You are on page 1of 16

Nhóm 6

1. Quá trình mở rộng quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế


1.1 Bối cảnh quốc tế và Việt Nam
Sau sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực Ianta cùng với sự xuất hiện
của khối liên minh Châu Âu (EU), thế giới đã có sự chuyển biến mới. Và sự
chuyển biến này cũng góp phần tích cực vào công cuộc phá tan âm mưu xây dựng
trật tự đơn cực của Mỹ vào những năm 70 của thế kỷ 20. Đến thời điểm này, sự
chuyển biến ấy được xem là một xu thế mới mà mỗi quốc gia đều hướng tới, và nó
được biết đến với tên gọi là xu hướng “Toàn cầu hóa”.
Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, toàn cầu hóa là một cơ
hội cực kì tốt cho quá trình trưởng thành. Bằng việc hội nhập quốc tế, Việt Nam có
thể giao lưu, học hỏi kinh nghiệm với bạn bè quốc tế trong nhiều lĩnh vực, từ đó dễ
dàng tăng trưởng kinh tế thông qua việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật tân tiến từ các nước trong khu vực và trên trường quốc tế. 
a. Bối cảnh quốc tế.
Với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường duy nhất, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chiến
lược quân sự, an ninh toàn cầu bằng việc tập hợp lực lượng, điều chỉnh chiến lược
với từng khu vực để khống chế, kìm hãm các thế lực thách thức “ngôi vị số 1” của
mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chính quyền Mỹ vừa phải thận trọng
trong việc tìm cách cân bằng lợi ích của Mỹ trên thế giới, vừa củng cố và tăng
cường vị thế siêu cường, đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, đảm bảo cho họ vẫn là quốc
gia đặt ra “luật chơi” trong quan hệ quốc tế.
Trung Quốc với sức mạnh được tăng lên sau nhiều năm phát triển, đang mở
rộng không gian chiến lược để khẳng định vị thế cường quốc khu vực và quốc tế.
Hiện nay, họ đang triển khai nhiều biện pháp, như: tăng thực lực quân sự, chú
trọng phát triển nhanh lực lượng hải quân để mở rộng hoạt động ra hướng biển, gia
tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, Đông Á, từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với
Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Tiến bước xa hơn, Trung Quốc đẩy mạnh thực
thi sáng kiến “Vành đai và con đường”, tham gia và thúc đẩy nhóm nền kinh tế
mới nổi (BRICS) và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), hướng tới xây dựng cơ
chế hợp tác lấy Trung Quốc là trọng tâm, động lực. Sự phát triển đó dẫn đến mâu
thuẫn, căng thẳng, cọ xát giữa Trung Quốc với Mỹ, diễn ra tại nhiều khu vực
trên thế giới, nhưng ở châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông theo
hướng ngày càng tăng.
Đối với Nga, Tổng thống V.I. Pu-tin đẩy mạnh các hoạt động nhằm giành
lại vị thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống và trên quốc tế, nhất là
trước sự kiềm tỏa của Mỹ và phương Tây, từ sau khi Nga sáp nhập Crưm. Điển
hình là, Nga tăng cường lực lượng, vũ khí, triển khai tấn công và giành nhiều thắng
lợi trong việc không kích lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) ở Xy-ri. Điều
đó chứng tỏ, mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế, nhưng Nga vẫn là một
cường quốc, có đủ lực để sẵn sàng bảo vệ lợi ích, đồng thời buộc Mỹ và phương
Tây phải tính tới vai trò của mình khi giải quyết những vấn đề trên thế giới.
Nhiều dự báo cho thấy, đến năm 2020, Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh
tế thế giới nhưng nhiều khả năng sẽ bị Ấn Độ thách thức ở vị trí số 3. Vì vậy,
nhằm duy trì vị thế của mình, trở thành một cường quốc có ảnh hưởng cả về kinh
tế, chính trị, quân sự trong khu vực và trên thế giới, Chính phủ Nhật Bản cho tiến
hành sửa đổi Hiến pháp, gỡ bỏ ràng buộc nội bộ để tăng quyền tự do hành động
trong một số vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia. Đồng thời, phát huy công cụ
“ngoại giao kinh tế”, tăng cường quan hệ đồng minh, liên kết chặt chẽ và chia
sẻ trách nhiệm với Mỹ trong những vấn đề quốc tế; tập trung xử lý quan hệ với
Trung Quốc, nhất là những căng thẳng trong tranh chấp biển, đảo; tham gia tích
cực vào các cơ chế hợp tác do ASEAN chủ đạo để có vai trò lớn hơn.
Còn đối với EU, đang hướng vào xử lý các vấn đề nổi cộm của khối, như:
Brexit, khủng hoảng nợ công, nhập cư, chống khủng bố, v.v. Vì vậy, sự quan
tâm và nguồn lực dành cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương có chiều hướng
giảm. Tuy nhiên, EU vẫn duy trì quan hệ với các đối tác ở các khu vực khác, trong
đó có ASEAN.
Tình hình trên cho thấy, sự cạnh tranh quyền lực, lợi ích và vị thế chiến lược
giữa các nước lớn, đặc biệt là giữa Mỹ, Trung Quốc và Nga đang diễn ra ngày càng
quyết liệt, tác động nhiều chiều đến đời sống quốc tế, cả tích cực và tiêu cực, tạo ra
thời cơ và thách thức đối với các nước vừa và nhỏ.

Mặt khác, trong bối cảnh chung của thế giới, ASEAN tiếp tục giữ và phát
huy vị trí địa chiến lược của mình, bảo đảm khả năng thích ứng và tự chủ trong
quan hệ với các nước lớn. ASEAN ưu tiên triển khai tầm nhìn 2025 và các kế
hoạch hợp tác trên 3 trụ cột: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; thu hẹp khoảng
cách phát triển, tăng cường kết nối; duy trì đoàn kết nội khối; đẩy mạnh quan hệ
đối ngoại với tất cả các đối tác ngoài khu vực, trong đó có EU.
Cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu 2008 – 2009 đã thúc đẩy
nhanh những chuyển dịch trên phạm vi toàn cầu cũng như ở từng nước, từng khu
vực tạo nên tương quan sức mạnh kinh tế giữa các trung tâm. Xu hướng đa trung
tâm, đa tầng nấc đang ngày càng được khẳng định. Nền tảng kinh tế thế giới có
những chuyển dịch căn bản, toàn cầu hóa và công nghệ thông tin phát triển mạnh
mẽ.
Xu hướng hội nhập, liên kết kinh tế đa tầng nấc, đặc biệt là các hiệp định
thương mại tự do (FTA), gia tăng mạnh. Nổi bật là các hiệp định FTA thế hệ mới
phát triển nhanh hơn, ngày càng sâu rộng, gắn kết với phát triển bền vững và ứng
phó với các thách thức toàn cầu. Châu Á – Thái Bình Dương đóng vai trò đầu tàu
trong tăng trưởng và liên kết toàn cầu. Hàng loạt các đàm phán FTA thế hệ mới tạo
ra những bước ngoặt trong liên kết kinh tế ở hầu khắp các khu vực, tiêu biểu là
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) kết thúc đàm phán 10/2015, Hiệp
định đối tác thương mại – đầu tư xuyên Đại Tây Dương Hoa Kỳ – EU (TTIP),
Khuôn khổ đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP) đều dự kiến kết thúc vào năm
2016.
b. Bối cảnh Việt Nam
Trong hơn 30 năm đổi mới và hòa nhập, Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu có thể kể đến như:
“Bước đầu xây dựng sự hội nhập”. Từ phá thế bị bao vây, cấm vận, chúng
ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Hiện nay, Việt
Nam đã mở rộng và nâng tầm ngoại giao với tất cả các nước láng giềng, các nước
lớn, và bạn bè truyền thống. Nhờ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi
của quốc tế. Cho đến nay, “nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước
trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan
hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”(6) và là
thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan
trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO, v.v.. Đối ngoại Đảng,
ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa
phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu,
góp phần củng cố chính trị, quốc phòng, an ninh; kinh tế, văn hóa - xã hội được
đẩy mạnh, qua đó tăng cường sự tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác.
“Tạo dựng môi trường”. Việt Nam đã không ngừng phát triển tạo dựng
môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội. Sau khi chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta có
sự liên kết quốc tế sâu rộng với hầu hết các nền kinh tế quan trọng trên thế giới.
Hiện nay, Việt Nam đã ký 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 3
FTA thế hệ mới có tiêu chuẩn rất cao. “Nếu cách đây 30 năm, chúng ta mới có
quan hệ kinh tế - thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ thì đến nay đã có
quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu đến nay đã đạt khoảng 600 tỉ USD, gấp khoảng 120 lần so với những
năm đầu của thời kỳ đổi mới”(7). Mặt khác, trong bối cảnh đại dịch COVID-19
diễn biến phức tạp, Việt Nam đã chủ động đóng góp có trách nhiệm vào sự nỗ lực
chung của quốc tế trong phòng, chống dịch COVID-19, đồng thời tranh thủ được
sự hỗ trợ to lớn của quốc tế về vắcxin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, góp phần quan
trọng trong phòng, chống dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
“ Xu hướng đối ngoại - ngoại giao cây tre”. Đối ngoại đã giữ vai trò tiên
phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào
việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước. Các vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo
điều kiện thuận lợi nhằm bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, góp phần củng cố hòa bình,
ổn định trong khu vực.Thực hiện tốt ngoại giao cây tre, kết hợp “cứng” và “mềm”,
đề cao hòa hiếu: “chúng ta luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, tích cực
trao đổi, đàm phán với các nước liên quan kiểm soát bất đồng, tìm kiếm giải pháp
cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp
quốc tế”.
“ Vị thế quốc gia được công nhận” vị thế và uy tín quốc tế của nước ta
trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy
trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.
Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết
trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn của Việt Nam đã nhận được sự
đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhờ đó vị thế và uy tín của Việt Nam
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

1.2. Quá trình mở rộng hội nhập quốc tế 


 Về quan hệ hợp tác song phương: 
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới,
mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các
nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và
nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc
tế. 
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước trong nhóm G8;  nâng quan
hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược toàn diện, gia
tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ
quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán,
20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn
phòng kinh tế văn hóa. 
 Về hợp tác đa phương và khu vực:  
Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc
tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế
giới (WB). Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và
đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu
vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương.  
     + Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA)
từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.  
     + Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á -
Âu (ASEM)  
     + Năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Á - Thái Bình Dương (APEC). 
     + Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một
bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán
gia nhập Tổ chức này. 
+ Việt Nam là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế,
đóng vai trò quan trọng trong ASEAN và nhiều cơ quan quan trọng của Liên hợp
quốc. Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an (HÐBA) Liên Hợp Quốc
(LHQ) các nhiệm kỳ 2008 - 2009 và 2020 – 2021; Chủ tịch ASEAN vào các năm
1998, 2010 và 2020…
+ Việt Nam cũng thể hiện xuất sắc cương vị nước chủ nhà của nhiều hội
nghị quốc tế quan trọng như Hội nghị Thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp
(Francophonie) lần thứ 7 năm.
+1997, Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu (ASEM) lần thứ 5 năm 2005, Hội
nghị Cấp cao Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm
2006 và 2017, Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132 (IPU-132)
năm 2015, Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) năm 2018 và tổ
chức thành công Thượng đỉnh Mỹ-Triều lần 2 năm 2019.
+ Sau khi Đại hội Đảng lần thứ XIII thông qua đường lối đối ngoại giai
đoạn mới, Việt Nam đã nhận được nhiều tin vui. Bên cạnh việc tiếp tục đảm nhiệm
vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã
trúng cử, chỉ định, tham gia rất nhiều cơ chế, diễn đàn của Liên hợp quốc. Điển
hình là Việt Nam tái đắc cử vị trí thành viên Ủy ban Luật pháp Quốc tế của Liên
hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2027, trúng cử vào Hội đồng chấp hành UNESCO nhiệm
kỳ 2021-2025, được bầu vào Hội đồng Thống đốc Cơ quan năng lượng nguyên tử
quốc tế (IAEA), trúng cử thành viên Hội đồng Khai thác Bưu chính của Liên minh
Bưu chính thế giới.

 
 
2. Thành tựu của Việt Nam trong hội nhập quốc tế
   Thực hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong
đường lối chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế (trước Đại hội XI là hội nhập
kinh tế quốc tế), quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam gần 30 năm qua đã, đang
đạt được nhiều kết quả to lớn, đưa Việt Nam bước vào một giai đoạn hội nhập
quốc tế sâu sắc và toàn diện hơn. Có thể đánh giá kết quả, thành tựu của hội nhập
quốc tế trên một số mặt chủ yếu như sau:
a.Chính trị-ngoại giao
Hội nhập quốc tế góp phần phá thế bao vây, cấm vận, nâng cao vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế. Điều này được phản ánh qua việc Việt Nam đã thiết lập quan
hệ ngoại giao, kinh tế - thương mại với hầu hết các nước, vùng, lãnh thổ và là
thành viên của nhiều tổ chức quốc tế ở khu vực và thế giới. Cho đến nay, Việt Nam
có quan hệ ngoại giao với 189 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ
kinh tế với hơn 221 thị trường nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chức và
diễn đàn quốc tế như: Cộng đồng Pháp ngữ (1970). Liên Hợp Quốc (1977). Điều
đó đã củng cố thêm vị thế quốc tế của Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc để Việt
Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước và vì hòa bình, hợp
tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á); Năm 1996 là thành viên của APEC (Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương); Năm 2000, ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam -
Hoa Kỳ; Tháng 1/2007 là thành viên chính thức của WTO (Tổ chức Thương mại
Thế giới) v.v... Trong thời gian qua, Việt Nam đã tham gia nhiều Hiệp định
Thương mại tự do (FTA) khu vực và song phương, như cùng với các nước ASEAN
ký FTA giữa ASEAN với Trung Quốc (2004), ASEAN - Hàn Quốc (2006),
ASEAN - Nhật Bản (2008)... Ký FTA song phương Việt Nam - Nhật Bản (2008),
Việt Nam - Chi Lê (2011), Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu (2015)... Năm
2020 ghi nhận thành công của Việt Nam trong vai trò Chủ tịch ASEAN lần thứ 37
trong bối cảnh đại dịch COVID-19 hoành hành khắp thế giới, bao gồm cả khu vực
ASEAN. Đây cũng là năm bản lề trong nhiệm kỳ đầu tiên của Việt Nam đảm
nhiệm vai trò Chủ tịch Nhóm Công tác về Hợp tác sở hữu trí tuệ các nước ASEAN
(AWGIPC).
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam
tập trung tăng cường, củng cố quan hệ hơp tác hữu nghị với các nước láng giềng và
các nước ASEAN, các nước có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toan diện, các
nước có quan hệ truyền thống kết hợp các hoạt động ngoại giao với hợp tác kinh tế
thương mại, đầu tư, văn hóa, khoa học kĩ thuật, giao dục, du lịch, và một số linh
khác phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Đến nay, Việt Nam đang là thành viên tích cực của nhiều tổ chức quốc tế và
khu vực quan trọng như: Tổ chức Liên Hợp quốc (UN), Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC)... Quá trình hội nhập của Việt Nam có cả ở
các cấp độ, phạm vi từ khu vực (ASEAN) đến liên khu vực (APEC, ASEM) và tới
toàn cầu (UN, WTO)... Với cương vị là thành viên hoặc gánh vác những trọng
trách lớn hơn: Ủy viên Không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm
kỳ 2008-2009, Chủ tịch ASEAN-2010, Tổng Thư ký ASEAN (2013-2017), Hội
đồng nhân quyền Liên Hiệp quốc (2014-2016)... Việt Nam đã thể hiện được trách
nhiệm và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, được các nước trên thế giới
đánh giá rất cao.
Những kết quả về thương mại nói trên cho thấy Việt Nam là đất nước “mở” sau
khi gia nhập WTO và thực thi nghiêm túc các cam kết gia nhập. Những thành tựu
đó là kết quả của quá trình nỗ lực, bền bỉ và kiên định thực hiện đồng bộ nhiều
chính sách đổi mới, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng;
nâng cao năng suất và sửa đổi các quy định pháp luật; thúc đẩy cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh theo hướng hiện đại, minh bạch, tạo sự cạnh tranh công
bằng, bình đẳng cho doanh nghiệp và tiệm cận với chuẩn mực quốc tế theo tinh
thần của WTO và các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục tham
gia.
 Hội nhập về quốc phòng - an ninh đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao
vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bên cạnh đó, ta tích cực
tham gia và xây dựng các cơ chế hợp tác quốc phòng- an ninh đa phương mà Việt
Nam là thành viên có trách nhiệm. Từ tháng 6/2014, Việt Nam đã chính thức cử
lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tính đến tháng
8/2020, Việt Nam đã cử 50 lượt sĩ quan tham gia các phái bộ gìn giữ hòa bình Liên
hợp quốc tại Cộng hòa Trung phi và Nam Xu đăng; đã tổ chức triển khai 2 bệnh
viện dã chiến cấp 2 mỗi bệnh viện gồm 63 quân nhân tại phái bộ Nam Xu đãng và
đang tích cực chuẩn bị Đội công binh để triển khai tới phái bộ theo yêu cầu của
Liên hợp quốc.
b.Kinh tế-xã hội
Hội nhập quốc tế mở ra một không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt
Nam, tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế -
xã hội. Với việc Việt Nam trở thành thành viên của nhiều tổ chức khu vực và thế
giới, tham gia nhiều Hiệp định Thương mại tự do (FTA), mở rộng quan hệ kinh tế
song phương với hàng loạt quốc gia... đã giúp Việt Nam khắc phục được tình trạng
khủng hoảng thị trường do các đối tác truyền thống ở Liên Xô và các nước Đông
Âu bị thu hẹp đột ngột và do tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ khu vực bắt đầu từ năm 1997. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với hơn
230 thị trường nước ngoài; Việt Nam đã đi lên từ một nước nghèo, lạc hậu trong
khủng hoảng kinh tế - xã hội trở thành nước có thu nhập trung bình thấp; từ một
nước nhận viện trợ là chủ yếu thành đối tác hợp tác phát triển…
c.Khoa học-công nghệ
Thông qua hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã
tiếp thu đượckhoa học, công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến trên nhiều lĩnh
vực, qua đó góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nhờ tranh thủ được các nguồn vốn đầu tư và viện
trợ quốc tế, nhiều lĩnh vực hạ tầng như Bưu chính viễn thông, Công nghệ thông tin,
Giao thông vận tải… đã phát triển đáng kể, tạo tiền đề và cơ sở quan trọng, đáp
ứng yêu cầu, tạo thuận lợi cho hội nhập ở tất cả các lĩnh vực khác.
Việc hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế đã kích thích sự thay đổi tích cực
hơn của cơ cấu xuất khẩu, chuyển dần từ sản phẩm thô sang công nghiệp chế biến
và sản phẩm có hàm lượng công nghệ, giá trị tăng cao hơn, thúc đẩy tái cơ cấu
kinh tế theo hướng phát triển bền vững, tạo điều kiện cho nền kinh tế và các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp cận các yếu tố đầu vào như vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý..., thay đổi tư duy sản xuất, làm ăn mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Quá trình hội nhập quốc tế đã góp phần đào tạo cho Việt Nam những nhà quản
lý, các doanh nhân, đội ngũ nguồn nhân lực có trình độ và năng lực cả về chuyên
môn lẫn quản lý. Đồng thời, hội nhập quốc tế cũng thúc đẩy quá trình cải cách
hành chính, cải cách thể chế kinh tế thị trường ngày một thông thoáng, tương thích,
tạo thuận lợi cho các đối tác nước ngoài làm ăn với Việt Nam và Việt Nam sẽ trở
thành nền kinh tế thị trường thực sự.
Trong làn sóng đại dịch Covid-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời
chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải
pháp vừa phòng, chống dịch, đảm bảo sức khỏe người dân, vừa phòng chống suy
giảm kinh tế. Đặc biệt, Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 về ban hành
quy định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-
19”, cùng với các chính sách bảo đảm an sinh xã hội; sự đồng lòng nhất trí của các
cấp, các ngành, các địa phương; sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ và tham gia tích cực
của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn.
d.Giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đạt nhiều thành tựu, tạo động lực
phát triển kinh tế- xã hội. Giáo dục và đào tạo từng bước được đổi mới toàn diện,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Khoa học và công nghệ từng bước khẳng
định vai trò là động lực trong phát triển kinh tế- xã hội. Hạ tầng thông tin và truyền
thông phát triển đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
e.An sinh xã hội, truyền thống và văn hóa
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân; tăng cường hợp tác quốc tế và văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước,
con người Việt Nam đến cộng đồng quốc tế. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
được củng cố, dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy.
3. Hạn chế hội nhập quốc tế của Việt Nam
Cạnh tranh nước lớn gia tăng: Các nước lớn ở khu vực như Nga, Mỹ, Trung
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ với quốc lực được cải thiện đều đề cao tinh thần nước lớn
củng cố và mở rộng khu vực vùng ảnh hưởng của mình, từ đó làm cho cạnh tranh
nước lớn trong khu vực tăng lên. Xu hướng gia tăng cạnh tranh quyền lực và ảnh
hưởng giữa các nước lớn, kèm theo đó là sự tập hợp lực lượng xoay quanh trục
quan hệ Mỹ - Trung sẽ đặt Việt Nam vào “thế kẹt,” theo đó (1) chính trị cường
quyền sẽ phát triển ở mức mới, đấu tranh và hợp tác nước lớn gây tác động trực
tiếp đến nước ta (nhất là khả năng nước lớn mặc cả trên lưng nước ta), từ đó làm
cho (2) sức ép phải lựa chọn bên sẽ nhiều hơn, cả về thời điểm và lĩnh vực, (3) nhu
cầu duy trì thống nhất và đồng thuận nội bộ trong việc nhìn nhận các đối tượng/đối
tác của ta cũng lớn hơn. 
Nguy cơ lệ thuộc vào Trung Quốc gia tăng: Sức ép trực tiếp từ sự trỗi dậy của
Trung Quốc, đưa nước ta vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc về địa chiến lược,
tăng sự lệ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc cũng như chịu sức ép lớn hơn từ việc
Trung Quốc tăng cường phát huy sức mạnh mềm trong khu vực. 
Vai trò ASEAN có nguy cơ suy giảm: Dưới tác động của xu hướng dân túy, bảo
hộ, nhiều nước ASEAN một mặt ủng hộ thương mại tự do và hội nhập kinh tế quốc
tế nhưng có chủ trương quay về bên trong mạnh hơn, giảm cam kết với các cơ chế
đa phương khu vực, từ đó góp phần làm suy giảm vai trò của ASEAN. Kết hợp với
sự cạnh tranh ảnh hưởng và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn đang tăng lên,
việc giữ vững đoàn kết và đồng thuận nội bộ và vai trò trung tâm của ASEAN
cũng sẽ khó khăn hơn, theo đó (1) thành viên ASEAN tiếp tục bị các nước lớn
phân hóa, (2) tổ chức ASEAN tiếp tục bị giảm vai trò và tính hiệu quả khi các
nước lớn tăng cường đấu tranh và hợp tác trực tiếp với nhau và giảm cam kết vào
các tiến trình đa phương, coi nhẹ vai trò của ASEAN trên tư cách là chủ thể “dẫn
dắt” các tiến trình đa phương về chính trị và an ninh khu vực. 
Sản xuất, thương mại, đầu tư có khả năng bị ảnh hưởng; cải cách thể chế kinh tế và
hội nhập quốc tế có nguy cơ chậm lại: Đối với kinh tế trong nước, các ngành hàng
xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giầy, nông-thủy sản có thể bị tác động nhiều
nhất, bởi đây là nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn sang Mỹ và châu Âu
(chiếm 40% thị phần), dễ bị áp đặt các biện pháp bảo hộ, rào cản kỹ thuật. Về đầu
tư, xu hướng di chuyển sản xuất về nước của các tập đoàn hàng đầu, nhất là Mỹ, có
thể hạn chế việc mở rộng đầu tư ở Việt Nam, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận
vốn, công nghệ của các tập đoàn hàng đầu. Trong khi đó, trì trệ trong một số liên
kết kinh tế khu vực quan trọng như hiệp định TPP có thể khiến Việt Nam lỡ cơ hội
mở rộng thị trường và tiếp cận công nghệ do giá trị của nền kinh tế Việt Nam gắn
với TPP đã bị giảm đi. 
Nền kinh tế vẫn mang tính gia công,chưa tạo ra các thương hiệu Việt Nam
có uy tín trên thị trường thế giới. Xuất khẩu tăng nhanh nhưng chưa thực sự vững
chắc, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất
khẩu vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Xuất
khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua phát triển chưa bền vững. Giá trị gia
tăng của hàng hóa xuất khẩu còn thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố về
điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ; hàng hóa thô và sơ chế, bao gồm cả dầu
thô, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của các mặt
hàng dựa vào tài nguyên chiếm dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu, và tỷ lệ này
gần như không thay đổi. Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu thấp. Hàng hóa
xuất khẩu ngoài khoáng sản, nhiên liệu thô thì hàng hóa nông nghiệp 90% là sản
phẩm thô và sơ chế. Hàng công nghiệp chế biến chủ yếu là gia công, lắp ráp dựa
trên việc nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện, chi tiết máy, bán thành phẩm,
điều đó phản ánh một nền kinh tế trình độ thấp, chủ yếu khai thác tài nguyên và lao
động rẻ. 
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bộc lộ nhiều bất cập so với yêu cầu bảo
đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, môi
trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. 
Hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung thể hiện chủ yếu trong chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà chưa biến thành yếu
tố nội sinh trong hành động của các cấp, các ngành và doanh nghiệp.    
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và các sản phẩm chủ lực
còn thấp và chịu sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp và sản phẩm nước ngoài
ngay trên thị trường nội địa: Tác động lan tỏa về công nghệ, kỹ năng của khu vực
FDI ở Việt Nam còn yếu. Một số lĩnh vực sản xuất được bảo hộ quá lâu, hạn chế
cạnh tranh và cả sự tham gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Các
doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ phát triển chưa mạnh, công nghiệp phụ trợ chưa
phát triển, vì vậy, khả năng tiếp nhận hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI còn rất hạn
chế. 
Việc phối hợp hội nhập kinh tế quốc tế với hội nhập trong các lĩnh vực khác
chưa  chặt chẽ để phát huy tổng lực và hạn chế rủi ro. Chưa tạo được sự đan xen
chặt chẽ lợi ích chiến lược, lâu dài với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng.
Việc ứng phó với những biến động và xử lý những tác động từ môi trường khu vực
và quốc tế còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ. 
Khả năng nhận định, đánh giá và dự báo xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
chưa cao. Các vấn đề về xây dựng cơ chế nhận biết, cảnh báo sớm tác động trong
các lĩnh vực hội nhập kinh tế trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu với nền
kinh tế thế giới nhìn chung còn yếu. Công tác tham mưu, tư vấn chính sách vẫn
còn hạn chế trong việc phân tích, định hướng và dự báo những vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế phát sinh. 
Dịch COVID 19, các thị trường xuất khẩu sử dụng các biện pháp kỹ thuật
nhằm hạn chế hàng hóa nhập khẩu, trong đó có hàng hóa Việt Nam. Rủi ro gián
đoạn chuỗi cung ứng cũng làm tăng chi phí đáng kể cho doanh nghiệp xuất khẩu
cũng như doanh nghiệp hoạt động thương mại trong nước. Ở trong nước, bối cảnh
dịch bệnh COVID-19 cũng làm trầm trọng hóa những vấn đề cố hữu của Việt Nam
trong những năm qua, chẳng hạn như phối hợp, liên kết giữa các địa phương nhằm
phát huy lợi thế kinh tế của vùng, hay giải ngân đầu tư công chậm. 
Những cải cách thể chế kinh tế, đặc biệt là về chính sách cạnh tranh, môi
trường kinh doanh... đã góp phần đáng kể vào việc củng cố niềm tin của cộng đồng
doanh nghiệp, nhà đầu tư trong những năm qua. Tuy nhiên, những cải cách này
đang có dấu hiệu “chạm trần”, thiếu cách làm mới để tạo đột phá. Bên cạnh đó, dù
có nhiều nỗ lực cải thiện, công tác điều hành và chất lượng các văn bản chính sách
hỗ trợ nền kinh tế, người dân và doanh nghiệp vẫn còn hạn chế, bất cập. Một số
biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế như miễn, giảm, giãn, hoãn thuế, cơ
cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí… chưa đủ “sức nặng” cần thiết để hỗ trợ
doanh nghiệp hay một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao
động vừa đi vào thực hiện đã phải sửa đổi. 
Bên cạnh cạnh đó, khủng hoảng Nga-Ukraine còn làm chuỗi cung ứng toàn
cầu bị gián đoạn, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhất là đối
với kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng điện, điện tử vì cả Nga và Ukraine là 2 nhà
cung cấp lớn những vật liệu quan trọng để sản xuất các nguyên phụ liệu cấu thành
các thiết bị điện tử như nickel, palladium nên bất kỳ hạn chế hay gián đoạn nào về
nguồn cung hàng hóa Nga có thể gây gián đoạn chuỗi sản xuất thiết bị điện tử.
Tài liệu tham khảo
 
1. Trang thông tin điện tử hội đồng lý luận trung ương. (2019). Những thuận
lợi, khó khăn và những vấn đề đặt ra trong xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ
và chủ động tích cực hội nhập quốc tế đối với nước ta trong thời gian tới. Truy cập
ngày 12/09/2022 từ: https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/nhung-thuan-loi-kho-
khan-va-nhung-van-de-dat-ra-trong-xu-ly-moi-quan-he-giua-doc-lap-tu-chu-va-
chu-dong-tich-cuc-hoi-nhap-quoc-te-doi-voi-nuoc-ta-trong-thoi-gian-toi.html 
2. Tạp chí Tổ chức Nhà nước. (2019). Một số vấn đề về hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam. Truy cập 13/09/2022 từ: https://tcnn.vn/news/detail/42929/Mot-
so-van-de-ve-hoi-nhap-kinh-te-quoc-tecuaViet-Nam.html 
3. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam. (2021). Cải cách hướng tới phát triển
bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế. Truy cập 13/09/2022 từ:
https://dangcongsan.vn/kinh-te/kinh-te/cai-cach-huong-toi-phat-trien-ben-vung-va-
hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-595424.html 
4. Báo Điện tử Chính phủ. (2022). Khủng hoảng Nga-Ukraine: Hệ lụy, cơ hội
và hướng đi cho kinh tế Việt Nam. Truy cập ngày 14/09/2022 từ:
https://baochinhphu.vn/khung-hoang-nga-ukraine-he-luy-co-hoi-va-huong-di-cho-
kinh-te-viet-nam-102220403172506087.htm
5. Phòng Hợp tác quốc tế, Năm chủ tịch ASEAN 2020: Những dấu ấn của Việt
Nam trong hợp tác ASEAN về sở hữu trí tuệ (2021). Truy cập từ: 
https://www.ipvietnam.gov.vn
6.  TS. Nguyễn Minh Phong, Dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội
nhập quốc tế của Việt Nam (2022). Truy cập từ: https://baochinhphu.vn 
7.  TS. Phạm Thanh Hà - Phó Trưởng khoa Quan hệ Quốc tế, Học viện Chính
trị khu vực I, Hội nhập quốc tế của Việt Nam - Quá trình phát triển nhận thức,
thành tựu trong thực tiễn và một số yêu cầu đặt ra (2022). Truy cập từ:
https://tinhdoan.quangngai.gov.vn 
8. Tạp chí kiến trúc. (2015). Một số vấn đề then chốt của hội nhập quốc tế
nước ta giai đoạn mới. Truy xuất từ 11/09/2022 từ:
https://www.tapchikientruc.com.vn/tin-tuc/mot-van-de-chot-cua-hoi-nhap-quoc-te-
nuoc-ta-giai-doan-moi.html
9. Tạp chí quốc phòng toàn dân. (2018). Những biến động trong một thế giới
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế - thời cơ và thách thức Truy cập ngày 10/09/2022
từ: http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-trao-doi/nhung-bien-dong-trong-mot-the-
gioi-toan-cau-hoa-va-hoi-nhap-quoc-te-thoi-co-va-thach-thuc/11504.html
10. Truy cập 14/09/2022 từ: https://vietnamhoinhap.vn/vi/nhung-thanh-tuu-
trong-tien-trinh-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-cua-viet-nam-17358.htm. 
11. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Thành tựu của đối ngoại Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Truy cập 15/9/2022 từ:
https://dangcongsan.vn/multimedia/infographic/thanh-tuu-cua-doi-ngoai-viet-nam-
trong-thoi-ky-hoi-nhap-quoc-te-599600.html.
12.https://www.google.com/amp/s/cunghoidap.com/sau-khi-trat-tu-hai-cuc-ianta-
tan-ra-the-gioi-dang-tien-toi-xac-lap-mot-trat-tu-the-gioi-moi-do-la/amp)
13. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/su-kien-va-
nhan-chung/chien-tranh-the-gioi-thu-hai-1939-1945-3354)
14. Phòng Hợp tác quốc tế, Năm chủ tịch ASEAN 2020: Những dấu ấn của Việt
Nam trong hợp tác ASEAN về sở hữu trí tuệ (2021). Truy cập từ
https://www.ipvietnam.gov.vn
15. TS. Nguyễn Minh Phong, Dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập
quốc tế của Việt Nam (2022). Truy cập từ: https://baochinhphu.vn
16.TS. Phạm Thanh Hà - Phó Trưởng khoa Quan hệ Quốc tế, Học viện Chính trị
khu vực I, Hội nhập quốc tế của Việt Nam - Quá trình phát triển nhận thức, thành
tựu trong thực tiễn và một số yêu cầu đặt ra (2022). Truy cập từ:
https://tinhdoan.quangngai.gov.vn
17.Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa Áo (Bản
quyền thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam) – Những thành tựu nổi bật của Việt Nam
trong tiến trình đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước (2022). Truy cập từ:
https://vnembassy-vienna.mofa.gov.vn
18.WTO - FTA: FTA Australia tại Việt Nam: Diễn tiến tình hình FDI của Việt
Nam qua các năm”, ngày 5-1-2022, Trang thông tin điện tử Trung tâm WTO và
hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, ngày 19-8/2021,
https://trungtamwto.vn/chuyen-de/19861-fdi-australia-tai-viet-nam-dien-tien-tinh-
hinh-fdi-cua-viet-nam-qua-cac-nam

You might also like