng xót thương. Xót thương vì “Người ta có
gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”.
Bà thừa hiểu có nằm mơ thì thằng con mình cũng chẳng cưới được vợ. Mà người ta có cưới vợ thì
cũng phải cưới một cách hiển hách, còn Tràng lại đi nhặt vợ. Nói như vậy không có nghĩa là bà
khinh thường người con dâu mà ngược lại trái tim của người mẹ ấy bao dung hơn bao giờ hết. Bà
tỏ ra rất gần gũi và chân tình “Nhìn người đàn bà đứng vân vê tà áo đã rách bợt”, mà “lòng đầy
xót thương”. Chính tình cảm ấy đã xóa đi rất nhiều mặc cảm cho người con dâu. Trả lại danh dự
cho người phụ nữ “mang tội theo trai” (Kim Lân).
Trái tim nhân ái của người mẹ đã mách bảo bà phải đồng ý cho cuộc tình duyên ấy: “Thôi
thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.
Ca dao Việt Nam có câu:
Trồng cây những muốn cây xanh
Nuôi con những muốn con thành thất gia
Chuyện con cái thành thất thành gia là điều vui, sao mẹ chỉ “mừng”! Phải chăng ám ảnh về
nạn đói đã lấn át đi niềm vui của mẹ? Đó cũng là câu nói chân thành chứa đựng những tình cảm
sâu sắc của người mẹ làm cho không khí gia đình đã thiêng liêng lại càng thiêng liêng hơn. Câu
nói đó còn bao chứa vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương cưu mang đùm bọc của bà dành
cho người con dâu. Bà an ủi cô con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà
mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là
u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…”. Tấm lòng nhân
ái bao la và cao thượng đó của mẹ thật đáng quý biết bao!
Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm nỗi lo lắng. Làm sao không
lo cho được khi mà nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà thì đã già, có chết cũng
chẳng tiếc nuối gì, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn còn dài nhưng liệu chúng nó có nuôi
nổi nhau qua cơn đói này không? Rồi bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của bà, ông lão, cô con gái
út, bóng tối như trùm lên hai con mắt của bà. Bằng tấm lòng nhân đạo bao dung của mình, nhà văn
không cho phép nhân vật của mình tuyệt vọng. Người mẹ là chỗ dựa tinh thần cho người con, bà
cụ Tứ không giúp gì được cho đôi vợ chồng son về vật chất nhưng bà là chỗ dựa tinh thần cho các
con. Tục ngữ Việt Nam có câu “Người sống đống vàng”, còn Kim Lân khi viết truyện ngắn này
đã nung nấu: “Khi viết về con người năm đói, người ta thường viết về con người chỉ nghĩ đến cái
chết. Tôi muốn viết về con người không nghĩ đến cái chết mà chỉ nghĩ đến cái sống. Đã sống thì
phải sống cho ra cuộc sống con người”. Có lẽ vì vậy mà Kim Lân đã để bà cụ Tứ thổi sức sống
vào các con bằng triết lý dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Triết lý ấy cũng là kinh nghiệm
sống của bà, sự từng trải của một người mẹ đã kinh qua bao khó nhọc trong đời. Chính triết lý ấy
đã làm bừng lên sức sống, bừng lên tia hi vọng và làm ấm lòng đôi vợ chồng son. Đó cũng là lời
động viên chí tình, chí nghĩa mà bà muốn nhen lên trong lòng con sức mạnh vượt qua nạn đói.
Tâm lý của bà cụ Tứ đổi thay tích cực sau đêm tân hôn của đôi vợ chồng son. Bà dậy sớm
cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có cơ
khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Dáng vẻ, tâm thế của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn
ngày thường. Tràng nhận rõ sự biến chuyển khác thường đó “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi
tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn,
quét tước nhà cửa”.
Bữa ăn ngày đói được Kim Lân miêu tả thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm
hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả
nhà đều ăn rất ngon lành”. Bữa cơm đầu đón nàng dâu không có sơn hào hải vị, không của ngon
vật lạ mà chỉ có những gì thê thảm nhất của sự khốn cùng: mẹt rách, rau chuối, muối, cháo…
Nhưng sự thiếu thốn về vật chất ấy lại được bù đắp về mặt tinh thần bởi cả gia đình ấy đang có
thêm một thành viên mới, một hạnh phúc mới. Bởi vậy “cả nhà đều ăn rất ngon lành”.
Trong không khí gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, bà cụ Tứ đã thêm một lần truyền
động lực sống cho các con. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu
từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là
người truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái những
lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con
dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Điều này chứng tỏ người
mẹ ấy rất lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Đói khát không thể quật ngã được người
mẹ nông dân có niềm tin sắt đá “ai giàu ba họ ai khó ba đời” ấy. Câu chuyện đàn gà mà mẹ mang
đến trong bữa ăn như một luồng sinh khí mới làm bữa ăn càng trở nên đầm ấm: “Khi nào có tiền
ta mua lấy đôi gà… Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Từ
“đôi gà”, thành “đàn gà” là sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt của người mẹ vào tương lai. Bà tin vào
sự sinh sôi sẽ lấn át sự hủy diệt, sự sống sẽ lấn át cái chết. Cũng như chúng ta luôn tin vào đôi vợ
chồng son này, rồi họ cũng sẽ tự sinh tồn và vượt qua nạn đói để sinh con đàn cháu đống cho giống
nòi Việt Nam mãi mãi xanh tươi. Đây chính là chi tiết thể hiện niềm tin của bà cụ vào tương lai,
tin vào một tương lai tốt đẹp của đôi vợ chồng son. Và cũng chính câu chuyện này đã thổi hồn vào
cuộc đời của Tràng và người vợ nhặt một luồng sinh khí mới, đưa họ vượt qua “ranh giới giữa sự
sống và cái chết” để tiếp tục một cuộc đời mới trên cái nền u ám của nạn đói.
Bà tự hào vì nồi “chè khoán” mà thực ra là nồi cháo cám để đãi nàng dâu mới đã khiến người
đọc cảm động đến ứa nước mắt vì tình cảm của người mẹ nghèo khổ ấy. Bà tự hào bởi “xóm ta
khối nhà chả còn cám mà ăn đấy”. Vậy là nhà bà “sang” nhất xóm, “giàu có” hơn nhà người. Niềm
tự hào ấy sao nghe chân thành mà đáng thương làm sao. Bà cụ tươi tỉnh trù tính câu chuyện làm
ăn, gắng hết sức để thắp lên cho hai con ngọn lửa của niềm tin, lạc quan yêu sống. Về điều này,
Kim Lân khẳng định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường
sống”. Tinh thần nhân bản của tác phẩm tỏa sáng ở đây.
Thành công của việc xây dựng tâm lý bà cụ Tứ nói riêng và tác phẩm Vợ nhặt nói chung là
nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn; Miêu tả tâm lý nội tâm nhân vật sắc sảo; Tạo tình huống
truyện độc đáo để các nhân vật bộc lộ phẩm giá của mình. Tất cả đã tạo nên giá trị hiện thực và
nhân đạo sắc sảo. Một mặt tác giả tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phong kiến và phát xít
đã đẩy dân tộc ta vào nạn đói khốn cùng làm chết hơn hai triệu con người. Một mặt tác giả ngợi
ca vẻ đẹp tâm hồn Việt, dù trong hoàn cảnh nào, con người Việt Nam vẫn luôn yêu thương, cưu
mang đùm bọc nhau hướng vào tương lai, hi vọng trông chờ.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. KẾT BÀI
Bà cụ Tứ là một người nông dân, là bà mẹ đại diện cho những gì khốn khổ nhất, cùng cực
nhất của năm đói và nhân vật này đã được nhà văn thể hiện qua giá trị nhân đạo sâu sắc của tác
phẩm, đó chính là vẻ đẹp tình người. Bà là hiện thân của vẻ đẹp về tấm lòng nhân hậu của người
phụ nữ Việt Nam kết tinh từ bao đời nay.
PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1. Đánh giá và nhận xét về tư tưởng nhân đạo của tác giả:
Tâm trạng nhân vật qua hai lần miêu tả bộc lộ tài năng quan sát, phân tích tâm lí tinh tế của
nhà văn, góp phần thể hiện phong cách truyện ngắn Kim Lân. Hai đoạn văn miêu tả bà cụ Tứ góp
phần thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc: đồng cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người lao động
nghèo trong nạn đói; trân trọng ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và khát vọng chân chính của con người.
2. Thông điệp của tác giả:
Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào
hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm
chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan, hi vọng vào tương lai tươi sáng dù
cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh. “Dù kề bên cái đói, cái chết, người ta vẫn khát khao hạnh
phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai.
3. Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam:
Qua hình tượng bà cụ Tứ, Kim Lân còn cho ta thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam:
Chịu thương chịu khó, tảo tần, giàu đức hi sinh,…; đáng ca ngợi, trân trọng và phát huy
4. Rút ra nhận xét tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân.
Tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân được thể hiện ở tình thương, nỗi
xót xa và đồng cảm với số phận của một người mẹ nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp năm Ất
Dậu 1945. Tác giả gửi gắm tình cảm trân trọng, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ:
tuy nghèo nhưng rất thương con, nhân hậu, bao dung và giàu lòng vị tha, đặc biệt bà là người rất
lạc quan, có niềm tin vào tương lai, hạnh phúc tươi sáng. Tấm lòng đó còn thể hiện qua nghệ thuật
diễn tả tâm trạng của nhân vật với chiều sâu bên trong tâm hồn vừa phức tạp, vừa sâu sắc, hiểu và
cảm được tận cùng nỗi niềm của người mẹ nghèo;
Tấm lòng của nhà văn Kim Lân đã làm cho truyện ngắn Vợ nhặt có giá trị phản ánh chân
thực hiện thực xã hội Việt Nam, thấm đẫm tinh thần nhân đạo, đem lại niềm tin vào sự đổi đời của
người nông dân và sự hướng về cách mạng của họ.
ĐỀ 7:
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ
như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như
không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá
xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận
ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều
được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm
mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới
gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái
sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng
đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà
của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như
cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.
Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau
này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
nhà.
Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu:
- Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn.
- Vâng.
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là
người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp
ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mới làm dâu mà thị tu chí làm ăn không? Bà mẹ Tràng cũng
nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão
xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho
quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 30)
Cảm nhận của Anh/Chị về những thay đổi của nhân vật Tràng, Thị, bà cụ Tứ trong đoạn
trích trên. Từ đó, nhận xét ...
I. Mở bài
Kim Lân là nhà văn của nông thôn. Truyện ngắn của Kim Lân viết về cuộc sống và con
người của làng quê Việt Nam tuy nghèo khổ, thiếu thốn nhưng vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà
thông minh, tài hoa. Truyện ngắn Vợ nhặt của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí
những người ở thôn quê: dù cuộc sống có tăm tối đến đâu họ vẫn khao khát sống, yêu thương đùm
bọc nhau, vẫn hi vọng vào tương lai. Vẻ đẹp người nông dân trong đoạn trích : [...trích văn bản
của đề bài..] thể hiện ... (yêu cầu 2)
II. Thân bài
1. Khái quát
Vợ nhặt” được xây dựng trên bối cảnh của năm Ất Dậu, cái năm vẫn được nhiều người lớn
tuổi quen gọi là năm đói. Giữa bao khốn khổ, cùng cực ấy, một anh cu Tràng - ngờ nghệch, nghèo
túng - lại bỗng dưng “nhặt được” vợ, là một người con gái thô kệch, cũng không có gì trong tay.
Hai số phận éo le vì bị dồn vào bước đường cùng, hay vì tình thương trắc ẩn, đã gặp được nhau và
từ nay là đi chung một đường. Cả ba nhân vật: Tràng, mẹ của Tràng và thị đều có những biến đổi
về tâm lí và hành động thể hiện điều đó rất rõ rệt. Trong buổi sáng hôm sau, không còn những bất
ngờ, ngạc nhiên, rụt rè, tủi hổ, cả ba nhân vật đã có sự gắn kết trong những suy nghĩ và hành động
trách nhiệm hơn, gần gũi hơn, dù vẫn trong không khí nạn đói ê chề nhưng những trang văn ấy
cho phép người đọc hướng về một tương lai hạnh phúc và niềm vui rồi sẽ mỉm cười với những con
người bất hạnh
2. Cảm nhận đoạn trích
Vẻ đẹp của Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi anh có vợ được Kim Lân miêu tả thật tinh tế
mà chân thực: Một cảm giác lạ chưa từng thấy tràn ngập trong lòng anh. Anh thấy trong người êm
ái, lơ lửng như người vừa ở trong giấc mơ đi ra, việc có vợ vẫn hình như là không phải. Tràng
chợt nhận ra xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới lạ: Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được
quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đĩa vẫn vắt khươm mươi niên
ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc cây ổi đã
kín nước đầy ăm ắp. Còn bà cụ Tứ lúi húi giẫy cỏ, nàng dâu quét tước, nấu nướng. Tất cả những
cảnh tượng đó thật bình thường, là sự thay đổi đơn giản nhưng cũng đủ làm cho anh rất cảm động
vì nó đều khác hẳn, chưa bao giờ Tràng thấy thế.
Trước mặt Tràng, người vợ mới của hắn khác hẳn: đó là một người đàn bà mẫu mực, chăm
chỉ. Thị rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy
lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Thị thu dọn nhà cửa, phơi phóng quần áo, quét sân, gánh nước và
chuẩn bị bữa ăn ngày mới.
Trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn:
Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn
vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bởi vì Tràng đã có một gia đình, và trong cái
buổi sáng đầu tiên ấy, anh đã được tắm mình trong không khí ấm áp, hạnh phúc của tổ ấm gia đình.
Tràng vẫn chưa quen với việc hạnh phúc đến quá bất ngờ. Nhà văn Kim Lân đã khắc họa
được những cảm xúc dấy lên trong lòng Tràng. Từ con người thô lỗ, cộc cằn thì Tràng đã trở thành
người chồng thực sự. Vậy là trong khung cảnh đói khát chết chóc thê thảm của đất nước năm 1945
ấy, người nông dân khốn khổ như Tràng đã biết vượt lên hoàn cảnh, tìm đến hạnh phúc trong niềm
vui nương tựa đùm bọc lẫn nhau. Chỉ có tấm tình chân thực mới giúp họ có sức mạnh vượt qua sự
thật nghiệt ngã của cuộc đời. Và không có gì ngăn nổi niềm tin, niềm hi vọng của họ vào tương
lai. Đó chính là giá trị nhân văn đầy cảm động của truyện ngắn này.
Chỉ qua một ngày, một đêm sau khi đã thành vợ của Tràng, thành nàng dâu mới của bà cụ
Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác.
Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm hạnh phúc
của gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng có con như những người đàn bà may mắn khác.
Thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ hạnh phúc.
Tiếng chổi quét sân của thị kêu sàn sạt trên mặt đất tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng
thị. Thị lẳng lặng đi vào bếp dọn bữa ăn sáng. Tràng cảm thấy vợ mình hiền hậu đúng mực rất
đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có nàng dâu mới, Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm một
nhân lực. Mẹ chồng và nàng dâu cùng làm việc, nói chuyện với nhau như thân quen tự bao giờ.
Có lẽ cũng do cùng cảnh ngộ nên họ nhanh chóng trở thành thân thiết.
Cách cư xử trong bữa ăn của thị cũng thật tế nhị, khôn khéo. Nhìn bát cháo cám người mẹ
vui vẻ đưa cho, mắt thị tối lại nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng. Thị đã giấu kín nỗi thất vọng
chua chát là để khỏi làm phật ý mẹ, giữ gìn không khí vui vẻ trong gia đình.
Hạnh phúc đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành
người đàn bà đúng nghĩa, đã nghĩ cho sự sống, đã lo cho gia đình. Qua đây, Kim Lân dường như
muốn khẳng định một niềm tin đầy giá trị nhân văn: mái ấm gia đình có đủ sức mạnh để làm thay
đổi, để cảm hóa một con người.
Vào buổi sáng hôm sau, bà cụ Tứ được Kim Lân khai thác ở chiều sâu tâm lý mà màu sắc
chủ đạo là sự lạc quan, tin tưởng, phấn chấn vào cuộc sống.
Cùng với người con dâu, sáng hôm sau bà cụ Tứ đã dậy sớm, xăm xăm quét dọn, thu vén
nhà cửa để ngôi nhà trở nên gọn gàng, sáng sủa, mang không khí của một tổ ấm hạnh phúc thật sự.
Niềm hạnh phúc của con đã khiến người mẹ nhân từ, bao dung dường như cũng hạnh phúc theo.
Không còn dáng vẻ của một bà lão gần đất xa trời, khốn khổ, Tràng đã nhận thấy rất rõ sự thay đổi
trong dáng vẻ, thần thái của mẹ mình.
Bà cụ Tứ trở nên tươi tỉnh, nhẹ nhõm khác ngày thường, khuôn mặt bủng beo u ám của bà
rạng rỡ hẳn lên. Sự thay đổi ở diện mạo, thần thái của bà cụ Tứ cùng với những việc làm nhỏ bé,
giản dị của bà đã thể hiện rất rõ sự chăm lo cho hạnh phúc của đứa con. Tất cả đều giản dị song
lại vô cùng cảm động vì bà cụ đã hành động bằng tất cả tấm lòng mình để góp phần xây dựng một
tổ ấm hạnh phúc.
Làm nên thành công của truyện Vợ nhặt là nhờ sự đóng góp không nhỏ của nghệ thuật
truyện. Tác giả đã tạo được một tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện tự nhiên, dựng cảnh
sinh động với nhiều chi tiết đặc sắc; đối thoại hấp dẫn, ấn tượng; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế,
ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có sự gia công sáng tạo của nhà văn.
3. Nhận xét, bình luận (Phần yêu cầu thứ 2 của đề. Tùy yêu cầu đề để giải quyết. Nếu
không có không phải làm - PHẦN NÀY XEM Ở CÂU HỎI PHỤ)
III. Kết bài
Một hồn văn đôn hậu, giản dị như Kim Lân, với tư tưởng và cách mở nút cho số phận nhân
vật đã có sự sáng tạo và tiến bộ khi đem đến một cái kết đầy hứa hẹn, đầy tươi sáng cho các nhân
vật, gửi gắm trong hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Những phận đời lay lắt
như Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ cuối cùng cũng tìm được ánh sáng của tình người, của hi vọng.
PHẦN CÂU HỎI PHỤ LIÊN QUAN ĐẾN ĐOẠN VĂN BẢN
1. Nhận xét cái nhìn mới mẻ về con người của nhà văn Kim Lân
Nhà văn có cái nhìn xót xa, thương cảm và tin yêu về con người Việt Nam dưới ách thống
trị của giai cấp phong kiến và bọn thực dân phát xít trong nạn đói khủng khiếp Ất Dậu 1945. Tuy
sống trong thân phận rẻ rúng, hết sức bi đát, bị cái đói, cái chết bủa vây nhưng họ vẫn khao khát
sống, khao khát yêu thương và có niềm tin bất diệt vào tương lai sẽ được đổi đời. Kim Lân còn
tìm thấy sức mạnh của tình yêu trong thẳm sâu những con người bé nhỏ. Tràng lấy vợ, một câu
chuyện dở khóc dở cười nhưng sau sự kiện bi hài ấy, con người và thế giới của riêng Tràng thay
đổi: vợ hiền thảo hơn, Tràng đã trưởng thành nên người. Bà mẹ lần đầu tiên trên trán bớt đi đám
mây u ám. Tình yêu thương đã khiến cho ba con người nhỏ bé và mái ấm gia đình của họ không
bị vùi xuống vực thẳm của sự chết chóc. Trong thời khắc quyết định số phận, họ đã nương tựa,
cưu mang, sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu.
Cái nhìn mới mẻ, lạc quan tin tưởng về con người cho thấy tài năng quan sát, miêu tả, dựng
cảnh, đi sâu khai thác diễn biến tâm trạng nhân vật rất hợp lí, chân thực, đặc biệt tạo tình huống
truyện độc đáo, bất ngờ, éo le và cảm động của nhà văn Kim Lân, góp phần làm bừng sáng giá trị
nhân văn trong sáng tác của nhà văn nông thôn được đánh giá xuất sắc nhất trong văn học Việt
Nam hiện đại 1945-1975.
2. Nhận xét tấm lòng của nhà văn Kim Lân dành cho người nông dân.
Xót xa, thương cảm và tin yêu về người nông dân trong nạn đói năm 1945. Tuy sống trong
thân phận rẻ rúng, hết sức bi đát, bị cái đói, cái chết bủa vây nhưng họ vẫn khao khát sống, khao
khát yêu thương và có niềm tin bất diệt vào tương lai sẽ được đổi đời. Kim Lân còn tìm thấy sức
mạnh của tình yêu trong thẳm sâu những con người bé nhỏ. Tình yêu thương đã khiến cho ba con
người nhỏ bé và mái ấm gia đình của họ không bị vùi xuống vực thẳm của sự chết chóc. Trong
thời khắc quyết định số phận, họ đã nương tựa, cưu mang, sưởi ấm cho nhau bằng tình yêu.
3. Nhận xét: qua đoạn trích, thấy được giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo của nhà
văn:
Trước hết về giá trị hiện thực: Người đọc hiểu rõ hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của
đồng bào ta trong nạn đói 1945 khiến họ không dám tin vào hạnh phúc dù nó ở ngay trong tầm
tay. Nhà văn khắc họa diễn biến tâm lí của nhân vật thông qua việc tập trung miêu tả cử chỉ, hành
động, suy nghĩa, lời nói… Để thấy được Tràng đại diện cho những người nông dân hiền lành, chất
phác nhưng giàu tình yêu thương, sức sống và khát vọng mãnh liệt.
Tư tưởng nhân đạo: thấu hiểu tâm trạng, suy tư của nhân vật, Kim Lân đã thể tình cảm yêu
thương, trân trọng, đồng cảm và đặt niềm tin nơi vào những người lao động.
Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà
ấm áp tình thương, niềm hi vọng lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo,
nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm cảm động, hấp dẫn.
Tràng là hình ảnh tiêu biểu cho người lao động nghèo khổ, lương thiện, có lòng nhân hậu,
khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào sự đổi đời ngay cả trong những hoàn cảnh đen tối nhất.
Nhận xét về giá trị nhân đạo mà nhà văn thể hiện qua nhân vật Tràng: Khát vọng sống của
nhân vật thể hiện cái nhìn phát hiện, trân trọng của Kim Lân về phẩm chất tốt đẹp của người nông
dân trong nạn đói: trong hoàn cảnh khốn cùng, người nông dân vẫn thể hiện được phẩm chất tốt
đẹp (Biết yêu thương, có khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc). Đây cũng chính là biểu hiện quan
trọng nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm.
4. Nhận xét về vẻ đẹp của người lao động nghèo qua cái nhìn của nhà văn Kim Lân
Kim Lân đã có cái nhìn mới về bản chất, số phận người nông dân;phát hiện, khẳng định và
đặt niềm tin vào những phẩm chất đáng quí của người lao động nghèo: luôn khao khát hạnh phúc,
tổ ấm gia đinh, luôn cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng cuộc đời sẽ thay đổi trong tương lai.
5. Cách xây dựng tình huống truyện của Kim Lân.(1đ)
Nhà văn chọn tình huống Tràng nhặt vợ tạo nên sự bất ngờ và kịch tính éo le và độc đáo tác
động đến các nhân vật. Tràng là người có ngoại hình xấu, thô kệch; nhà nghèo lại có người đàn bà
theo không về làm vợ. Việc Tràng có vợ tạo nên sự bất ngờ khiến anh còn không thể tin được vào
việc đã xảy ra. Từ đó Tràng đã trưởng thành, nên người và biết gắn bó với gia đình.
Tình huống truyện có ý nghĩa làm nổi bật chủ đề và khai thác tâm lí nhân vật. nhà văn đã tạo
nên kết cấu chặt chẽ cho các sự việc, chi tiết xoay quanh tình huống. Đồng thời tác giả khẳng định
giá trị nhân đạo sâu sắc qua ngòi bút tài ba.
6. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Xây dựng nhân vật bằng bút pháp miêu tả, phân tích tâm lí chân thực, tinh tế. Khắc họa nhân
vật bằng ngôn ngữ đối thoại, sống động, giàu cá tính, xây dựng tình huống truyện độc đáo bất ngờ.
Ngôn ngữ kể tự nhiên, mộc mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân. Giọng
hồn hậu, hóm hỉnh, giàu chất trữ tình.
Tác giả đã tạo được một tình huống truyện độc đáo để nhân vật bộc lộ những phẩm chất,
tính cách; Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, đậm chất nông thôn và có
sự gia công sáng tạo của nhà văn.
ĐỀ 8:
"Bữa cơm gày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái
rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể
chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về
sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm
cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy chốc mà có ngay đàn gà cho mà
xem…
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại
đầm ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo
lõng bõng, mỗi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão
đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên
và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta còn khối nhà chả có cám
mà ăn đấy…
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám
đắng chat và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đây không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong
lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người.
Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao
chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nên trời như
những đám may đen.
Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng:
- Trống gì đấy, u nhỉ?
- Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này
không chắc đã sống qua được đâu các con ạ… - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám
để con dâu nhìn thấy bà khóc.
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, SGK Ngữ văn 12 tập 2, NXB GD)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên để thấy được tư tưởng nhân đạo của nhà văn.

I. Mở bài
Kim Lân là nhà văn của nông thôn. Truyện ngắn của Kim Lân viết về cuộc sống và con
người của làng quê Việt Nam tuy nghèo khổ, thiếu thốn nhưng vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà
thông minh, tài hoa. Truyện ngắn Vợ nhặt của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí
những người ở thôn quê: dù cuộc sống có tăm tối đến đâu họ vẫn khao khát sống, yêu thương đùm
bọc nhau, vẫn hi vọng vào tương lai. Thành công của truyện ngắn “Vợ nhặt” không chỉ bởi nội
dung đặc sắc cùng tinh thần nhân văn cao cả mà còn được tạo nên bởi hàng loạt những hình ảnh
đặc sắc. Một trong số những hình ảnh ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn Vợ nhặt là hình ảnh
gia đình Tràng trong bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới ở phần cuối tác phẩm. Đoạn văn “Bữa cơm
gày đói ...nhìn thấy bà khóc” đã để lại nhiều suy nghĩ trong lòng độc giả.
II. Thân bài
1. Khái quát
Vợ nhặt” được xây dựng trên bối cảnh của năm Ất Dậu, cái năm vẫn được nhiều người lớn
tuổi quen gọi là năm đói. Giữa bao khốn khổ, cùng cực ấy, một anh cu Tràng - ngờ nghệch, nghèo
túng - lại bỗng dưng “nhặt được” vợ, là một người con gái thô kệch, cũng không có gì trong tay.
Hai số phận éo le vì bị dồn vào bước đường cùng, hay vì tình thương trắc ẩn, đã gặp được nhau và
từ nay là đi chung một đường. Cả ba nhân vật: Tràng, mẹ của Tràng và thị đều có những biến đổi
về tâm lí và hành động thể hiện điều đó rất rõ rệt. Trong buổi sáng hôm sau, không còn những bất
ngờ, ngạc nhiên, rụt rè, tủi hổ, cả ba nhân vật đã có sự gắn kết trong những suy nghĩ và hành động
trách nhiệm hơn, gần gũi hơn, dù vẫn trong không khí nạn đói ê chề nhưng những trang văn ấy
cho phép người đọc hướng về một tương lai hạnh phúc và niềm vui rồi sẽ mỉm cười với những con
người bất hạnh
2. Cảm nhận đoạn trích
Chi tiết bữa cơm ngày đói cũng là bữa cơm đầu tiên đón con dâu về nhà Tràng là một chi
tiết đặc sắc vừa tái hiện chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong hoàn cảnh nạn
đói hoành hành, vừa mang một giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Thông thường bữa cơm ngày đầu
tiên đón con dâu về sẽ rất quan trọng vì nó thể hiện được sự gắn kết của con dâu với nhà chồng.
Nhưng với gia đình Tràng thì bữa cơm đầu tiên ấy lại vô cùng đơn giản đến thảm hại "Giữa cái
mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất
ngon lành". Chỉ với những chi tiết đơn giản nhưng Kim Lân đã khắc họa được sự khủng khiếp của
nạn đói lúc ấy. Lúc này ăn chỉ để sống qua ngày, con người đang cố gắng giành lấy chút sự sống
mong manh từ tử thần. Bữa cơm được chuẩn bị vô cùng sơ sài đến thảm hại, chắc hẳn chúng ta ai
cũng biết với bữa cơm như vậy thì sao mà ăn ngon lành cho được nhưng ở đây cả gia đình Tràng
đều ăn rất ngon lành. Có lẽ ai cũng hiểu được hoàn cảnh lúc này nhưng họ cố nén cảm xúc trong
lòng và cố tỏ ra vui vẻ để động viên nhau, làm động lực giúp nhau vượt qua hoàn cảnh khốn cùng
này. Nhưng cũng có lẽ đó là niềm vui thật sự bởi dù trong gian khổ nhưng họ vẫn có nhau, vẫn lạc
quan và vẫn hạnh phúc yêu thương nhau. Vượt qua mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu hà khắc và
hoàn cảnh nghèo khó bà cụ Tứ vẫn đón nhận, cảm thông và yêu thương cô con dâu mới, gia đình
họ vô cùng hòa hợp, hạnh phúc. Chính vì thế mà trong bữa cơm "Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn
chuyện sung sướng về sau này: Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà... này ngoảnh đi ngoảnh lại chả
mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem". Những câu chuyện bà nói đều là những chuyện tốt đẹp sau
này, đều nói về tương lai tươi sáng đầy hy vọng phía trước. Qua đây ta thấy được sự lạc quan, luôn
hướng về phía trước của bà cụ Tứ, cũng như của cả đất nước trong cái giai đoạn khó khăn cực khổ
ấy.
Nhưng những tiếng cười cũng như niềm hy vọng mong manh của cả gia đình nhanh chóng
bị dập tắt vì "niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn". Dường như
đã liệu được tình huống này sẽ xảy ra người mẹ nghèo khó với tấm lòng nhân hậu, thương người
và hết mực thương yêu con đã "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên
nghi ngút. Vừa khuấy khuấy vừa cười: chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Tuy nói là chè khoán
nhưng thật sự đó là nồi cháo cám chát xít, vốn là thứ thức ăn của súc vật. Qua đây, ta càng thấm
thía hơn cái thực trạng tàn khốc của nạn đói 1945 và tội ác tàn bạo của phát xít và tay sai đẩy
những con người khổ cực ấy vào tình cảnh khốn cùng. Nhưng qua đây ta lại càng thấy ngời lên
được những phẩm chất tốt đẹp của con người, họ bị bần cùng hóa nhưng không hề tha hóa. Nổi
bật nhất đó chính là bà cụ Tứ, nào đâu phải bà không biết nồi cháo cám kia chát xít chẳng hề ngon
lành gì nhưng bà vẫn bảo "ngon đáo để cơ" mà là bà đang cố động viên con mình cũng như con
dâu vượt qua hoàn cảnh khó khăn lúc ấy. Ta cảm thấy như bà mẹ già đang cố kìm nén những cảm
xúc tủi hờn nhất, những nỗi lo lắng khôn nguôi về tương lai vào tận sâu trong lòng để cười mà
động viên các con: "Cám đấy mày ạ", "Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy", gieo vào lòng
các con mình niềm hy vọng sống và vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Thật xót xa biết bao! Bà cụ
Tứ quả thật là một người mẹ nhân hậu, đảm đang, hết mực yêu thương con, sáng ngời những phẩm
chất tốt đẹp của một người mẹ nông thôn Việt Nam. Hơn thế nữa, chẳng phải ngẫu nhiên mà Kim
Lân lại để người mẹ ở cái tuổi xế chiều ấy là người lạc quan nhất, luôn đon đả kể chuyện vui và
luôn động viên, gieo hy vọng vào lòng các con mình. Bởi lẽ, một người gần đất xa trời như bà cụ
Tứ mà còn khát khao sống mãnh liệt đến như vậy thì những người trẻ hơn sẽ lấy đó làm động lực
mà tiếp tục nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Bà cụ Tứ là người thắp lửa, giữ lửa, và
truyền ngọn lửa khát khao sống, khát khao thoát khỏi đói nghèo, khát khao tự do đến với các con
cũng như những người khác.
Không chỉ có bà cụ Tứ mà qua hình ảnh bữa cơm ngày đói nhất là ở chi tiết nồi cháo cám ta
còn thấy được sự chuyển biến trong tính cách cũng như thái độ của anh Tràng và người vợ nhặt.
Khi Tràng gợt một miếng cháo cám bỏ vội vào miệng "mắt hắn chum ngay lại, miếng cám đắng
chát và nghẹn bứ trong cổ". Qua đây ta thấy anh Tràng là một người vô cùng khéo léo trong cách
ứng xử. Mặc dù có hổ thẹn vì không lo được cho vợ một bữa cơm đón dâu đầy đủ nhưng anh cũng
hiểu được hoàn cảnh mà không một lời oán than. Còn với người vợ nhặt, ta thấy được sự chuyển
biến trong tính cách của thị vô cùng rõ ràng. Ta không còn thấy một người đàn bà "chỏng lỏn",
"đanh đá", "chua ngoa" và "cong cớn, sưng sỉa" khi nói chuyện với anh Tràng, ta không còn thấy
người đàn bà bỏ hết cả sự duyên dáng và danh dự vì miếng ăn mà "cắm đầu ăn một chập bốn bát
bánh đúc" trong ngày anh Tràng đưa thị về làm vợ. Mà thay vào đó là một người đàn bà hiểu
chuyện: khi nhận bát cháo cám từ tay mẹ chồng "người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn,
hai con mắt thị tốt lại. Thị điềm nhiên và vào miệng". Ta thấy được thị là người dâu hiền, vợ thảo,
hiểu chuyện và biết chấp nhận và cảm thông với gia đình chồng mà không một lời kêu ca, muốn
cùng gia đình chồng vượt qua khó khăn. Đồng thời, ta cũng thấy được nổi khao khát một mái ấm
gia đình hạnh phúc của người đàn bà ấy cho dù có khó khăn nhưng thị vẫn đồng cảm và sẵn sàng
đồng cam cộng khổ cùng nhà chồng. Thật đáng quý!
Không chỉ dừng lại ở đó, chi tiết bữa cơm ngày đói còn phản ánh được cái hiện thực tàn khốc
lúc đó và lên án tội ác tàn bạo của bọn phát xít và tay sai. Chúng bắt người dân ta phải nhổ lúa
trồng đay, triệt đường sống của người nông dân lương thiện. Chúng khiến người dân ta sống cũng
như chết, sống lay lắt, vất vưởng như những thây ma ngoài đường, nhiều khi sống cũng không
bằng chết. Nhân dân ta phải ăn cháo cám, thứ thức ăn của gia súc, thậm chí có nhà còn không có
cám mà ăn. Trong hoàn cảnh ấy, cháo cám lại như một thứ đồ xa xỉ. Quả thật là một hiện thực tàn
khốc.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: bữa cơm đón dâu thảm hại
chỉ với niêu cháo lõng bõng cùng nồi cháo cám chát xít. Kết hợp với nghệ thuật xây dựng tính
cách nhân vật chân thật, sinh động với cách miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế cũng như nghệ thuật trần
thuật mộc mạc, chắt lọc, có sức gợi cảm cao Kim Lân đã xây dựng lên được bữa cơm ngày đói của
gia đình Tràng trong ngày đầu đón con dâu thật chân thật và nhiều ý nghĩa.
III. Kết bài
Hình ảnh bữa cơm ngày đói mà đặc biệt là nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong
lòng người đọc. Ta thấy được một hiện thực nạn đói vô cùng tàn khốc nhưng qua đó lại ngời lên
những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người. Trong cái khó khăn, bần cùng cơ cực ấy ta vẫn
thấy ánh lên tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng như đang
trong bờ vực của cái chết lắt lay, người ta chỉ nghĩ đến những thống khổ nhưng không, ở đây
người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ dành
cho chồng và trách nhiệm của một người chồng dành cho gia đình của mình. Tất cả đều luôn lạc
quan tin tưởng vào cách mạng thành công và tương lai tươi sáng.

You might also like