You are on page 1of 26

1.3.5.

Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của Việt Nam
Hiệu quả hội nhập phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng
như của các doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, cần chú trọng đầu tư, cải tiến công nghệ để nâng cao khả năng
cạnh tranh; học hỏi cách thức kinh doanh trong bối cảnh mới: học tìm kiếm cơ hội kinh
doanh, học kết nối cùng chấp nhận cạnh tranh, cách huy động vốn, quản trị sự bất định,
đồng hành cùng chính phủ, “đối thoại pháp lý”.
Nhà nước cần hỗ trợ, giúp doanh nghiệp vượt qua thách thức của hội nhập; đầu tư phát
triển nguồn nhân lực; tổ chức các khoá đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ năng hội nhập,
quản trị toàn cầu; phát triển cơ sở hạ tầng…
1.3.6. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của Việt Nam
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác,
hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ
ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ… để áp đặt, khống chế,
làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Đảng và nhà nước Việt Nam đã xác định: đường lới xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được thực hiện xuyên suốt thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Một số biện pháp để xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với tích
cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ỡ Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, hoàn thiện, bổ sung đường lối chung và đường lối kinh tế, xây dựng và phát
triển đất nước.
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật, đưa Việt Nam phát triển nhanh, bền vững đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện tốt:
Đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang tăng trưởng theo chiều sau.
Mở rộng, đa dạng hoá thị trường.
Mạnh dạn trong đổi mới công nghệ.
Thứ ba, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện:
Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế
Huy động mọi nguồn lực để thực hiện thành công 3 đột phá chiến lược
Chính phủ tiếp tục thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi
trường, thu hút đầu tư.
Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn thiện thể chế
kinh tế, hành chính, áp dụng khoa học cônmg nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực....
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong hội nhập
quốc tế.
Mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế để thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản của cách mạng, lợi ích căn
bản của đất nước, đó là: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập, tự chủ là khẳng
định chủ quyền quốc gia, dân tộc. Hội nhập quốc tếlà phương thức phát triển đất nước
trong thế giới ngày nay. Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế có mối quan hệ biện
chứng; vừa tạo tiền đề cho nhau và phát huy lẫn nhau, vừa thống nhất với nhau trong thực
hiện mục tiêu cơ bản của cách mạng, lợi ích căn bản của đất nước. Giữ vững độc lập, tự
chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, truyền thống dân tộc Việt Nam
Hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững độc
lập, tự chủ: sự lệ thuộc nước khác, phân hoá xã hội, ...Nhưng không vì thế mà “đóng
cửa”, tuyệt đối hoá độc lập, tự chủ, quan niệm về độc lập tự chủ là bất biến. Việc quán
triệt và xử lý thành công mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế góp phần
quan trọng vào những thành tựu phát triển to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua hơn 30 năm đổi
mới của đất nước.

2.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU CỦA ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
1. Quan điểm
Nhận thức được xu thế và yêu cầu chung về toàn cầu hoá của thời đại, Đại hội
VI của Đảng (12/1996) trong khi ký quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN;
thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân
công lao đông quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học kĩ thuật với các
nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có
lợi.
Trong Nghị quyết 07, Bộ Chính Trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế:
- Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội Đảng IX: Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác kinh tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc,
an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp toàn dân, quá trình vừa hợp tác vừa đấu
tranh; vừa đề phòng tư tưởng thụ động vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng...
- Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của đất nước.
2. Mục tiêu
Bộ Chính trị: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường,
tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện
đại hoá theo định hướng XHCN; thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ văn minh, trước mắt là thực hiện kế hoạch nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005”.

2.2. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC NHẰM THÚC
ĐẨY TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, Chính phủ đã ban
hành những chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập:
- Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: Luật Đầu tư, Luật Lao
động, Luật Thương mại, Luật Ngân hàng, Luật Hải quan, Luật Bưu chính Viễn thông,
Luật Xây dựng, Luật Khoa học Công nghệ, Luật Tài nguyên... Sửa đổi và bổ sung
pháp luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam... Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật...
- Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài
chính, tiền tệ, đầu tư... để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp... tạo điều kiện cho nước ta hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3. Cơ hội và thách thức (https://www.studocu.com/vn/document/hoc-vien-ngan-
hang/kinh-te-chinh-tri/co-hoi-va-thach-thuc-trong-tien-trinh-hoi-nhap-quoc-te-o-
viet-nam/28966255)
Cơ hội
3.1. Hội nhập quốc tế thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực kinh tế
Việt Nam, với tư cách là một nước đang phát triển, lại có quan hệ kinh tế đa
dạng với nhiều nước thuộc cả nhóm phát triển và đang phát triển, hoàn toàn có thể tận
dụng xu hướng này, tham gia vào các tập hợp lực lượng kinh tế mới để đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế quốc gia. Thông qua các thể chế này Việt Nam tiếp tục có phạm vi hoạt
động đối ngoại rộng. Cụ thể, việc tham gia vào các cơ chế đa phương trong khu vực
đã giúp tiếng nói của Việt Nam có trọng lượng hơn, đồng thời lợi ích quốc gia được
đảm bảo tốt hơn đặc biệt khi lợi ích đó gắn với lợi ích của khu vực.
Nhờ hội nhập, Việt Nam đã mở rộng thị trường cho xuất, nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn vốn, thành tựu khoa học –
công nghệ, để đạt được những thành tựu phát triển như những năm qua.
3.2. Hội nhập quốc tế thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hiện nay, Cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhất là cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri
thức ở nhiều quốc gia, khu vực; tạo cơ hội hợp tác, giao lưu trong tìm kiếm, tiếp thu
những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, tạo nguồn lực phát triển kinh tế. Toàn
cầu hóa làm cho thị trường thế giới ngày nay càng rộng lớn về quy mô, hoàn thiện về
cơ chế hoạt động.
Từ những cơ hội đó cán bộ, đảng viên của chúng ta có điều kiện để học hỏi,
tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, kinh
nghiệm quản lý, nguồn vốn của thế giới, đặc biệt là những tri thức để phát triển nền
kinh tế số, tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu. Qua đó, Việt Nam có cơ hội
mở rộng, phát triển tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa.
3.3. Hội nhập quốc tế có tác động tích cực đến lao động, việc làm
Phân công lao động quốc tế cho phép các quốc gia khai thác lợi thế của mình
khi tham gia thị trường thế giới. Vì thế hội nhập quốc tế cho phép các Việt Nam xuất
khẩu được nhiều lao động ra nước ngoài. Đây được coi là cơ hội để thu về nguồn
ngoại tệ lớn tăng thu nhập, đồng thời cải thiện đời sống dân cư, giải quyết việc làm và
đào tạo được lực lượng lao động có chuyên môn tốt cho công cuộc xây dựng đất nước.
Lĩnh vực lao động và xã hội ở nước ta đã được Đảng và Nhà nước tích cực, chủ
động tham gia và thực hiện các cam kết quốc tế như công ước quốc tế về lao động,
việc làm, người khuyết tật, phụ nữ, trẻ em, tham gia các hiệp định thương mại tự do
CPTPP, EVFTA và tham gia vào các tổ chức đa phương, khu vực như hội đồng quản
trị của tổ chức lao động quốc tế ILO, cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN. Sự tham gia
vào các hiệp định thương mại tự do như CPTPP, EVFTA và các thỏa thuận hợp tác lao
động song phương đã mở rộng cơ hội việc làm cả trong nước và ngoài nước.
Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi mạnh
mẽ phương thức sản xuất và chế tạo dẫn đến nhu cầu lao động có kỹ năng, trình độ
cao tăng mạnh. Công nghệ mới cũng sẽ thay thế nhiều việc làm cũ đồng thời tạo nên
nhiều việc làm mới. Người lao động trong nước, nhất là những lao động có trình độ,
tay nghề sẽ có điều kiện tiếp cận với thị trường lao động rộng lớn hơn cả trong nước
và quốc tế.
3.4. Hội nhập quốc tế thúc đẩy khoa học và công nghệ
Tiếp cận nhanh và khách quan tới những tiến bộ khoa học và công nghệ của thế
giới, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao, mua bán công nghệ, rút ngắn
khoảng cách về khoa học và công nghệ với các nước trong khu vực và quốc tế.
Có điều kiện tranh thủ khai thác các nguồn lực từ nước ngoài (tài chính, thông
tin, nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học và công nghệ) để phát triển tiềm lực
khoa học và đổi mới công nghệ trong nước.
Có điều kiện tiếp cận đa dạng tới các hình thức cạnh tranh lành mạnh, hình
thức đào tạo tiên tiến để phát triển đội ngũ các nhà khoa học và cán bộ quản lý khoa
học và công nghệ.
3.5. Hội nhập quốc tế góp phần bảo vệ môi trường sinh thái
Kể từ khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta có điều kiện nhập khẩu
những trang thiết bị, công nghệ tiên tiến, những sản phẩm thân thiện với môi trường,
đồng thời nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao chất lượng sản phẩm, thúc đẩy nền kinh
tế đất nước phát triển, tạo điều kiện thuận lợi thực thi các giải pháp bảo vệ môi trường.
Nhờ dòng đầu tư trực tiếp của nước ngoài, Việt Nam được tiếp cận với công nghệ tiên

tiến, hiện đại, “xanh” và “thân thiện” hơn với môi trường, ít gây ô nhiễm và sử dụng
nguyên liệu hiệu quả hơn trong quá trình sản xuất.
Trên thực tế, với sự trợ giúp của quốc tế đã có một số dự án sản xuất sạch được
thực hiện thành công tại Việt Nam. Nó chứng minh hiệu quả và lợi ích cho doanh
nghiệp thông qua giảm chi phí đầu vào, nâng cao hiệu quả sản xuất đồng thời bảo vệ
môi trường.
3.6. Hội nhập quốc tế giúp phát triển văn hóa đa phương
Việc mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại đã tạo điều kiện
thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa nước ta với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới,
với những quy mô, tầm mức khác nhau. Nhiều hoạt động, như ngày/tuần/tháng văn
hóa Việt Nam, biểu diễn nghệ thuật, lễ hội văn hóa - du lịch, chiếu phim, triển lãm
sách, ảnh, sản phẩm văn hóa - nghệ thuật, hội thảo, xúc tiến, quảng bá du lịch... nhằm
giới thiệu hình ảnh đất nước, con người Việt Nam liên tục được tổ chức ở nhiều quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các hoạt động giao lưu văn hóa, văn hóa đối ngoại
được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các bộ,
ngành, địa phương liên quan, các cơ quan truyền thông đại chúng, các tổ chức đối
ngoại nhân dân, các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài tổ chức đã đem lại sự thấu
hiểu, cảm mến, thân thiện, để lại ấn tượng đẹp đối với cộng đồng quốc tế, tạo tiền đề,
điều kiện để nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới mong muốn, tích cực đẩy mạnh giao
lưu, hợp tác với nước ta.
Tại các tổ chức như: Tổ chức Du lịch thế giới của Liên hợp quốc (UNWTO),
Quỹ Văn hóa dân gian quốc tế (IGF), Tổ chức Triển lãm thế giới (BIE), Tổ chức Sở
hữu trí tuệ quốc tế (WIPO), Tổ chức Văn hóa - Giáo dục và Khoa học của Liên hợp
quốc (UNESCO), Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP)…, đại diện Việt
Nam đã thể hiện được sự năng động, tinh thần trách nhiệm, đóng góp một số sáng
kiến được ghi nhận, góp phần nâng cao vị thế đất nước. Không chỉ tổ chức ở nước
ngoài, các cơ quan văn hóa còn chủ động phối hợp tổ chức nhiều sự kiện, hoạt động
giao lưu văn hóa quốc tế ngay tại Việt Nam, để các tổ chức quốc tế, đoàn ngoại giao,
nhà văn hóa, nhà báo, nghệ sĩ, doanh nhân, du khách, …có thể tiếp xúc, tương tác với
văn hóa, con người Việt Nam
Thông qua nhiều hoạt động, Việt Nam từng bước nâng cao khả năng hội nhập
văn hóa; tiếp nhận hiệu quả những giá trị văn hóa, nghệ thuật và phương thức thể hiện
hiện đại, hấp dẫn, tiêu biểu của thế giới, làm phong phú và nâng tầm về cả hình thức,
nội dung, giá trị các sản phẩm văn hóa dân tộc. Cùng với đó là việc thành lập và các
hoạt động giao lưu văn hóa ngày càng trở thành một kênh chuyên nghiệp, hiệu quả
góp phần nâng tầm vị thế, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế.
Giao lưu văn hóa không chỉ đẩy mạnh quan hệ với cộng đồng nước ngoài, mà còn
truyền bá văn hóa nước nhà đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, gắn kết
kiều bào với quê hương, đất nước, thẩm thấu văn hóa Việt Nam tới cộng đồng nước sở
tạiđộng của các cơ sở văn hóa của nhiều nước tại Việt Nam, như Viện Goethe của
Đức, Thư viện Phòng Văn hóa Sứ quán Mỹ; các trung tâm văn hóa và ngôn ngữ của
Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc… tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động giao lưu văn hóa của
nước ta.
Thách thức
4.1. Việt Nam là một nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp
Doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa,
dịch vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống
chính sách kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh... Vì vậy, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn
trong cạnh tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế, với nhiều đối thủ hơn, trên
bình diện sâu hơn, rộng hơn.
Do thực hiện những cam kết của một thành viên WTO, nhất là việc phải cắt
giảm mạnh thuế nhập khẩu, mở cửa sâu rộng về kinh tế, trong đó có việc phải mở cửa
các lĩnh vực thương mại hàng hoá và dịch vụ nhạy cảm cao như: ngân hàng, bảo hiểm,
viễn thông, năng lượng, vận tải, chuyển phát nhanh, nông nghiệp... bởi vậy nguy cơ
rủi ro kinh tế, tình trạng phá sản doanh nghiệp luôn hiện hữu và trở nên rất tiềm tàng.
Về cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nước ta còn nhiều khó khăn về nhãn
hiệu thương mại, bản quyền tác giả, bảo vệ thiết kế công nghiệp và người dân chưa có
thói quen tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ.
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hội
nhập kinh tế quốc tế có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và thực hiện
nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận phiến diện,
ngắn hạn và cục bộ; do đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và ứng phó hữu hiệu
với các thách thức.
4.2. Phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế
Phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của
các nước phát triển hàng đầu. Các nước này đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại
của thế giới khi tham gia IMF, WB, WTO... Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh
tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới, thì bị họ xác định như xuất phát điểm, như
điều kiện tiên quyết đối với các nước đang phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của tư bản độc quyền quốc tế. Trong
hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới
vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên phần bất lợi lớn thuộc về
tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước ta
4.3. Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã gặp một số vấn đề mới về bảo
vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc khi
các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn (khủng bố, dịch bệnh, ô nhiễm
môi trường…). Điều này đặt Việt Nam vào trong tâm thế thường xuyên phải thay đổi
cách thức, công cụ, các cơ chế bảo vệ để kiểm soát, phát hiện và ngăn chặn các hành
động xâm nhập từ bên ngoài trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… Việc gắn
an ninh, quốc phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành nhiệm
vụ vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay của nước ta.
Hội nhập quốc tế tác động sâu sắc tới giữ gìn bản sắc dân tộc. Bản sắc dân tộc
bao gồm những tinh hoa, cốt cách, giá trị bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Giữ gìn bản
sắc dân tộc là cơ sở để củng cố ý thức tự tôn dân tộc, là nền tảng cho sự phát triển bền
vững và phát huy tính sáng tạo của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy
nhiên, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, nước ta vừa có cơ hội để giao lưu, trao đổi; vừa
dễ dẫn đến tình trạng bị lai căng, đồng hóa, chứa đựng nguy cơ băng hoại những giá
trị truyền thống, làm mất cốt cách và diện mạo tinh thần của quốc gia, xói mòn bản
sắc dân tộc, tiềm ẩn những bất ổn về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
4.4. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo
Quá trình hội nhập đặt ra cho Việt Nam một vấn đề nan giải trên lĩnh vực xã
hội là tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo công bằng
xã hội. Sở dĩ vậy là vì lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng
đều, những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Tăng trưởng
kinh tế là điều kiện cần, song không phải là điều kiện đủ để giảm nghèo.
Trong phạm vi của mỗi quốc gia sẽ có một bộ phận dân cư được hưởng lợi ích
không đồng đều và ít hơn so với các bộ phận khác, thậm chí khi bị tác động bởi xu thế
toàn cầu hóa. Điều này đã tác động tiêu cực, gây nguy cơ thất nghiệp và dẫn tới sự
phân hóa giàu nghèo, mất cân bằng trong xã hội và ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát
triển của đất nước
4.5. Nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia
Trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối diện
trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn
vẹn lãnh thổ…
Có thể nói, hội nhập quốc tế làm gia tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước,
gây khó khăn trong giữ vững độc lập, tự chủ, nhất là đối với các nước nhỏ có tiềm lực
yếu trước các nước lớn có tiềm lực mạnh; đặc biệt là phụ thuộc về kinh tế do sự chi
phối, áp đặt từ bên ngoài. Ở Việt Nam, một tỷ lệ không nhỏ các yếu tố đầu vào cho
hoạt động của nền kinh tế (vốn, công nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu) là
nhập khẩu từ nước ngoài và thị trường bên ngoài có vai trò rất lớn, rất quan trọng đối
với việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa mà nền kinh tế đất nước tạo ra. Đã xuất hiện
những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc
gia; phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Ngoài ra, trong hội nhập quốc tế, nếu không tỉnh táo, các nước chậm nhỏ rất dễ
“sập bẫy” nhập khẩu công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường sinh thái, ảnh hưởng
đến phát triển nhanh và bền vững của quốc gia.

2.4. THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
(học viện ngân hàng)
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao, kinh tế - thương mại với hầu hết các
nước, vùng, lãnh thổ và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế ở khu vực và thế giới.
Tính đến năm 2014, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 181 quốc gia, quan hệ kinh
tế - thương mại với trên 230 thị trường nước ngoài, là thành viên tích cực của hơn 70
tổ chức quốc tế và khu vực.
Tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á); Năm 1996 là thành viên của APEC (Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương); Năm 2000, ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ;
Tháng 1/2007 là thành viên chính thức của WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới).
Trong thời gian qua, Việt Nam đã tham gia nhiều Hiệp định Thương mại tự do
(FTA) khu vực và song phương, như cùng với các nước ASEAN ký FTA giữa ASEAN
với Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc, ASEAN - Nhật Bản... Ký FTA song phương
Việt Nam - Nhật Bản, Việt Nam - Liên minh kinh tế Á - Âu. Điểm nổi bật hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam là tháng 10/2015 Việt Nam đã hoàn tất đàm phán để ký
kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào tháng 02/2016. Đây là một
Hiệp định được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ thương mại toàn diện, có chất
lượng cao và là khuôn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ 21.
Hội nhập quốc tế đã mở ra một không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt
Nam, tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế - xã
hội.
(kinh tế quốc dân)
1. Con đường hội nhập
Theo quan điểm của đảng, Việt Nam tiến hành hội nhập từng bước, dần dần mở
cửa thị trường với lộ trình hợp lý. Một lộ trình “quá nóng” về mức độ %, thời hạn mở
của thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ
hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, kéo theo nhiều hậu
quả khó lường. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là lộ trình càng dài càng tốt, bởi kéo
dài quá trình hội nhập sẽ đi liền với duy trì quá lâu chính sách bảo hộ bao cấp của nhà
nước, gây tâm lý trì trệ, ỷ lại, không dốc sức cải tiến quản lý công nghệ, kéo dài tình
trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Xác định lộ trình hội nhập là rất quan trọng. Đây không chỉ là xác định thời
gian mở cửa thị trường trong nước mà còn là xác định mục tiêu nền kinh tế nước ta:
phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị phần ngày càng lớn trên thương trường quốc tế,
thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường các nước cả về hàng hoá và đầu tư dịch vụ.
Tháng 12/1987, Quốc hội nước ta thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại các quan hệ với quỹ tiền tệ quốc tế và ngân
hàng tài chính thế giới, đến tháng 10/1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với
hai tổ chức tài chính tiền tệ lớn nhất thế giới.
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và từ ngày 1/1/1996 bắt
đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tức AFTA.
Cùng tháng 7/1995 công nghệ đã kí kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học
kĩ thuật và một số lĩnh vực khác với công đồng Châu Âu (EU). Đồng thời bình thường
hoá quan hệ với Mĩ. Khoảng tháng 3/1996, Việt Nam tham gia với tư cách thành viên
sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Âu (ASEAM). Tháng 11/1998, Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
(APEC). Tháng 7/2000, hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã được kí kết.
Trước đó từ cuối năm 1994, nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO) và hiện đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp vào tổ chức
này.
1.1. Việt Nam gia nhập ASEAN – Hiệp hội các nước Đông Nam Á
* Quá trình gia nhập:
Ngày 25/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN.
Ngày 15/12/1995 Việt Nam chính thức tham gia thực hiện AFTA bằng việc kí
nghị định thư tham gia hiệp định CEPT để thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN.
Việt Nam bắt đầu thực hiện hiệp định CEPT từ ngày1/1/1996 và sẽ kết thúc vào
ngày 1/1/2006.
Tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình với các nước ASEAN bốn danh
mục hàng hoá theo quy định của CEPT: danh mục loại trừ hoàn toàn, danh mục loại
trừ tạm thời, danh mục cắt giảm thuế ngay, danh mục nông sản chưa chế biến và chế
biến nhạy cảm cao.
Những mặt hàng đưa vào thực hiện CEPT là những mặt hàng có thế mạnh xuất
khẩu của ta hoặc những mặt hàng chưa có trao đổi buôn bán gì với ASEAN.
* Những lợi ích và những bất cập đối với nước ta khi gia nhập
ASEAN/AFTA/CEPT:
Những đánh giá sơ bộ về thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
trong nước trong mối liên hệ với việc thực hiện CEPT cho thấy sự bất lợi của các
doanh nghiệp trong nước nếu Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan và bỏ các
rào cản phi thuế. Hiệu quả sản xuất trong nước còn thấp do sự lạc hậu trong các thiết
bị máy móc...Cơ chế KHH tập trung trong thời gian dài trước đây đã tạo cho các nhà
sản xuất trong nước có thói quen ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch, ít quan tâm đến
khả năng cạnh tranh, thị trường tiêu thụ và vấn đề hiệu quả sản xuất. Các doanh nghiệp
chưa có định hướng cụ thể về biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển
trong môi trường mở cửa không còn hàng rào bảo hộ. Nhiều doanh nghiệp không có
định hướng xuất khẩu một cách khả thi, kế hoạch xuất khẩu thì chỉ là những chỉ tiêu
xuất khẩu dựa trên kế hoạch về sản lượng so sánh với dự kiến về kế hoạch tiêu dùng
trong nước mà không có những phân tích so sánh cụ thể dựa trên tiêu chí về giá thành
chất lượng, khả năng tiêu thụ. Tuy nhiên cũng có một số ngành sản xuất trong nước
thật sự có tiềm năng cạnh tranh, một số doanh nghiệp phần nào nắm được một số thay
đổi trong môi trường kinh doanh theo cơ chế thị trường, kịp thời đầu tư công nghệ
mới. Đối với các ngành này nếu được áp dụng những biện pháp, định hướng đúng đắn
và thích hợp thì sẽ có khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu.
Với thực trạng phát triển hiện nay của các ngành sản xuất trong nước, phương
án thích hợp nhất để thực hiện AFTA/CEPT cần được lựa chọn đối với Việt Nam là
Việt Nam sẽ thực hiện AFTA trong khuôn khổ các quy định của CEPT, đồng thời đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu phù hợp với các lợi thế tương đối của Việt Nam trong tương
quan so sánh với các nước ASEAN; tập trung phát triển nhanh những ngành có lợi thế
ss. Tuy nhiên vẫn tiếp tục duy trì bảo hộ có thời hạn hoặc theo những mức độ khác
nhau cho phần lớn các ngành của nền kinh tế quốc dân, để có thể đạt được một trình
độ phát triển nhất định trước khi mở cửa thị trường trong nước theo CEPT, chỉ hạn chế
sản xuất với một số ít các ngành mà Việt Nam không có khả năng cạnh tranh.
Điều thuận lợi là hàng xuất khẩu của ta khi nhập vào các nước ASEAN sẽ được
hưởng thuế suất ưu đãi nhưng đây cũng là một vấn đề có những thách thức riêng của
nó. Bởi khi ta được hưởng ưu đãi thì cũng phải dành ưu đãi về thuế suất cho bạn. Khi
đó nếu hàng hoá của ta chất lượng không bằng bạn, giá cao hơn thì các doanh nghiệp
của ta rất dễ mất đi thị trường trong nước. Chẳng hạn như mặt hàng gạo, mặc dù ta là
nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Khi được hưởng thuế quan
ưu đãi, kể cả sau khi đã nộp thuế nhập khẩu, nếu giá thành bán lẻ của gạo Thái Lan
vẫn thấp hơn giá thành bán lẻ của ta (mà gạo Thái Lan phải ngon hơn gạo ta), thì
người tiêu dùng với mức sống ngày càng tăng như hiện nay chọn mua gạo Thái Lan để
ăn. Và gạo của ta lúc đó chỉ còn là thị phần của những người có thu nhập thấp hoặc để
xuất khẩu.
1.2. Việt Nam hội nhập vào APEC – Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương
Ngày 15/6/1996 Việt Nam đã làm đơn xin gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và 11/1998 đã trở thành thành viên chính thức của
tổ chức này, một tổ chức hiện gồm có 21 thành viên, trong đó bao gồm cả các nền kinh
tế phát triển, đang phát triển và chuyển đổi (từ kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế
thị trường). Mục tiêu của APEC cũng là phát triển bền vững thông qua các chương
trình thúc đẩy mở cửa sản xuất thuận lợi hoá thương mại đầu tư hợp tác kinh tế kĩ
thuật theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự nguyện cônh khai và không phân biệt
đối xử giữa các thành viên cũng như các đối tác không là thành viên. Các cam kết
mang tính tự nguyện nhưng việc thực hiện là bắt buộc, do tuyên bố ở cấp cao và hàng
năm được đưa ra kiểm điểm. Các vấn đề chính trị tuy được quan tâm nhưng thường
được bàn một cách không chính thức.
1.3. Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU)
- Trên lĩnh vực thương mại, Việt Nam và các nước thuộc Liên minh Châu Âu
(EU) đã có mối quan hệ khá lâu song chúng được phát triển và mở rộng trong những
năm gần đây, sau khi Việt Nam và EU chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 2/1990,
quan hệ buôn bán hai chiều Việt Nam - EU có bước phát triển khả quan, kim ngạch
xuất nhập khẩu gia tăng. Năm 1993, EU tăng gấp 10 lần QUOTA nhập khẩu hàng hoá
của Việt Nam so với năm 1992. Trị giá kim ngạch 2 chiều giữa Việt Nam - EU đã đạt 1
tỉ USD.
- Ngày 31/5/1995 Việt Nam và EU đã kí hiệp định khung hợp tác Việt Nam -
EU. Ngày 17/7/1995, hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EU đã được kí chính thức ở
Brucxen.
- Khi tham gia kí kết hiệp định này, Việt Nam được hưởng một số ưu đãi:
+ Hiệp định cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc (MNF), đặc biệt là quy
chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) thường được dành cho các nước đang phát triển.
Điều này có ý nghĩa thực tế lớn, vì trong khi Việt Nam chưa phải là thành viên của
WTO, Việt Nam vẫn được hưởng các quy chế ưu đãi này. Sau đó, hiệp định đưa ra một
số biện pháp tạo điều kiện thuận lợi buôn bán, thương thuyết với tổ chức mậu dịch thế
giới.
+ Cải thiện môi trường kĩ thuật Việt Nam thông qua việc tạo thuận lợi cho Việt
Nam tiếp cận công nghệ EU.
+ Liên minh Châu Âu đang chuẩn bị mở một trung tâm thông tin thương mại
của EU tại Việt Nam.
+ Các tổ chức xúc tiến thương mại của các nước Châu Âu đã và đang có nhiều
dự án hợp tác với phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam lập các trung tâm đào
tạo nhà doanh nghiệp cho Việt Nam, tổ chức hội chợ, triển lãm Châu Âu tại Việt Nam,
tư vấn kinh doanh, thoả thuận hợp tác, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và
đầu tư. Cuối năm 1995, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam đã kí 32 bản thoả
thuận với các tổ chức hữu quan ở nước ngoài nhằm hợp tác, đẩy mạnh, xúc tiến
thương mại và đầu tư, trong đó có 8 bản thoả thuận được kí với các tổ chức EU. Hiện
tại phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam đang xây dựng trung tâm thông tin dữ
liệu, hợp tác với hiệp hội thương mại nước ngoài mới thành lập tại Việt Nam.
- Ngày 15/12/1992 hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU đến
1/1/1993 bắt đầu có hiệu lực. Theo hiệp định này, Việt Nam được xuất khẩu sang EU
151 chủng loại mặt hàng, tổng số hạn ngạch theo hiệp định là 21298 tấn với kim ngạch
khoảng 450 triệu USD. Hiệp định hàng dệt may Việt Nam - EU đã tạo cho Việt Nam
nhiều khả năng xuất khẩu sang EU hơn. Trong 3 năm qua, kim ngạch hàng dệt may
xuất vào EU đã tăng từ 130 triệu USD năm 1992 lên 249 triệu USD năm 1993, 285
triệu USD năm 1994 và từ 340 - 350 triệu USD năm 1995.
- Ngày 1/8/1995 Việt Nam và EU đã kí rtao đổi thư điều chỉnh hiệp định, tăng
hạn ngạch và biên bản thoả thuận về mở rộng thị trường hàng dệt may.
Như vậy, từ khi Việt Nam kí hiệp định dệt may Việt Nam - EU, Việt Nam chưa
phải là thành viên của tổ chức thương mại quốc tế và do đo Việt Nam vẫn phải chịu
những hạn ngạch thuế quan phi ưu đãi của EU. đây là những trở ngại lớn đối với xuất
khẩu của Việt Nam vào thị trường EU từ thời điểm đó đến cuối năm 1995 sau khi hiệp
định khung hợp tác Việt Nam – EU được kí kết.
1.4. Quá trình hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Tháng 12/1994, Việt Nam đã gửi đơn xin gia nhập hiệp định chung về thương
mại và thuế quan (GATT), tiền thân của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Năm
1995 Việt Nam chính thức đề nghị gia nhập WTO.
WTO là tổ chức thương mại quốc tế mang tính chất toàn cầu có mục đích cơ
bản là: thương lượng để thiết lập các luật lệ chung đảm bảo thông thoáng cho thương
mại cũng như cho các lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế khác, và một môi trường kinh
doanh có thể dự đoán được, theo dõi việc thực hiện cam kết của các thành viên, đảm
bảo tính công khai về thương mại và các luật lệ về hợp tác quốc tế WTO, cho phép có
sự phân biệt đối xử giữa các nước thành viên và không phải là thành viên.
Việc thực hiện các cam kết mang tính ràng buộc pháp lý và nếu vi phạm có thể
bị trả đũa. Các thành viên kém phát triển và đang phát triển được hưởng một số ưu đãi
nhưng mức độ và thời gian hưởng ưu đãi trong từng lĩnh vực tuỳ thuộc vào kết quả
đàm phán của từng nước với WTO.
Hiện nay Việt Nam đã tiến hành nhiều phiên họp với nhóm cộng tác viên về
Việt Nam gia nhập WTO, tập trung vào việc minh bạch hoá, thương mại – dịch vụ, sở
hữu trí tuệ và đầu tư. Trong thời gian qua, một số thành viên của WTO như: EU, Mĩ,
Thuỵ Sĩ...đã bắt đầu gửi đề nghị về đàm phán mở cửa thị trường cho Việt Nam. Tháng
8/2000 vừa qua ta đã kí hiệp định thương mại với Hoa Kỳ: sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho việc nước ta gia nhập WTO.

2.5. Bằng những dẫn chứng cụ thể (có nguồn trích dẫn rõ ràng, số liệu tin cậy)
hãy nêu thực trạng về tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển của Việt
Nam thời gian qua. (thành tựu và hạn chế)
TRẢ LỜI: Một việc gì đó khi xảy ra đều có 2 mặt lợi và hại, hội nhập kinh tế quốc tế
cũng không nằm ngoài đó. Việc hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho chúng ta nhiều
lợi ích kinh tế, giúp đất nước phát triển tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có những hệ lụy đi
kèm:
*Về mặt tích cực:
- Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn
diện , có quan hệ ngoại giao có 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước
và 70 vùng lãnh thổ.
- Theo Tổng cục Thống kê, nếu năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ
ở mức 84,7 tỷ USD ( xuất khẩu 39,8 tỷ USD), thì đến năm 2021, tổng kim
ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt tới 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm
2020 và tăng 7 lần so với năm 2006.
- Từ năm 2016 đến nay, cán cân thương mại luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu
tăng dần qua các năm, từ 1,77 tỷ USD ( năm 2016); 2,1 tỷ USD ( năm 2017);
6,8 tỷ USD ( năm 2018); 10,9 tỷ USD ( năm 2019); trên 19 tỷ USD ( năm
2020) và năm 2021 dù chịu ảnh hưởng nặng nề dịch COVID -19, Việt Nam vẫn
đạt mức xuất siêu gần 4 tỷ USD....
- Báo cáo rà soát thống kê thương mại thế giới năm 2020 của WTO ghi nhận
trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới, Việt Nam có
mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí 39 vào năm 2009 lên vị trí
thứ 23 vào năm 2019 và lọt top 20 năm 2021.
- Theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF), chỉ số “ Năng
lực cạnh tranh toàn cầu” (GCI) của Việt Nam đã cải thiện mạnh. Trong 10 năm
( 2007 – 2017), chỉ số GCI của Việt Nam tăng 13 bậc, từ hạng 68/131 vào năm
2007 lên 55/137 vào năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng xếp hạng
lên nhóm nửa trên.
- Trong năm 2019, trước khi dịch COVID – 19 bùng phát trên thế giới, Việt Nam
được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định, tăng trưởng nhanh top đầu thế giới,
được IMF đánh giá nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng
trưởng toàn cầu năm 2019.
- Cũng trong năm 2019, Việt Nam lọt top 10/163 nước “ đáng sống nhất thế
giới” trong bảng xếp hạng của HSBC Expat; đứng thứ 82/128 nước trong xếp
hạng các nước an toàn nhất; xếp hạng 94/156 nước đứng trong bảng xếp hạng
quốc gia hạnh phúc. Việt Nam đứng thứ 84/161 nước trong xếp hạng bảo vệ
nhà đầu tư Forbes và xếp thứ 39/80 nước trong xếp hạng các nước “ tốt nhất
thế giới” theo đánh giá của trang U.S News & World Report...
- Năm 2020, quy mô GDP Việt Nam đứng thứ 44 thế giới, đứng thứ 4 Đông
Nam Á và bình quân GDP/đầu người đứng thứ 6 khu vực. “Thương hiệu Quốc
gia Việt Nam” là thương hiệu tăng giá trị nhanh nhất thế giới, khi tăng tới 29%
so với năm 2019, lên 319 tỷ USD; từ vị trí 42 lên 33 trong danh sách 100
thương hiệu quốc gia của Brand Finance (hãng định giá thương hiệu và tư vấn
chiến lược độc lập hàng đầu của Anh).
- Theo bảng xếp hạng về chỉ số tự do kinh tế năm 2021 (Index of Economic
Freedom 2021) mới công bố của Heritage Foundation (Mỹ), với điểm tổng thể
của Việt Nam là 61,7 điểm (cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới).
Việt Nam là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á-Thái
Bình Dương và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới trong bảng xếp hạng
tự do kinh tế của Heritage Foundation...
- Còn theo Báo cáo chỉ số quyền lực mềm toàn cầu năm 2021, được Brand
Finance - công ty tư vấn chiến lược và định giá thương hiệu độc lập hàng đầu
thế giới, có trụ sở tại London (Anh) công bố tại “Hội nghị thượng đỉnh 2021 về
quyền lực mềm toàn cầu” ngày 25/2/2021 - Việt Nam là quốc gia duy nhất
trong khối ASEAN được nâng hạng trong bảng xếp hạng này.
- Cụ thể, vị trí của Việt Nam được cải thiện, tăng 2,5 điểm, thay đổi từ 50/60 lên
47/105 quốc gia được xếp hạng. Việt Nam được đánh giá là điểm sáng nhờ sự
tăng hạng vượt bậc về thương hiệu quốc gia và những kết quả về kinh tế, xã hội
đã đạt được trong năm qua.
- Theo đánh giá của Brand Finance, Việt Nam đã phát huy tương đối tốt mọi khía
cạnh của quyền lực mềm, đặc biệt là sự hội nhập của “Thương hiệu Quốc gia
Việt Nam” và các thương hiệu sản phẩm hàng đầu. Uy tín quốc gia của Việt
Nam trong năm qua đã tăng lên phần lớn nhờ chủ trương và phản ứng nhanh
nhạy của Chính phủ, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao trong công tác hỗ trợ doanh
nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu trong và ngoài nước cũng như sự
năng động, nỗ lực của doanh nghiệp Việt Nam.
- Bên cạnh các chỉ số về kinh tế, theo khảo sát và đánh giá của Liên Hợp Quốc,
chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng, từ vị trí 88
vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và thứ 49 vào năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đã
giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, với mức giảm
trung bình là hơn 1,4%/năm.
- Trong bảng xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Tổ chức Sở hữu trí
tuệ thế giới (WIPO), năm 2021, Việt Nam xếp thứ 44/132 quốc gia và vùng
lãnh thổ, tức nằm trong khoảng tin cậy (từ khoảng 42 đến 47) của bảng xếp
hạng này.
- Đến nay, Việt Nam đã được 90 nước công nhận là nền kinh tế thị trường và đạt
được những thành tựu nổi bật về tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, đồng
thời có nhiều khả năng tiếp tục giữ đà tăng trưởng cao trong tương lai trung hạn
nhờ khung đầu tư tổng thể đã được hiện đại hóa, chi phí đăng ký kinh doanh đã
được cắt giảm và tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài, cũng như hoạt động
khởi sự kinh doanh (theo công bố xếp hạng các nền kinh tế tốt nhất để đầu tư
của Tạp chí U.S. News & World Report, Việt Nam xếp thứ 8/20 nền kinh tế tốt
nhất để đầu tư năm 2019, tăng từ vị trí 23 của năm 2018).
*Về mặt tiêu cực:
- Theo báo cáo Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 do Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc trình bày trước Quốc hội chỉ rõ: công tác hội nhập trong
nước còn yếu, chưa khai thác có hiệu quả các lợi ích của hội nhập kinh tế quốc
tế:
- Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế và chất lượng vẫn chưa được cải thiện về căn bản.
Tăng trưởng thời gian quan phần nhiều dựa vào các yếu tố như tín dụng, lao
động rẻ mà thiếu sự đóng góp đáng kể của việc gia tăng năng suất lao động hay
hàm lượng tri thức, công nghệ.
- Thứ hai , hiệu quả đầu tư chưa cao như mong muốn, chậm đổi mới chính sách
liên quan đến thu hút FDI.
- Thứ ba, sức cạnh trah của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam
vẫn còn yếu so với các nước kể cả các nước trong khu vực.
- Thứ tư, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy
đã có những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ.
- Thứ năm, một số địa phương lúng túng trong việc triển khai công tác hội nhập
kinh tế quốc tế. Vẫn tồn tại khoảng cách khá xa về năng lực và thiếu sự gắn kết,
hỗ trợ giữa khu vữ FDI và doanh nghiệp trong nước.
- Không những thế, khi hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm tăng sự phụ thuộc nền
kinh tế quốc gia vào khu vực và thế giới. Do đó việc hội nhập kinh tế quốc tế
tạo ra những thách thức khó khăn cho Nhà nước, đòi hỏi cần có những giải
pháp hợp lý để có thể đưa đất nước chúng ta hòa nhập chứ không “ hòa tan”

2.6. Từ thực trạng trên, hãy đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm gia tăng
tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực để nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
TRẢ LỜI: Nhằm gia tăng tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu cực để nâng
cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ta cần:
- Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và
mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc
tế nói chung; nâng cao sự hiểu biết và sự đồng thuận của cả xã hội, đặc biệt là
của doanh nghiệp, doanh nhân đối với các thỏa thuận quốc tế.
- Đổi mới sáng tạo công nghệ: trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghệ 4.0
hiện nay, Việt Nam cần thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, định vị đất nước ở vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu và thu hẹp
khoảng cách phát triển với các nước.
- Chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh: thông qua việc đẩy mạnh hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra một môi trường
kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho mọi tổ chức, doanh nghiệp, người dân
tham gia phát triển sản xuất kinh doanh.
- Đẩy mạnh các mối quan hệ: không chỉ đẩy mạnh ta cần làm sâu sắc hơn các
mối quan hệ với đối tác nhất là các đối tác có tầm ảnh hưởng chiến lược quan
trọng đối với sự phát triển và an ninh của Việt Nam.
- Thực hiện cam kết quốc tế: thực hiện một cách có hiệu quả các cam kết mà
Việt Nam đã ký thỏa thuận. Xây dựng và triển khai chiến lược hội nhập trên
mọi lĩnh vực theo kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích
quốc gia và khả năng của đất nước
VAI TRÒ BẢN THÂN
Hội nhập quốc tế đã và đang là xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động sâu sắc đến
nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Trong đó, với sự trẻ, khỏe, năng động vốn có, sinh viên
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế. Quá trình này đã đem đến
nhiều cơ hội cho sinh viên trong việc tiếp cận thông tin, tiếp thu những thành tựu khoa
học kĩ thuật. Sinh viên luôn có vai trò nòng cốt trong nhiều lĩnh vực xã hội, là lực lượng
tiên phong trong việc áp dụng những thành tựu vào đời sống, chính sự năng động, nhiệt
huyết của sinh viên đã tạo nên sự thành công của sinh viên trong quá trình hội nhập. Có
thể nói, sinh viên là lực lượng quyết định sự nhanh hay chậm, thành công hay thất bại của
quá trình hội nhập quốc tế.
Vì vậy, mỗi sinh viên đều phải có trách nhiệm trong việc hội nhập quốc tế của nước nhà.
Để thực hiện trách nhiệm của mình, bản thân em nói riêng và các bạn sinh viên nói chung
cần:
+ Chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động cơ học tập đúng đắn, học tập để mai sau xây
dựng đất nước, hiểu được học tập tốt là yêu nước. Tuổi trẻ Việt Nam nói chung và sinh
viên Việt Nam nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nguồn nhân lực
chất lượng cao, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng để thích ứng với những bước phát triển mới
trong khoa học và công nghệ. Chính vì vậy, thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất
nước phải không ngừng học tập, sáng tạo, tiếp thu các công nghệ mới để trang bị một nền
tảng tốt, giàu kiến thức, vững kỹ năng để tiếp nối các thế hệ cha anh trong quá trình thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
+ Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa các tệ
nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các
giá trị văn hoá – đạo đức truyền thống của dân tộc. Đây sẽ là một động lực quan trọng để
phát huy giá trị truyền thống của dân tộc, phát huy giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam
nói chung và tuổi trẻ Việt Nam nói riêng để đóng góp vào sự phồn thịnh của đất nước.
+ Luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hiện nay, các thiết bị công nghệ hiện đại và
hệ thống mạng xã hội đang ngày càng phát triển đã tạo ra nhiều ảnh hưởng lớn đến sinh
viên, bao gồm cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, một trong số đó là khiến giới trẻ
nói chung, trong đó có sinh viên sống tách biệt với xã hội, hình thành lối sống vô tâm, vô
cảm, thờ ơ chính trị. Sinh viên Việt Nam phải có nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận thức
trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng và Nhà nước trong việc loại bỏ các thông tin xuyên
tạc, tiêu cực khỏi các nền tảng mạng xã hội, tuyên truyền đến người thân, bạn bè có cách
tiếp nhận thông tin đúng đắn, chính xác.
+ Am hiểu văn hóa dân tộc: Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Bản sắc văn hóa dân tộc làm nên cốt lõi vững chắc giúp cho nền văn hóa luôn giữ
được tính duy nhất, tính nhất quán trong quá trình phát triển. Trong thời đại ngày nay, xu
thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, trên quy mô lớn. Nhiều nét mới
trong giá trị vǎn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành như tính nǎng động của
công dân được phát huy, sở trường và nǎng lực cá nhân được khuyến khích. Thế hệ trẻ
tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp. Bên cạnh
những mặt tích cực, thì hội nhập Quốc tế cũng có những tác động tiêu cực đến sự gìn giữ
bản sắc dân tộc như: Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị vǎn hóa dân tộc,
chạy theo lối sống thực dụng ...Vì vậy, trong quá trình hội nhập thanh niên phải chủ động
lựa chọn, tiếp thu và phát huy những mặt tích cực, ngăn chặn, đẩy lùi những tiêu cực của
nền văn hóa bên ngoài.
+ Trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của công nghệ,
phát triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội. Trong quá trình xây dựng
phải chắt lọc, kế thừa những thành tựu phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước.
Trong đó, sinh viên với bản chất năng động, sáng tạo, nhiệt huyết, nhanh nhạy là đối
tượng lý tưởng để tiếp thu các công nghệ mới, tham gia giao lưu, hội nhập quốc tế. Nhiệm
vụ học tập khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế đòi hỏi lớp sinh viên hiện nay phải
nhanh chóng trang bị cho mình năng lực hội nhập, như bản lĩnh, kiến thức, trình độ ngoại
ngữ, tin học, kỹ năng, tác phong công nghiệp, hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình,
đồng thời phải hiểu biết tình kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa thế giới. Để thực hiện
nhiệm vụ đó, mỗi sinh viên phải phát huy tinh thần tự học tập, tự rèn luyện

(Phương)

Không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn để có thể chủ động và tự tin hơn
trong quá trình hội nhập quốc tế; sinh viên - một thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong
trong việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào nghiên cứu, áp dụng
những tri thức mới vào đời sống xã hội... mang lại hiệu quả cao trong quản lý và sản
xuất... Hiện nay, trong mọi lĩnh vực của đời sống thanh niên đã dần khẳng định được vai
trò nòng cốt và vị trí chủ lực của mình, chính sự năng động, nhiệt huyết sự đó đã tạo nên
thành công của sinh viên trong thời kỳ hội nhập với những đóng góp không nhỏ cho quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Thế hệ trẻ chính là lực lượng quyết định chính sự nhanh hay chậm, thành công hay thất
bại của quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó, sẽ là thuận lợi cho Việt Nam khi đa số thanh
niên hiện nay đều có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt; tinh thần
xung phong tình nguyện và ý thức chia sẻ cộng đồng cao; thanh niên là lực lượng có nhu
cầu và khả năng tiếp thu nhanh nhạy những thành tựu và đổi mới về khoa học công nghệ
hiện đại; năng động sáng tạo, luôn chủ động học hỏi những cái mới và tiến bộ của nhân
loại... Đây sẽ là những yếu tố thuận lợi cho đất nước và mỗi địa phương trong quá trình
hội nhập quốc tế.
Tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, có lòng yêu nước, có niềm
tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tích cực tham gia
vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch và các biểu hiện tiêu cực khác.
Tích cực tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, tích cực xây dựng
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Phấn đấu trở
thành đoàn viên, đảng viên của Đảng. Thanh niên cần tích cực tham gia xây dựng môi
trường xã hội lành mạnh và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham gia
phòng chống suy thoái môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, phòng ngừa
và đẩy lùi các dịch bệnh…
Dù làm công việc gì, ở đâu, với nước nào, cũng đều phải đặt lợi ích quốc gia, lợi ích tập
thể lên trên lợi ích cá nhân. Trong bất cứ trường hợp nào cũng đều phải giữ vững mục tiêu
đưa nền kinh tế nước ta đi theo định hướng XHCN, không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà
đánh mất lợi ích chính trị xã hội lâu dài. Góp phần thực hiện tốt các cam kết với tổ chức
thương mại quốc tế WTO và các quan hệ thương mại song phương khác để chứng tỏ rằng
Việt Nam là đối tác làm ăn tin cậy của họ.

(Quân)
Vai trò của bản thân với tư cách là sinh viên là rất quan trọng trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam. Như một sinh viên, Chúng ta là những người trẻ tuổi, có
năng lực, tri thức và tầm nhìn tương lai, và có đóng góp tích cực vào quá trình hội nhập
này.

Đầu tiên, chúng ta có thể trở thành các nhân tố nhân lực chất lượng cao cho các doanh
nghiệp và tổ chức tham gia vào quá trình hội nhập. Bằng cách nắm vững kiến thức chuyên
môn, kỹ năng mềm và ngoại ngữ, chúng ta sẽ trở thành những người lao động trí tuệ, đáp
ứng được yêu cầu của môi trường kinh doanh quốc tế. Đồng thời, chúng ta cũng dễ dàng
tiếp cận với các chương trình học quốc tế, trao đổi sinh viên và thực tập quốc tế, từ đó
nâng cao khả năng tiếp thu kiến thức và trải nghiệm văn hóa đa dạng.

Thứ hai, chúng ta có thể tham gia vào các hoạt động nghiên cứu và đổi mới. Trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự đổi mới và sáng tạo là yếu tố quan trọng để cải thiện
năng suất và tăng trưởng kinh tế. Sinh viên tìm hiểu, tham gia vào các dự án nghiên cứu,
sáng kiến, khởi nghiệp và kết nối với cộng đồng doanh nghiệp để áp dụng kiến thức và ý
tưởng của mình vào thực tế.

Cuối cùng, chúng ta đóng vai trò là những người ủng hộ và tạo ra những ý thức về hội
nhập kinh tế quốc tế. Bằng cách tham gia vào các hoạt động xã hội, giao lưu văn hóa và
trao đổi kiến thức, chúng ta tạo ra sự hiểu biết và lòng tin tưởng về lợi ích của hội nhập
kinh tế quốc tế. Đồng thời, chúng ta cũng có thể nâng cao nhận thức về bảo vệ môi
trường, đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội trong quá trình hội nhập này.

(Nhi)

Là một sinh viên, chúng ta có thể đóng góp vai trò quan trọng trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam bằng cách:

1. Nâng cao kiến thức và kỹ năng:

Học tập chuyên ngành: Nắm vững kiến thức chuyên ngành sẽ giúp chúng ta có nền
tảng vững chắc để tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế.

Ngoại ngữ: Nắm vững ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh sẽ giúp giao tiếp hiệu quả
với đối tác quốc tế và tiếp cận thông tin cập nhật về kinh tế thế giới.

Kỹ năng mềm: Rèn luyện các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm
việc nhóm, kỹ năng giải quyết vấn đề... để có thể làm việc hiệu quả trong môi
trường đa văn hóa.

2. Tham gia các hoạt động hội nhập:

Tham gia các hội thảo, diễn đàn về hội nhập kinh tế quốc tế: Đây là cơ hội để bạn
học hỏi kiến thức, cập nhật thông tin và gặp gỡ các chuyên gia trong lĩnh vực này.
Thêm vào đó, chúng ta nên tham gia các câu lạc bộ, hội nhóm về hội nhập kinh tế
quốc tế: Tham gia các câu lạc bộ, hội nhóm giúp chúng ta chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm và cùng nhau học hỏi, phát triển.

3.Nâng cao ý thức trách nhiệm:

Chúng ta cần tự hào về đất nước: Nâng cao ý thức tự hào về đất nước, về văn hóa
và con người Việt Nam. Có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà
nước và bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, đấu tranh chống lại âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần giữ gìn bản sắc dân tộc: Giữ gìn bản sắc dân tộc
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một việc làm vô cùng quan trọng, tiên
quyết, hội nhập nền kinh tế toàn cầu nhưng vẫn giữ được những nét đặc trưng vốn
có của nước nhà, không bị quên đi cội nguồn dân tộc.

Hội nhập kinh tế quốc tế là một cơ hội lớn cho Việt Nam phát triển kinh tế và nâng
cao đời sống người dân. Là một sinh viên, chúng ta có thể cùng nhau đóng góp vai
trò quan trọng trong quá trình này bằng cách nâng cao kiến thức và kỹ năng, tham
gia các hoạt động hội nhập, sử dụng công nghệ thông tin và nâng cao ý thức trách
nhiệm. Hãy cùng chung tay góp sức để Việt Nam hội nhập sâu rộng và hiệu quả
vào kinh tế quốc tế.

(Oanh)

3. Vai trò của bản thân đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Bản thân một sinh viên, là thế hệ trẻ, là chủ nhân của đất nước, chúng ta cần làm gì,
làm như thế nào để khẳng định và đóng góp sức mình vào công cuộc kiến thiết và
bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên Chủ nghĩa Xã hội, các nước ra sức chạy đua
về công nghệ, kỹ thuật với hàng loạt các công trình nghiên cứu, sáng chế, áp dụng
kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào đời sống sản xuất, tối ưu hóa các quy trình sản
xuất.
– Thế hệ trẻ cần phải chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động cơ học tập đúng đắn,
học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu được học tập tốt là yêu nước. Tuổi trẻ
Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng đóng vai trò rất quan trọng
trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng
để thích ứng với những bước phát triển mới trong khoa học và công nghệ. Chính vì
vậy, thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước phải không ngừng học tập,
sáng tạo, tiếp thu các công nghệ mới để trang bị một nền tảng tốt, giàu kiến thức,
vững kỹ năng để tiếp nối các thế hệ cha anh trong quá trình thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.
– Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa
các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực
dụng, xa rời các giá trị văn hoá – đạo đức truyền thống của dân tộc. Đây sẽ là một
động lực quan trọng để phát huy giá trị truyền thống của dân tộc, phát huy giá trị
tốt đẹp của con người Việt Nam nói chung và tuổi trẻ Việt Nam nói riêng để đóng
góp vào sự phồn thịnh của đất nước.
– Luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hiện nay, các thiết bị công
nghệ hiện đại và hệ thống mạng xã hội đang ngày càng phát triển đã tạo ra nhiều
ảnh hưởng lớn đến sinh viên, bao gồm cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực,
một trong số đó là khiến giới trẻ nói chung, trong đó có sinh viên sống tách biệt với
xã hội, hình thành lối sống vô tâm, vô cảm, thờ ơ chính trị. Sinh viên Việt Nam
phải có nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận thức trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng
và Nhà nước trong việc loại bỏ các thông tin xuyên tạc, tiêu cực khỏi các nền tảng
mạng xã hội, tuyên truyền đến người thân, bạn bè có cách tiếp nhận thông tin đúng
đắn, chính xác.
– Trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của công
nghệ, phát triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội. Trong quá trình
xây dựng phải chắt lọc, kế thừa những thành tựu phù hợp với điều kiện phát triển
của đất nước. Trong đó, sinh viên với bản chất năng động, sáng tạo, nhiệt huyết,
nhanh nhạy là đối tượng lý tưởng để tiếp thu các công nghệ mới, tham gia giao lưu,
hội nhập quốc tế. Nhiệm vụ học tập khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế đòi
hỏi lớp sinh viên hiện nay phải nhanh chóng trang bị cho mình năng lực hội nhập,
như bản lĩnh, kiến thức, trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng, tác phong công
nghiệp, hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình, đồng thời phải hiểu biết tình kinh
tế, chính trị, xã hội và văn hóa thế giới. Để thực hiện nhiệm vụ đó, mỗi sinh viên
phải phát huy tinh thần tự học tập, tự rèn luyện.

You might also like