You are on page 1of 8

Nếu Chí Phèo đi vào trong tác phẩm của Nam Cao với dáng ngật ngưỡng của kẻ

say và tiếng chửi đời đầy chua chát. Thì nhân vật Tràng cũng bước vào trang
văn của Kim Lân với cái lưng to như lưng gấu và dáng đi lững thững đầy mỏi
mệt, cái mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều. Nhưng trước cách mạng, Nam
Cao đã bất lực nhìn Chí Phèo chết mà không thể đưa tay cứu vì hạn chế của lịch
sử. Còn Kim Lân viết về anh cu Tràng sau cách mạng thành công nên nhân vật
đã được dắt tay đến ánh sáng của cách mạng, tìm đường tới tự do. Con đường
ấy chông gai, và thách thức như thế nào trong thiên truyện ngắn Vợ nhặt, Kim
Lân đã vẽ lại con đường ấy bằng ngòi bút chân thực, sống động khi miêu tả
nhân vật Tràng, một nhân vật chính của truyện với sự cảm thông và lòng nhân
đạo sâu sắc.

2. TB.

2.1.Lai lịch, ngoại hình:

a, Lai lịch:

Dân ta ngày xưa sống trong thuần hậu của làng quê mà lúc đó là “phép vua còn
thua lệ làng”. Văn hóa làng xã phát triển đến ăn sâu trog tiềm thức của con. Vậy
mà Tràng lại là dân ngụ cư, một gã trai nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê,
nuôi mẹ già. Dân ngụ cư là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, họ không
có ruộng đất, những thứ vô cùng quan trọng đối với người nông dân thời xưa.
Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo
lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró
trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư,
Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi
anh ta đi làm về.

b, Ngoại hình.

Tràng xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con
đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong
bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng
chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn
lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn... Còn đầu của
Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ,
cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Với lai lịch là dân ngụ cư nghèo, lại có ngoại hình xấu trai như vậy cũng đủ anh
Tràng khó lấy được vợ nếu không muốn nói là ế vợ. Nhưng ẩn chứa bên trong
nét ngoại hình xấu xí ấy là tâm hồn của một con người luôn vươn tới những
khao khát sống đẹp. Và điều này một phần được thể hiện thông qua tính cách
của nhân vật.

2.2.Tính cách:

a, Con người vô tư, nông cạn nhưng đầy tình thương

Tràng hầu như không tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình, không
vướng bận những lo toan của cuộc sống cơm áo, gạo tiền. Anh ta thích chơi với
trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong
xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa ra
vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng
sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên
cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy
mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.

Ngay cả chuyện quan trọng cả một đời như lấy vợ, bất cứ ai cũng phải lựa chọn,
cân nhắc kĩ càng nhưng Tràng thì ngược lại. Tràng cũng chỉ đưa ra quyết định
trong chốc lát, nhanh chóng đến bản thân anh ta còn không tin nổi. Thật ra, ban
đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì
không thể có vợ. Đó là lần gò lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một
câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa chứ đâu có chòng ghẹo cô
nào.

Muốn ăm cơm trắng với giò!

Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!

Nhưng không hiểu sao những cô kia lại đẩy Thị ra với hắn. Thế rồi, một người
đàn bà đang đói bám lấy để được ăn, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận, cười tít mắt
và cùng đẩy xe bò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái
"cười tít mắt của thị"bởi "từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như
vậy đâu". Cái cười của Tràng làm ta nhớ đến giây phút mà Chí Phèo không
quên và đầy xúc cảm trào dâng như khi nhận bát cháo hành từ trên tay Thị Nở,
vì từ xưa đến nay có ai cho hắn cái gì, muốn có ăn thì phải cướp, giật, dọa nạt.
Một sự bố thí nhỏ nhoi của số phận cũng làm cho con người trào dâng niếm
hạnh phúc. Ấy chính là tinh thần nhân đạo của nhà văn.
Vì đùa nên Tràng quên ngay nhưng thị thì nhớ như in và tới ăn vạ. Lơ ngơ giây
lát nhưng khi nhận ra Tràng nhanh chóng gật đầu. Lần thứ hai gặp lại là Khi
Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ người đàn bà sầm sập
chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn "Điêu, người thế mà điêu. Bữa trước hẹn
thế mà mất mặt". Tràng không nhận ra người đàn bà hôm trước đẩy xe cho
mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn phá cả nhân
hình lẫn phẩm cách. Thị gầy sọp hẳn đi, quần áo rách như tổ đỉa, ngực gầy lép,
trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Thấy người đàn bà đói,
rách rưới, thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con
người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả đến thế bởi chính
Tràng lúc này cũng bị cái đói bủa vây, cũng thảm hại đáng thương như người
phụ nữ kia. Thế nhưng Tràng đã quên đi cái nghèo khổ của mình, chỉ còn lòng
thương, một lòng thương người đầy đủ giành cho người đàn bà. Tràng cho thị
ăn, ăn rất nhiều " bốn bát bánh đúc" - bởi giữa lúc tao đoạn ấy thì “một miếng
khi đói bằng một gói khi no”. Miếng ăn ấy có thể cứu sống một con người. Đó
chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có
ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo. Một phẩm chất cao cả, một tâm hồn đẹp ẩn
bên trong một ngoại hình thô kệch, xấu xí. Một lòng thương người bao la giữa
cái đói cái chết đang cận kề. Đó là phẩm chất tốt đẹp trong con người lao động
nghèo khổ Việt Nam mà Kim Lân đã dày công kiếm tìm và ca ngợi.

b, Khát khao hạnh phúc gia đình.

Vốn tính hay đùa, khi thị lo lắng hụt tiền bị vợ mắng, Tràng lại tầm phơ tầm
phào "Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về". Nói đùa thế thôi,
ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết. Mới
đầu anh cũng chợn, nghĩ: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi
nổi không, lại còn đèo bòng". Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất lại là thời điểm đói
kém như thế. Một thoáng trong óc Tràng, nỗi ám ảnh của cái đói, cái chết hiện
về đầy đủ và chân thật nhất. Nó là hiện thực khắc nghiệt mà không một lí trí nào
đủ mạnh mẽ để làm ngơ. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh
phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi "Chậc kệ!"

Chỉ một từ "chậc kệ" thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi,
mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình. Tràng và người đàn bà kia
như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa sự sống.
Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa.
Một người vì khát khao hạnh phúc gia đình, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại
là họ đánh liều với số phận, với sự sống, nhưng cái liều của họ làm người ta bật
khóc. Bởi sống giữa cuộc đời mà ngay khi cái đói, cái chết cận kề, họ không
nghĩ đến cái đói, cái chết mà lại hướng tới sự sống, khát khao hạnh phúc. Đó là
vẻ đẹp, nghị lực sống phi thường của người nông dân nghèo. Bấy giờ thì họ là
người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới
mong manh của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng, phải
chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nòi sẽ
tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói?
Tất cả dồn tụ, lắng đọng lại trong chi tiết nhặt vợ thật nhanh chóng của Tràng!

c, Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng.

Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: hắn đưa thị
vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng
cơm đánh một bữa no nê... Anh còn mua 2 hào dầu để thắp sáng, để vợ mới vợ
miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí. Đó có vẻ như là sự chi tiêu phóng
khoáng thậm chí là cố gắng quá mức của Tràng trong lúc đói khát, thóc cao gạo
kém này. Nhưng cũng rất dễ hiểu vì Tràng sắp được làm chồng.

Không phải vì vợ nhặt mà Tràng coi thường, không trân trọng mà ngược lại,
hắn yêu thương và nâng niu chút hạnh phúc lớn lao bỗng nhiên hắn có được.
Trên đường về, khác với anh Tràng hôm qua buồn bã, cúi mặt lo âu nghĩ ngợi,
hôm nay Tràng có niềm vui lạ, một niềm hạnh phúc tràn ngập khiến mặt Tràng
cứ "phớn phở khác thường". Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Lúc thì
hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai
kia, muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng. Kim Lân đã làm người
đọc thấy được sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Tràng thật sự đã đổi khác. Trong
lòng Tràng tràn ngập niềm vui sướng miên man khiến "Trong một lúc Tràng
hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói
khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng
hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới
mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man
khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng". Thế là rõ
rồi: Tình yêu, hạnh phúc gia đình luôn đủ sức mạnh khiến con người ta thay đổi.

d, Biết đến những lo âu chính đáng.

Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy "ngượng nghịu" rồi cứ thế "đứng tây ngây ra
giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ". Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh
phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau
Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không
dám tin đó là sự thật: "hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có
vợ rồi đấy ư ?". Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng. Không chỉ có bản thân
Tràng thấy bất ngờ về việc mình bỗng nhiên có vợ, mà tất cả những người dân
trong xóm ngụ cư đều không tin được. Bởi đây là một việc như từ trên trời rơi
xuống. Cái đói cướp đi cả mạng sống của con người thì có hạnh phúc nào nó có
thể ban cho con người? Vậy mà Tràng lại nhặt được hạnh phúc ngay lúc sự sống
chênh vênh nhất, không biết nên mừng hay tủi, vui hay buồn, hạnh phúc hay âu
lo? Nhưng đã vượt qua tất cả hiện thực khắc nghiệt, Tràng đón nhận niềm vui
của hạnh phúc nhỏ nhoi, bất ngờ của mình.

Lúc chờ đợi Mẹ về: Tràng nóng ruột, đi đi lại lại. Chưa bao giờ người ta thấy
hắn nôn nóng như thế- hắn biết lo toan, như mốc đánh dấu sự trưởng thành của
một con người. Vì sao? Bởi hắn lo mẹ không đồng ý, và nếu như vậy thì niềm
hạnh phúc hắn đang có sẽ bị mất đi. Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con
vì dù sao Tràng vẫn còn có mẹ - đó là đấng tối cao của Tràng vì chỉ có mẹ mới
quyết định được hạnh phúc của hắn. Tràng nóng lòng thưa chuyện với mẹ. Bắt
mẹ ngồi lên giường để thưa chuyện, như thế ta mới thấy hết Tràng cũng ý thức
được mình lấy vợ là một việc vô cùng hệ trọng. Có gì đó như sự đổi thay ghê
gớm. Trên chợ tỉnh mới trước đó ít phút, lời rủ thị về đích thực là một câu đùa
thì với hành động mời mẹ ngồi lên ghế chĩnh chện để thưa chuyện thì đó lại là
việc hệ trọng cả một đời. Một chàng trai đã lớn, đến tuổi dựng vợ, gả chồng mà
khi thưa chuyện vợ con với mẹ Tràng vẫn còn ngượng nghịu, chút ngượng ngịu
đầy trân trọng của chàng trai nghèo trước hạnh phúc bất ngờ. Niềm vui, sự
ngượng nghịu hoàn toàn đối lập với sự ủ rũ của cậu con trai Lão Hạc khi bị phụ
tình, vì nghèo mà mất đi tình yêu đầy chua xót. Hai phận nghèo nhưng lại là hai
kết thúc khác nhau trước hạnh phúc gia đình. Nên người đọc hoàn toàn có thể
hiểu và cảm thông cho niềm vui của Tràng. Khi được mẹ đồng ý, Tràng thở
đánh phào một cái nhẹ cả người. Thế là Tràng đã có gia đình, có vợ, không tốn
tiền cưới hỏi, Tràng lấy được vợ thật hiển hách.

Lo lắng của Tràng hoàn toàn có cơ sở, lo cho hạnh phúc mong manh kia có thể
bị mất đi bất cứ lúc nào. Lo cái đói sẽ hủy hoại tất cả, lo sợ mẹ không đồng ý…
Tất cả đều chính đáng bởi hạnh phúc gia đình là khao khát, là mưu cầu của mỗi
con người. Chân lí ấy Nam Cao đã nói trong truyện ngắn Chí Phèo: người ta
không sợ đói rét, ốm đau, bệnh tật bằng sợ sự cô đơn. Phải chăng cũng khi nhận
ra hạnh phúc của mình đang hiện hữu cũng là lúc Tràng lo sợ nhất mất đi hạnh
phúc ấy, và rồi Tràng lại cô đơn một mình với cái đói, cái nghèo. Có lẽ lúc này
cô đơn cũng là điều Tràng lo sợ nhất. Một lo âu, trăn trở mang đầy tính nhân
bản, nhân văn trong nhân vật.

e, Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.

Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ
chín chắn. Nhà văn đã mang đến cho người đọc hơi thở mới cho Tràng sau đêm
tân hôn. Tràng thức dậy, đầu tiên đó là một cảm giác dễ chịu "Trong người êm
ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra". Đó là tâm trạng lâng lâng trong
hạnh phúc. Việc Tràng có vợ thì có khác gì một giấc mơ. Tràng nhận thấy xung
quanh mình có thứ gì vừa thay đổi, mới mẻ, khác lạ: Nhà cửa, sân bãi được quét
tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng, quần áo được thu dọn, hai cái ang đã được đổ
đầy nước… Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi
nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương,
một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng "Bỗng nhiên hắn
thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che
nắng". Không hiểu sao khi đọc những câu văn, những dòng trải lòng của nhân
vật hay cũng chính là của tác giả cứ làm tôi nhớ đến những câu thơ trong bài thơ
“Đợi” của Vũ Quần Phương:

Anh đứng trên cầu đợi em

Đứng một ngày đất lạ thành quen

Đứng một đời đất quen thành lạ

Nước chảy... kìa em, anh đợi em.

Ngôi nhà của Tràng đã sống bao ngày, hôm nay khi Tràng nhìn nó qua lăng
kính tình yêu hắn bỗng nhiên thấy nó vừa lạ lẫm, vừa thân quen như Chế Lan
Viên từng nói: Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương. Tình yêu chính là chất keo
gắn kết của các thành viên trong gia đình để Tràng thêm yêu thương và gắn bó
với cái nhà của hắn. Để rồi Tràng khẳng định một điều hoàn toàn mới mẻ: Hắn
đã có một gia đình. Hai từ gia đình ở đây cần được hiểu theo nghĩa trọn vẹn và
đầy đủ nhất. Trước đây Tràng và mẹ vẫn sống trong ngôi nhà này nhưng từ sáng
đến tối không hề gặp mặt. Ngôi nhà như một chỗ trú chân, không ai quan tâm
ai. Nhưng giờ đây khi Tràng đã có vợ thì có sợi dây vô hình gắn kết các thành
viên trong gia đình. Và đó mới là gia đình thật sự. Gia đình ai cũng có, nhưng
gia đình như tổ ấm thì không nên nhà văn để cho Tràng khẳng định lại: Cái nhà
như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là tổ ấm của hạnh phúc chứ không phải cái
tổ lạnh băng không tình cảm. Vì thế nên Tràng ý thức được trách nhiệm của
mình khi nhìn về tương lai: Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Điều đó sẽ
càng làm tăng thêm không khí ấm cúng của một gia đình. Gia đình đấy cần một
trụ cột, và Tràng sẽ làm trụ cột, làm chỗ dựa và có bổn phận lo lắng cho vợ con
sau này. Từ ý thức, trách nhiệm dâng cao đã thôi thúc Tràng bắt tay vào hành
động: xăm xăm chạy ra sân, muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn
nhà. Vậy là Tràng đã trưởng thành, một người đàn ông với vai trò trụ cột gia
đình. Có ý thức, trách nhiệm. Luôn muốn làm tròn bổn phận của mình.

Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã quan
tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi thay. Cái ao đời bằng
phẳng của Tràng và mẹ vẫn sống cho qua ngày, nay bỗng thị bước vào như ném
một viên sỏi, sóng sánh, đổi thay thấu đáy. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình
vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có
đối với Tràng xưa nay bởi trước kia Tràng sống rất nông cạn và hời hợt, không
nghĩ sâu sắc một điều gì, ngay cả việc lấy vợ. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra
cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để cướp kho thóc
của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ
và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới... Phải chăng Tràng
đã thức tỉnh, đã hiểu được chân giá trị của sự sống: Khi cái đói, cái chết còn kề
cận thì hạnh phúc là thứ mong manh, khó nắm giữ, nên để hạnh phúc ấy trọn
vẹn thì đầu tiên phải tìm về được với sự sống chân chính. Và chỉ có cách mạng,
đến với cách mạng thì con người mới tìm ra lối thoát cho cuộc đời mình. Giá trị
nhân đạo là khi tác giả mở ra con đường sống cho những con người đang đứng
bên bờ vực của cái chết. Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những
bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những
người ngụ cư vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết
thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người
nghèo đói vùng lên dưới lá cờ đỏ đang phấp phới tung bay.

3.Số phận:

Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám.
Khi thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ như con trai lão Hạc, phẫn chí mà bỏ đi
làm mộ phu. Còn như Tràng, trong nạn đói lại nhặt được vợ nhưng niềm hạnh
phúc đan xen với lo âu, sự sống lại cần kề với cái chết. Cuộc đời của những
người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội
sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi
đó, nhưng cuộc sống đã hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với
cách mạng tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi. Họ sẽ đến với
chân trời tự do làm chủ cuộc đời và nắm giữ được hạnh phúc.

4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn

Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành
động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh
chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động, khi hãnh diện
cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy
theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa
vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng
ngày, chỉ còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết
ngượng nghiụ, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.

3.Kết bài.

Có lẽ đọc xong tác phẩm, khi gấp lại trang truyện ta vẫn hình dung cái lưng to
bè như lưng gấu, nhưng không phải với bước chân nặng nề của anh cu Tràng
như đầu thiên truyện. Sức ám ảnh của nhân vật này chính là khát khao sự sống,
khao khát đổi thay. Tràng sẽ hòa vào dòng người theo cách mạng đi tìm ánh
sáng cho cuộc đời tăm tối của chính mình. Hình ảnh ấy cứ gieo vào lòng người
đọc một niềm tin, niềm vui bất tận.

You might also like