You are on page 1of 19

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

MỞ BÀI: Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của nền văn học
Việt Nam thời kì đổi mới. Ở giai đoạn trước năm 1975, ngòi bút của ông mang đậm khuynh
hướng lãng mạn, sử thi. Sau năm 1975, những sáng tác của Nguyễn Minh Châu thiên về cảm
hứng thế sự đời thường với những vấn đề đạo đức, triết lí nhân sinh. Trong đó, truyện ngắn
“CTNX” là một sáng tác tiêu biểu của tác giả ở giai đoạn thứ hai. Nổi bật lên trong tác phẩm là
đoạn trích….
Truyện ngắn “CTNX” được viết vào năm 1983. Lúc đầu được in trong tập truyện “bến quê”,
sau đó được in trong tập “CTNC” năm 1987. Đây là truyện ngắn rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận
đời sống theo góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn thứ hai. Trong tác phẩm này nhà văn đã để
cho nhân vật Phùng phát hiện ra vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trong buổi sáng mờ sương,
cùng với đó là những nghịch lí trớ trêu của gia đình người đàn bà làng chài, qua đó thể hiện
những chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời.

 Phát hiện một: (lúc bấy giờ…vừa mang lại) (phần đầu đoạn trích) bức tranh thiên
nhiên hoàn mĩ với vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trong buổi sáng mờ sương:

- Phùng là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh nhưng đồng thời cũng từng là một người lính đã
từng chiến đấu tại vùng ven biển miền Trung này.
- Theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã đi cất công đi hàng trăm cây số để trở về vùng
đất này để có thể chụp một bức ảnh với chủ đề thuyền và biển cho bộ lịch năm sau.
 Từ đây ta có thể thấy Phùng hiện lên là một người gắn bó với mảnh đất ven biển miền
Trung này, là một người gắn với những vẻ đẹp của quê hương. Nếu thời chiến, anh là
một người lính cầm súng để bảo vệ quê hương, thì trong thời bình anh trở thành một
người nghệ sĩ cầm máy ảnh ghi lại những khung cảnh tuyệt đẹp của quê hương.
- Sau nhiều ngày kiên nhẫn “phục kích”, trong một buổi sáng tờ mờ sương, Phùng đã phát
hiện ra một “cảnh đắt trời cho”, một cảnh đẹp vô cùng đắt giá mà cả cuộc đời cầm máy
của anh chưa bao giờ có được, một khung cảnh có một không hai trên đời.
 Bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa hiện lên tuyệt đẹp với hai màu sắc. Đó chính là màu
trắng sữa, màu trắng tinh sương của mây, của nền trời hoà cùng với đôi chút ửng
hồng của nắng sớm buổi sớm mai tạo nên một khung cảnh “mũi thuyền mơ hồ loè
nhoè vào bầu sương mù trắng như pha sữa có đôi chút màu hồng hồng do ánh
mặt trời chiếu vào”. => những màu sắc ấy đã tô điểm cho bức ảnh càng trở nên
tuyệt đẹp, nên thơ, nên hoạ.
 Đường nét trong bức ảnh hiện lên với hình ảnh mũi thuyền khum khum in vào nền
trời trắng sữa pha chút ửng hồng =>làm cho khung cảnh như mơ, như thực, mờ mờ ảo
ảo.
 Trên chiếc mui thuyền khum khum xuất hiện “vài bóng người lớn và đứa trẻ ngồi
im phăng phắc trên tượng”
 Tất cả những khung cảnh ấy được nhiếp ảnh gia nhìn qua “những cái mắt lưới và
tấm lưới nằm giữa hai gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con
dơi”
 Khung cảnh này đẹp đến nỗi Phùng ví nó như “một bức tranh mực tàu của một
danh hoạ thời cổ” => Phùng đang được chứng kiến một khung cảnh đắt giá mà
dường như chính nghệ sĩ thiên nhiên đã tạo ra để giành riêng cho Phùng thưởng thức
 Cảnh sắc ấy đúng là có một không hai, kì diệu, mờ mờ ảo ảo tưởng chừng như ảo ảnh.
Từ không gian mênh mông của biển cho đến con người; từ màu sắc cho đến ánh sáng,
đường nét tất cả đều hoà quyện với nhau một cách hài hoà và tinh tế. Một vẻ đẹp “đơn
giản và toàn bích”
- Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc sống đời thường, người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp
bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài. Sau nhiều ngày kiên nhẫn “phục kích”
 Con người trong khung cảnh chết chóc này được tác giả miêu tả hết sức chân thực.
Người sống thì “lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma”, “nằm
ngổn ngang khắp lều chợ”. Không chỉ có một mà khắp cả không gian xóm ngụ cư ấy
đều đang bị vùi trong cái đói. Con người chỉ còn lại những cái bóng vật vờ cố gắng giành
giật sự sống, họ phải đi kháp nơi để tìm lấy miếng ăn, nhưng họ hoàn toàn không biết đi
đâu vì trong hoàn cảnh này xung quanh họ cũng chỉ có những bi kịch như vậy mà thôi.
Dường như họ chỉ đang cố duy trì sự sống để chờ đợi cái chết đang cận kề mà thôi. Còn
những người chết thì “nằm còng queo bên đường”, “mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi
gây của xác người” bốc lên nồng nặc, vất vưởng trong không khí, đặc quánh lại, như
muốn giam hãm, cầm tù con người trong cái chết. Qua đây ta có thể thấy rõ ranh giới vô
cùng mong manh giữa sự sống và cái chết, người sống thì sống chung với xác chết, xác
chết thì nằm ngổn ngang lẫn chung với rác rưởi. Chỉ với vài dòng văn ngắn ngủi mà nhà
văn Kim Lân đã khắc hoạ ra một khung cảnh gần như cạn kiệt sự sống đầy day dứt, ám
ảnh tạo cho người đọc một sự thương cảm, lo lắng khôn nguôi cho số phận của những
con người nghèo khổ ấy.
 Sự khủng khiếp của nạn đói còn thể hiện qua khung cảnh xung quanh nơi đây. Một
buổi chiều tràn đầy tử khí, “tối sầm lại vì đói khát”. Khung cảnh ấy như báo trước một
tương laiđe đầy u ám, bóng tối bao phủ khắp nơi không thể thoát ra được. Khung cảnh
nạn đói được thể hiện qua màu da xanh xám của da người sắp chết, màu đen của đàn quạ
trên mấy cây gạo đang chực chờ cái chết đến với những con người đói khát. Đàn quạ ấy
cứ “gào lên từng hồi thê thiết” ai oán, âm thanh ấy phát ra tựa như tiếng khóc tỉ tê ai
oan của những gia đình mất đi người thân. Xóm ngụ cư chìm trong không khí ghê rợn,
không gian hiện lên chơ vơ xơ xác. Ngã tư xóm chợ vốn phải đông vui trong nạn đói
cũng trở nên “xơ xác, heo hút”, những dãy phố thì “úp sụp, tối om, không nhà nào có
ánh đèn, lửa”. Tất cả đều chìm trong bóng tối, ảm đạm, tiêu điều, cái đói đã len lỏi vào
từng người, từng nhà, nó lan tràn như một dịch bệnh và phô bày sức mạnh huỷ diệt vô
cùng khủng khiếp.
 Nhà văn Kim Lân không viết ra những lời kết tội trực tiếp nhưng những dòng văn này tựa
như một bản cáo trạng đầy đanh thép vạch trần bản chất vô nhân tính của bọn bè lũ cướp
nước, biết bao sinh mạng của đồng bào đã ra đi trong nạn đói do chính bọn chúng gây ra.
Chủ tịch HCM cũng từng nhắc đến nạn đói khủng khiếp này trong bản Tuyên ngôn độc
lập: “kết quả là từ cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn
2 triệu đồng bào ta chết đói”.
+ Tràng dẫn vợ về ra mắt
 Thế nhưng giữa khung cảnh u ám, đen tối, ngổn ngang kẻ sống người chết ấy, có hai
nhân vật lại xuất hiện với nụ cười “tủm tỉm” trên môi, là Tràng và Thị. Đó là khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc đã toát lên ngay trong bối cảnh tăm tối nhất, đau đớn nhất. Cả
xã hội lúc bấy giờ như một cái đám ma khổng lồ và Tràng đã dẫn vợ về trong buổi chiều
đau thương đó. Tràng “nhặt” được vợ. Đám cưới của họ xuất hiện trong không gian bi
thảm của nạn đói. Do tình cơ mà Tràng và Thị, hai than phận “bèo bọt” đã trôi dạt vào
nhau mà trở thành một gia đình, thắp lên một ngọn lửa hạnh phúc toả ra ánh sáng của
niềm tin, của tình thương. Qua đó làm ấm hơn, đẹp thêm bức tranh tình người.
 Tràng dẫn vợ về trước sự ngạc nhiên, tò mò của người dân xóm ngụ cư. Bằng cái nhìn
tinh tế của mình nhà văn Kim Lân đã diễn tả rõ nét những biến đổi trong tâm trạng của
Tràng. Trên khuôn mặt Tràng in rõ vẻ “phớn phở” mừng vui. Tràng vui vì giờ đây anh
đã có vợ, vui vì anh đã làm được điều mà anh hằng mong ước. Niềm vui ấy được thể hiện
rõ qua nụ cười “tủm tỉm” trên môi, niềm vui lớn lao đang dần lan toả trong tâm hồn
Tràng. Hai mắt Tràng “lấp lánh” ánh sáng của sự hạnh phúc. Ánh sáng ấy như làm lu
mờ đi bóng tối đang ngự trị nơi đây, là ánh sáng của khát vọng sống. Nó hoàn toàn trái
ngược với khung cảnh thê lương, ảm đạm của xóm ngụ cư. Tràng “vênh lên tự đắc”,
sung sướng vì đã lấy được vợ, anh chìm trong cảm giác lâng lâng, mãn nguyện của niềm
vui đơn sơ.
 Và dường như việc Tràng có vợ đã làm anh trưởng thành hơn rất nhiều. Trước đây anh
thường nô đùa với những đứa trẻ thì giờ đây khi đứng trước những con mắt tò mò của
bọn trẻ “Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng”. Anh đã ý
thức được rằng mình phải tách biệt ra với đám trẻ. Nhà văn Kim Lân đã vô cùng tinh tế
khi diễn tả cách cư xử của Tràng với bọn trẻ trêu đừa, để Tràng mắng yêu kũ trẻ “bố
ranh!”. Anh chàng tưởng chừng như là một người thô kệch, ngờ nghệch này cũng khéo
léo biết mấy để có thể đưa vợ về nhà trước những cặp mắt tò mò và những lời trêu đùa.
 Đặc biệt, khi người dân xóm ngụ cư tỏ ra ái ngại khi anh Tràng đưa Thị về “ôi chao!
Giời đất này con rước cái của nợ đời về. biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì
này không?” Tràng không hề tỏ ra lo sợ về tương lai. Trong tim Tràng giờ đây chỉ còn
đốm lửa hạnh phúc mới vừa nhen nhóm. Dường như nhữnh âu lo, nghịch cảnh đầy khắc
nghiệt của cuộc sống cũng không thể căn cản con người ta hướng đến những khát khao
hạnh phúc, một mái ấm gia đình tràn đầy tình yêu thương, không có gì có thể ngăn nổi
niềm tin, niềm hi vọng của họ vào tương lai. Đó cũng chihs là giá trị nhân văn đầy xúc
động mà nhà văn Kim Lân đx gửi gắm trong tác phẩm này.
 Việc có được vợ khiến Tràng trở nên hãnh diện vô cùng với mọi người trong xóm ngụ cư
và ngay cả bản thân anh cũng không giấu nổi niềm vui, niềm hạnh phúc của mình. Đặc
biệt là khi anh thấy sự ngượng nghịu, chân nọ bước díu vào cả chân kia của Thị “hắn
cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với
mình”
+ Ngoài việc miêu tả tâm lý của Tràng, nhà văn Kim Lân cũng rất thành công khi diễn
tả tinh tế tâm lí, tính cách của Mị.
 Người đàn bà vốn chanh chua, đanh đá ấy giờ đây vì lâm vào cảnh cùng đường mà phải
theo không Tràng, trong lòng Thị vừa cảm thấy tủi phận, vừa thấy e dè, ngượng ngập,
“Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng
che khuất đi nửa mặt”. Những bước chân của Mị bây giờ lại vô cùng “rón rén, e
thẹn”, khi có người nhìn thì “chân nọ díu cả vào chân kia”. Dường như ánh
sáng của hạnh phúc đã làm thay đổi hoàn toàn một con người. từ một người đanh
đá, chanh chua Thị đã trở thành một người vợ dịu dàng, biết ngại ngùng. Thị trở
về với vẻ đẹp vốn có của mình. Có lẽ cái nét cong cớn, chanh chua, đanh đá chỉ là
vỏ bọc bên ngoài che đi sự tủi hổ khi sấn sổ đi xin ăn, cô cố làm cho mình trở nên
đanh đá để vơi bớt đi sự xấu hổ của mình. Kim Lân đã gợi cho chúng ta một sự
thương cảm cho hoàn cảnh của một người phụ nữ mong manh, vì hoàn cảnh khắc
nghiệt mà tự biến mình trở nên xấu xí đi. Nhưng trong giây phút Thị trở về cùng
Tràng, người phụ nữ ấy lại phảng phất hình ảnh người con dâu mới về nhà
chồng nữ tính, dịu hiền.
 Thị cũng như Tràng, cũng mong muốn một mái ấm gia đình hạnh phúc để nương
tựa, mặc dù ý nghĩ đấy không phải xuất hiện ngay từ đầu. Thị tự nguyện về với
Tràng cũng chir vì cái đói. Người đàn bà ấy theo Tràng cũng chỉ vì mong muốn có
một nơi nương tựa trong hoàn cảnh đói kém, không hề có biểu hiện của tình yêu
hay khát khao hạnh phúc. Nhưng bằng sự tinh tế của mình, Kim Lân đã khám phá
ra nét tiềm ẩn ttrong tâm hồn của người vợ nhặt, đó chính là niềm khát khao hạnh
phúc.
+ Đặc biệt trong hoàn cảnh đấy không chỉ có hai nhân vật chính nhìn thấy được ánh
sáng hạnh phúc, mà chính cả những người dân xóm ngụ cư cũng “rạng rỡ hẳn lên”,
“như có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống”. Tràng chỉ đưa một người phụ nữ
về nhưng ai cũng “hiểu được đôi phần”, đó là sự đồng cảm giữa những người xa lạ đồng
cảnh ngộ, không cần phải giới thiệu, chỉ cần thấy thôi họ cũng hiểu và cùng chia vui với
Tràng. Hạnh phúc của Tràng như làm bừng sáng lên khuôn mặt của họ, làm bừng sáng lên
niềm yêu thương trong xóm ngụ cư vốn như nhà mồ hoang lạnh cùng với những sinh linh
đang tuyệt vọng trong cơn đói khát. Chính tình yêu và khát khao sống đã trở thành ngọn đèn
xua đuổi tà khí chết chóc xung quanh con người.
 Đoạn trích đã thể hiện một cách chân thực nhất bức tranh khủng khiếp của nạn
đói năm 1945, đồng thời qua đoạn trích ta cũng thấy được trong đó khát khao
mãnh liệt của con người về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Cuộc sống đói
nghèo chỉ có thể làm teo tóp phần thể xác chứ không thể hủy diệt được tình yêu
thương đồng loại, không thể dập tắt ngọn lửa khát vọng sống trong mỗi cá nhân.
Hiện thực đó chỉ là phông nền, là hoàn cảnh để vẻ đẹp của tâm hồn con người,
tình yêu thương của những con người dành cho nhau tỏa sáng đẹp đẽ. Đối với mỗi
độc giả sau khi đọc qua trích đoạn này không khỏi xót thương cho một ký ức
đau buồn mà đất nước đã từng trải qua, đồng thời cũng là sự khâm phục về khát
vọng mãnh liệt của con người trong cảnh khốn cùng ấy.
Đoạn 2: “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà…thành vợ thành chồng”
(đây là đoạn trung tâm của tác phẩm, sau khi Tràng và người vợ nhặt được một cách
tình cờ bất ngờ thành kết nghĩa trăm năm)
 Ngay từ đâu ta có thể thấy Thị theo Tràng không bởi vì tình yêu mà là vì miếng ăn. Chỉ
bằng vài câu hò bâng quơ và bốn bát bánh đúc mà Thị đã theo Tràng về làm vợ. Hành
động đấy của Thị chỉ xuất phát từ khát khao sống của Thị, bởi nếu không theo Tràng về
thì tiếp theo Thị cũng sẽ trở thành một trong vô số cái xác người chết vì đói ngoài kia.
Nhưng xui rủi sao khi gia cảnh của Tràng cũng không tốt hơn là bao. Đưa mắt quan sát
hết khung cảnh nhà Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, “tấm phiên rách”, “những niêu bát, đống áo vứt bừa bộn
cả trên giường, dưới đất”. Khung cảnh hoang tàn, vắng lặng đã cho ta thấy hình ảnh
một căn nhà thảm hại, đơn sơ, lạnh lẽo. rúm ró. Căn nhà ấy, mảnh vườn ấy như nhắc nhở
Thị rằng cái đói đã có sẵn ở đây rồi, chỉ chực chờ đẩy mẹ con Tràng đến tình cảnh khốn
cùng giống như Thị trong nay mai mà thôi. Bức tranh cảnh vật ấy in đậm dấu vết của nạn
đói 1945. Trong cái đói, cái nghèo, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, con người không
còn có thể chăm nom cho căn nhà của mình được nữa, cứ mặc cho nó bừa bộn, bẩn thỉu.
Điều mà họ quan tâm nhất lúc này là làm cách nào có thể tồn tại, làm cách nào có thể
thoát khỏi nạn đói.
+ Nhân vật Thị:
 Thị hiện lên là một người không tên không tuổi, không nơi ở chốn về mà chỉ hiện lên qua
ngoại hình in đậm sự khủng khiếp của nạn đói. Thị được miêu tả với ngoại hình tả tơi,
“tả tơi”, “mặt lưỡi cày xắm xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị là một thân phận bất
hạnh trôi dạt trong nạn đói. Chính nạn đói đáng sợ ấy đã khiến một người phụ nữ mỏng
manh phải đi tha hương cầu thực. Thị không biết phải đi đâu về đâu nhưng trong sâu
thẳm tâm hồn Thị luôn khao khát về một cuộc sống hạnh phúc. Thị là một nạn nhân của
nạn đói, là một người ở cùng đáy xã hội.
 Thị hiện lên với e thẹn, ngập ngừng khác hẳn với dáng vẻ chanh chua, đanh đá trước khi
theo không Tràng về làm vợ.
+ Thị “lẳng lặng theo hắn vào nhà…”, ẩn sau dáng vẻ ấy là một tâm hồn tràn đầy cảm xúc,
nỗi niềm của một cô dâu mới về nhà chồng. Đó là cảm xúc e ngại, lo lắng của một người phụ
nữ theo không một người đàn ông xa lạ, về một mái nhà xa lạ mà sau này nơi đó sẽ trở thành
mái ấm của mình.
+ Ngay cả khi được Tràng mời xuống ngồi trên giường, Thị cũng chỉ ngồi “mớm xuống
mép giường”, “hai tay ôm khư khư cái thúng”. Thị ngồi vô cùng khép nép, ý tứ, người
phụ nữ ấy dường như đã để hết lại những hành động chanh chua, cong cớn, sỗ sàng ở nơi đầu
tiên mà hai người gặp nhau, chỉ mang theo những nét nữ tính của mình. Người phụ nữa ấy
bỗng có chút “bần thần”, như thu mình lại trong căn nhà vốn dĩ đã rất nhỏ bé, chật hẹp thể
hiện biết bao nhiêu nỗi niềm băn khoăn vì không biết mình sẽ được đón nhận như thế nào,
không biết mình có được chấp nhận hay không, không biết mình có phải quay lại kiếp tha
hương cầu thực như trước kia hay không. Những câu hỏi ấy cứ liên tiếp xuất hiện trong đầu
Thị, dường như người phụ nữ ấy vẫn chưa thể tin được mình bỗng nhiên từ một người bơ vơ,
không nơi nương tựa lại có cho mình một gia đình để trở thành một người vợ, một người con
dâu.
 Thị hiện lên với vẻ thở dài đầy ưu tư, lo lắng:
+ Trước hoàn cảnh gia đình Tràng, Thị “đảo mắt nhìn xung quanh”, chỉ cần một ánh mắt là
có thể thấy được trọn vẹn sự nghèo khổ, Thị nhận ra rằng hoàn cảnh gia đình người chồng
này cũng không khá khẩm hơn Thị là bao, cũng là cuộc sống tạm bợ, khốn cùng, bấp bênh.
+ Nhìn vào căn nhà đơn sơ ấy, Thị “nén tiếng thở dài”. Tiếng thở dài ấy trước hết là sự thất
vọng tái tê trước hiện thực cuộc sống. Người phụ nữ ấy vốn hy vọng vào một cuộc sống tốt
đẹp hơn, bình an hơn, no đủ, ấm áp hơn cho tương lai nhưng hình ảnh hiện tại lại trái ngược
hoàn toàn với ước mong của Thị, giống hoàn toàn với quá khứ của Thị. Đó còn là tự thương
sâu sắc cho thân phận long đong, trôi dạt, cứ ngỡ mình đã tìm được chốn bình yên nhưng
chợt nhận ra lại là một tương lai mù mịt, tối tăm. Đây cũng là một nỗi buồn, nỗi niềm chua
xót vì ánh sáng vừa loé lên trước mắt đã vội lu mờ vì bóng tối trong căn nhà vắng teo. Buồn
là vậy, thất vọng là vậy nhưng Mị vẫn “nén” lại tiếng thở dài của mình, tuy đây chỉ là một chi
tiết nhỏ nhưng để lại rất nhiều ý nghĩa. Người phụ nữ cố gắng kiềm chế cảm xúc của mình để
không làm người đàn ông vừa cưu mang mình bị tổn thương. Tiếng thở dài không được thể
hiện ra ngoài mà nó được kìm nén trong tâm hồn, trĩu nặng trong tâm tư, là một tiếng than
thở trong im lặng, cho số phận của bản thân và cho hoàn cảnh của người đàn ông vừa đưa
mình về. Thị đã không bỏ đi mà sẵn sàng chấp nhận, đồng cảm sâu sắc với Tràng. Thị đến
nhà Tràng với hy vọng được nương tựa, che chở nhưng sẵn sàng ở lại với tâm thế cùng nhau
gánh vác, chia sẻ, đỡ đần những gánh nặng với Tràng, cùng nhau chống chọi lại với nạn đói.
 Người phụ nữ ấy mặc dù bị cái đói dày vò, biến thành một người xấu xí về ngoại hình với
gương mặt xám xịt, in hằn màu đen của sự đói khát, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn của
người phụ nữ vẫn chất chứa một vẻ đẹp cao cả. Là nạn nhân của cái đói nhưng Thị vẫn
sẵn sàng cùng gánh vác, chia sẻ với Tràng cũng là một nạn nhân của nạn đói. Điều này
không khỏi làm ta nhớ đến Mị và A Phủ, Mị có một số phận bi kịch, là con dâu gạt nợ
trong nhà thống lí Pá Tra, nhưng vẫn thương cảm và quyết định giải cứu A Phủ, cũng là
một nạn nhân của nhà thống lí.
+ Nhân vật Tràng:
 Tràng là dân xóm ngụ cư, hang ngày phải làm thuê kiếm sống. Ngoại hình anh hiện với
vẻ thô kệch, xấu xí. Căn nhà anh ở hiện lên với vẻ “vắng teo”, “rúm ró”, gợi lên một sự
nghèo khổ đến tột cùng. Mặc dù hoàn cảnh sống khó khan, cùng khổ nhưng anh vẫn luôn
ao ước cho mình một mái ấm hạnh phúc, có được một gia đình, một người cùng chia sẻ
tương lai. Khác hẳn với Thị ban đầu chỉ muốn thoát khỏi cái đói mà theo Tràng về nhà.
Đặc biệt, khi dẫn Thị về đến nhà, Tràng càng thể hiện rõ hơn dáng vẻ háo hức, hạnh phúc
của mình.
+ Tràng “xăm xăm bước vào”, đó là những bước chân của niềm vui và hạnh phúc, từng
bước chân đều mang theo nhiều vội vàng, háo hức mong chờ, nó như những bước chân chú
rể vừa đưa cô dâu nhỏ của mình về để bắt đầu một gia đình nhỏ.
+ Từng hành động của Tràng đều mang theo niềm vui của mình, Tràng “nhấc tấm phên
rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường và
dưới đất”, người đàn ông nhiều năm sống một mình không chăm lo cho nhà cửa nay lại lộ
vẻ mau mắn dọn dẹp, muốn cho Thị được cảm giác thoải mái nhất khi ở trong căn nhà. Nếu
trên đường Tràng chỉ “tủm tỉm cười một mình” thì bây giờ Tràng đã nở nụ cười trên môi,
Tràng vừa cười vừa giải thích cho cảnh gia đình bừa bộn: “không có người đàn bà, nhà cửa
thế đấy!”.
+ Tràng đã trở thành một người đàn ông biết quan tâm, “vỗ xuống giường đon đả”, thể hiện
thái độ vô cùng chăm sóc như muốn xoá nhoà đi khoảng cách giữa cả hai, vừa muốn lấy lòng
người vợ nhưng còn lúng túng và e ngại. Những lời nói trống không vang lên “ngồi đây”
như để xoá đi khoảng cách của cả hai nhưng dường như lại càng khiến khoảng cách trở nên
rõ hơn. Một loạt những cử chỉ của Tràng được tác giả miêu tả rất tinh tế “Tràng đứng tây
ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ”, “lấm lét bước vội mấy bước” đã khắc
hoạ rõ nét cho ta thấy sự thay đổi của Tràng từ một người ngờ nghệch, thô kệch đến khi gặp
được người vợ của mình lại trở nên nhạy cảm, khéo léo, biết quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho
vợ. Lời nói “sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết!”, vừa là lời nói vu vơ để giải
thích, trấn an người vợ vừa là lời nói để giúp chính mình bình tĩnh lại, là sự chờ đợi người
mẹ để tìm một sự giúp đỡ, một sự ủng hộ. Có lẽ Tràng cũng nhận ra được những băn khoăn,
trăn trở của Thị nên đã cố gắng kéo gần lại khoảng cách giữa mình và vợ. Trong lòng Tràng
tồn tại một nỗi sợ không biết từ đâu, có lẽ anh sợ Thị sẽ bỏ đi, sợ mình nói gì sai khiến Thị
không hài lòng, nhưng sâu trong nỗi sợ ấy vẫn là niềm khát khao hạnh phúc, là nỗi mong mỏi
về một mái ấm gia đình. Đó chính là niềm mơ ước thiết tha được nâng niu, được vun đắp,
được giữ gìn hạnh phúc nhỏ nhoi vừa mới đến trong cuộc đời mình.
+ Tràng mang theo những cảm xúc lẫn lộn, những cảm xúc ấy bắt đầu thì giây phút mà Thị
đồng ý theo Tràng trở về. Những mong chờ, háo hức, những lo lắng vu vơ của Tràng đều thể
hiện một sự quan tâm đặc biệt với Thị. Khi thấy Thị e dè, ngượng nghịu ngồi đấy, Tràng tự
nhủ: “quái sao nó lại buồn thế nhỉ?”, lời tự hỏi của Tràng thốt lên vô cùng cảm động, nỗi
buồn của người vợ đã cố nén lại trong sâu thẳm tâm tư nhưng Tràng vẫn nhạy cảm phát hiện
được và cùng chia sẻ, băn khoăn. Niềm háo hức một lần nữa trở thành niềm vui, nụ cười tủm
tỉm lại một lần xuất hiện trở lại trên gương mặt của Tràng, nụ cười này luôn hiện diện trên
môi Tràng từ buổi chiều đưa người phụ nữ ấy về nhà. Đó là nụ cười của hạnh phúc, vui
sướng gập tràn trong tâm hồn, lan toả trên cả gương mặt. Ngay cả chính anh cũng không thể
ngờ được mình đã có một người vợ dễ dàng như vậy, không thể ngờ được niềm khát khao
bấy lâu nay của mình đã thành hiện thực như vậy.
 Đây là đoạn trích khắc hoạ sinh động, cảm động hình ảnh của hai nhân vật được đặt
trong tình cảnh éo le, một bên là người chồng nhặt được vợ, một bên là người vợ
theo không chồng. qua đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của tâm hồn và khát vọng của
những nghèo khổ từ tận đáy cùng của xã hội.
Đoạn 3: “ít lâu nay… cùng đẩy xe bò về”
(vị trí, nôi dung: nằm ở phần giữa truyện, đoạn văn là dòng hồi tưởng của Tràng trong
một lần “xe thóc liên đoàn lên tỉnh” thì tình cờ gặp được Thị. Nhờ một câu bông đàu và
vài ba bát bát đúc mà Tràng đã có vợ. Đoạn văn vừa hài hước, vừa chua xót diễn tả sâu
sắc tâm trạng của Thị và Tràng sau hai lần gặp gỡ).
1. Nhân vật Tràng
 Lần gặp gỡ thứ nhất:
Tràng là người lao động thiệt thòi, nghèo khổ đến mức cái tên cũng gợi sự lam lũ, vất vả.
Đó là con người được tạo hóa đẽo gọt quá sơ sài về ngoại hình và tính cách. Hắn có vẻ
ngờ nghệch, vừa đi vừa lảm nhảm những điều hắn nghĩ... Tràng là dân ngụ cư với thân
phận bèo bọt, sống tạm, nghề nghiệp vất vưởng, gia cảnh nghèo khó, mẹ góa con côi nên
đã nhiều tuổi mà chưa có hạnh phúc gia đình.
+ Tràng làm nghề kéo xe bò thuê lên tỉnh để kiếm sống. Trong một lần vì mệt quá mà anh cất
lên câu hò.
“muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì”
Tràng hò câu hò không hề có chủ đích chòng ghẹo ai, chỉ muốn xua đi mệt mỏi trong người.
Nhưng không ngờ, đó là câu hò khiến nhân vật Thị chú ý. Sau câu hò vu vơ của Tràng, anh
đã được một người con gái “ton ton chạy lại đẩy xe” và “liếc mắt, cười tít”. Chính vì đùa vui
nên anh không hề có ý định giữ đúng thoả thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh
phúc khi bắt gặp cái “liếc mắt, cười tít” của thị bởi “từ cha sinh mẹ để đến giờ, chưa có
người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế”. Dường như câu hò đã trở thành cầu nối,
mở đầu cho cuộc gặp gỡ giữa hai con người cùng khổ trong nạn đói 1945.
 Lần thứ hai gặp gỡ: Từ câu đùa giỡn, Tràng đã đánh đổi tất cả để có được hạnh phúc.
+ Trong lần thứ hai, khi Tràng đã trả hàng xong, đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất
ngờ có người đàn bà “sầm sập chạy đến”, “sưng sỉa nói: “Điêu, người thế mà điêu!””.
Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình bởi thị đói rách và xác xơ
quá. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân
cách: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” .Thấy người đàn bà đói, rách thảm hại,
Tràng động lòng thương. Anh sẵn sàng cho thị ăn dù cũng chẳng dư dật gì. Có ai ngờ được
rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Tràng mời người
đàn bà kia ăn, không chỉ cho ăn mà còn cho ăn rất nhiều: “bốn bát bánh đúc”. Đó chính là
lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hay
chòng ghẹo. Tràng đã nhận ra, thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với khát vọng sống của người
phụ nữ mà anh mới chỉ gặp 1 lần. Khi đồng cảm với khát vọng sống của 1 người không hề
quen biết tức là trong tâm hồn Tràng cũng có 1 khát vọng sống mãnh liệt, ánh sáng của khát
vọng sống trong tâm hồn Tràng đã giúp anh nhận ra, trân trọng và sẵn sàng giúp đỡ người
phụ nữ đang ở giữa ranh giới của sự sống và cái chết.
+ Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân
hàng lên xe rồi cùng về”. Phía sau câu nói tưởng là đùa vui bật ra từ người đàn ông nghèo
khổ ấy là lời nói thật từ khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn Tràng, là câu nói được cất lên từ
khát vọng hạnh phúc âm thầm mà sâu sắc trong tâm hồn, là khát vọng cháy bỏng có thật về
một mái nhà hạnh phúc, về tổ ấm gia đình. Câu nói kết thúc bằng dấu chấm chứ không phải
là dấu hỏi chấm, nếu bỏ từ “nói đùa” đi, câu nói ấy giống như 1 lời đề nghị thẳng thắn. Nếu
trong những câu nói của Thị chứa những từ “ăn” liên tiếp thì trong câu nói của Tràng, ta
lại thấy được sự lặp lại của từ “về”, 1 câu với 2 vế đã hiện lên sự sánh đôi “với tớ”, “cùng
về”, đó là sự sum họp, chung đường chung lối. Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Nhân vật
Tràng đã nhanh chóng nhìn vào thực tế và lo lắng, sợ hãi cho cuộc sống, phảng phất lo sợ về
cái đói và cái chết “mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả
biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất lại là thời đói kém
như thế này, một nỗi lo rất thực tế. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc
đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh tặc lưỡi “Chậc, kệ!” Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã
bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.
Cái “tặc lưỡi” không phải là sự phó mặc liều lĩnh, dễ dãi mà đó là tình thương yêu của anh
với người cùng khổ. Việc hai người đến với nhau bề ngoài có vẻ ngẫu nhiên nhưng bên trong
lại là tất nhiên. Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng
cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và biết đến hạnh phúc. Anh chấp nhận đương đầu với
những khó khăn hiện tại và cả sắp tới. Phải chăng đằng sau cái quyết định có vẻ tầm phơ tầm
phào đối với một việc thuộc loại trọng đại bậc nhất trong đời, Tràng đã dám đánh cược cuộc
đời mình cùng cái đói, cái chết? Niềm khao khát hạnh phúc gia đình mạnh hơn tất cả. Dù
Tràng lo ngại cho cuộc sống sau này nhưng anh vẫn cương quyết mạnh mẽ bảo vệ hạnh phúc
mới vừa nảy mầm. Nhà văn đã diễn tả thật chính xác và cảm động niềm hạnh phúc đang diễn
ra trong tâm lý của Tràng. Qua đây có lẽ nhà văn Kim Lân muốn gieo vào tâm hồn bạn đọc
cái suy nghĩ: sự đói khát có thể khiến người ta chết chứ không thể làm giảm giá trị tình
người.
+ Khát vọng hạnh phúc thay đổi Tràng thành 1 người biết quan tâm chăm sóc cho người vợ
mới của mình, Tràng “mua cho Thị cái thúng con” rồi họ cùng nhau ăn 1 bữa no nê trước khi
về. Vì muốn người vợ cũng vui vẻ hạnh phúc, cũng không đến mức phải tay không về nhà
chồng nên Tràng sẵn sàng mua cho Thị đồ, cho Thị ăn thật no, đó là sự chở che, bảo vệ người
vợ của mình. Với những hành động này, từ 1 người phụ nữ xa lạ Thị đã trở thành người vợ
được Tràng yêu thương, với khát vọng hạnh phúc lớn lao 2 thân phận khó khăn trong cuộc
đời quyết định sống chung 1 nhà, xây dựng 1 mái ấm để cùng sẻ chia những vất vả lo toan.
Hạnh phúc giản dị, đơn sơ là thế nhưng trong hoàn cảnh của Tràng, anh đâu dễ đã có được?
Vì thế khi có nó Tràng rất trân trọng, nâng niu. Chi tiết này đồng thời cùng cho thấy Tràng là
một người đàn ông phóng khoáng, biết quan tâm đến người khác – người bạn đời. Sính lễ
chẳng có gì to tát nhưng hành động của Tràng cho thấy anh rất nghiêm túc, biết nghĩ với một
trái tim nhân hậu. Phải chăng niềm khao khát về một mái ấm thực sự luôn âm ỉ cháy từ lâu
trong Tràng, nhưng vì cuộc sống khắc nghiệt đã bóp nghẹt nó lại nên bây giờ khi có cơ hội tỏ
bày thì nó được thể hiện một cách vô cùng tự nhiên, tinh tế đến thế. Tràng trân trọng hạnh
phúc mà mình có được. Và hạnh phúc giống như làn gió mát cuốn đi tất cả những ê chề, lo
lắng, tăm tối làm Tràng quên đi những ngặt nghèo của cuộc sống mưu sinh.

2. Người vợ nhặt:
Người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói năm 1945. Thị là người vô gia cư, đến cái tên
cũng chẳng có. Người vợ này không tên, không tuổi, không gốc tích... Trong suốt trang
sách chỉ là cô ả, người đàn bà...vô danh, vô nghĩa tựa như một vật gì đó rơi vãi ngoài
đường để Tràng có thể nhặt đem về làm vợ. Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng
tính cách của một con người năm đói.
 Lần gặp thứ nhất:
+ Ngồi lẫn trong đám con gái chờ để “nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến
thì làm” nhằm duy trì sự sống đang thoi thóp. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là người
phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen
đẩy xe bò cho Tràng. Khi nghe Tràng hò một câu cho đỡ nhọc, thị chạy lại đẩy xe với hi
vọng được ăn. Nhưng lần đó, anh cu Tràng không giữ đúng thỏa thuận của câu hò.
 Lần gặp thứ 2:
 Khát vọng sống của Thị đã được thể hiện ra vô cùng mãnh liệt trong lần thứ hai
gặp lại Tràng.
+ Thị “sầm sập chạy đến”, trái ngược với vẻ ngoài xanh xao yếu ớt, ốm o, là nạn nhân của cái
đói đã tiêu hao thể xác, chữ “sầm sập” lại gợi lên hình ảnh Thị mang 1 sức mạnh to lớn. Đó là
sức mạnh của niềm hi vọng, của sự trông mong chờ đợi. Trong mắt Thị Tràng là người quen, 1
niềm hi vọng dẫu là rất mong manh. Thị coi Tràng như 1 sự bám víu duy nhất để tìm sự sống. Có
lẽ Thị đã trông mong, chờ đợi khẩn thiết sự xuất hiện của Tràng nên khi gặp lại lần nữa, Thị đã
dùng toàn bộ sức lực của mình chạy đến chỗ Tràng.
+ Cái đói hoành hành đã vắt kiệt sức sống trên gương mặt Thị, khiến nó “xám xịt chỉ còn thấy 2
con mắt”. Nếu gương mặt đen đi là dấu ấn của cái đói cái chết thì 2 con mắt sáng lên lại cho ta
thấy khát vọng sống mãnh liệt, nó làm ta nhớ đến 2 dòng nước mắt “lấp lánh” của nhân vật A
Phủ thể hiện niềm khát khao được sống dù nhân vật đã bị dày vò hết mức, dù cái chết có đang
rình rập. Thị có thể bị cái đói làm cho biến đổi ngoại hình, tước đoạt nhan sắc nhưng khát vọng
sống mãnh liệt vẫn tỏa ra từ đôi mắt, cảnh ngộ càng thê thảm khát vọng sống lại càng mạnh mẽ
quật cường.
+ Cái đói không chỉ làm thay đổi dáng vẻ bên ngoài mà còn ảnh hưởng cả những cử chỉ hành
động của Thị. Thị không còn chút nữ tình mà thay vào đó là vẻ sỗ sàng chỏng lỏn. Không chỉ
“sầm sập chạy đến”, Thị còn “sưng sỉa nói”, “cong cớn”, có lẽ Thị cũng biết rằng sự gắn bó,
quen biết giữa mình và Tràng không thể nói là vừa gặp đã nhận ra ngay mà hoàn toàn có thể là 2
người dưng nước lã, càng ý thức được sự xa lạ trong mối quan hệ, Thị càng cảm thấy mình cần
phải gắn bó với Tràng. Thị đang gồng mình lên, cố mượn sự đanh đá để tỏ ra đã quen, đã thân
với Tràng để xin được 1 bữa ăn trong nạn đói. Có thể nói thái độ xấu xí của Thị xuất phát từ khát
vọng xin 1 bữa ăn để duy trì sự sống.
 Khát vọng sống thể hiện qua sự đòi ăn, xin ăn táo bạo. Trong hoàn cảnh này, người
phụ nữ có thể xin ăn nhưng lại quyết định đặt Tràng vào tình huống không thể từ
chối, Thị đòi ăn. Thị nhất quyết đặt mình trong vị thế là 1 người đòi ăn, đó là 1 sự vô
lý đối với người khác nhưng lại là sự có lý với khát vọng sống đang thôi thúc trong
Thị.
+ 3 từ “ăn” xuất hiện liên tiếp chỉ trong 1 câu nói của Thị “Có ăn thì ăn, chả ăn giầu”, đó là
tiếng nói từ niềm mong mỏi được sống, xuất hiện liên tục để thể hiện tâm trạng đầy vội vàng
cuống quýt đến hấp tấp, là 1 sự đòi hỏi, 1 sự gợi ý đến sấn sổ, 1 sự nhấn mạnh không thể rõ ràng
hơn về mục đích của bản thân. Người đọc có thể cảm nhận được sự kiên quyết, cuộc trò chuyện
giữa Tràng và Thị chỉ xoay quanh vấn đề ăn mà thôi. Thế nhưng nhìn sâu xa hơn, ta lại thấy
được rằng sự khao khát miếng ăn thực chất là khao khát duy trì sự sống, khao khát được sống
dù chỉ thêm 1 bữa ăn, thêm 1 khoảng thời gian ngắn.
+ Một lần nữa hình ảnh đôi mắt xuất hiện, đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, nó thể hiện được hết
tất cả những cảm xúc tâm tư nỗi niềm dù sâu kín nhất của 1 con người, được Tràng mời ăn, hai
con mắt trũng hoáy của Thị “tức thì sáng lên”, đó là ánh sáng của khát vọng sống, của niềm vui,
cái sáng lên của 1 tia hi vọng khi biết rằng mình đã có 1 bữa ăn, mình đã có thể kéo dài thêm
cuộc đời.
+ Trong cuộc đối thoại cũng lại có sự xuất hiện của một câu nói có đến 3 từ “ăn”, “Ăn thật nhá!
Ừ ăn thì ăn sợ gì” thể hiện tâm trạng ngạc nhiên, người phụ nữ ấy không nghĩ rằng đề nghị sấn
sổ của mình lại được chấp nhận 1 cách nhanh chóng, dễ dàng như vậy. Câu nói như vang lên vừa
vui mừng vừa phấp phỏng không dám tin. Từ “ăn” thứ 2 là để khẳng định lại sự đồng ý của
Tràng, “ăn sợ gì” lại là lời Thị tự nói với bản thân mình, là khát vọng sống lớn hơn sự e ngại,
rụt rè trước 1 người xa lạ, sự to lớn của khát vọng sống lấn át hết sự xấu hổ.
 Khát vọng sống thể hiện qua cảnh ăn bánh đúc thật cảm động
+ “Thế là Thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn 1 chặp 4 bát bánh đúc liền…”. Kim Lân
đã miêu tả hình ảnh này thật chân thực, gợi nhiều cảm xúc trong người đọc. Người phụ nữ như
quên đi tất cả, đối với người phụ nữ không còn gì là quan trọng nữa mà ráo riết bám lấy tia hi
vọng sống vừa xuất hiện. Tất cả đều mờ nhòa đi, biến mất, trước mắt người phụ nữ dường như
chỉ còn bát bánh đúc. Cảnh người phụ nữ ăn bánh đúc hiện lên như khẳng định rằng con người,
trước cái đói cái chết sẽ không buông xuôi sự sống mà vẫn tìm mọi cơ hội để tồn tại.
+ “đòi ăn” có thể là 1 hành động thiếu ý tứ nhưng nhìn vào 1 khía cạnh khác lại thể hiện vẻ đẹp
của con người khi bị đặt vào thảm cảnh, khi bị dồn đuổi đến bước đường cùng, họ
không từ bỏ sự sống, không đầu hàng tử thần mà vẫn tìm mọi cách để tiếp tục sống trên
cõi đời. Nếu người vợ nhặt không “đòi ăn”, không khát khao sự sống thì sẽ ngã xuống và
chết đi ở 1 xó xỉnh nào đó, nhưng Thị chọn cách chạy đến Tràng chờ đợi 1 sự cứu đói, để
Thị có thể được sống.
 Khát vọng hạnh phúc được thể hiện qua việc Thị sẵn sàng theo không về làm vợ
Tràng.
+ Trước lời tỏ tình bông đùa của Tràng, “ai ngờ Thị về thật”, người phụ nữ sẵn sàng theo không
Tràng về làm vợ, tình nguyện theo không 1 người đàn ông xa lạ khi vừa chỉ gặp 2 lần. Phía sau
hành động theo không này trước hết đó là sự cảm động sâu sắc trước tấm lòng hào hiệp của
Tràng – 1 người đàn ông rộng lượng sẵn sàng giúp đỡ Thị nghèo đói. “về thật” ấy xuất phát sâu
xa từ 1 mong mỏi có 1 mái ấm, 1 gia đình để được đùm bọc và yêu thương, đó là khát vọng vẫn
luôn ấp ủ trong trái tim người phụ nữ. Đằng sau quyết định này là niềm hi vọng lớn lao có được
1 nơi dừng chân, niềm hi vọng vào 1 tương lai tốt đẹp. Khát vọng có được niềm vui trong cuộc
đời luôn tỏa sáng trong tâm hồn con người dù trong hoàn cảnh khốn cùng hoạn nạn nhất, dù cho
đang đứng trước ranh giới của sự sống và cái chết. Thị không chỉ mong mỏi 1 sự sống, không chỉ
dừng lại ở sự tồn tại của 1 sinh thể mà hướng đến 1 sự sống đích thực có giá trị có ý nghĩa. Hình
ảnh người phụ nữ hiện lên với những vẻ đẹp tiềm ẩn lấn át đi sự đanh đá chua ngoa sỗ sàng khi
trước. Nếu chỉ xin 4 bát bánh đúc là Thị chỉ mưu cầu 1 miếng ăn, 1 sự tồn tại nhưng ngay sau khi
ăn Thị lại lo ngay cho Tràng, Thị quyết định về cùng với Tràng, đó là sự nâng niu ước mơ về 1
cuộc sống có gia đình, có tình yêu thương, là 1 cuộc sống đích thực mà con người đều mong
muốn.
 qua hai lần gặp gỡ của nhận vật Tràng, Kim Lân thể hiện niềm cảm thông sâu sắc
trước hoàn cảnh bi đát của người nông dân Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm
1945. Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là khát vọng sống, đề cao tình
thương, tình nghĩa con người trong tận cùng khổ đau vì đối diện với cái đói, cái chết
đang rình rập. Tác giả gửi gắm niềm tin vào người nông dân. Chính khát vọng hạnh
phúc gia đình sẽ làm nên sức mạnh để con người hướng về tương lai. Đồng thời nó
cũng để lại trong lòng người đọc ý thức về nâng cao lòng yêu thương, khát vọng sống
hạnh phúc xây dựng tổ ấm gia đình.

Đoạn 4: “bà lão phấp phỏng…nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”
(đoạn trích thuộc phần giữa của truyện, tình huống cao trào, bước ngoặt trong truyện,
Tràng đột ngột giới thiệu người vợ nhặt với mẹ, người vợ nhặt đột ngột ra mắt mẹ chồng và
bà cụ Tứ đột ngột có con dâu).
 Bà là mẹ của Tràng, hiện lên với điệu bộ “ho húng hắng”, “dáng người lọng khọng”,
“lẩm bẩm tính toán”. Đó là hình ảnh 1 người mẹ với những vất vả lo toan như hằn in trên
gương mặt già nua chưa 1 phút nào được nghỉ ngơi thanh thản. Cho dù người mẹ đã gần
đất xa trời, bóng lưng mong manh của bà lại là chỗ dựa cho các con, bà cụ Tứ mang 1 sức
mạnh lớn lao vĩ đại mang tên tình mẫu tử.
 Như đã dự cảm được điều gì, ngay khi Tràng gọi với từ trong nhà, bà đã “phấp phỏng
bước theo”. Trong cái “phấp phỏng” ấy là sự băn khoăn không hiểu chuyện gì đang xảy
ra, không thể đoán được câu chuyện nào đang đời mình phía trước. Lòng bà lão chắc hẳn
cũng đã dấy lên những lo âu vì trong bối cảnh cái đói ngập tràn, cái chết rình rập thì chờ
đợi ở phía trước đều là chuyện buồn.
 Khi nhìn thấy người con dâu trong nhà, bà “sững lại”, “ngạc nhiên hơn”, bà lão không
thể tin vào mắt mình và cũng không thể hiểu nổi, Kim Lân đã rất khéo léo khi dùng hai
từ "phấp phỏng" để diễn tả sự lo lắng và sự nhẫn nại chờ đợi của bà cụ. Hành động
"đứng sững lại" thể hiện sự ngạc nhiên đã lên cao trào, nhà văn đã thấu suốt những nỗi
băn khoăn của nhân vật, rất nhiều câu hỏi đang xoay quanh bà: Quái sao lại có người
đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà ai thế nhỉ?
Những câu hỏi cứ dồn dập được đặt ra mà không có câu trả lời. Mọi thắc mắc xoay quanh
sự xuất hiện của người đàn bà trong ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con bà sống. Đáng
thương hơn bà cụ lại tưởng mình nhầm lẫn: bà cụ hấp háy mắt cho đỡ cay, nỗi băn khoăn
của bà vẫn không được giải bày, bà lão quay sang nhìn con ra chiều không hiểu. Điều này
thật dễ hiểu, trong sự việc này bà cụ hoàn toàn bị động, mọi việc đã rồi mà bà không hay
biết điều gì cả.
 Khi con trai bà vẫn trì hoãn bí mật, mời mẹ vào nhà ngồi, bà “lập cập bước vào”, từng
bước đi như in hằn sự già nua, ốm yếu, còm cõi, gánh nặng cuộc đời đè trĩu lên vai bà,
tưởng như với những sóng gió, đau thương mà bà từng trải qua, việc xuất hiện 1 người
phụ nữ lạ trong nhà cũng chẳng còn gì là bất ngờ nữa.
 Có lẽ bà cụ Tứ không nghĩ được rằng người đàn bà đang ngồi kia chính là vợ của con
trai, là con dâu của bà. Có lẽ cảm thấy sốt ruột trước thái độ của bà cụ mà Tràng phải lên
tiếng: "kìa nhà tôi nó chào u". Vậy mà bà cụ vẫn không hiểu được đầu đuôi câu
chuyện, làm sao một người mẹ nghèo khốn khổ ấy có thể tin rằng con trai mình có vợ. Bà
cũng hiểu rõ hoàn cảnh đáng thương của con trai mình, vừa nghèo, vừa xấu, vừa cục
mịch, làm gì có ai để ý tới chứ đừng nói lấy vợ, trong giai đoạn nghèo khó "ốc chẳng
mang nổi mình ốc mà còn mang cọc cho rêu" ai có thể nghĩ tới chuyện cưới xin được.
 Nỗi băn khoăn của bà cụ từ đầu tới giờ mới được gỡ khi Tràng dõng dạc vắn tắt trình bày
cơ sự :" nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp
với nhau. Chẳng qua nó cũng là cái số cả.” Nghe đến đây “Bà lão cúi đầu nín lặng”, sự
nín lặng đó vừa là sự bất ngờ vừa là sự cảm động. Trong giây phút ấy, bà lão có rất nhiều
điều muốn nói nhưng không biết bắt đầu nói từ đâu. Trong giây phút im lặng ấy, bà cũng
“hiểu rồi”, bà hiểu ra biết bao điều. Bằng sự từng trải của người đã đi qua rất nhiều đau
khổ mất mát trong sóng gió cuộc đời, bằng tấm lòng bao dung vị tha của người mẹ, bà đã
hiểu tình cảnh của Tràng và Thị, nhưng càng hiểu lại càng ai oán xó xa cho cảnh ngộ éo
le bi thảm đã đưa đẩy con mình và người vợ nhặt gặp nhau. Bà cụ Tứ tự trách
mình, 2 từ “Chao ôi” vang lên ai oán thể hiện nỗi đau xót của 1 người mẹ khi mình chưa
làm trọn trách nhiệm với con. Vì quá thương con nên trên gương mặt già nua của bà cụ
“rỉ xuống 2 dòng nước mắt”, đó là sự lo lắng cho tương lai, là nỗi thương, nỗi lo đan xen
giằng xé trong lòng người mẹ khiến bà chảy nước mắt, những dòng nước mắt tưởng như
đã cạn khô trong cuộc đời đầy sóng gió của bà. Bà tự hỏi mình trong đau xót “Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, người mẹ nghĩ đến
cái đói đang đe dọa, nghĩ đến sự sống đang rất mong manh và nghĩ đến tương lai tối tăm
thê thảm mà lo lắng khôn nguôi không chỉ cho Tràng mà cho “chúng nó”, là 2 vợ chồng
Tràng và Thị. Hai từ “chúng nó” như ngầm thể hiện sự chấp thuận về 1 gia đình nhỏ
trong tương lai có Tràng, có Thị và có bà cùng ở dưới 1 mái nhà, cùng che chở nhau vượt
qua những bi kịch cuộc đời.
 Bà cụ Tứ là 1 người mẹ giàu lòng nhân hậu, vị tha, bao dung, người mẹ đã hóa giải hoàn
cảnh éo le, mở lòng đón nhận người con dâu mà con trai mình nhặt được, không những
thế còn biết ơn người con dâu đã đem lại 1 gia đình cho Tràng. Bà lão gác lại những lo
toan, bà “khẽ thở dài”, tiếng thở dài của bà nặng trĩu tâm tư, cũng như tiếng thở dài được
nén lại của Thị khi mới về nhà chồng, người mẹ như ý thức sâu sắc về cảnh ngộ khốn
cùng nhưng không vì thế mà cắt đi sợi duyên tình giữa Tràng và Thị, bà vẫn giành tình
yêu thương cho cả 2 người Thị và Tràng. Bà đưa mắt nhìn Thị “đăm đăm”, đó không
phải là cái nhìn soi xét mà là cái nhìn đầy xót xa thương cảm, cũng giống cái nhìn của
Tràng khi gặp Thị, 1 người phụ nữ đói rét trước mặt, sự đói rách ấy chỉ gợi lên tình yêu
thương. Trong ánh nhìn của bà cụ Tứ còn thấp thoáng sự hàm ơn, biết ơn người phụ nữ
xa lạ đã sẵn sàng theo không Tràng về làm vợ, “Mà con mình mới có vợ được”, bà cảm
động trước tấm lòng người phụ nữ tình nguyện chia sẻ cuộc đời với con trai bà.
 Người mẹ sau khi suy nghĩ thì giãi bày tâm sự, bà lão “khẽ dặng hắng”, “nhẹ nhàng nói
với “nàng dâu mới””, đó là sự hiền hậu, dịu dàng của 1 người mẹ đang muốn tạo ra 1
không khí gia đình đầm ấm yên vui, muốn các con an lòng ngay từ câu đầu tiên. Đó cũng
là sự tâm lý của người mẹ, bà biết câu nói của mình sẽ là sự quyết định cuối cùng và có ý
nghĩa vô cùng lớn lao đối với các con. Bà hoàn toàn đón nhận nàng dâu mới, “Ừ, thôi
thì...”, câu trả lời được nói ra trong sự trân trọng và yêu thương, trong sự “mừng lòng”,
người mẹ khẳng định chuyện Tràng nhặt được vợ là chuyện vui, là điều may mắn. Bà cụ
lặp lại từ mà Tràng đã nói “phải duyên phải kiếp” như để khẳng định lại sự đón nhận của
mình, chỉ 1 câu nói của bà đã giúp từ mối duyên bèo nước trôi dạt, từ 1 hạnh phúc nhỏ
nhoi mong manh, 1 tương lai bấp bênh trở thành 1 duyên phận đẹp đẽ, hạnh phúc sẽ dần
lớn lên và tương lai dù có nhiều bất trắc đói khổ vẫn sẽ tươi đẹp hơn trong sự vun đắp của
cả 3 người. Bóng tối của cái đói cái nghèo như mờ nhòa đi chỉ để lại niềm vui lớn lao
hiện hữu. Trong hoàn cảnh đói khát, gia đình trước kia có mình bà và Tràng đã không đủ
cái ăn, bà luôn tự trách bản thân không làm tròn bổn phận người mẹ, bà có thể từ chối
người con dâu mới ấy để tương lai không phải lo nghĩ thêm về miếng ăn miếng mặc.
Nhưng sự bao dung, hiền từ cùng tình yêu thương tha thiết trong bà đã quyết định coi Thị
là con, là dâu trong nhà. Có lẽ sự chấp nhận này cũng là vì bà biết, bà tin rằng có được
người vợ, người con trai mình mới có thể yên bờ gia thất, nhìn thấy những lời nói chân
thành của Tràng với Thị, bà biết được rằng Thị chính là người sẽ giúp Tràng và cả bà có
động lực cùng vun vén cho gia đình, cho 1 tương lai tốt đẹp hơn. Với 2 chữ “mừng lòng”,
bà cụ Tứ đã gạt bỏ hết những nỗi lo lắng, ưu tư trong lòng người vợ nhặt, trong lòng
Tràng
 Không nhũng chấp thuận nhận Thị làm nàng dâu mới, bà cụ Tứ còn có những lời dặn dò,
căn dặn nhắc nhở hết sức chân tình. “Nhà ta thì nghèo con ạ”, người mẹ giãi bày cảnh
ngộ với đứa con dâu rồi động viên, căn dặn các con “bảo nhau làm ăn” để cũng phấn đấu
đến 1 tương lai tốt đẹp hơn. Bà cụ Tứ lạc quan cho rằng với sự chăm chỉ của các con, “ra
may mà ông giời cho khá”, với sự vun đắp của các con gia đình sẽ càng trở nên hạnh
phúc đầm ấm.
 Người mẹ nghĩ về quá khứ u tối, nghĩ về những người thân đã khuất “ông lão”, “đứa con
gái út”, nghĩ về cuộc đời cực khổ đằng đẵng của mình không làm gì được hơn cho con, bà
lại nhìn vào hiện tại đầy tang thương với “mùi đốt đống rấm” khét lẹt. Thế nhưng khi
nghĩ về tương lai, bà lại có 1 cái nhìn lạc quan, bà mong rằng cuộc đời của Tràng và Thị
sẽ “hơn bố mẹ trước kia”, sẽ đầm ấm đuề huề hạnh phúc.
- Bà cụ Tứ đối xử ân cần, quan tâm đến người con dâu đặc biệt mà Tràng đã nhặt về làm
vợ. Bà lão đem những lời nói, cử chỉ yêu thương như để trấn an Thị, bà biết người phụ nữ
này hẳn vừa trải qua những bối rối lo lắng sợ hãi nhất thời. “Con ngồi xuống đây”, từ
“con” vang lên thân thương như xóa tan mọi khoảng cách giữa 3 người để họ trở thành
những con người thân thiết. Người mẹ còn đưa ra lời giải thích hết sức tâm lý “Kể ra…
thương quá” để hóa giải êm đềm những nỗi lo âu của người vợ nhặt, bà cụ không mong
gì hơn ngoài việc 2 vợ chồng Tràng sẽ hòa thuận, đó là niềm mong mỏi giản dị thiết tha.
Tình yêu thương và nỗi lo âu cuộn trào trong lòng người mẹ, càng yêu bà càng lo, càng
thương. Cùng với câu nói “U thương quá” là dòng nước mắt “chảy xuống ròng ròng”, bà
cụ Tứ có lẽ đã không thể kìm nén, nỗi niềm không còn được giấu kín trong tâm tư mà
được tuôn ra cùng hàng nước mắt. Dòng nước mắt của người mẹ rơi xuống như lấy đi cả
nước mắt của người đọc, đó là dòng nước mắt cao cả chứa chan biết bao tình yêu, là dòng
nước mắt vừa xót xa vừa hạnh phúc.
 Xây dựng hình tượng bà cụ Tứ là 1 người mẹ nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương và
là biểu tượng của những người mẹ Việt Nam sẵn sàng hi sinh và trọn đời sống vì con.
Bà cụ Tứ thể hiện tư tưởng truyền thống của người Việt Nam “thương người như thể
thương thân”. Khẳng định khát vọng sống, hạnh phúc và sức mạnh của tình yêu thương,
khát vọng sống giúp con người vượt qua mọi cảnh ngộ, hoàn cảnh éo le. Tấm lòng nhân
đạo của Kim Lân thể hiện qua niềm tin vững chắc vào tình người trọn đời.

Đoạn 5: “sáng hôm sau…khấm khá hơn”


(vị trí: nằm ở phần cuối tác phẩm. Sự hồi sinh của con người và cảnh vật)
1. Sự hồi sinh của cảnh vật:
- Không gian, thời gian đã thay đổi, từ “tối hôm trước” đến “sáng hôm sau”, từ 1 thế giới
tràn ngập bóng tối, khung cảnh lại sáng bừng lên, đó là ánh sáng hết sức mạnh mẽ, ánh
sáng mang lại sự sống, sự hồi sinh, ánh sáng đẩy lùi bóng tối.
- Hình ảnh ngôi nhà cũng thay đổi kì diệu, căn nhà như khoác lên mình bộ áo mới. Không
còn ngôi nhà “rúm ró” mà giờ đây ngôi nhà được “thu dọn sạch sẽ gọn gàng”, Kim Lân
đã dùng rất nhiều động từ trong 1 đoạn văn ngắn “quét tước”, “kín nước đầy ăm ắp” để
nhấn mạnh sự thay đổi hoàn toàn, vẫn là ngôi nhà ấy nhưng không phải ngôi nhà xiêu vẹo
mà đã trở nên sạch sẽ quang quẻ trở thành nơi nương tựa của cả gia đình, trở thành tổ ấm
che mưa che nắng, che chắn những bão táp, sóng gió cuộc đời
2. Sự hồi sinh của Tràng:
 Kể từ lúc anh biết mình đã có vợ, anh như thể trở thành một con người khác. Tràng đon
đả, ngoan ngoãn với mẹ, với vợ anh trìu mến yêu thương. Buổi sáng đầu tiên sau khi có
vợ, Tràng sung sướng đắm chìm trong men say của tình yêu, hạnh phúc chờ đến khi
"mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy". Dường như, anh cố ý nằm thêm, kéo
dài thêm để tận hưởng dư vị ngọt ngào của niềm hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy được
cảm nhận trong buổi sáng mùa hè chói lóa ánh mặt trời. Ta thấy như các nhà văn, thường
lấy buổi sáng để miêu tả sự thay đổi, sự hồi sinh của các nhân vật. Chí phèo tỉnh dậy sau
một cơn say dài giữa lúc mặt trời chắc đã lên cao và nắng bên ngoài chắc cũng rực rỡ.
Chính thời điểm này đánh dấu sự hồi sinh trở lại của chí từ một con quỷ dữ của làng Vũ
Đại trở về là con người lương thiện. Tràng cũng vậy, buổi sáng mùa hè chói lóa đã đánh
dấu bước ngoặt cuộc đời Tràng khi sang trang mới, bằng niềm vui, niềm hạnh phúc.
 Tràng thấy “êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”, đó là tâm trạng bất ngờ
ngạc nhiên xen lẫn niềm vui hạnh phúc lâng lâng sung sướng, chưa thể tin vào hiện thực.
“Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Có lẽ trong
lòng hắn vẫn dấy lên bao câu hỏi: Mình đã có vợ thật rồi sao? Ai vậy? Cưới bao giờ nhỉ?
Không lẽ mong ước bao lâu mà nay đã thành sự thật một cách dễ dàng, chóng vánh đến
thế ư? Niềm hạnh phúc đó đến với chàng quá bất ngờ mà ngay đối với anh nó như là một
giấc mơ. Trong khoảnh khắc ngập tràn hạnh phúc ấy, hắn dường như quên tất cả, quên cả
đói rét đang đeo bám, quên cả những tháng ngày tủi cực đã qua.
 Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của anh mới thật sự là một tổ ấm. Sự ngạc
nhiên, xúc động của Tràng khi chứng kiến giang sơn thay đổi. Hắn chớp mắt liên tục hồi
mấy cái và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì đó thay đổi mới mẻ, khác
lạ. "Nhà cửa, sân vườn đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc
quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra
sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô công ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ấm áp.
Đống rác mùn tanh bành ngay lối đi đã được hót sạch", ngôi nhà của Tràng trở nên
sạch sẽ gọn gàng hơn, Dường như những người trong nhà đã dọn dẹp đi tất cả sự tối tăm
u ám, để ánh sáng mới mẻ lan tỏa vào từng góc nhỏ. Ngay cả những kín nước cũng “đầy
ăm ắp”, như trong tâm hồn người đàn ông cũng ăm ắp niềm vui gia đình, tình cảm yêu
thương. Nếu như đêm trước, ngôi nhà ấy còn như ngôi nhà hoang, thiếu sự sống thì chỉ
sau một đêm nó đã khoác lên mình một diện mạo mới, một sức sống mới và ngập tràn
sinh khí. Dấu hiệu của sự sống, của sự hồi sinh đã hiện diện ở mọi nơi từ sân vườn cho
đến nhà cửa. Qua một đêm, Tràng đã hoàn toàn thay đổi nó như là một câu chuyện cổ
tích giữa đời thường, như một phép nhiệm màu xảy ra ngay trong tâm bão của nạn đói
năm 1945. Phép nhiệm màu đó đã đến từ đôi tay, tấm lòng của người đàn bà xa lạ, có
thân phận rất rẻ rúng vừa hôm qua theo không mình về làm vợ nhặt. Điều này khiến cho
câu chuyện lại càng bất ngờ và xúc động biết bao nhiêu. Những cảm nhận về sự thay đổi
xung quanh cho thấy Tràng đâu còn vô tâm, ngờ nghệch nữa. Hắn đã có những quan sát,
nhận thức về cuộc sống, về thế giới xung quanh rất riêng và cũng rất tinh tế. Phải chăng
tình yêu còn khiến cho anh dần trưởng thành?
 Trong Tràng còn xuất hiện những trạng thái cảm xúc vô cùng mới mẻ. Tràng cảm thấy
“thấm thía”, “cảm động” khi nhận ra hắn đã có 1 gia đình, tất cả những hành động bình
thường giờ đây cũng thấy thật kì diệu. Hình ảnh người mẹ quét sân ngoài vườn cũng đủ
để dâng trào cảm xúc trong Tràng. Anh cảm nhận được sự hiện diện của 1 gia đình nơi
mọi thành viên cùng vun đắp xây dựng, đó từng là khao khát của Tràng và giờ đã trở
thành hiện thực.
 Gia đình nhỏ này đã khiến Tràng thấy gắn bó, yêu thương, có trách nhiệm vun vén bảo
vệ. Tràng tự ý thức về bản thân, hắn “thấy hắn nên người”, thấy mình như trưởng thành
hơn, cuộc sống như có ý nghĩa hơn. Trước kia Tràng chỉ là anh chàng “ngờ nghệch”
nhưng nhờ có Thị, nhờ có gia đình nhỏ này mà chính anh cũng thấy anh “nên người”. Ý
thức về bản thân song Tràng cũng ý thức trách nhiệm về mái nhà anh vừa mới có, đó là tổ
ấm, là nơi che chở cho con người, là nơi bảo vệ con người khỏi những sóng gió bão táp
cuộc đời. Tràng muốn gìn giữ nâng niu gia đình này mãi mãi, trân trọng những hạnh phúc
bên mái nhà này. Chính vì vậy, Tràng khao khát xây đắp hạnh phúc cho gia đình mình,
anh “xăm xăm chạy ra giữa sân”, niềm vui như lan tỏa theo từng bước chân của Tràng,
mang theo khát vọng muốn làm 1 điều gì đó để “dự phần tu sửa căn nhà”. Đó cũng chính
là khát vọng đổi đời, anh tin ngày mai tỉnh giấc cũng lại thấy sự thay đổi nữa cho mái ấm
của mình, để anh luôn cảm thấy “lửng lơ” trong hạnh phúc. Gia đình này trong tương lai
dưới bàn tay mỗi người sẽ càng đầm ấm hơn, đủ đầy hơn. Tràng cũng như đang biến đổi
trở thành 1 người đàn ông chín chắn, chững chạc trưởng thành, là trụ cột của gia đình.
Tràng đã nhìn bằng cuộc sống đôi mắt tích cực, đôi mắt của tình yêu thương, sự trân quý
những gì anh đang có, đang được hưởng.
 Đoạn văn khá đặc sắc đã diễn tả tinh tế diễn biến tâm trạng của Tràng trong niềm hạnh phúc
trào dâng. Góp phần làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của truyện: Thông qua số phận con người
trong nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân khẳng định trong cái đói, cái khát, cái chết cận kề
con người ta vẫn yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, vẫn hướng đến sự sống khao khát hạnh
phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình.

Đoạn 6: “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại… một nỗi tủi hờn len vào
trong tâm trí mọi người”
(đoạn trích thuộc phần cuối truyện ngắn, miêu tả chi tiết bữa cơm ngày đói trông vô
cùng thảm hại của 3 người)

- Trong buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ nhặt đã cùng bà cụ Tứ dọn dẹp nhà cửa và
chuẩn bị bữa cơm gia đình. Sự xuất hiện của chị vợ nhặt như thổi thêm nguồn sinh khí
mới cho ngôi nhà của mẹ con Tràng. Ngôi nhà lụp xụp, tồi tàn của mẹ con Tràng trở nên
gọn gàng, ngăn nắp, khu vườn nhỏ cũng được dọn sạch cỏ trở nên sạch sẽ, tươi mới.
Khuôn mặt bủng beo, u ám của bà cụ Tứ cũng trở nên tươi tỉnh khác hẳn ngày thường,
anh cu Tràng cũng trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát hơn. Không khí ấm áp, hài hòa của tình
thân đã làm cho người ta quên đi những ám ảnh khủng khiếp của nạn đói. Thế nhưng,
trong bữa cơm gia đình, một lần nữa không khí như bị trùng xuống bởi cái đói, cái khát
vẫn cứ bủa vây, trực chờ để dồn con người ta đến bước đường cùng của sự bất lực và
tuyệt vọng.
- Chi tiết bữa cơm ngày đói cũng là bữa cơm đầu tiên đón con dâu về nhà Tràng là một chi
tiết đặc sắc vừa tái hiện chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong hoàn
cảnh nạn đói hoành hành, vừa mang một giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Thông thường
bữa cơm ngày đầu tiên đón con dâu về sẽ rất quan trọng vì nó thể hiện được sự gắn kết
của con dâu với nhà chồng. Nhưng với gia đình Tràng thì bữa cơm đầu tiên ấy lại vô
cùng đơn giản đến thảm hại "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và
một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành". Chỉ với những chi
tiết đơn giản nhưng Kim Lân đã khắc họa được sự khủng khiếp của nạn đói lúc ấy. Lúc
này ăn chỉ để sống qua ngày, con người đang cố gắng giành lấy chút sự sống mong manh
từ tử thần. Bữa cơm được chuẩn bị vô cùng sơ sài đến thảm hại, chắc hẳn chúng ta ai
cũng biết với bữa cơm như vậy thì sao mà ăn ngon lành cho được nhưng ở đây cả gia
đình Tràng đều ăn rất ngon lành. Có lẽ ai cũng hiểu được hoàn cảnh lúc này nhưng họ cố
nén cảm xúc trong lòng và cố tỏ ra vui vẻ để động viên nhau, làm động lực giúp nhau
vượt qua hoàn cảnh khốn cùng này. Nhưng cũng có lẽ đó là niềm vui thật sự bởi dù trong
gian khổ nhưng họ vẫn có nhau, vẫn lạc quan và vẫn hạnh phúc yêu thương nhau. Vượt
qua mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu hà khắc và hoàn cảnh nghèo khó bà cụ Tứ vẫn đón
nhận, cảm thông và yêu thương cô con dâu mới, gia đình họ vô cùng hòa hợp, hạnh phúc.
Chính vì thế mà trong bữa cơm
- Trong bữa ăn "Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: Khi
nào có tiền ta mua lấy đôi gà... này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn
gà cho mà xem". Bà nói về đàn gà như để 1 lần nữa thắp lên niềm hi vọng cho tương lai,
cũng như ông cha ta đã có câu
“Chớ than phận khó ai ơi/
Còn da, long mọc, còn chồi nảy cây”.

- Những câu chuyện bà nói đều là những chuyện tốt đẹp sau này, đều nói về tương lai tươi
sáng đầy hy vọng phía trước. Khoảnh khắc gia đình quay quần bên mâm cơm, cùng ăn
cùng nói chuyện vui vẻ có lẽ là khoảnh khắc đầm ấm nhất, trải qua bao nhiêu năm tháng
có thể đến tận bây giờ họ mới có thể tận hưởng hạnh phúc đoàn tụ.
- Nhưng những tiếng cười cũng như niềm hy vọng mong manh của cả gia đình nhanh
chóng bị dập tắt vì "niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết
nhẵn". Dường như đã liệu được tình huống này sẽ xảy ra người mẹ nghèo khó với tấm
lòng nhân hậu, thương người và hết mực thương yêu con đã "lật đật chạy xuống bếp, lễ
mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Vừa khuấy khuấy vừa cười: chè
khoán đây, ngon đáo để cơ". Những từ “lễ mễ”, “lật đật”, “vừa khuấy vừa cười” như
khẳng định người mẹ đã dành hết tâm tư, yêu thương vào nồi cháo cám, người mẹ còn
gọi nồi cháo ấy là nồi “chè khoán” thể hiện sự nhân hậu và khéo léo cùng tình yêu vô bờ.
Tuy nói là “chè khoán” nhưng thật sự đó là nồi cháo cám chát xít, vốn là thứ thức ăn của
súc vật. Qua đây, ta càng thấm thía hơn cái thực trạng tàn khốc của nạn đói 1945 và tội ác
tàn bạo của phát xít và tay sai đẩy những con người khổ cực ấy vào tình cảnh khốn cùng.
Nhưng qua đây ta lại càng thấy ngời lên được những phẩm chất tốt đẹp của con người, họ
bị bần cùng hóa nhưng không hề tha hóa. Nổi bật nhất đó chính là bà cụ Tứ, nào đâu phải
bà không biết nồi cháo cám kia chát xít chẳng hề ngon lành gì nhưng bà vẫn bảo "ngon
đáo để cơ", bà đang cố động viên con mình cũng như con dâu vượt qua hoàn cảnh khó
khăn lúc ấy. Ta cảm thấy như bà mẹ già đang cố kìm nén những cảm xúc tủi hờn nhất,
những nỗi lo lắng khôn nguôi về tương lai vào tận sâu trong lòng để cười mà động viên
các con: "Cám đấy mày ạ", "Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy", gieo vào
lòng các con mình niềm hy vọng sống và vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Thật xót xa biết
bao! Bà cụ Tứ quả thật là một người mẹ nhân hậu, đảm đang, hết mực yêu thương con,
sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp của một người mẹ nông thôn Việt Nam. Hơn thế nữa,
chẳng phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại để người mẹ ở cái tuổi xế chiều ấy là người lạc
quan nhất, luôn đon đả kể chuyện vui và luôn động viên, gieo hy vọng vào lòng các con
mình. Bởi lẽ, một người gần đất xa trời như bà cụ Tứ mà còn khát khao sống mãnh liệt
đến như vậy thì những người trẻ hơn sẽ lấy đó làm động lực mà tiếp tục nuôi hy vọng vào
một tương lai tốt đẹp hơn. Bà cụ Tứ là người thắp lửa, giữ lửa, và truyền ngọn lửa khát
khao sống, khát khao thoát khỏi đói nghèo, khát khao tự do đến với các con cũng như
những người khác.
- Không chỉ có bà cụ Tứ mà qua hình ảnh bữa cơm ngày đói nhất là ở chi tiết nồi cháo cám
ta còn thấy được sự chuyển biến trong tính cách cũng như thái độ của anh Tràng và người
vợ nhặt. Khi Tràng gợt một miếng cháo cám bỏ vội vào miệng "mắt hắn chum ngay lại,
miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ". Đối với Tràng, bát “chè khoán” của mẹ
“đắng chát”, “nghẹn bứ”, dù Tràng có muốn trốn chạy số phận, trốn chạy hoàn cảnh đói
nghèo đau khổ thì vẫn phải đối diện với hiện thực bần cùng túng thiếu. Mặc dù hiểu cho
tấm lòng người mẹ nhưng những miếng cháo cám như 1 lần nữa đẩy Tràng rơi vào tuyệt
vọng. Đối với người vợ nhặt, ta thấy được sự chuyển biến trong tính cách của thị vô cùng
rõ ràng. Ta không còn thấy một người đàn bà "chỏng lỏn", "đanh đá", "chua ngoa" và
"cong cớn, sưng sỉa" khi nói chuyện với anh Tràng, ta không còn thấy người đàn bà bỏ
hết cả sự duyên dáng và danh dự vì miếng ăn mà "cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh
đúc" trong ngày anh Tràng đưa thị về làm vợ. Mà thay vào đó là một người vợ hiểu
chuyện, khi nhận được bát cháo cám yêu thương từ mẹ chồng mà “2 mắt Thị tối lại”, đó
là bóng tối của cuộc đời đã hiện lên qua hình ảnh của bát cháo cám, cái đói, cái khổ, cái
chết mà Thị đang muốn trốn trành lại đang bám đuổi ráo riết trong từng bữa ăn. Nhưng
Thị vẫn “điềm nhiên và vào miêng”, trong cái “điềm nhiên” ấy là sự tinh tế, khéo léo của
người phụ nữ, Thị nhận ra và trân trọng tấm lòng của người mẹ, Thị cố ăn bát cám vì
không nỡ làm cho người mẹ chồng phải buồn tủi, vì không nỡ phụ công sức bà cụ Tứ đã
chuẩn bị nồi cháo chan chứa yêu thương. Ta cũng thấy được thị là người dâu hiền, vợ
thảo, hiểu chuyện và biết chấp nhận và cảm thông với gia đình chồng mà không một lời
kêu ca, muốn cùng gia đình chồng vượt qua khó khăn. Đồng thời, ta cũng thấy được nổi
khao khát một mái ấm gia đình hạnh phúc của người đàn bà ấy cho dù có khó khăn
nhưng thị vẫn đồng cảm và sẵn sàng đồng cam cộng khổ cùng nhà chồng.

- Không chỉ dừng lại ở đó, chi tiết bữa cơm ngày đói còn phản ánh được cái hiện thực tàn
khốc lúc đó và lên án tội ác tàn bạo của bọn phát xít và tay sai. Chúng bắt người dân ta
phải nhổ lúa trồng đay, triệt đường sống của người nông dân lương thiện. Chúng khiến
người dân ta sống cũng như chết, sống lay lắt, vất vưởng như những thây ma ngoài
đường, nhiều khi sống cũng không bằng chết. Nhân dân ta phải ăn cháo cám, thứ thức ăn
của gia súc, thậm chí có nhà còn không có cám mà ăn. Trong hoàn cảnh ấy, cháo cám lại
như một thứ đồ xa xỉ. Quả thật là một hiện thực tàn khốc.
 Hình ảnh bữa cơm ngày đói mà đặc biệt là nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng
sâu sắc trong lòng người đọc. Ta thấy được một hiện thực nạn đói vô cùng tàn
khốc nhưng qua đó lại ngời lên những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người.
Trong cái khó khăn, bần cùng cơ cực ấy nhưng họ vẫn có nhau, vẫn yêu thương
nhau, vẫn hạnh phúc và luôn lạc quan tin tưởng vào cách mạng thành công và
tương lai tươi sáng.

You might also like