You are on page 1of 5

Sự cần thiết trong việc mở rộng quan hệ vùng và thế giới

Hoạt động đối ngoại góp phần tạo dựng và duy trì vững chắc môi trường hoà bình, ổn định, bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đối ngoại đa phương và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu
rộng được đẩy mạnh, thiết thực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò, tiềm lực, vị thế và uy
tín của đất nước. Đối ngoại góp phần thu hút nguồn lực to lớn từ bên ngoài để phát triển đất nước. Các
lĩnh vực công tác đối ngoại như ngoại giao văn hoá, thông tin đối ngoại, công tác đối với người Việt Nam
ở nước ngoài, bảo hộ công dân được triển khai toàn diện, chủ động, tích cực cả về chủ trương, chính sách
cũng như trên thực tiễn.
Nhìn tổng thể, đối ngoại đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp,
tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc và hệ thống chính trị, đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát huy vai trò tiên phong trong giữ
vững môi trường hoà bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia,
dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện
và sâu rộng. Huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới.

Kịp thời đổi mới tư duy, mạnh dạn đột phá để tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới :
Nhìn lại những năm giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều
biến động, chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Trước các sóng gió, Ðảng ta đã
đánh giá lại cục diện thế giới để xác định đường lối, chính sách đối ngoại trong tình hình mới.
Chủ trương đối ngoại của Việt Nam được khẳng định tại Ðại hội VII (1991), theo đó Việt Nam muốn là
bạn, là đối tác với các nước trên thế giới và mở rộng, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Thế giới
quan mới về thời đại và cục diện thế giới, đã mở đường, tạo điều kiện để Việt Nam phá thế bao vây cô
lập, phát triển rộng rãi quan hệ đối ngoại. Việt Nam, đã lần lượt bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
năm 1991, với Mỹ năm 1995, thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước quan trọng
trên thế giới và gia nhập ASEAN năm 1995.
Với chủ trương đường lối và quyết sách đúng đắn của Đảng, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội, tạo ra tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Các xu thế hòa bình, toàn cầu
hóa, dân chủ hóa của thời đại ngày càng được củng cố và tăng cường, là một trong những nước nằm trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao.
Bước đột phá mới là, Việt Nam đã tham gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA) và ký Hiệp
định thương mại song phương với Mỹ năm 2001, gia nhập một loạt các cơ chế đa phương quan trọng như
Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) năm 1998, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Việt Nam đã đăng cai các hội nghị
cấp cao của Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp (1997), ASEAN (1998), ASEM (2005), APEC
(2006), là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an (HÐBA) Liên Hợp Quốc (LHQ) các nhiệm kỳ
2008 - 2009 và 2020 - 2021, Chủ tịch ASEAN vào các năm 1998, 2010 và 2020…

các vấn đề thuộc lợi ích cốt lõi, mang tầm chiến lược của Việt Nam đòi hỏi nước ta phải thể hiện tiếng nói
mạnh mẽ hơn và lập trường đối ngoại tích cực hơn, trước hết ở trong khu vực. Do vậy, cần xây dựng vị
thế và tâm thế mới của Việt Nam trong ứng xử và xử lý mối quan hệ với các nước, song phương cũng như
đa phương. Đồng thời, cũng phải đẩy mạnh đổi mới tư duy, mạnh dạn đột phá, sáng tạo trong công tác,
tìm ra cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới. Đổi mới phải
trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, chắc chắn, thận trọng, kiên định mục tiêu và chân thành, khiêm tốn.
Mặt khác, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
sâu rộng, vì lợi ích quốc gia, dân tộc; vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về "đối
tượng", "đối tác"; tăng cường hợp tác, tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các
nước. Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời kiên
quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích
chính đáng của ta phù hợp với luật pháp quốc tế.

các công tác đối ngoại phải phát huy tối đa mọi yếu tố thuận lợi của đất nước để chủ động, tích cực tham
gia đóng góp, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương. Mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả các hoạt
động đối ngoại, nhất là hợp tác kinh tế, văn hoá và hợp tác trên lĩnh vực chính trị, an ninh - quốc phòng
với các nước; tiếp tục đưa các mối quan hệ với các đối tác mà nước ta đã có khuôn khổ quan hệ, trước hết
là các nước láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả; ưu tiên duy trì ổn định và giữ
đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý các khác biệt
và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và
thông lệ khu vực. Nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển bền vững của đất
nước. Ưu tiên tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và lao động Việt Nam, thu hút
nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, nhất là FDI hướng vào các lĩnh vực ưu tiên của đất nước.
Ngoài ra, cần hết sức coi trọng, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược,
tập trung đánh giá kỹ các xu hướng vận động trong chính sách và quan hệ giữa các nước lớn, các nước
láng giềng, khu vực, các xu hướng chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội trên thế giới và khu vực, nhất là trước
tác động như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số và
sự nguy hại của dịch bệnh và biến đổi khí hậu.
Những lợi ích kinh tế quốc gia của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo
dục, an ninh - quốc phòng...) hoặc diễn ra trên cùng nhiều lĩnh vực với tính chất, phạm vi, hình thức khác
nhau. Chủ thể chính của hội nhập quốc tế là các quốc gia có đủ năng lực và thẩm quyền đàm phán, ký kết
và thực hiện các cam kết quốc tế khi đã ký tham gia. Hội nhập quốc tế là một xu thế lớn, tất yếu và là đặc
trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Hội nhập quốc tế đem tới cho các quốc gia không chỉ những lợi
ích về mọi mặt, mà còn đặt các quốc gia trước những thách thức, bất lợi. Song, con đường phát triển
không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế.
     Nội dung của hội nhập là mở rộng thị trường cho nhau, vì vậy khi Việt nam gia nhập các tổ chức quốc
tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng nhiều ưu đãi về thuế qua, xóa bỏ hàng rào phi
thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế
giới. Chỉ tính trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước
thành viên tăng đáng kể. Kim ngạch xuất nhập khẩu VN-ASEAN tăng trung bình 15,3% hàng năm. Khi
xuất khẩu tăng kéo theo số lượng việc làm được tạo ra sẽ nhiều hơn. Như vậy sẽ có tác động tốt, tạo ra
nhiều việc làm cũng như tăng thu nhập của người lao động. 
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và
giải quyết vấn đề nợ quốc tế. 
     Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước
ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao
động và tài nguyên sẵn có của nước ta ra làm sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với
các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây
cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
     Viện trợ phát triển (ODA): Tiến hành bình thường hóa các quan hệ tài chính của Việt Nam, các nước
tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo gỡ từ năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ
góp phần quan trọng trong việc nâng cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng…
      Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của Việt Nam: trong những năm vừa
qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song phương và đa phương các khoản nợ nước ngoài của
Việt Nam trước đây được giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phám song phương. Điều
đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh
tế xã hội trong nước. 
     Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho chúng ta tiếp thu khoa học công nghệ tiên
tiến, đào tạo cán bộ quản lý. Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên
tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở vật
chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường khai thông thị
trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả.
     Qua đó mà các kỹ thuật và công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để
chúng ta lựa chọn kỹ thuật công nghệ nước ngoài nhằm phát triển kỹ thuật công nghệ quốc gia. 
     Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong
nhiều lĩnh vực. Phần lớn là cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh được đào tạo trong và
ngoài nước.
      Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần duy trì ổn định hòa bình, tạo dựng môi trường thuận lợi để phát
triển kinh tế, các chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh bạch hơn, nâng cao vị trí của Việt
Nam trên trường quốc tế. Trước đây Việt Nam chủ yếu xây dựng mối quan hệ với Liên Xô và các nước
Đông Âu. Hiện nay Việt Nam thiết lập mối quan hệ ngoại giao hầu hết với các nước trên thế giới, đồng
thời cũng là thành viên của các tổ chức lớn trên thế giới như: ASEAN, WTO, APEC…Chính vì thế mà hệ
thống chính trị trong nước ngày càng được ổn định, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên
trường quốc tế. Tiến trình hội nhập của nước ta ngày càng sâu rộng thì càng đòi hỏi phải hoàn thiện
hệ thống pháp luật kinh theo thông lệ quốc tế, thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý làm
cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện; thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước,
bảo đảm cho tiến trình cải cách của nước ta đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn tạo ra động lực lớn thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền ngày càng vững mạnh. 
     Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện cho nguồn lực nước ta được khai thông, tăng cường
giao lưu với các nước, đúng theo đường lối đối ngoại của Đảng đã xác định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế”. Thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động, sử
dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu, đồng thời tạo cơ hội để nhập
khẩu lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới và các sáng chế mà nước ta chưa có. Điều này cho thấy
Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế không những mở rộng thị trường, thu hút nguồn lực vốn, tăng năng
lực cạnh tranh, mà còn tăng khả năng tích lũy vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo đều kiện để nước
ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại..
Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại
Thời gian tới, bối cảnh quốc tế và khu vực sẽ tiếp tục biến chuyển nhanh chóng với nhiều yếu tố bất định.
Hòa bình, hợp tác và phát triển, toàn cầu hóa và hội nhập vẫn là xu thế lớn nhưng gặp nhiều trở ngại,
thách thức từ cạnh tranh chiến lược nước lớn và dịch COVID-19. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương có
vị trí trọng yếu trên thế giới, là động lực quan trọng của kinh tế toàn cầu. Song khu vực vẫn tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định, trong đó có tình hình Biển Ðông và Mekong. Sau 35 năm đổi mới, thế và
lực của Việt Nam đã lớn mạnh. Chính trị - xã hội ổn định, đồng thời quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của
nền kinh tế được nâng lên.
Để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước và triển khai thắng lợi đường lối đối
ngoại Đại hội XIII đã đề ra, theo Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh, thời gian tới,
cần thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, là: Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với 3 trụ cột là
đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân; củng cố tin cậy chính trị, mở rộng và làm sâu
sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối
tác quan trọng và các nước bạn bè truyền thống, trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau
và phù hợp với luật pháp quốc tế; triển khai mạnh mẽ, hiệu quả, sáng tạo hơn nữa đối ngoại đa phương,
chủ động, tích cực phát huy vai trò, đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự kinh tế
- chính trị quốc tế; đặc biệt là ASEAN, LHQ, các cơ chế hợp tác liên nghị viện quốc tế và khu vực (như
AIPA, IPU), APEC, hợp tác Tiểu vùng Mekong, cũng như trong các vấn đề quốc tế có tầm quan trọng
chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện của Việt Nam…
Với thế và lực của đất nước không ngừng được củng cố qua 35 năm đổi mới, với quyết tâm của cả hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời gian tới, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế sẽ
đạt những thành tựu to lớn, đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội Đảng lần
thứ XIII. Góp phần đưa đất nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao vào năm 2030, trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ
XXI.

Một số yêu cầu đặt ra cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới 
Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam những năm tới ngày một sâu rộng hơn, không chỉ có những thời
cơ, thuận lợi mà còn phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn. Để hội nhập quốc tế của Việt Nam
ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả hơn, cần nhận thức, xác định rõ một số vấn đề đặt ra, đó là:
 - Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng
tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân
dân vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống
và làm việc ở nước ngoài. 
 - Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực; Gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện
thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp
và năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các vùng,
miền, khu vực trong nước. 
- Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế,
góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa - xã hội; Hội nhập trong các lĩnh vực phải được
thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều
kiện thực tế và năng lực của đất nước. 
- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; Kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; Chủ động
dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; Không tham gia vào các
tập hợp lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia. 
- Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, đi đôi với chủ động, tích cực xây
dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế, tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và
quốc tế; Chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; Củng cố và nâng cao vai
trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

You might also like