You are on page 1of 35

Xin chào cô và các bạn sinh viên có mặt trong buổi học ngày hôm nay.

Em
là………và……………. Đại diện cho nhóm 6 thuyết trình về bài học ngày hôm
nay với chủ đề là “ QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI
CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC CỦA ĐẢNG TA GIAI ĐOẠN 1965-1975 ”.
Trước khi vào bài thì mời mọi người hướng lên slide xem tổng quát lịch sử của nước ta
trong giai đoạn này.

Như chúng biết thì thời kì 1954-1975 thì nhân dân ta chống mỹ cứu nước vậy lý do tại
sao phân ra 2 giai đoạn 1954-1965 và từ 1965-1975. 8/5/1954 hiệp định Giơnevơ
được ký kết sát cùng Chính phủ bù nhìn quốc gia Việt Nam tổng hợp và miền Nam
dưới đường phi quân sự tạm thời được đặt tại vĩ tuyến 17 thủ phủ đặt tại Sài Gòn
theo ý thức hệ tư bản Bác Hồ và Việt Minh kiểm soát miền Bắc Thủ đô đặt tại Hà
Nội theo ý thức hệ cộng sản sau 2 năm nữa sẽ tổ chức tổngtuyển cử và thống nhất
đất nước. vì để tránh cộng sản lan rộng nên mỹ đã nhúng tay vào, mỹ vào việt nam
cộng hòa đã phá vỡ hiệp định giơ ne vơ. Lúc đầu chiến tranh chính trị, nhận ra chiến
tranh ctri là k đủ nên đảng đã cho đánh đặc biệt là phong trào đồng khởi (1960). Tuy
nhiên thời gian này mỹ chỉ hộ thuẫn ở đằng sau. sau sự kiện vịnh bắc bộ thì mỹ đã kiếm
cớ bước 1 chân vào cuộc chiến. còn ở Hà Nội sau sự kiện Mỹ tấn công vô cớ tại vịnh
Bắc Bộ bộ đội chính quyền miền Bắc bắt đầu được cử vào Nam thông qua đường
mòn Hồ Chí Minh đểchiến đấu cùng quân giải phóng Vậy là Hoa Kỳ và Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã không còn chỉ đứng sau hậu thuẫn nữa mà đã chính thức đối
đầu trực tiếp khiến chiến sự giờ thật sự mới bắt đầu. và đây chính là giai đoạn
chúng ta sẽ tìm hiểu.

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH HIỆN TẠI

1. Giai đoạn 1965-1975


- Trong giai đoạn từ năm 1965 đến năm1975, bối cảnh xã hội Việt Nam có
nhiều biến động phức tạp do tác động của các yếu tố khách quan và chủ
quan, cách mạng có những bước ngoặt không lường trước được nhưng Đảng
ta đã có những định hướng đúng đắn và kịp thời.
a. Miền bắc:
- Là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn và cũng là mặt trận đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược, Đảng đã luôn bám sát thực tiễn, chủ động phân tích
tình hình, động viên quân và dân chuyển hướng xây dựng kinh tế sang thời
chiến, vừa sản xuất vừa chiến đấu, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ nhất của Mỹ và tích cực chi viện cho miền Nam.
- Đảng và nhân dân ta đang xây dựng CNXH ở miền Bắc trong không khí hòa
bình, nhưng đế quốc Mỹ mở rộng các hoạt động đánh phá miền Bắc bằng
không quân và hải quân. Bối cảnh đó khiến một vấn đề lớn đặt ra cho toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong lúc này là: tiếp tục công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc hay phải dừng lại. Công tác tư tưởng đã làm rõ chủ
trương của Đảng ta là tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH theo phương
hướng kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế với củng cố và tăng cường
quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành hậu
phương chiến lược vững mạnh của miền Nam, thành căn cứ địa của cách
mạng cả nước, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng giành nhiều thắng lợi.
- Trong điều kiện trực tiếp phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của
Mỹ, chủ trương giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH ở miền Bắc
là nhân tố tích cực, giúp chúng ta tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các
nước XHCN và bè bạn quốc tế đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước.
- Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá
sản của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mỹ ào ạt đưa quân Mỹ và
quân các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc "Chiến tranh cục bộ"
với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến
tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã quyết định
phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
- Thuận lợi: khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng
thế giới đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã
đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hoá. Sự chi viện sức người, sức của
của miền Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ
và đường biển.
b. Ở miền Nam: vượt qua những khó khăn trong những năm 1961 - 1962, từ
năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Ba
công cụ của "Chiến tranh đặc biệt" (ngụy quân, ngụy quyền, ấp chiến lược
và đô thị) đều bị quân dân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965, chiến
lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao
nhất đã cơ bản bị phá sản.
- Khó khăn: Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở nên gay gắt và
không có lợi cho cách mana Việt Nam. Việc đế quốc Mỹ mở cuộc "Chiến
tranh cục bộ" ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu vào trực
tiếp xâm lược miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho
ta.
- Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm
và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

NHỮNG CUỘC HỌP HỘI NGHỊ - NHỮNG QUYẾT SÁCH MANG Ý


NGHĨA LỊCH SỬ TRỌNG ĐẠI
Trong thời kỳ kháng chiến chống mỹ này đảng ta đã có tới 25 cuộc họp hội nghị

Trong giai đoạn 1965-1975

Đến cuối 1964 đầu 1965, cuộc chiến tranh yêu nước ở miền Nam đã giành được
những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Để cứu vãn tình thế có thể bị thất bại
hoàn toàn, đế quốc Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh đặc biệt ở miền Nam lên đến đỉnh
cao và gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước tình hình đó, BCHTW
Đảng họp Hội nghị lần thứ mười một (đặc biệt), từ ngày 15 đến ngày 27/3/1965,
ra Nghị quyết về Tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt.
Nghị quyết nêu rõ đế quốc Mỹ đã đẩy cuộc "Chiến tranh đặc biệt" của chúng ở
miền Nam tới mức độ cao, bao gồm một số yếu tố của "Chiến tranh cục bộ", và
chiến tranh đã vượt khỏi phạm vi miền Nam lan đến miền Bắc dưới hình thức ném
bom, bắn phá bằng không quân. Tình hình cả nước đã có chiến tranh với hình thức
và mức độ khác nhau ở mỗi miền. Trong cuộc chiến tranh cách mạng chống Mỹ
xâm lược, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Trước tình
hình đó, nhiệm vụ cơ bản của chúng ta là tích cực kiềm chế và thắng địch trong
cuộc "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực
lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn nhất; tiếp tục
xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng,
kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân và hải quân của địch. Nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là phải kịp thời
chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường
quốc phòng, ra sức chi viện cho miền Nam...

Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ phát triển đến mức cao nhất đã căn bản
bị thất bại. Chúng liều lĩnh chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền
Nam và đẩy mạnh cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc ác liệt hơn. Hội nghị lần
thứ mười hai của BCHTW Đảng, họp tháng 12/1965, đã nghiên cứu một cách sâu
sắc và toàn diện tình hình chiến tranh do Mỹ gây ra, xác định nhiệm vụ phương
châm chiến lược và những công tác trước mắt của cuộc kháng chiến.

Nghị quyết nêu rõ: "Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay rõ ràng là nhiệm vụ
thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc... Toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta ở cả hai miền phải giữ vững và nêu cao quyết tâm đẩy mạnh cuộc
chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, kiên quyết chiến đấu cho
đến thắng lợi cuối cùng".

"Phương châm chiến lược chung của chúng ta trong cuộc chiến tranh giải phóng
chống Mỹ, cứu nước là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính... Trên cơ sở tiếp
tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng ta cần phải cố gắng
đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi
quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam". Song vì
đế quốc Mỹ là một kẻ địch hung bạo và ngoan cố, cho nên trong khi nỗ lực theo
phương hướng đó, chúng ta vẫn phải ra sức chuẩn bị để thắng địch trong trường
hợp chiến tranh kéo dài và mở rộng ra cả nước".

"Về phương châm đấu tranh, chúng ta tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh
quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công... Trong
giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một
vị trí ngày càng quan trọng". Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng này của dân tộc,
BCHTW Đảng kêu gọi: Trong giai đoạn này, mỗi cán bộ, đảng viên cũng như toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải có tinh thần chiến đấu cao, dũng cảm phi
thường, phải có chí khí anh hùng và quyết tâm để hoàn thành mọi nhiệm vụ được
giao và đánh bại kẻ thù.

 Thực hiện nghị quyết của Hội nghị lần thứ mười một và mười hai của
BCHTW Đảng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn về mọi
mặt.

Tháng 1/1967, Hội nghị lần thứ mười ba của BCHTW Đảng đã ra Nghị quyết Về
đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trung ương Đảng chủ trương:

"Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về
mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn
nữa".

"Đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến
trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta
và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động".

Theo dõi và chỉ đạo cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam, sự chuyển
biến to lớn của tương quan lực lượng so sánh giữa ta và địch, Hội nghị lần thứ
mười bốn của BCHTW Đảng, tháng 1/1968, nhận định: "Chúng ta đang đứng
trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn... Ta đang ở thế thắng, thế chủ động và
thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta
chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ
mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định"
Trong thời kỳ mới này, Đảng chủ trương đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta
lên bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa
để giành thắng lợi quyết định với các mục tiêu:

- Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân nguỵ, đánh đổ nguỵ quyền các cấp,
giành chính quyền về tay nhân dân.
- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của
Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ quân sự, chính trị của
chúng ở Việt Nam.
- Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền
Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ
được miền Bắc và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là
độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.

Hội nghị vạch ra những nhiệm vụ cụ thể về công tác quân sự, chính trị về nguỵ và
địch vận, về hoạt động quốc tế, về nhiệm vụ của miền Bắc để thực hiện tổng công
kích và tổng khởi nghĩa.

Chủ trương chiến lược của Hội nghị lần thứ mười bốn của BCHTW Đảng đã được
triển khai, mở đầu bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Bằng cuộc tổng tiến công chiến lược này, ta đã giáng một đòn quyết định vào chiến
lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc chúng dù rất ngoan cố và dù còn gây cho
ta nhiều khó khăn, vẫn phải bắt đầu quá trình xuống thang chiến tranh, phải chuyển
sang chiến lược "phi Mỹ hoá chiến tranh" rồi "Việt Nam hoá chiến tranh", phải bắt
đầu rút dần quân Mỹ về nước, chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền
Bắc, phải cử người đàm phán với Chính phủ ta ở Hội nghị Pari.

Tuy nhiên, qua thực tiễn của cuộc chiến đấu cho thấy ta cũng mắc một số khuyết
điểm như: chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa thật sát với
tình hình thực tế; không kịp thời kiểm điểm; chậm thấy được sự thay đổi của địch
và những khó khăn lúc đó của ta,...

Từ ngày 28 đến ngày 31/8/1968, BCHTW Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm
để đánh giá tình hình trên chiến trường miền Nam, quyết định tiếp tục đẩy mạnh
tổng công kích tiến lên giành thắng lợi quan trọng hơn nữa trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 5/1969, BCHTW Đảng họp Hội nghị lần thứ mười sáu bàn về tình hình và
nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang đi vào giai đoạn mới thì lúc
9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969, Hồ Chí Minh qua đời. Người đã để lại cho toàn
Đảng, toàn dân ta một bản Di chúc vô cùng quý báu. BCHTW Đảng đã họp Hội
nghị toàn thể khẩn cấp (Hội nghị lần thứ mười bảy) tại Hà Nội. Trung ương Đảng
đã ra lời kêu gọi gửi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, đồng bào cả nước và kiều bào ở
nước ngoài. Ngày 9/9/1969, tại Quảng trường Ba Đình, trước hơn 10 vạn người dự
lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bí thư thứ nhất BCHTW Đảng Lê
Duẩn đã đọc bản Di chúc của Người và Điếu văn của Trung ương, trong đó có năm
lời thề son sắt của toàn Đảng, toàn dân ta quyết thực hiện những lời căn dặn của
Người.

Tháng 1/1970, BCHTW Đảng họp Hội nghị lần thứ mười tám kiểm điểm sự phát
triển của cục diện chiến tranh từ đầu xuân Mậu Thân, đề ra nhiệm vụ trước mắt của
giai đoạn mới là kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến
lược tiến công toàn diện nhằm đánh bại âm mưu "Việt Nam hoá chiến tranh", đánh
cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho nguỵ phải suy sụp...

Tháng 1/1971, BCHTW Đảng họp Hội nghị lần thứ mười chín chủ yếu bàn về
phương hướng, nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế, đặc biệt là nhiệm vụ sản
xuất nông nghiệp ở miền Bắc. Hội nghị khẳng định phải cố gắng đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp nhằm tạo nên một bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, phát triển nông nghiệp toàn diện.

Tháng 4/1972, Hội nghị lần thứ hai mươi của BCHTW Đảng bàn về quản lý kinh
tế, một trong những công tác cấp bách và quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Phương hướng cơ bản của việc cải tiến quản lý kinh tế là xoá bỏ quản lý hành
chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
khắc phục cách tổ chức quản lý thủ công, phân tán, xây dựng cách tổ chức quản lý
của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi về quân sự, chính trị và ngoại giao của
ta đã dẫn đến việc ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt
Nam. Song, ở miền Nam, đế quốc Mỹ và tay sai vẫn không chịu từ bỏ dã tâm áp
đặt chủ nghĩa thực dân mới của chúng.
Trước tình hình đó, tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ hai mươi mốt của BCHTW
Đảng đã xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới
là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ trước mắt là đẩy
mạnh đấu tranh trên cả ba mặt chính trị, quân sự và ngoại giao một cách chủ động,
linh hoạt tuỳ từng lúc từng nơi để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh hiệp định
đã ký, không ngừng giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, thắng
địch từng bước và chủ động trong mọi tình huống, đưa cách mạng miền Nam tiếp
tục tiến lên.

Tháng 12/1973, Đảng họp Hội nghị lần thứ hai mươi hai, xác định nhiệm vụ của
miền Bắc là đoàn kết toàn dân, đấu tranh giữ vững hoà bình, ra sức tiến hành công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, xây dựng miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp kinh tế với
quốc phòng, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ
và bọn tay sai, ra sức làm tròn nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh nhằm hoàn
thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, làm tròn
nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia, Hội nghị đã thông qua Kế
hoạch khôi phục và phát triển kinh tế của miền Bắc trong hai năm (1974-1975) và
nêu lên những biện pháp chỉ đạo các ngành, các địa phương ra sức thực hiện kế
hoạch này.

Năm 1974, ở miền Nam, quân ta đã liên tiếp đánh bại các cuộc hành quân lấn
chiếm của địch, thực hiện chiến lược tiến công. Miền Bắc tích cực khôi phục kinh
tế và chi viện mạnh mẽ cho miền Nam. Nguỵ quân, nguỵ quyền suy yếu nghiêm
trọng. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị trong các kỳ họp tháng 10/1974, tháng
12/1974 và tháng 1/1975, đã đi đến kết luận chúng ta đang đứng trước thời cơ lớn,
có đầy đủ các điều kiện về quân sự và chính trị để hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất đất nước.

Bộ Chính trị nêu rõ phải phát huy sức mạnh tổng hợp của tiến công quân sự, tiến
công chính trị, tiến công binh vận kết hợp với tiến công ngoại giao. Ngoài kế
hoạch chiến lược cơ bản giành thắng lợi trong hai năm, Bộ Chính trị còn có
phương án chớp thời cơ để giải phóng miền Nam trong năm 1975. Nghị quyết lịch
sử của Bộ Chính trị năm 1974 và đầu năm 1975 là một điển hình của tư duy cách
mạng khoa học và sáng tạo lớn, dắt dẫn quân và dân ta đến mùa Xuân đại thắng
năm 1975.
Song song với sự lãnh đạo và tổ chức cuộc chiến đấu ở miền Nam và xây dựng ở
miền Bắc, Trung ương Đảng rất coi trọng công tác xây dựng Đảng. Tháng
12/1974, Hội nghị lần thứ hai mươi ba của BCHTW Đảng đã ra Nghị quyết tăng
cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

Nghị quyết nêu rõ: "Sự tiến triển mạnh mẽ của cách mạng nước ta, sự trưởng thành
của chế độ và của nhân dân ta, yêu cầu ngày càng cao và tính chất phức tạp của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, của cuộc đấu tranh để hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà, tác
động hàng ngày của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các lực lượng phản cách mạng
trên thế giới vào nước ta - đó là những nhân tố khách quan đòi hỏi phải tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao sức chiến đấu của Đảng". "Để Đảng ta tiếp tục
làm tròn nhiệm vụ trước dân tộc và trước phong trào cộng sản quốc tế, phải tăng
cường công tác xây dựng Đảng, đảm bảo cho Đảng ta luôn luôn nắm vững và vận
dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện mới của
cách mạng nước ta, có đường lối, chính sách đúng, có tư tưởng cách mạng triệt để,
có tổ chức vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện đầy đủ, xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân".

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã toàn thắng, miền Nam
hoàn toàn được giải phóng. Non sông thu về một mối. Tháng 9/1975, Hội nghị lần
thứ hai mươi bốn của BCHTW Đảng đã đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất Tổ
quốc và đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết nhấn mạnh: Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất
của nhân dân cả nước vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt
Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ nay, Tổ quốc ta từ Lạng Sơn đến Cà Mau,
từ đất liền đến hải đảo vĩnh viễn độc lập, thống nhất trên cơ sở chủ nghĩa xã hội.
Thống nhất đất nước tạo ra sức mạnh mới, thuận lợi mới để phát triển kinh tế, văn
hoá, củng cố quốc phòng và tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc
tế, vì vậy, thống nhất càng sớm, thì càng phát huy nhanh sức mạnh toàn diện của
Tổ quốc. Nghị quyết cũng nêu lên các nhiệm vụ đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và các nhiệm vụ trước mắt ở miền Nam để nhanh chóng ổn định
tình hình, sớm cùng miền Bắc đi vào quỹ đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.
QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG
1. Trước những năm 1965
- Chủ trương đưa miền bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau khi miền Bắc
được giải phóng, trung ương Đảng đã chủ trương chuyển miền Bắc sang giai
đoạn mới với nhận thức; “ sự kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
cũng là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa như các cương lĩnh của
dân tộc đã đề ra.
- Nhiệm vụ chủ yếu của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi
kinh tế quốc dân, trước hết là phục hổi và phát triển nông nghiệp, ổn định xã
hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng quan hệ quốc tế.
Đảng và nhà nước đã huy động hàng vạn cán bộ, bộ đội đến giúp đỡ các địa
phương, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống địch cưỡng ép
di cư nhằm ổn định tình hình.
- Vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên Mặt trận Tổ Quốc; về kinh tế không tịch
thu tư liệu sản xuất của tư sản mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình
thức công tư hợp doanh; sắp xếp công việc cho người tư sản trong xí nghiệp,
dần dần cải tạo họ thành người lao động.
- Ở miền Nam, xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, Đảng quyết
định thay đổi phương thức đấu tranh quân sự sang đấu tranh chính trị, lãnh
đạo quần chúng nhân dân đấu tranh đòi đối phương phải thi hành hiệp định,
tiếp tự thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam trong tình
hình mới. Xác định rõ: “ Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân
thế giới, và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông
Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.
- Dần dần nêu cao tinh thần giữ vững thế chiến lược tiến công của cách mạng
miền Nam, đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên song song đấu tranh chính
trị, tiến công địch trên cả 3 vùng chiến lược: đô thị, nông thôn đồng bằng và
nông thôn miền núi, bằng 3 mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận.
2. Quá trình nhận thức, đổi mới, ổn định, phát triển của Đảng từ
năm 1965-1975:
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính
thống nhất và mâu thuẫn trong quá phát triển kinh tế và phát triển xã hội, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn để
xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội. Đảng luôn chủ
trương phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội và công bằng xã hội; coi hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó tăng trưởng kinh tế là cơ sở, làm tiền đề và điều kiện cho thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội, ngược lại, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là điều kiện
quan trọng thúc đẩy và bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng đã xác định con đường phát triển của cách mạng
Việt Nam là đi lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua các thời kỳ lịch sử, nhận thức của
Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ngày càng sáng tỏ. Trong bối cảnh đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi Đảng phải tiếp
tục đổi mới tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh để hiện thực hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng
và nhân dân ta đã lựa chọn.
Điều quan trọng đầu tiên là “Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội
chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan
niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích
hợp”. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn này, Đảng từng bước hoàn thiện nhận thức
về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Theo đó, “đổi mới kinh tế” là quá trình
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp, chủ yếu dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng theo định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép
kín” sang nền kinh tế “mở”, hội nhập, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. “Đổi
mới chính trị” là đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con
đường đi lên CNXH; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống
chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao
hiệu quả quản lý của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây
dựng chế độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân do Đảng lãnh đạo. Ngay từ Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI (3/1989), Đảng ta đã khẳng định “Đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không phải là hạ thấp hoặc thay đổi
bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản
lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường
sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản; là làm cho các tổ chức trong hệ
thống chính trị hoạt động năng động hơn, có hiệu quả hơn”; đồng thời nhấn mạnh
“Trong quá trình mở rộng dân chủ phải ngăn ngừa đấu tranh khắc phục khuynh
hướng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, dân chủ tư sản, phải tỉnh táo, đấu
tranh chống lại những lực lượng lợi dụng việc mở rộng dân chủ để chống chế độ
ta. Phải lắng nghe ý kiến rộng rãi của nhân dân, nhưng không “theo đuôi” quần
chúng”. Đây là những nguyên tắc chỉ đạo rất quan trọng, làm tiền đề để Đảng nhận
thức và giải quyết tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong suốt
quá trình đổi mới.
Đổi mới là nhằm cho cái cũ trở thành cái mới tốt hơn, là quá trình nhằm
làm cho hệ thống thay đổi từ trạng thái cũ sang trạng thái mới, tiến bộ hơn.
Đổi mới là hành động của con người trong xã hội diễn ra không ngừng. Mỗi
con người, tổ chức, mỗi quốc gia, dân tộc đều luôn luôn phải tự đổi mới để
phát triển lên trình độ mới, cao hơn, tiến bộ hơn.

Ổn định là trạng thái tồn tại hài hòa giữa các yếu tố phát triển; nó mang tính
tương đối và tính động. Không có sự ổn định cần thiết thì sự phát triển không thể
diễn ra theo ý muốn. Do đó, ổn định được xem là điều kiện để sự phát triển diễn ra
tốt. Ổn định không thể tồn tại dựa vào ý chí chủ quan mà nó tồn tại trên cơ sở vững
chắc các mối quan hệ xã hội, sự bảo đảm vững chắc công bằng, bình đẳng, kỷ
cương, kỷ luật và tâm lý xã hội cùng phát triển theo luật pháp.

Phát triển là thay đổi về lượng và chất của hệ thống từ trình độ thấp đến trình
độ cao. Phát triển đối với một đất nước phải bao hàm cả phát triển kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, tiềm lực quốc phòng - an ninh và quan hệ quốc tế.
=> Như vậy, đổi mới, ổn định và phát triển không tồn tại biệt lập, không đối
lập nhau mà nương tựa vào nhau cùng tạo ra sự phát triển chung của quốc gia. Đổi
mới, ổn định và phát triển đều do con người và vì con người. Con người vừa là
mục đích, vừa là chủ nhân, là động lực của đổi mới, ổn định và phát triển.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát
triển ngày càng rõ. Đồng thời, rất coi trọng mối quan hệ này và xác định đây là một
trong tám mối quan hệ lớn cần “xử lý và giải quyết” trong quá trình thực hiện các
phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta hiểu rất rõ rằng không thể tiến hành đổi mới chính trị một cách vội vã
khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể
và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại
cho sự nghiệp đổi mới. Cho nên, ngay từ khi mới bắt đầu quá trình đổi mới, Đảng
xác định ổn định kinh tế “không phải là hạn chế các hoạt động kinh tế, mà là một
qúa trình vận động tiến lên, vừa phát triển, vừa điều chỉnh các quan hệ tỷ lệ của
nền kinh tế quốc dân”. Còn ổn định chính trị không có nghĩa là bảo thủ, trì trệ,
ngược lại nó có vai trò quan trọng bảo đảm điều kiện cho các lĩnh vực khác như
kinh tế, văn hóa, xã hội được đổi mới, phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên
toàn diện hơn, bền vững hơn. Ổn định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. “Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong
quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định
được”.
3. Giai đoạn 1965-1975 nước ta chú trọng công tác giáo dục lý luận
chính trị của Đảng :
Công tác giáo dục lý luận chính trị (LLCT) của Đảng trong giai đoạn 1965 -
1975 đã đạt nhiều kết quả tích cực dù trong bối cảnh cách mạng Việt Nam gặp
nhiều khó khăn, đất nước tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau.
Đảng lãnh đạo việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng. Trong điều kiện
đó, để giành được thắng lợi, phải làm tốt công tác giáo dục LLCT, phải động viên
được ý chí và sức mạnh đoàn kết chiến đấu, năng lực sáng tạo và nỗ lực phi thường
của toàn dân, toàn quân dưới ngọn cờ của Đảng; công tác giáo dục LLCT phải luôn
gắn với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn để tổng kết lý luận, xây dựng đường lối
chính trị và chủ động thực hiện đường lối ấy trong quá trình cách mạng. Đây là bài
học kinh nghiệm quý giá trong công tác giáo dục LLCT của Đảng hiện nay.
Khái niệm : Công tác giáo dục LLCT là một bộ phận trong công tác tư tưởng
của Đảng, có mục đích giác ngộ lý tưởng cách mạng, nâng cao nhận thức chính trị,
thống nhất ý chí và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Đảng thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra,
đánh giá công tác giáo dục LLCT, đúc kết kinh nghiệm, rút ra những bài học để
nâng cao hiệu quả công tác quan trọng này. Công tác giáo dục LLCT của Đảng
trong giai đoạn 1965 - 1975 rất phong phú và có nhiều bài học kinh nghiệm sâu
sắc, có ý nghĩa lâu dài đối với những người làm công tác giáo dục LLCT.
A. Bối cảnh lịch sử và đặc trưng công tác giáo dục LLCT giai đoạn 1965-1975
Trong giai đoạn từ năm 1965 đến năm1975, bối cảnh xã hội Việt Nam có nhiều
biến động phức tạp do tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan, cách mạng
có những bước ngoặt không lường trước được nhưng Đảng ta đã có những định
hướng đúng đắn và kịp thời. Công tác giáo dục LLCT đã luôn gắn với thực tiễn,
xuất phát từ thực tiễn, giúp Đảng tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục
cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện đường lối cách mạng, gắn với từng thời
điểm xác định:
Ở miền Bắc:
Là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn và cũng là mặt trận đấu tranh
chống kẻ thù xâm lược, công tác giáo dục LLCT của Đảng đã luôn bám sát thực
tiễn, chủ động phân tích tình hình, động viên quân và dân chuyển hướng xây dựng
kinh tế sang thời chiến, vừa sản xuất vừa chiến đấu, đánh thắng cuộc chiến tranh
phá hoại lần thứ nhất của Mỹ và tích cực chi viện cho miền Nam.
Đảng và nhân dân ta đang xây dựng CNXH ở miền Bắc trong không khí hòa
bình, nhưng đế quốc Mỹ mở rộng các hoạt động đánh phá miền Bắc bằng không
quân và hải quân. Bối cảnh đó khiến một vấn đề lớn đặt ra cho công tác giáo dục
LLCT của Đảng, cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong lúc này là: tiếp tục
công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc hay phải dừng lại. Công tác tư tưởng đã
làm rõ chủ trương của Đảng ta là tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc,
xây dựng miền Bắc thành hậu phương chiến lược vững mạnh, thành căn cứ địa của
cách mạng cả nước, bảo đảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng giành nhiều thắng lợi.
Đặc biệt với sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những kinh
nghiệm rút ra từ các lớp thí điểm đã tạo chuyển biến mới trong lãnh đạo của các
cấp ủy, đưa công tác giáo dục đảng viên đi vào có chương trình, kế hoạch tiến hành
thường xuyên, các Trường Đảng huyện được xây dựng, bộ phận huấn học trong
các Ban Tuyên giáo được tăng cường để bảo đảm thực hiện có hiệu quả chương
trình, kế hoạch giáo dục đảng viên.
Ở miền Nam:
Do bối cảnh xã hội đặc thù, công tác giáo dục LLCT có nội dung và phương
thức hoạt động khác. Nhiệm vụ cách mạng của miền Nam là phải đánh thắng giặc
Mỹ, vì thế công tác giáo dục LLCT góp phần giáo dục, động viên quân và dân
miền Nam đánh bại các cuộc phản công chiến lược của Mỹ, làm phá sản chiến
lược “chiến tranh cục bộ” của chúng, trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ
và quân đội tay sai, với bộ máy chiến tranh khổng lồ chưa từng có trong lịch sử
chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng giai đoạn này cho thấy, có những địa phương đã thực hiện
rất tốt công tác giáo dục LLCT, có sức lan tỏa lớn.
Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Đà khẳng định quyết tâm: Miền
Nam chưa được giải phóng thì còn đánh, chiến tranh gì cũng đánh, đối tượng nào
cũng đánh, địch đông bao nhiêu cũng đánh, lâu bao nhiêu cũng đánh,… Chúng ta
có nhiệm vụ đánh Mỹ trước tiên bằng “hai chân, ba mũi” để đóng góp kinh nghiệm
cho toàn miền và góp phần đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.
Những kinh nghiệm phong phú nói trên của quân và dân ta là cơ sở thực tiễn để
tiến hành công tác giáo dục LLCT có sức thuyết phục cao, từng bước giải quyết
những băn khoăn của đồng bào và chiến sĩ ta trong thời gian đầu trực tiếp chiến
đấu với quân Mỹ. Từ chỗ dám đánh, quân và dân ta đã tiến lên biết cách đánh
thắng Mỹ. Quyết tâm kháng chiến và niềm tin chiến thắng được củng cố vững chắc
hơn. Phong trào “tìm Mỹ mà diệt”, thi đua trở thành “dũng sĩ diệt Mỹ” phát triển
rộng khắp đã minh chứng cho hiệu quả công tác giáo dục LLCT.
Công tác giáo dục LLCT cho thấy qua chiến đấu, quân và dân ta hiểu biết
thêm về khả năng tác chiến và quy luật hoạt động của quân Mỹ, có thêm kinh
nghiệm về cách đánh thắng chúng, thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng ta.
Bình luận về nhận thức
Có thể thấy rằng, nhận thức của về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có
những bước phát triển quan trọng: Đã bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ lý luận về
vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đảng cầm
quyền, phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và hội
nhập quốc tế; nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng,
coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta; nhận thức rõ hơn về yêu cầu Đảng phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn; về nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ;
tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về vai trò của công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn, hoàn thiện đường lối đổi mới; tăng cường công tác tư tưởng,
rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đấu
tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; gắn bó mật thiết với nhân
dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng... Những bước phát triển quan trọng
trong nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng cho thấy tầm vóc, quy
mô, tính chất, chiều sâu và ý nghĩa của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày
càng được nâng lên. Đồng thời, cũng minh chứng cho năng lực, bản lĩnh, trách
nhiệm của Đảng ta đối với giai cấp, nhân dân và toàn thể dân tộc trên con đường
xây dựng CNXH.

SỰ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI VÀ KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO
THỰC HIỆN CỦA ĐẢNG
1. Nội dung đường lối:
Trước những cuộc chiến ở miền Nam “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại
miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12
(12/1965) đã nêu ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước như sau:

*Nhận định tình hình và chủ trương chiến lược:

- Về nhận định tình hình: Cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở
miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi
trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về
chiến lược… Việc chúng đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, dùng
không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc tuy
có gây cho cách mạng nước ta gặp nhiều khó khăn, tổn thất, song có vẻ căn bản và
lâu dài so sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến tranh
trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để bảo vệ miền
Bắc, giữ vững thế chủ động trên chiến trường miền Nam.

Cuộc chiến tranh xâm lược tuy ồ ạt, hùng hổ về hình thức, nhiều người tưởng rằng
Mỹ tấn công ta. Nhưng Đảng ta nhận định, nó gây cho ta khó khăn trước mắt,
nhưng về bản chất, lợi thế thua và thế bị động, nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về lâu
dài và căn bản, nó vẫn là đối phó. Nó không tạo nên những so sánh căn bản về lâu
dài. Nói cách khác, ta vẫn ở thế tiến công, ta không lùi lại. Đó là nhận định của
Đảng ta khi Mỹ hùng hổ tấn công cả miền Bắc và miền Nam. Trái với nhận định
của nhiều nước khuyên ta đi vào thế phòng ngự, Đảng ta nói rằng: Ta vẫn ở thế
tiến công.

- Về chủ trương: Do nhận định tình hình như vậy, Đảng ta không nao núng mà ta
quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc, coi
chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.

*Quyết tâm và mục tiêu chiến lược:

- Nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “kiên quyết đánh
bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm
bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng Dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.

- Đây là tư tưởng, chiến lược tiến công trong bối cảnh quốc tế và trong nước mà
nhiều người, nhiều Đảng không hiểu. Sau này, họ mới thừa nhận Đảng ta nhận
định đúng tình hình, có tư tưởng, có quyết tâm đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ.

- Bạn bè quốc tế, thế giới lo ngại về phong trào cách mạng miền Nam Việt Nam
trước bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ, một kẻ hiếu chiến, nhiều tiềm lực, rất
ngoan cố và xảo quyệt. Trước thời kỳ khó khăn như vậy, Bác Hồ ra lời kêu gọi
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song người Việt Nam
quyết không sợ”. Đó là chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Và “đến
ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn”. Ta không những dám đánh Mỹ, mà còn khẳng định đánh thắng Mỹ, thể hiện
bản lĩnh, trí tuệ của Việt Nam. Đặt trong cùng bối cảnh ấy, không phải nước nào
cũng dám đưa ra quyết định đánh Mỹ, nhưng Việt Nam ta dám làm điều đó, dám
thống nhất việc đó.

*Phương châm chỉ đạo chiến lược:

Tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở
miền Nam, đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại
của Mỹ ở miền Bắc .Đánh lâu dài , dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng
mạnh, cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả 2 miền để mở những
cuộc tiến lớn , tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương
đối ngắn trên chiến trường miền nam.đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết
thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra tiếp tục xây dựng miền
Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo
vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân
và hải quân của địch, chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng
đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc
chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ cả ở miền Nam lẫn miền Bắc.

*Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam:

- Tư tưởng chỉ đạo :Giữ vững và phát triển thế tiến công .Tiếp tục kiên trì

phương châm kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị , triệt để

thực hiện 3 mũi giáp công ,đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược. “Trong

giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một
vị trí ngày càng quan trọng”

- Ngày 20/7/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân nêu cao tinh thần cảnh giác và chí khí chiến đấu, tăng cường đoàn kết, ra sức
thi đua sản xuất và chiến đấu. Người khẳng định: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ
cướp nước,đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên
quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa,
chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn

*Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng
không quân, hải quân của Mỹ đã diễn ra cực kỳ ác liệt và tàn khốc. Mỹ đã cho máy
bay, tàu chiến ném bom, đánh phá hầu hết các vị trí quân sự, dân sự quan trọng, thả
mìn phong tỏa các cửa biển, lạch sông hòng ngăn chặn sự tiếp tế bên ngoài vào
miền Bắc.

=> Chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt nhưng nhân dân miền Bắc cũng như nhân
dân cả nước không hề nao núng.

 Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc:

Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh
về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho
cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để
đánh bại địch trong trường hợp chúng liều mình mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra
cả nước. Miền Bắc phải có đủ sức mạnh, kịp thời với yêu cầu tự bảo vệ, chống lại
các cuộc ném bom bắn phá và phong tỏa của địch.

 Chuyển hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc:

- Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước:
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải
Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

- Tính đến cuối tháng 5-1965, trên toàn miền Bắc đã có hơn 2 triệu 50 vạn nam nữ
thanh niên ghi tên tình nguyện “3 sẵn sàng”.

- Quân dân miền Bắc đánh trả quyết liệt không quân, hải quân Mỹ, bắn hạ hàng
nghìn máy bay, bắn cháy hàng chục tàu chiến Mỹ, tiêu diệt hoặc bắt sống nhiều
giặc lái.
- Bảo đảm giao thông vận tải thông suốt liên tục trở thành một trong những công
tác trọng tâm của kháng chiến.

- Duy trì sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp, các nhà máy được sơ tán, bảo
vệ để tiếp tục sản xuất. Đặc biệt chú trọng việc xây dựng và phát triển công nghiệp
địa phương.

- Các mặt văn hóa, giáo dục, đào tạo cán bộ, y tế phát triển, bảo đảm cho miền Bắc
càng đánh càng mạnh. Đời sống nhân dân cơ bản ổn định.

*Chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam:

- Trong khoảng thời gian 1965-1968, gần 89 vạn thanh niên miền Bắc được động
viên vào lực lượng vũ trang. Hơn một nửa bộ đội chủ lực và gần 80% vũ khí, đạn
dược đưa vào miền Nam là được động viên từ miền Bắc.

- Tháng 1/1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III
quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ
và giúp đỡ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ… hỗ trợ cho đấu tranh
chính trị và quân sự của quân dân ta.

*Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa 2 cuộc chiến đấu ở 2 miền:

+ Từ ngày 5-8-1964, sau khi dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” nhằm lấy cớ, đế quốc
Mỹ đã dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam. Cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ diễn ra rất ác liệt kể từ đầu tháng 2-1965, với ý đồ
đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá; phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc; ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam; đè bẹp ý chí
quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của cả dân tộc Việt Nam, buộc chúng ta phải kết
thúc chiến tranh theo điều kiện do Mỹ đặt ra.

+ Trước tình hình đó, theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và lần thứ
12, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời xác định chủ trương chuyển
hướng và nhiệm vụ cụ thể của miền Bắc cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới
trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh:
Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến
lớn, miền Bắc là hậu phương lớn, những nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng,
vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

=> Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng
miền Nam.

 Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức
tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm bảo đảm chi viện đắc lực cho
miền Nam càng đánh càng mạnh. Hướng tích cực nhất để làm thất bại âm mưu
của địch là tập trung lực lượng của cả nước để đánh bại hoàn toàn địch ở miền
Nam.

 Nhiệm vụ cấp bách ở miền Bắc là phải kịp thời chuyển hướng về tư tưởng và
tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng
cho phù hợp với tình hình mới.

=> Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Khẩu
hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược”.

2. Quá trình hình thành, thực hiện và ý nghĩa của đường lối:
a. Quá trình hình thành:
Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam, các hội
nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961 và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương giữ vững
và phát triển thế tiến công mà ta đã giành được sau cuộc "đồng khởi" năm 1960,
đưa cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh
cách mạng trên quy mô toàn miền.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ chín (tháng 11-1963), ngoài việc xác định đúng
đắn quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, còn quyết định nhiều vấn đề
quan trọng về cách mạng miền Nam. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính
trị, đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản, đồng thời
nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang. Đối với miền Bắc, Hội nghị tiếp
tục xác định trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền Nam,
đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt, sẵn sàng đối phó với âm mưu
đánh phá của địch.
Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản
của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân Mỹ và quân
các nước chư hầu vào miền Nam, tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” với quy mô
lớn; đồng thời dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối
với miền Bắc.
Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 11 (3 - 1965) và Hội nghị Trung ương 12
(12 - 1965) đã phân tích âm mưu, bản chất của đế quốc Mỹ, đã đánh giá so sánh
lực lượng giữa ta và địch, đi tới kết luận: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam
hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch không thay đổi
lớn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định quyết tâm và nhiệm vụ chung của
cả nước lúc này là: Kiên quyết giữ vững thế chiến lược tiến công, động viên lực
lượng cả nước, quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Tập trung lực lượng cả nước, kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị đánh
bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trên chiến trường chính là miền Nam.
Trước những thất bại liên tiếp của địch trên chiến trường, Đảng ta chủ trương:
Cùng với các mũi tiến công quân sự và chính trị, cần mở thêm mặt trận tiến công
ngoại giao, nhằm tố cáo, vạch trần thủ đoạn hòa bình kiểu lừa bịp của đế quốc
Mỹ. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 13 (khóa III) (tháng 01 - 1967) quyết định
triệt để tận dụng thời cơ, mở mặt trận ngoại giao, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị nhằm đưa cuộc kháng chiến lên bước phát triển mới.
Sau khi Hiệp định Pari được ký (1 - 1973), địch tiến hành nhiều hoạt động lấn
chiến và phá hoại Hiệp định. Trước tình hình đó, tháng 7 - 1973, Hội nghị TƯ
Đảng lần thứ 21, khoá III họp và ra Nghị quyết lịch sử: "Thắng lợi vĩ đại của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới”; Hội nghị xác định: “con đường của cách mạng miền Nam là con đường
cách mạng bạo lực, bất kể trong tình huống nào phải nắm vững thời cơ, giữ vững
chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt”4.
Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 1) bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam
(10 - 1974), và Hội nghị Bộ Chính trị (đợt 2) (từ ngày 8 - 12 - 1974 đến ngày 7 - 1
- 1975), chỉ rõ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp,
đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch
tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.
*Quá trình thực hiện đường lối của Đảng cụ thể được chia làm 3 giai đoạn
chính:
-.1965-1968: Giai đoạn tăng cường quân sự và chính trị
• Trong giai đoạn này, quân đội Mỹ tăng cường chiến lược quân sự, tiến hành các
cuộc không kích mạnh mẽ.
• Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập trung vào việc tăng cường sự đoàn kết nội bộ và
lập kế hoạch cho một chiến lược chống lại quân đội Mỹ và phe Ngụy.
• Cuộc Kháng chiến cơ bản đã được triển khai, kết hợp cả chiến lược quân sự và
chính trị.

- 1968-1973: Giai đoạn Chiến tranh Điện Biên Phủ trên không:
• Cuộc Tổng tấn công và Nổi dậy Tết 1968 (Tết Mậu Thân) đã đánh dấu sự thất bại
của Mỹ trong việc duy trì sự kiểm soát trên đất liên Việt Nam.
• Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục chỉ đạo quân đội và dân quân đối phó với chiến
dịch quân sự của Mỹ và Đồng minh trên nhiều mặt trận.
• Cuộc Thương lượng Paris bất đầu vào cuối năm 1968, nhưng các cuộc đàm phán
kéo dài và không mang lại kết quả đáng kể trong việc chấm dứt cuộc chiến.

- 1973-1975: Giai đoạn Cuộc tấn công chung và sự kết thúc của Chiến tranh:
• Sau khi Hòa ước Paris được ký kết vào năm 1973, quân Mỹ đã rút khỏi Việt
Nam, và quân đội miền Nam được trang bị vũ khí từ Mỹ để tự bảo vệ.
• Tuy nhiên, sự ổn định trong miền Nam không kéo dài khi quân đội Bắc Việt Nam
tiếp tục cuộc tân công.
• Cuối cùng, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân Bắc Việt Nam chiếm thành phố
Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), đánh dấu sự kết thúc của chiến tranh và
thống nhất đất nước.
=> Trong suốt giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đóng vai trò lãnh đạo
chính trong việc chỉ đạo chiến tranh và cùng dân tộc Việt Nam đối phó với thách
thức lớn nhất từ Mỹ và các lực lượng đồng minh.

Tổng quát kết quả của đường lối tiền hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ 2
chiến lược cách mạng ở hai miền Nam, Bắc
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố khách quan
và chủ quan khác nhau. Trong những nhân tố đó, đường lối tiến hành đồng thời và
kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc) là nhân tố quyết định.

Đại hội IV (năm 1976) của Đảng khẳng định: "Nhân tố quyết định thắng lợi quan
trọng nhất là sự lãnh đạo của Đảng ta với đường lối chính trị, đường lối quân sự
độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo. Đó là đường lối giương cao hai ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng quan
hệ chặt chẽ với nhau: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, hoàn thành thống nhất nước nhà, tạo điều
kiện để đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với đường lối ấy, Đảng ta đã động
viên được đến mức cao nhất lực lượng nhân dân hùng hậu cả nước, kết hợp tiền
tuyến lớn với hậu phương lớn, kết hợp sức mạnh nhân dân ta với sức mạnh ba
dòng thác cách mạng của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ và thắng
Mỹ".

. Đường lối đó được Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo và đem lại kết quả trong thực
tiễn. Quá trình đó diễn ra trong nhiều giai đoạn kế tiếp nhau.
* Giai đoạn 1954 - 1960:

Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm, củng cố hoà bình, tiến tới cuộc
"Đồng khởi". "Đồng khởi" thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách
mạng miền Nam, từ thế giữ gìn lực lượng chuyển sang thế tiến công.

Miền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế, hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Bắc (đặc biệt là Cải cách ruộng đất);
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế; phát triển kinh tế - xã hội.

Những thắng lợi của cách mạng hai miền đã tác động, hỗ trợ lẫn nhau trong hoàn
thành nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước. Miền Bắc đã bước đầu mở đường
(5/59; 7/59) chuẩn bị chi viện cho tiền tuyến miền Nam đánh Mỹ. Mặt khác, với
những thành tích đã đạt được, miền Bắc cổ vũ mạnh mẽ về mặt tinh thần cho cuộc
đấu tranh của đồng bào ta ở miền Nam. Miền Nam trực tiếp đấu tranh chống Mỹ -
Diệm cũng góp phần quan trọng ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh của đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai ở Việt Nam và Đông Dương.

* Giai đoạn 1961 - 1965:

Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ ở
Miền Nam. Với thắng lợi này, ta vừa giữ được quyền chủ động, vừa tạo ra thế trận
mới cho cách mạng miền Nam; vừa làm phá sản một hình thức chiến tranh; đẩy
Mỹ và chính quyền ngụy vào thế bị động chiến lược trên toàn chiến trường miền
Nam.

Cũng giai đoạn này, Đảng lãnh đạo tiến hành thắng lợi Kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất ở miền Bắc (1961 - 1965). Với thắng lợi này, cùng với kết quả xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc giai đoạn 1954 - 1960, đã "đưa miền Bắc tiến những bước
dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi
mới".

Những thắng lợi của cách mạng hai miền đã tác động, hỗ trợ lẫn nhau trong hoàn
thành nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước. Với thắng lợi của cách mạng miền
Nam tiếp tục góp phần quan trọng bảo vệ vững chắc miền Bắc xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Còn với thắng lợi của cách mạng miền Bắc, tiếp tục cổ vũ tinh thần cho
quân và dân ta ở miền Nam đánh Mỹ. Mặt khác, những thành tích đã đạt được ở
miền Bắc còn góp phần quan trọng tạo ra điều kiện vật chất chi viện cho chiến
trường miền Nam.

* Giai đoạn 1965 - 1968:

Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ở miền
Nam. Thắng lợi của quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn
1965 - 1968, đỉnh cao là chiến dịch Mậu Thân 1968, đã làm đảo lộn thế chiến lược
của địch trên chiến trường, làm choáng váng cả nước Mỹ, chấn động dư luận thế
giới, tạo ra bước ngoặt quan trọng của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự phá sản của
chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược và buộc đế
quốc Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc không điều kiện, chấp nhận đàm
phán trực tiếp với ta tại Hội nghị Pari.

Cũng giai đoạn này, ở miền Bắc Đảng lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta, tiến hành
chuyển hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
cả nước có chiến tranh; đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế
quốc Mỹ.

Những thắng lợi của cách mạng hai miền đã tác động, hỗ trợ lẫn nhau trong hoàn
thành nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước. Với những thắng lợi ở miền Bắc đã
góp phần quan trọng bảo vệ miền Bắc, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng
thời, giai đoạn này, miền Bắc còn tăng cường chi viện cho miền Nam làm tròn vai
trò to lớn của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Với những thắng lợi to lớn
trên chiến trường miền Nam, không những trực tiếp làm phá sản một hình thức
chiến tranh điển hình của đế quốc Mỹ, ở miền Nam, mà còn góp phần quan trọng
cùng miền Bắc đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh ra cả nước của đế quốc Mỹ.

* Giai đoạn 1969 - 1973:

Đảng lãnh đạo đánh thắng chiến lược "Việt Nam hóa" và "Đông Dương hoá" chiến
tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Thắng lợi của quân và dân ta thể hiện: Trong
hai năm 1970 - 1971, quân dân ta ở miền Nam cùng với quân dân hai nước Lào và
Campuchia đã giành những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự,
chính trị và cuộc tiến công chiến lược 1972 đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, giáng đòn mạnh mẽ vào ngụy quân (công cụ chủ yếu) và quốc
sách "bình định" (xương sống) của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh".

Cũng trong giai đoạn này, ở miền Bắc, Đảng lãnh đạo quân và dân ta thực hiện
những nhiệm vụ chính trị quan trọng: Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội; đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ hai của đế quốc Mỹ, đặc biệt là đánh bại cuộc tập kích bằng đường không, 12
ngày đêm (18 - 29/12/1972), của đế quốc Mỹ.

Những thắng lợi của cách mạng hai miền đã tác động, hỗ trợ lẫn nhau trong hoàn
thành nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước. Với thắng lợi của chúng ta trên
chiến trường miền Nam và Đông Dương đã góp phần quan trọng chia lửa với đồng
bào miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Với thắng lợi của cách
mạng miền Bắc đã góp phần quan trọng cùng với đồng bào ta ở miền Nam đánh
thắng chiến lược "Việt Nam hóa" và "Đông Dương hoá" của đế quốc Mỹ. Mặt
khác, với thắng lợi của cách mạng hai miền đã góp phần quan trọng tạo ra thế trận
có lợi cho chúng ta trên bàn ngoại giao, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến
tranh phá hoại miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán, kí kết Hiệp định Pari về "chấm
dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam".

* Giai đoạn 1973 - 30/4/1975:

Giai đoạn này, dưới sự chỉ đạo của Đảng, cách mạng hai miền tập trung thực hiện
nhiệm vụ chiến lược: Tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ và tổng tiến công nổi dậy giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Để làm được điều đó, quân và dân ta ở miền Nam tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh
chính trị đòi quân địch thi hành hiệp định Pari, tổ chức xây dựng lực lượng, phản
công chống lại những cuộc hành quân tràn ngập lãnh thổ của kẻ địch; sau đó, đánh
một số trận có tính chất thăm dò và hoàn thành thế trận cho trận đánh cuối cùng
của ta.

Giai đoạn này, quân và dân ta ở miền Bắc tiếp tục hăng hái thi đua sản xuất, tăng
cường chi viện sức người, sức của cho miền Nam đánh Mỹ. Sau quá trình chuẩn bị,
cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã diễn ra.

Như vậy, cách mạng miền Nam là tiền tuyến lớn trực tiếp đánh bại các chiến lược
chiến tranh của đế quốc Mỹ, đồng thời, góp phần quan trọng bảo vệ sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở hậu phương lớn miền Bắc. Cách mạng miền Bắc tạo ra
một bộ mặt mới, với những bước tiến chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc còn tạo ra một hình ảnh vô cùng đẹp
đẽ, có sức cổ vũ lớn lao cho đồng bào ta ở miền Nam đánh Mỹ và thắng Mỹ.

*Ý nghĩa của đường lối:


Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được khởi xướng trên những cơ
sở khách quan, khoa học, trước bối cảnh quốc tế có những chuyển biến hết sức sâu
sắc và nhanh chóng. Đường lối đổi mới đã đi vào cuộc sống và ngày càng thể hiện
tính đúng đắn và sáng tạo của nó, điều đó cho thấy tinh thần độc lập, tự chủ và
sáng tạo của Đảng trong việc khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới.
Hơn 30 mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, mặc dù còn nhiều vấn đề mới nảy
sinh cần tiếp tục thử ngiệm và hoàn thiện, song con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Nền chính trị ổn định, kinh tế tiếp tục
tăng tưởng, kết cấu hạ tầng xây dựng đồng bộ và ngày càng khang trang, đời sống
vật chất và tinh thần của đại bộ phận các tầng lớp dân cư được cải thiện. Điều đó
cho phép chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn, khoa học và sáng tạo.
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các Hội nghị
Trung ương lần thứ 11 và 12 có ý nghĩa hết sức quan trọng:
+ Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, tinh
thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc,
phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta.
+ Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế
đất nước và bối cảnh quốc tế.
+ Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức
mình là chính được phát triển trong hoàn cành mới, tạo nên sức mạnh mới để dân
tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Đường lối chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi cả nước của Hội nghị Trung ương làn
thứ 11 và 12 đã được Đảng bổ sung, phát triển qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cuộc
kháng chiến. Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1967) đã chủ trương mở mặt trận
ngoại giao, kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị với ngoại giao, đưa tới cuộc đàm
phán Hội nghị Pari sau này. Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (1968) đã quyét định,
mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968 để kéo để quốc Mỹ xuống
thang chiến tranh. Hội nghị Trung ương lần thứ 21 (1973) xác định con đường phát
triển của cách mạng miền Nam sạu khi có Hiệp định Pari cơ bản vẫn là con đường
cách mạng tiến công. Đặc biệt, tại các Hội nghị Bộ Chính trị cuối năm 1974 (đợt 1)
và đầu năm 1975 (đợt 2) Đảng đã hạ quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam
theo một kế hoạch chiến lược kéo dài hai năm 1975-1976, đồng thời nêu dự kiến
nếu thời cơ thuận lợi sẽ giải phóng miền Nam trong năm 1975 và trên thực tế đã
mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam trước mùa
mưa năm 1975.
=> Như vậy, đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954 - 1975) là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh
qua các Hội nghị và Đại hội của Đảng từ năm 1954 đến năm 1975, đó là đường
lối chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, và được
tập trung trên những nội dung chủ yếu: Xác định mục đích, đối tượng, nhiệm vụ
chiến tranh là đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc; về chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp hai miền Nam, Bắc, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; và chủ trương tiến hành phương
thức tiến hành chiến tranh nhân dân với đặc trưng nổi bật kết hợp đấu tranh chính
trị với đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao; kết hợp chiến tranh du kích với
chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, thực hiện làm chủ
để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi
dậy để giành thắng lợi cuối cùng, cả nước hòa bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đường lối chiến tranh độc đáo, sáng tạo đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn và
vận dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về chiến tranh cách mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh
giặc, giữ nước của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh
của các nước xã hội chủ nghĩa và của thế giới. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa
quyết định trực tiếp giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta trong thế kỷ XX.
Nhận xét:
Như vậy, đường lối chiến tranh nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954 - 1975) là quá trình hình thành, bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh qua
các Hội nghị và Đại hội của Đảng từ năm 1954 đến năm 1975, đó là đường lối
chiến tranh toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, và được tập
trung trên những nội dung chủ yếu: Xác định mục đích, đối tượng, nhiệm vụ chiến
tranh là đánh thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc; về chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp hai miền Nam, Bắc, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; và chủ trương tiến hành phương thức tiến
hành chiến tranh nhân dân với đặc trưng nổi bật kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh
chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, thực hiện làm chủ để tiêu diệt
địch, tiêu diệt địch để làm chủ; tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy để
giành thắng lợi cuối cùng, cả nước hòa bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối chiến tranh độc đáo, sáng tạo đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn và vận
dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh cách mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật đánh giặc, giữ
nước của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của các
nước xã hội chủ nghĩa và của thế giới. Đó cũng là nhân tố có ý nghĩa quyết định
trực tiếp giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân
ta trong thế kỷ XX.

Những yếu tố quyết định làm nên chiến thắng vĩ đại


Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) là cuộc chiến dài nhất, ác liệt
nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Trải qua 21 năm chiến đấu, Việt Nam đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược
kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một
mối. Chiến công ấy là “một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của
thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu
sắc."
Để làm nên chiến thắng vĩ đại ấy là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố
quyết định nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng.

- Đảng đề ra đường lối, phương pháp và hình thức đấu tranh thích hợp

Sau khi Hiệp định Geneva về lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, trước ý đồ
thay thế Pháp, xâm lược miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ, tháng 7/1954, tại
Hội nghị Trung ương lần thứ 6, Đảng ta đã sớm xác định: kẻ thù chính của nhân
dân thế giới và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương là
đế quốc Mỹ.

Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng (tháng 1/1959),
lực lượng ba thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp từng bước hình thành.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Các căn cứ địa
cách mạng tại chỗ được khôi phục và mở rộng; đường bộ 559, đường biển 759
được hình thành và phát huy tác dụng…

 Sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của miền Bắc đã thúc đẩy cách mạng miền Nam
phát triển; đã vượt qua thử thách nghiêm trọng nhất, từ thoái trào và giữ gìn
lực lượng đã chuyển sang thế tiến công.

Sau khi Hiệp định Geneva về lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, trước ý đồ
thay thế Pháp, xâm lược miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ, tháng 7/1954, tại
Hội nghị Trung ương lần thứ 6, Đảng ta đã sớm xác định: kẻ thù chính của nhân
dân thế giới và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương là
đế quốc Mỹ.

Sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng (tháng 1/1959),
lực lượng ba thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp từng bước hình thành.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Các căn cứ địa
cách mạng tại chỗ được khôi phục và mở rộng; đường bộ 559, đường biển 759
được hình thành và phát huy tác dụng…

- Vạch rõ nhiệm vụ chiến lược của hai miền Nam-Bắc

Từ tháng 7/1954, Đảng ta đã xác định phải xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa
cách mạng của cả nước. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7
(tháng 3/1955), nhiệm vụ của hai miền được xác định rõ hơn: "Miền Bắc có vai trò
quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước
nhà; miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân."

Tiếp theo đó, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (tháng 12/1957), Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc. Trong đó, nhiệm vụ củng cố miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội (chủ nghĩa xã hội) có tính chất quyết định thắng lợi của cách mạng trong giai
đoạn mới; lực lượng cách mạng miền Nam cần tiếp tục duy trì và phát triển. Đảng
ta coi đó là nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước.

 Miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp giải phóng
miền Nam, thống nhất nước nhà; miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp
trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960), vị trí của cách
mạng mỗi miền được Đảng ta tiếp tục khẳng định tiến hành cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự nghiệp phát triển của
toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn đồng
bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và
bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam. Đồng thời cũng là "theo yêu cầu
của cả nước, góp phần bảo vệ miền Bắc và tạo điều kiện thuận lợi cho miền Bắc
xây dựng chủ nghĩa xã hội."

Thực tế đã chứng minh, sự gắn bó của cách mạng hai miền đã tạo nên sức mạnh vô
địch trên toàn đất nước. Miền Bắc đã dốc vào chiến tranh giữ nước và cứu nước
toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành một cách xuất sắc
nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước. Còn nhân dân miền Nam, dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã thể hiện vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện sáng tạo đường lối cách mạng của Đảng trong cuộc
chiến đấu kiên cường, dẻo dai, vượt qua mọi thử thách ác liệt, sáng tạo ra nhiều
cách đánh đầy uy lực như đồng khởi, vành đai diệt Mỹ, đánh địch bằng hai chân,
ba mũi, ba vùng... xứng đáng là thành đồng của Tổ quốc.

- Dự kiến chính xác tình hình

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã dự kiến sớm và đúng xu thế diễn biến
của chiến tranh nên đã đề ra các chủ trương đối phó đúng đắn, chủ động và sáng
tạo.

Khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đi đến thất bại, Đảng ta đã dự kiến
địch có thể leo thang lên nấc cao hơn và có thể đánh ra miền Bắc. Lúc Mỹ ồ ạt đưa
quân vào miền Nam, Đảng ta đã đánh giá đúng so sánh lực lượng địch-ta; kiên
định quyết tâm đánh Mỹ; đã chủ động kết hợp tốt phản công với tấn công.

Tại các hội nghị của Bộ Chính trị, của Trung ương Đảng năm 1967, đầu năm 1968,
Đảng ta vạch rõ cần phải tạo ra một chuyển biến lớn về tình hình có lợi cho ta giữa
lúc Mỹ đang ở thế ngập ngừng về chiến lược, giới cầm quyền Mỹ đang hoang
mang, dao động, phải tạo được một bước ngoặt lớn của chiến tranh, dùng cách
đánh mới, giáng một đòn bất ngờ thật mạnh vào ý chí xâm lược của Mỹ.

Với những phán đoán đúng và dự kiến sớm, ta đã chuẩn bị tốt và đánh bại cuộc
chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích
chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Thủ đô Hà Nội (tháng
12/1972), buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt
Nam.

Đảng ta đã lựa chọn hướng tiến công không phải là rừng núi và nông thôn mà là đô
thị, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, nơi địch sơ hở… Đồng thời dự kiến các
khả năng và quyết định Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Điều này
thể hiện rõ tư duy quyết đoán, sáng tạo và cách đánh mới rất bất ngờ, đầy hiệu lực
của Đảng ta. Nhờ đó đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngày 1/11/1968, đế
quốc Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và đánh phá (lần thứ nhất)
trên toàn bộ miền Bắc, đánh dấu sự phá sản hoàn toàn của chiến lược “chiến tranh
cục bộ."

Đảng ta cũng đã dự kiến trước khả năng Mỹ có thể đánh bom, bắn phá trở lại miền
Bắc, mở rộng chiến tranh sang Lào, Campuchia để gây sức ép với ta. Đồng thời
thấy rõ những điểm yếu của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh," Đảng ta đã
tìm ra phương hướng chiến lược "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào."

Với những phán đoán đúng và dự kiến sớm, ta đã chuẩn bị tốt và đánh bại cuộc
chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên miền Bắc, nổi bật là đánh thắng cuộc tập kích
chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Thủ đô Hà Nội (tháng
12/1972), buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt
Nam.

- Nắm bắt thời cơ

Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp đợt 1 từ ngày 19/6 đến
6/7; đợt hai từ ngày 1 đến 4/10/1973) đã phân tích sâu sắc diễn biến tình hình trên
chiến trường, trong nước, trong khu vực và trên thế giới có liên quan đến cuộc
chiến tranh ở Việt Nam; chỉ rõ âm mưu, hành động chống phá Hiệp định Paris
ngày càng trắng trợn của Mỹ-ngụy

 Từ đó, Đảng ta khẳng định dứt khoát con đường của cách mạng miền Nam
là con đường bạo lực cách mạng, bất kỳ trong tình hình nào, ta cũng phải
nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công, chỉ đạo linh
hoạt, mềm dẻo để đưa cách mạng miền Nam tiến lên.

Từ giữa năm 1974, nguồn viện trợ kinh tế, quân sự từ Mỹ ngày càng bị cắt giảm,
làm cho chính quyền và quân đội ngụy Sài Gòn lâm vào cuộc khủng hoảng ngày
càng trầm trọng. Nắm bắt thời cơ, Đảng ta đã chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng lực
lượng, chuẩn bị chiến trường. Các binh đoàn chiến lược được thành lập, hệ thống
đường ống dẫn dầu được mở rộng; một khối lượng lớn vật chất, phương tiện chiến
tranh được chuyển nhanh ra tiền tuyến.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tháng 7/1974, Bộ Tổng Tham mưu khởi thảo kế hoạch
giải phóng miền Nam. Tháng 10 và tháng 12/1974, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung
ương cùng Bộ tư lệnh miền Nam họp bàn về quyết tâm và kế hoạch giải phóng
miền Nam trong hai năm 1975-1976 và dự kiến: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Và trước tình thế cách mạng và thời cơ đã đến, Đảng ta quyết định mở Chiến dịch
Tây Nguyên với trận đột phá chiến lược Buôn Ma Thuột (ngày 10/3/1975). Với
chiến thắng này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương kịp thời bổ sung quyết tâm
giải phóng miền Nam trong năm 1975. Sau khi Huế được giải phóng (26/3) và Đà
Nẵng được giải phóng (29/3), đến ngày 3/4, ta giải phóng hoàn toàn các tỉnh đồng
bằng ven biển miền Trung, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh từ
ngày 26/4.

11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh và
toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn bị bắt, phải tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện.

- Phát huy cao độ nghệ thuật quân sự và chiến tranh nhân dân

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nghệ thuật
quân sự và chiến tranh nhân dân Việt Nam đã phát triển tới đỉnh cao. Nhân tố bảo
đảm cho sự phát triển không ngừng của chiến tranh nhân dân đó là lực lượng vũ
trang nhân dân, gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du
kích được xây dựng vững mạnh, bố trí rộng khắp; trong đó, các binh đoàn chủ lực
giữ vai trò nòng cốt trong các chiến dịch, thực hiện tác chiến hiệp đồng quân, binh
chủng quy mô lớn.

 Nắm vững quy luật chiến tranh, vận dụng và thực hiện sáng tạo nghệ thuật
quân sự của chiến tranh nhân dân, chúng ta đã từng bước chuyển hóa cục
diện chiến trường theo hướng có lợi, luôn đánh địch trên thế mạnh, thế chủ
động, thế bất ngờ.

Nét đặc sắc, độc đáo của chiến tranh nhân dân còn được thể hiện ở chỗ đã kết hợp
chặt chẽ các nhân tố "thế, lực, thời, mưu" trong từng trận đánh, từng chiến dịch
một cách linh hoạt, làm cho địch không thể lường được các hướng, mũi, lực lượng
và sức mạnh tiến công của ta. Đó là cơ sở để Đảng ta kiên trì thực hiện phương
châm chiến lược: đánh đổ từng bộ phận quân địch, giành thắng lợi từng bước, tiến
tới đánh bại hoàn toàn quân địch, giành thắng lợi cuối cùng bằng cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Đại thắng mùa Xuân 1975 là thành quả vĩ đại của nhân dân Việt Nam, thể hiện ý
chí, khát vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam trong Thời đại
Hồ Chí Minh. Với đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, Đảng ta đã huy động
được cao nhất sức mạnh của cả nước, bao gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh
chính trị-tinh thần, sức mạnh truyền thống yêu nước nồng nàn của đất nước ngàn
năm văn hiến cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược lâu dài, cam go
và quyết liệt.

Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trước và sau giai đoạn 1965-1975 có
sự thay đổi
Nhận xét về sự thay đổi:
- Ưu điểm:
+ Đoàn kết và sự phục vụ lý tưởng: Đảng đã đẩy mạnh việc tạo ra một tinh thần
đoàn kết cao độ giữa quần chúng và lực lượng vũ trang, với mục tiêu thống nhất
đất nước và xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.
+ Sự hiệu quả trong chiến tranh: Đảng đã triển khai một chiến lược quân sự khôn
ngoan và hiệu quả, giúp giảm bớt sức mạnh của quân đội Mỹ và quân lực miền
Nam, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thắng lợi trong cuộc chiến.
+ Sự hỗ trợ của quốc tế: Đảng đã tận dụng tốt mối quan hệ với các nước và tổ
chức quốc tế, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, để nhận được sự hỗ trợ quân sự
và chính trị quan trọng trong cuộc chiến.
+ Sự lãnh đạo chắc chắn: Lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là Hồ Chí Minh, đã có sự
thống nhất trong việc đưa ra các quyết định chiến lược quan trọng, tạo điều kiện
cho sự thực hiện linh hoạt của chiến lược.

- Nhược điểm:
+ Thiếu dự trữ và tài nguyên: Mặc dù đã có sự hỗ trợ từ quốc tế, nhưng tài nguyên
của Việt Nam vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trong việc cung cấp vũ khí và nguồn lực
tài chính.
+ Sự chia rẽ nội bộ: Có một số mâu thuẫn và chia rẽ nội bộ trong Đảng, đặc biệt là
về các chiến lược chiến tranh và phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến hiệu quả của quá
trình ra quyết định.
+ Sự phản đối trong nước: Mặc dù có sự hỗ trợ rộng rãi từ một số phân khúc của
xã hội Việt Nam, nhưng vẫn có sự phản đối từ một số tầng lớp dân cư, đặc biệt là
sau sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968. + Tổn thất và thiệt
hại: Cuộc chiến đã gây ra tổn thất lớn về người và tài sản cho cả hai bên, gây ra
những hậu quả kéo dài cho sự phát triển kinh tế và xã hội của Việt Nam sau này.
=> Tóm lại, giai đoạn từ năm 1965 đến 1975 đã chứng kiến sự phát triển của
Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua việc điều chỉnh chiến lược và tổ chức để phản
ứng linh hoạt với tình hình chiến tranh phức tạp.

You might also like