You are on page 1of 12

Sự phát triển đường lối và khái quát quá trình chỉ đạo thực hiện của

Đảng ( trước kia và lúc này có sự thay đổi ntn, ưu nhược điểm, chỉ rõ nội
dung phát triển)
Đường lối trong giai đoạn 1965-1975
a) Bối cảnh lịch sử
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của
chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và quân các nước
chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc "Chiến tranh cục bộ" với quy mô lớn; đồng thời
dùng không quân, hải quân hùng hổ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền
Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
Thuận lợi: Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nuớc, cách mạng thế giói
đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục
tiêu về kinh tế, văn hóa. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách mạng
miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961-1962, từ năm 1963, cuộc
đấu tranh của quân dân ta dã có bước phát triển mới. Ba "chỗ dựa" của "Chiến tranh đặc
biệt" (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) (đều bị quân dân ta tấn công liên
tục. Đến đầu năm 1965, chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ được triển
khai đến mức cao nhất đã cơ bản bị phá sản.
Khó khăn: Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và không có
lợi cho cách mạng Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở cuộc "Chiến tranh cục bộ" ồ ạt đưa
quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực liếp xâm lược miền Nam đã làm
cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra
đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình hình thành, nội dung và ý nghĩa của đường lối
Quả trình hình thành và nội dung đường lối:
Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, các hội nghị
của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương giữ vững và phát
triển thế tiến công mà ta đã giành được sau cuộc "đồng khởi" năm 1960, đưa cách mạng
miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng trên quy mô
toàn miền.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín (tháng 11-1963), ngoài việc xác định đúng đắn
quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề quan trọng về cách
mạng miền Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi
đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu
tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác định trách nhiệm là căn cứ địa,
hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi
mặt, sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và quân các nước
chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn; đồng thời
dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 11 (3 - 1965) và Hội nghị Trung ương 12 (12 -
1965) đã phân tích âm mưu, bản chất của đế quốc Mỹ, đã đánh giá so sánh lực lượng giữa
ta và địch, đi tới kết luận: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân
viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch không thay đổi lớn. Ban Chấp hành Trung
ương Đảng xác định quyết tâm và nhiệm vụ chung của cả nước lúc này là: Kiên quyết giữ
vững thế chiến lược tiến công, động viên lực lượng cả nước, quyết tâm đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Tập trung lực lượng cả nước, kết hợp đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trên chiến trường
chính là miền Nam.
Trước những thất bại liên tiếp của địch trên chiến trường, Đảng ta chủ trương: Cùng với
các mũi tiến công quân sự và chính trị, cần mở thêm mặt trận tiến công ngoại giao, nhằm
tố cáo, vạch trần thủ đoạn hòa bình kiểu lừa bịp của đế quốc Mỹ. Hội nghị Trung ương
Đảng lần thứ 13 (khóa III) (tháng 01 - 1967) quyết định triệt để tận dụng thời cơ, mở mặt
trận ngoại giao, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị nhằm đưa
cuộc kháng chiến lên bước phát triển mới.
Sau khi Hiệp định Pari được ký (1 - 1973), địch tiến hành nhiều hoạt động lấn chiến và
phá hoại Hiệp định. Trước tình hình đó, tháng 7 - 1973, Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 21,
khoá III họp và ra Nghị quyết lịch sử: "Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới”; Hội nghị xác định:
“con đường của cách mạng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, bất kể trong tình
huống nào phải nắm vững thời cơ, giữ vững chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt”4.
Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam (10 -
1974), và Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 2) (từ ngày 8 - 12 - 1974 đến ngày 7 - 1 - 1975), chỉ
rõ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận
quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
ở miền Nam, tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất
của chúng là Sài Gòn.
Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng, cuộc
"Chiến tranh cục bộ" mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh
xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên
nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Từ sự phân tích và nhận định đó, Trung ương
Đàng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc, coi
chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược", "kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ
tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà".
Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân đân chống
chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức
mình là chính, càng đánh càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của
cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn. tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định
trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và phát triển thế
tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công: "Tiếp tục kiên trì phương châm đẩu
tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công", đánh
địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng
quyết định trực tiếp và giữ một vị tri ngày càng quan trọng. Nghị quyết xác định phương
châm chiến lược là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ thời cơ giành thắng
lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời hết sức tranh thủ sự giúp đỡ, ủng
hộ của quốc tế.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục
xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh,
tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo
vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để
chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề
phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều mình mở rộng "Chiến tranh cục bộ"
ra cả nước. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế
quốc Mỹ, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tích cực đề phòng để đánh
địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước. Thực hiện
chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh
tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh phá hoại. Động viên sức người, sức của ở
mức cao nhất để chi viện đắc lực cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam.
Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống
Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo
vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc "Xã hội chủ nghĩa là hậu phương
vững chắc trong cuộc chién tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm bảo
đảm chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không
tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu hiệu chung của nhân đân cả nước lúc này
là "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Ý nghĩa của đường lối:
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các Hội nghị Trung
ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng:
+ Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh thần độc
lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng
đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
+ Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng trong hoàn
cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối
cảnh quốc tế.
+ Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính được phát triển trong hoàn cành mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Đường lối chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi cả nước của Hội nghị Trung ương làn thứ
11 và 12 đã được Đảng bổ sung, phát triển qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng
chiến. Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1967) đã chủ trương mở mặt trận ngoại giao, kết
hợp đấu tranh quân sự, chính trị với ngoại giao, đưa tới cuộc đàm phán Hội nghị Pari sau
này. Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (1968) đã quyét định, mở cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy mùa xuân năm 1968 để kéo để quốc Mỹ xuống thang chiến tranh. Hội nghị Trung
ương lần thứ 21 (1973) xác định con đường phát triển của cách mạng miền Nam sạu khi
có Hiệp định Pari cơ bản vẫn là con đường cách mạng tiến công. Đặc biệt, tại các Hội
nghị Bộ Chính trị cuối năm 1974 (đợt 1) và đầu năm 1975 (đợt 2) Đảng đã hạ quyết tâm
giải phóng hoàn toàn miền Nam theo một kế hoạch chiến lược kéo dài hai năm 1975-
1976, đồng thời nêu dự kiến nếu thời cơ thuận lợi sẽ giải phóng miền Nam trong năm
1975 và trên thực tế đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền
Nam trước mùa mưa năm 1975.
=> Như vậy, đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954 - 1975) là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua các Hội
nghị và Đại hội của Đảng từ năm 1954 đến năm 1975, đó là đường lối chiến tranh toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, và được tập trung trên những nội dung
chủ yếu: Xác định mục đích, đối tượng, nhiệm vụ chiến tranh là đánh thắng đế quốc Mỹ
và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc; về chủ trương phát huy sức
mạnh tổng hợp hai miền Nam, Bắc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; và
chủ trương tiến hành phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân với đặc trưng nổi bật
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao; kết hợp chiến
tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, thực
hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; tiến lên thực hiện tổng tiến công
và nổi dậy để giành thắng lợi cuối cùng, cả nước hòa bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đường lối chiến tranh độc đáo, sáng tạo đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn và vận
dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chiến tranh cách mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc, giữ nước
của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của các nước xã hội
chủ nghĩa và của thế giới. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định trực tiếp giành thắng
lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trong thế kỷ XX.

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (11/1963)

Ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc
kết hợp sức mạng dân tôjc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đi đến quyết
định nhiều vấn đề quan trọng về cách mạng miền Nam. Hội nghị khẳng định đấu tranh
chính trị, đấu tranh vũ trang và cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản. Đồng thời, nhấn
mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Miền Bắc, Hội nghị tiếp tục xác định trách
nhiệm căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh
giác, triển khai mọi mặt, sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.

- Trước những cuộc chiến ở miền Nam "Chiến tranh cục bộ" và chiến tranh phá hoại
miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12
(12/1965) đã nêu ra đường lỗi kháng chiến chống Mỹ cứu nước như sau:

+ Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: Nêu cao khẩu hiệu "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược" , "Kiên quyế đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ
tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước
nhà".

+ Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng cuộc
"Chiến tranh cục bộ" mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh xâm
lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế thua, thế thất bại và bị động cho nên nó
chứa đựng đầy mâu thuẫn chiến lược. Từ sự phân tích và nhân định nêu trên, Trung
ương Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống đến quốc Mỹ xâm lược trong
phạm vi toàn quốc, coi chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ
Nam ra Bắc.

+ Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục đẩy mạng cuộc chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân
chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào
sức chính mình càng đánh càng mạnh, cố gắng đến mức độ cao.

+ Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ, cứu nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ
miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước vì xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ.

+ Tư tưởng và phương châm đấu tranh ở miền Nam được tiến hành cụ thể là dựa trên
phương châm giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiên công và liên tục tiến
công. "Tiếp tục kiên trì phương châm: Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính
trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công", đánh địch trên cả 03 vùng chiến lược.

Đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam (1954 -1964)

Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7-1954) đã xác định: đế quốc Mỹ là kẻ thủ chính của
nhân dân thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông
Dương. Như vậy, Đảng ta đã sớm xác định được: kẻ thù của cách mạng Việt Nam. Tiếp
đó, tháng 9-1954,
Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng.
Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt
Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm
chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị ; từ phân tán chuyển đến tập trung.

Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3-1955) và lần thứ tám (tháng 8-1955) Trung ương Đảng
nhận định: muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất,
hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời
giữ vững và đẩy mạnh cuộc dấu tranh của nhân dân miền Nam.

Đặc biệt, tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: ta đang đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ củng cố miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa
xã hội có tính chất quyết định cho toàn bộ thắng lợi cách mạng trong giai đoạn mới. Lực
lượng cách mạng ở miền Nam được duy trì và phát triển là nhân tố trực tiếp quyết định
thắng lợi của cuộc đấu tranh cách mạng của miền Nam.

Từ năm 1954 đến năm 1959, Mỹ - Diệm trắng trợn vi phạm Hiệp định Giownevơ tiến
hành tổng tuyển cử riêng rẽ khủng bố, đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân dân
miền Nam. Tình hình đó đặt cách mạng miền Nam vào tình trạng hết sức cấp bách. Chính
vì vậy, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương đã triệu tập Hội nghị lần thứ 15 khoá
II. Hội nghị họp nhiều đợt, ra Nghị quyết về nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam. Những
nội dung cơ bản của Nghị quyết gồm:

- Hội nghị xác định cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai
nhiệm vụ chiến lược đó tuy có tính chất khác nhau, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau,
song song tiến hành.

- Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là: "giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc
vaà người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh"'.

- Phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam: "ngoài con đường cách mạng,
nhân dân miền Nam không có con đường nào khác", cho nên con đường phát triển cơ
bản của cách mạng miền Nam là "khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân... đó là
lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu,
kết hơp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến,
dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân"'.

- Hội nghị dự kiến: "cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển
thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển
sang một cục diện mới: đó là chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch, và thắng lợi cuối
cùng nhất định về ta".

- Nghị quyết chỉ rõ ở miền Nam cần có Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho phù hợp
với tính chất và nhiệm vụ của cách mạng.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, không những đã mở đường cho
cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bán lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng. Có thể nói, đến Hội nghị 15,
đường lối cách mạng ở miền Nam đã được hoạch định một cách căn bản. Sau đó, đến
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960), Đảng
ta đã khẳng định những nội dung căn bản đó. Đại hội đã bổ sung và hoàn chỉnh đường
lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam. Trong đó, Đại hội đã vạch ra nhiệm vụ
chung, nhiệm vụ chiến lược, mục tiền chiến lược của cách mạng, đồng thời nêu bật mối
quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở hai miền.
NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện, trưởng thành và
đã xây dựng nên những truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng. Đó là:

- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.

- Tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo.

- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân.

- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.

- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế...
Những truyền thống quý báu của Đảng là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế, là sức mạnh bảo
đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là
sự hy sinh, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ đảng viên của Đảng. Những truyền
thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để,
trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của Đảng ta.

Lịch sử khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất đủ uy tín và
năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi

Sự thực là, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam đủ uy tín, năng lực lãnh đạo thắng lợi
trong đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945).

Vừa mới ra đời, trong điều kiện chủ yếu phải hoạt động bí mật, trong 15 năm (1930 -
1945), tổ chức đảng bị thực dân đế quốc khủng bố, hệ thống tổ chức của Đảng hai lần
phải xây dựng lại. Trong 15 năm ấy, Đảng chịu nhiều tổn thất, 4 đồng chí Tổng Bí thư
của Đảng đã hy sinh, nhưng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng vẫn kiên trung vì lợi ích
dân tộc, không nhụt chí trước kẻ thù. Đường lối chiến lược vạch ra trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên và bổ sung ở Luận cương (tháng 10-1930) đã đáp ứng khát vọng giải
phóng dân tộc. Đi theo ngọn cờ của Đảng, dân tộc Việt Nam đã làm nên kỳ tích vĩ đại
trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, thành
lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Với sự kiện này, “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào,
mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần
này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa,
một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, làm thay đổi vận mệnh dân tộc, thay đổi thân phận của
người dân Việt Nam, từ người nô lệ trở thành người làm chủ nước nhà.

Bình luận về ý nghĩa lịch sử và tác động của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến
những bước tiến của lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX, nhà sử học người Pháp Charles
Fourniau khẳng định: Cách mạng Tháng Tám “đã đem đến chiều sâu lịch sử của nó vào
cuộc đấu tranh mà nhân dân Việt Nam đã tiến hành thắng lợi từ 1945 đến 1975”.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dù có những tổ chức ra sức công kích, tranh giành
quyền lãnh đạo, nhưng chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
thắng lợi các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn 1945 - 1954: Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, thay
mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn Độc lập, chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, không bao lâu sau, thực dân Pháp
đã quay lại xâm lược Việt Nam, đánh dấu bằng việc chúng nổ súng ở Nam Bộ. Lúc này,
ở Việt Nam, vừa có hoạt động của trên 30 vạn quân ngoại quốc (Nhật, Tưởng, Anh,
Pháp), vừa có các đảng phái phản động, nhất là Việt Quốc, Việt Cách. Trước bối cảnh
chính quyền còn non trẻ, Đảng vừa ra hoạt động công khai, nắm chính quyền cách mạng
lại phải đối phó với vô vàn khó khăn, buộc phải rút vào hoạt động bí mật, nhưng vẫn giữ
vững sự lãnh đạo đối với cách mạng. Trước 3 thứ giặc (giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm), cách mạng Việt Nam rơi vào tình thế như “nghìn cân treo sợi tóc”. Được nhân dân
tin tưởng, Đảng đã khéo vận dụng nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến”, đưa cách mạng
vượt qua tình thế hiểm nghèo trong những năm 1945 - 1946, vững tâm thế bước vào cuộc
kháng chiến toàn quốc, với đường lối toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính.

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ
(1945 - 1954) đã bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chấm
dứt ách thống trị của thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc, đưa cách mạng Việt Nam bước
sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục tiến hành
cách mạng giải phóng ở miền Nam. “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ
yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân
dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã
hội chủ nghĩa trên thế giới”.

Tại Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trong 31 đồng
chí hiện nay là Ủy viên Trung ương Đảng ta, trước ngày khởi nghĩa đã được đế quốc
Pháp tặng cho 222 năm tù đày”. Chỉ tính trong 15 năm đấu tranh trước Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 và 9 năm kháng chiến, biết bao đảng viên ưu tú và quần chúng cách mạng
đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh một cách cực kỳ oanh liệt. Chỉ riêng trong cấp Trung
ương, đã có 14 đồng chí bị thực dân Pháp bắn, chém, hoặc giết trong nhà tù. Bản lĩnh của
Đảng sáng chói. Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Đúng
là: Sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ cộng sản, của các anh hùng, liệt sĩ chiến đấu
dưới ngọn cờ của Đảng đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do.

Giai đoạn 1954 - 1975: Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, với mưu đồ biến miền
Nam Việt Nam thành “con đê” ngăn chặn “làn sóng đỏ” (tức sự phát triển của chủ nghĩa
xã hội) sang Đông Nam Á, đế quốc Mỹ đã xâm lược miền Nam, chia cắt đất nước Việt
Nam.

Những năm 1965 - 1968 và 1972, đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc bằng không
quân và hải quân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân Việt Nam đã tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng, đồng tâm hiệp lực, hướng về mục tiêu giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Đây là một điểm sáng tạo độc đáo của
đường lối cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước.

Sự thực là, sau 21 năm kháng chiến kiên cường, bất khuất, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân Việt Nam đã đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược kiểu
mới của đế quốc Mỹ, chấm dứt ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa
thực dân, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước. Chiến
công ấy là “một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế
kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Dân
tộc Việt Nam tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, đi lên
chủ nghĩa xã hội.

Trong giai đoạn từ năm 1965 đến 1975, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua một số
thay đổi quan trọng trong đường lối và quá trình chỉ đạo thực hiện. Dưới đây là một sự
so sánh giữa hai giai đoạn trước và sau sự kiện này, bao gồm ưu điểm và nhược điểm
của mỗi giai đoạn:

Trước năm 1965:


Đường lối:
Đảng tập trung vào một chiến lược dài hạn để giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh
bảo vệ tổ quốc chống lại sự xâm lược của người Pháp và sau này là người Mỹ.
Đảng tập trung vào việc xây dựng một cách nền tảng cơ bản cho chủ nghĩa xã hội ở nông
thôn thông qua các chính sách như cải tạo ruộng đất và cải cách ruộng đất.
Quá trình chỉ đạo thực hiện:
Tính tổ chức và tập trung cao trong quản lý quân sự và chính trị.
Sự cam kết mạnh mẽ vào việc đào tạo và xây dựng lực lượng quân đội và dân quân.
Tính quyết đoán và phản ứng nhanh chóng đối với các tình huống đối phó.
Sau năm 1965:
Đường lối:
Đảng chuyển đổi từ một chiến lược chủ yếu quân sự sang một chiến lược kinh tế-chính
trị-xã hội, tập trung vào việc phát triển kinh tế và xã hội cũng như giảm bớt sự phụ thuộc
vào viện trợ nước ngoài.
Đảng chủ trương việc thực hiện chính sách "Chiến lược tông thư" nhằm thúc đẩy nội lực,
tăng cường sức mạnh tự chủ và giảm thiểu sự phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ Liên Xô và
Trung Quốc.
Quá trình chỉ đạo thực hiện:
Tập trung mạnh mẽ vào việc phát triển nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Thực hiện các chính sách cải cách và mở cửa kinh tế như đổi mới ruộng đất và hình thành
các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa.
Mở rộng mạng lưới quan hệ quốc tế và ký kết các thỏa thuận với các quốc gia khác nhằm
hỗ trợ kinh tế và chính trị.
Ưu điểm và nhược điểm:
Trước năm 1965:
Ưu điểm: Tính tổ chức và tập trung cao giúp Đảng đạt được những chiến thắng quan
trọng trong cuộc chiến tranh.
Nhược điểm: Chủ yếu tập trung vào mặt quân sự, bỏ qua một số khía cạnh kinh tế và xã
hội quan trọng.
Sau năm 1965:
Ưu điểm: Chuyển đổi định hướng chiến lược để tập trung vào phát triển kinh tế và xã hội,
giúp nước Việt Nam đạt được sự độc lập và tự chủ hơn.
Nhược điểm: Một số chính sách cải cách gặp phải khó khăn và phản đối từ một số phần
tử trong nội bộ và dân cư.
Tóm lại, giai đoạn từ năm 1965 đến 1975 đã chứng kiến sự phát triển của Đảng Cộng
sản Việt Nam thông qua việc điều chỉnh chiến lược và tổ chức để phản ứng linh hoạt với
tình hình chiến tranh phức tạp.

Tham khảo:
https://dangcongsan.vn/tieu-diem/su-hinh-thanh-phat-trien-hoan-thien-duong-loi-chien-
luoc-cach-mang-giai-phong-dan-toc-cua-dang-thoi-ky-1930-1945-589546.html
http://hocvienchinhtribqp.edu.vn/index.php/bai-bao-khoa-hoc/qua-trinh-hinh-thanh-phat-trien-duong-
loi-chien-tranh-nhan-dan-cua-dang-trong-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-1954-1975.html
https://dangcongsan.vn/tieu-diem/su-hinh-thanh-phat-trien-hoan-thien-duong-loi-chien-luoc-cach-
mang-giai-phong-dan-toc-cua-dang-thoi-ky-1930-1945-589546.html

You might also like