Professional Documents
Culture Documents
1. Ảnh hưởng của những xu thế vận động chủ yếu của nền kinh tế thế giới đối với
nền kinh tế Việt Nam.
a) Phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ (động lực)
Cơ hội:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên nền tảng của công nghệ số với sự đột phá
của internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo,…. Cuộc cách mạng này phát triển với tốc độ nhanh
chưa từng có trong lịch sử và tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa, con người và quốc phòng an ninh đối ngoại. Trong lĩnh vực kinh tế dẫn
đến
- sự ra đời các ngành nghề mới, sự thay đổi phương thức quản trị, điều hành Tạo ra sự
thay đổi lớn về mô hình kinh doanh bền vững hơn và cơ hội cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo.
- mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực sản
xuất và cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu.
- Mang lại tiềm năng cho Việt Nam rút ngắn quá trình công nghiệp hóa bằng cách đi tắt,
đón đầu, phát triển nhảy vọt lên công nghệ cao hơn.
- đồng thời, nó thúc đẩy sự cạnh tranh, tăng cường tiềm lực sức mạnh và năng lực sản
xuất quốc gia, về tổng thể thúc đẩy sự chuyển dịch trật tự kinh tế thế giới và những thay
đổi trong quan hệ quốc tế.
Thách thức:
Mặc dù đã có những cải tiến nhưng các vấn đề về: Thiếu chuẩn mực về hạ tầng số, vấn đề
bảo mật, lao động có kỹ năng vẫn đòi hỏi Việt Nam ta cần tập trung và cố gắng hơn nữa
để
Cuộc CMCN 4.0 đã và đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, làm thay đổi bối cảnh
toàn cầu và sẽ tác động mạnh tới nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Vì vậy, đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế hiện nay đòi hỏi phải tận
dụng tốt nhất những tiềm năng, lợi thế trong bối cảnh mới, đặc biệt là những cơ hội do
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại. Đây chính là dư địa không giới hạn để
phát triển nhanh và bền vững cả trong trước mắt cũng như trong trung và dài hạn.
Thời gian qua, Đảng, chính phủ và cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương đã
rất tích cực, chủ động tham gia vào cuộc cách mạng này. Bộ chính trị đã có NQ 52
NQTWvề: “Một số chủ trương, chính sách của Việt Nam chủ động tham gia cách mạng
công nghiệp lần thứ tư”, Chính phủ đã ban hành chỉ thị về nâng cao năng lực tiếp cận
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, các Bộ ngành và địa phương đều đã có chương
trình hành động. Tuy nhiên, mức độ chủ động tham gia cuộc cách mạng này của chúng ta
còn hạn chế. Điều đó do những nguyên nhân về thể chế, chính sách, trình độ phát triển
KHCN, nguồn nhân lực…Do vậy, cần phải có chính sách tổng thể và quyết liệt từ trung
ương đến địa phương và các Bộ ngành và doanh nghiệp để chủ động tham gia có hiệu
quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, tạo bước đột phá trong phát triển của đất
nước trong thời gian tới.
b) Xu thế toàn cầu hóa khu vực và quốc tế hóa đời sống.
Cơ hội:
Chịu sự tác động của những xu hướng chung này, Việt Nam tham gia hàng loạt các tổ
chức kinh tế lớn như WTO, ASEAN,.. và tích cực tham gia đàm phán, ký kết các Hiệp
FTA song phương và đa phương. Đến nay, Việt Nam đã chính thức tham gia, ký kết thực
hiện 14 FTA có hiệu lực và 01 FTA đã chính thức ký kết, sắp có hiệu lực.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Nhìn lại bức tranh nền kinh tế vào năm 1986, Việt Nam
chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp sử dụng máy móc thiết bị lạc hậu. Nhưng đến năm
2020, theo số liệu của tổng cục thống kê cơ cấu nền kinh tế nước ta chiếm tỷ trọng cao
nhất là khu vực dịch vụ (41,63%), tiếp đến là khu vực công nghiệp, xây dựng và khu vực
nông, lâm nghiệp, thủy sản.
- Cơ cấu lao động có nhiều thay đổi: lao động trí óc nhiều thay thế đần cho lao động trân
tay
- Việt Nam hiện là một trong những nước hưởng lợi nhiều từ xu hướng toàn cầu hóa.
Năm 2019, tỷ lệ thương mại so với GDP của Việt Nam đạt tới 201,4%. Đây là con số cao
nhất trong nhóm những nước có trên 50 triệu dân theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới
tính từ năm 1960. Có thể nói yếu tố toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đóng vai trò
quan trọng trong thành tích tăng trưởng trung bình 7% trong hơn 3 thập kỷ qua của Việt
Nam.
Việt Nam đã thực hiện chính sách tập trung phát triển xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng.
Việt Nam cung cấp thị trường lao động giá rẻ cho nhà đầu tư nước ngoài và nhanh chóng
trở thành nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất
-> xu hướng này: Thuận lợi cho quá trình xuất nhập khẩu, tăng nguồn vốn phát triển kinh
tế, học hỏi trình độ quả lý,…
Thách thức:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế quá phụ thuộc vào hoạt động thương mại. Những sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là các nhu yếu phẩm bao gồm: nguyên liệu đầu
vào, nông sản, hàng tiêu dùng cơ bản không có sức cạnh tranh cao, do vậy doanh nghiệp
Việt Nam rất dễ gặp khó khăn trên thị trường quốc tế. Đặc biệt, cùng với việc tham gia
các FTA, nguồn cung hàng hóa của thế giới đang và sẽ tiếp tục chảy vào Việt Nam với
giá cả thấp, đe dọa sự phát triển của sản xuất nội địa.
Thứ hai, phụ thuộc vào đối tác kinh tế. Trung Quốc và Mỹ là hai đối tác thương mại
lớn nhất của Việt Nam, nếu hai nền kinh tế này thay đổi chính sách, Việt Nam có thể gặp
khó khăn.
Thứ ba, phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Hiện nay, trong thành tích xuất siêu hơn hai
tỷ USD trong quý I/2021, thì công lớn cũng thuộc về doanh nghiệp FDI và trong năm
2020, khu vực này cũng xuất siêu 34,6 tỷ USD kể cả dầu thô, chiếm tới 70% thành tích
xuất khẩu trở thành khối xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Bên cạnh một số đóng góp
tích cực cho nền kinh tế Việt Nam như giúp duy trì đà tăng trưởng cao, tạo công ăn việc
làm cho người lao động… các doanh nghiệp FDI cũng gây ra những tác động tiêu cực
không nhỏ như gây ô nhiễm môi trường, tình trạng chuyển giá, trốn thuế, mục tiêu
chuyển giao công nghệ còn hạn chế …
Xuất hiện nhiều nguy cơ tiềm ẩn, rủi do kinh tế, do bị ảnh hưởng bởi các quốc gia
khác.
c) Chuyển từ đối đầu sang đối thoại, sự phát triển của vòng cung Châu Á Thái
Bình Dương.
Tạo một môi trường ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của nước ta:
Tự do lưu chuyển hàng hoá, lưu chuyển dịch vụ, tự do lưu chuyển đầu tư, lưu chuyển
vốn, lưu chuyển lao động có kỹ năng.
Cạnh tranh công bằng
d) Phát triển của vòng cung Châu Á Thái Bình Dương: thu hút nhiều sự chú ý và
đầu tư vào Việt Nam.
2. Phân tích những xu thế vận động lớn của nền KTTG và tác động
của chúng đến việc hoạch định chính sách kinh tế đối ngoại của
Việt Nam?
a) Tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư
Để nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0,
Việt Nam đã, đang và sẽ kiên trì thực hiện quan điểm của Đảng về phát triển Khoa
học-Công nghệ và đổi mới sáng tạo để cùng với nguồn nhân lực chất lượng cao trở
thành một trong ba đột phá chiến lược.
Với khát vọng và tầm nhìn vươn lên những thứ bậc cao hơn về công nghệ, kinh tế số
và đổi mới sáng tạo, ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 52 về một số
chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư
đến năm 2030, tầm nhìn 2045, đặt ra những nhiệm vụ mới đòi hỏi Ngoại giao Việt
Nam phải có những điều chỉnh, thích ứng, đồng hành cùng các bộ ngành và cả hệ
thống chính trị cùng đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra.
Tuy nhiên, mức độ chủ động tham gia cuộc cách mạng này của chúng ta còn hạn chế.
Điều đó do những nguyên nhân về thể chế, chính sách, trình độ phát triển khoa học
công nghệ, nguồn nhân lực…
b) Tác động của toàn cầu hoá, Tác động của chuyển từ đối đầu sang đối thoại.
Toàn cầu hóa đã tác động không nhỏ đến việc hoạch định chính sách kinh tế đối ngoại
của nước ta khi chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung thống nhất, xóa bỏ chủ
trương phát triển nền kinh tế khép kín dựa trên nguyên tắc "tự lực cánh sinh", hạn chế
các mối liên hệ với nền kinh tế thế giới. Và đã từng bước đi vào nền kinh tế thị trường
quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hóa thị trường, tranh
thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiến cho sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam chủ trương tham gia hàng loạt các tổ chức quốc tế, các hiệp định song
phương và đa phương.
Thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia trên thế giới
Xây dụng các chính sách bảo hộ mậu dịch, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng
để mở rộng kinh tế đối ngoại, khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh
tế đối ngoại, tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh tế đối ngoại, sửa đổi
và ban hành các luật pháp cần cho kinh tế đối ngoại và phù hợp với các thông lệ quốc
tế mà ta sẽ cam kết,…đã phát huy sức mạnh và đạt được những thành tựu nhất định.
Đường lối đối ngoại mà Đại hội XIII của Đảng đề ra; Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày
10-4-2013, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế”, nhằm củng cố môi trường hòa
bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và
bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị
thế, uy tín quốc tế của đất nước. Cũng như Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-
2016, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “Về thực hiện có hiệu quả tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh Việt
Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”…
Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh
tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), đánh dấu bước đi quan trọng trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC luôn có tầm quan trọng chiến lược trong công
cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế. Đây chính là nơi hội tụ hầu hết các đối
tác chiến lược, đối tác kinh tế, thương mại hàng đầu của Việt Nam
Phó Thủ tướng chia sẻ, năm 2018 đánh dấu đúng 20 năm Việt Nam tham gia APEC.
Trong triển khai chính sách hội nhập quốc tế sâu rộng và nâng tầm đối ngoại đa
phương, châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có APEC, tiếp tục là trọng tâm của
chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam sẽ tiếp tục cùng các thành viên đóng
góp xây dựng một cộng đồng châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, ổn định, năng
động, bao trùm, kết nối và thịnh vượng. Việt Nam đã cùng với các quốc gia khu vực
phối hợp thông qua quy chế ứng xử biển Đông làm cơ sở để giải quyết các vấn đề trên
biển, góp phần vào ổn định chung khu vực theo hướng gác tranh chấp, cùng khai thác.
2. Các lý thuyết về thương mại quốc tế: chủ nghĩa trọng thương, lý
thuyết lợi thế tuyệt đối, lý thuyết lợi thế so sánh (không bao gồm
trường hợp chi phí cơ hội thay đổi và dưới góc độ tiền tệ), lý thuyết
H - O. Đánh giá thành công và hạn chế của các lý thuyết này.
Hãy so sánh lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lý thuyết lợi thế so sánh của
David Ricardo?
Đánh giá tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua?
So sánh lý thuyết H-O và lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo?
Cần phải có những giải pháp gì để khai thác có hiệu quả những lợi thế của Việt Nam theo
quan điểm H-O trong điều kiện hội nhập KTQT hiện nay?
Đây là học thuyết đầu tiên đề cao vai trò của thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế.
Tư tưởng đề cao thương mại tiến bộ hơn các trào lưu tư tưởng phong kiến đương thời -
vốn coi thường thương mại và chỉ coi trọng sản xuất tự cung tự cấp, đặc biệt là coi trọng
sản xuất nông nghiệp và khai thác. Có thể coi học thuyết trọng thương là tuyên ngôn tư
tưởng của chủ nghĩa tư bản giai đoạn tích luỹ ban đầu.
Thấy được vai trò của Nhà nước trong điều tiết hoạt động ngoại thương nói riêng và hoạt
động kinh tế nói chung thông qua các công cụ như thuế quan, hạn ngạch, độc quyền trong
ngoại thương...
Lần đầu tiên trong lịch sử, lý thuyết về kinh tế được nâng lên như là lý thuyết khoa học,
khác hẳn với các tư tưởng kinh tế thời trung cổ giải thích các hiện tượng kinh tế bằng
quan niệm tôn giáo.
Học thuyết còn nhiều luận điểm không chính xác, phiến diện về tiêu chuẩn đánh giá sự
giàu có của quốc gia, về lợi ích khi tham gia vào thương mại quốc tế, tính ngang giá trong
trao đổi quốc tế, về tác động của cán cân thương mại.
Học thuyết chỉ giải thích được các hiện tượng bề ngoài của thương mại quốc tế mà chưa
phân tích được bản chất quan hệ bên trong của các hoạt động thương mại quốc tế. Học
thuyết trọng thương được đánh giá là ít tính lý luận và chủ yếu nêu lên dưới hình thức lời
khuyên thực tiễn về chính sách thương mại, mang nặng tính kinh nghiệm (rút ra từ thực
tiễn thương mại của Anh và Pháp).
Tóm lại, học thuyết trọng thương là học thuyết mặc dù còn khá nhiều điểm phiến diện,
nhưng có vai trò mở đường cho việc nghiên cứu một cách khoa học các hiện tượng
thương mại quốc tế. Học thuyết đã chỉ ra sự cần thiết và cách thức tác động của Nhà nước
đến hoạt động ngoại thương.
1 quốc gia có lợi thế tuyệt đối trong việc 1 quốc gia sẽ có lợi thế so sánh trong
sản xuất 1 hoặc 1 nhóm hàng hóa nào đó sản xuất 1 loại hàng hóa đó nếu như giá
Khái
nếu như quốc gia đó có chi phí sản xuất trị về lao động của hàng hóa đó là thấp
niệm
nhỏ hơn so với quốc gia khác khi cùng sản hơn so với quốc gia khác.
xuất 1 lượng sản phẩm như nhau.
- Sự giàu có của các quốc gia thể hiện ở - Thương mại quốc tế vẫn có thể xảy ra
khả năng sản xuất hàng hoá chứ không và đem lại lợi ích ngay cả khi quốc gia
phải trong việc nắm giữ tiền. có lợi thế tuyệt đối hoặc không có
- Đưa ra ý tưởng về lợi thế tuyệt đối để trong sản xuất các mặt hàng.
giải thích nguyên nhân dẫn đến thương - Cơ sở để xác định mô hình chuyên
mại quốc tế và lợi ích của nó. Khẳng định môn hoá sản xuất và trao đổi quốc tế
lợi thế tuyệt đối là cơ sở của thương mại giữa các quốc gia là lợi thế so sánh.
Tư
quốc tế tức là các quốc gia trao đổi với - Các quốc gia tiến hành chuyên môn
tưởng
nhau dựa trên lợi thế tuyệt đối của mình. hóa sản xuất và trao đổi những mặt
chính
- Các quốc gia tiến hành chuyên môn hóa hàng mà quốc gia đó có lợi thế so sánh
sản xuất và trao đổi những mặt hàng mà trong trao đổi thương mại quốc tế, theo
quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối trong trao Ricardo thì cơ sở của lợi thế so sánh
đổi thương mại quốc tế, chi phí sản xuất chính là sự khác biệt về giá tương đối
thấp hơn một cách tuyệt đối so với các của một hoặc một nhóm sản phẩm nào
quốc gia khác. đó.
- Ủng hộ chính sách thương mại tự do.
Đối Giải thích thương mại quốc tế giữa các Giải thích trường hợp phổ biến trong
tượng quốc gia đều có một lợi thế tuyệt đối trong thương mại quốc tế đó là 1 quốc gia
giải sản xuất một loại hàng hóa. không có bất kỳ lợi thế tuyệt đối trong
thích sản xuất hàng hóa nào vẫn có thể tham
gia và thu được lợi ích từ thương mại
quốc tế.
3. Các công cụ của chính sách thương mại quốc tế: thuế quan, hạn
ngạch, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, hạn chế xuất khẩu tự
nguyện, hỗ trợ xuất khẩu. Liên hệ việc áp dụng các công cụ này
trong chính sách ngoại thương của Việt Nam.
a) So sánh thuế và hạn ngạch
Để quản lý được các hoạt động mua bán với các nước, nhà nước đã có nhiều biện pháp,
trong đó thuế xuất nhập khẩu là một trong những công cụ chủ yếu. Thông qua việc ban
hành và thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu, chúng ta có thể nắm đủ tình hình xuất
nhập khẩu hàng hóa, tạo điều kiện cho nhà nước có căn cứ đề ra chính sách ngoại thương
đúng đắn, cân đối cung, cầu hàng hóa xuất nhập khẩu và cân bằng cán cân thanh toán.
Thuế xuất nhập khẩu là một trong những nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ban hành năm 2016, ngày càng được hoàn thiện
hơn.
Thuế xuất khẩu: Hiện nay đối với phần lớn hàng xuất khẩu có thuế suất 0%, trừ một số
mặt hàng như dầu thô, một số loại quặng và song mây.
Thuế nhập khẩu được quy định có 3 mức: thuế suất ưu đãi, thuế suất thông thường và
thuế suất ưu đãi đặc biệt để áp dụng trong những trường hợp khác nhau tùy thuộc vào
mức độ quan hệ thương mại giữa VN với các nước, tạo thuận lợi trong đàm phán về thuế,
phù hợp với các quy định quốc tế mà nước ta cam kết thực hiện. Theo tài liệu của Bộ
thương mại, hiện nay VN đã có thỏa thuận về đối xư ưu đãi đặc biệt trong quan hệ
thương mại với một số nước trong khu vực như: Brunei, Indonesia, Lào, Malaysia,
Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan. Nước ta đã có thỏa thuận về đối xư tối huệ
quốc trong quan hệ thương mại với 66 nước trên thế giới.
- Đơn cử như với 2 FTA “thế hệ mới” được ký trong năm 2019 là Hiệp định Đối tác Toàn
diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và FTA Việt Nam - Liên minh châu
Âu (EVFTA)
Đối với CPTPP, Cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế theo lộ trình: 65,8% số dòng
thuế có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định cóhiệu lực, 86,5% số dòng thuế có thuế suất 0%
vào năm thứ 4 kể từ khiHiệp định có hiệu lực (năm 2021); 97,8% số dòng thuế có thuế
suất 0% vào năm thứ 11 kể từ khi, Hiệp định có hiệu lực (năm 2029);Các mặt hàng còn
lại cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu với lộtrình xóa bỏ thuế tối đa vào năm thứ 16 hoă ăc
theo hạn ngạchthuế quan
Theo Hiệp định EVFTA, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 48,5% số
dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch xuất khẩu của EU ngay khi Hiệp định có hiệu
lực. Tiếp đó, sau 7 năm, 91,8% số dòng thuế. Sau 10 năm, mức xóa bỏ này tương ứng là
98,3% số dòng thuế . Khoảng 1,7% số dòng thuế còn lại của EU ta áp dụng lộ trình xóa
bỏ thuế nhập khẩu dài hơn 10 năm hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan theo cam kết
WTO.
* thị trường xuất khẩu mở rộng
* cơ cấu mặt hàng
Có thể nói rằng chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nước ta đã có tác động tích
cực trong việc quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu, mơ rộng quan hệ kinh tế đối ngoại,
nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, góp phần phát triển, bảo vệ sản xuất trong
nước, hướng dẫn tiêu dùng và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Tác động của thuế nhập khẩu: https://tapchitaichinh.vn/co-che-chinh-sach/thue-xuat-
khau-thue-nhap-khau-o-viet-nam-thuc-tien-va-giai-phap-330950.html
c) Hạn Ngach:
Hiện nay, Việt Nam cũng ra một số quy định về việc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, chỉ
trong một số trường hợp nhất định, một số hàng hóa nhất định thì cơ quan nhà nước có
thẩm quyền mới dùng biện pháp hạn ngạch nhập khẩu. Các trường hợp đó bao gồm:
Để hạn chế một số mặt hàng nhập khẩu vào nước ta. Để bảo vệ những hàng hóa nội địa,
giúp bình ổn giá sản phẩm, khuyến khích người dân dùng hàng nội địa. Hạn chế những
loại mặt hàng có ảnh hưởng không tốt đến người tiêu dùng.
Có 4 mặt hàng hiện nay vẫn được Việt Nam duy trì cơ chế hạn ngạch thuế quan là:
Trứng gia cầm, muối, đường, thuốc lá:
Ví dụ với mặt hàng Đường: Bộ NN&PTNT đề nghị Bộ Công Thương công bố lượng hạn
ngạch thuế quan nhập khẩu đường năm 2021 theo lượng tối thiểu cam kết trong WTO là
108.150 tấn.
Theo Bộ NN&PTNT, báo cáo của Hiệp hội Mía đường Việt Nam cho biết, đến cuối
tháng 4, toàn ngành mía đường ép được 6.263.796 tấn mía, sản xuất được 661.712 tấn
đường.
Ước tính sản lượng đường từ mía niên vụ 2020/2021 đạt khoảng 700.000 tấn, tương
đương sản lượng mía khoảng 7 triệu tấn. Theo số liệu Bộ Công Thương cung cấp, nhu
cầu tiêu thụ đường trung bình những năm gần đây từ 2,1 – 2,3 triệu tấn/năm.
Lượng đường nhập khẩu chính ngạch trong 3 tháng đầu năm, trung bình mỗi tháng nhập
khoảng 125.000 tấn. Với số liệu như trên, Bộ NN&PTNT nhận định, tổng cung khoảng
2,2 triệu tấn chưa tính lượng đường tồn kho.
Từ đó, có thể đánh giá việc thiếu hụt đường là không nghiêm trọng.
Áp dụng mức hạn ngạch nhập khẩu với các mặt hàng trên vì:
Hạn chế mức ảnh hưởng đến việc sản xuất các mặt hàng trong nước.
Theo quy định của WTO, khi giành được quyền áp thuế nhập khẩu cao, mỗi năm Việt
Nam cũng phải cấp hạn ngạch nhập khẩu một lượng sản phẩm nhất định đối với những
mặt hàng được bảo hộ. => Việc cấp hạn ngạch nhập khẩu trứng, muối là bắt buộc nhằm
tuân thủ cam kết WTO.
- Nước ta hiện nay thị trường thương mại ngày càng trở nên sôi động, các quốc gia khác
vì thế cũng không thể chỉ “áp dụng kinh tế tự cung tự cấp”. Nên nhiều nước ồ ạt muốn
xuất khẩu sang những thị trường tiêu dùng tiềm năng mà Việt Nam là một điển hình.
Ngoài ra nhu cầu của người tiêu dùng cũng ngày một tăng cao.
- Những chính sách về hạn ngạch nhập khẩu là một phương án để bảo vệ những mặt
hàng nội địa. Điều đó giúp hàng hóa trong nước được bảo vệ dưới sự đổ bộ ồ ạt của hàng
loạt những sản phẩm đến từ nước ngoài. Tạo cơ hội cho những doanh nghiệp Việt Nam
có động lực phát triển hơn, cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu.
- Những tác động của hạn ngạch nhập khẩu cũng để lại nhiều hậu quả đối với nhiều
doanh nghiệp kinh doanh, buôn bán tại nước ta như:
Lãng phí nguồn lực, gây ra nhiều vấn đề tiêu cực khác nhau trong việc xin hạn ngạch
giữa các doanh nghiệp
Xảy ra sự phân loại khách hàng khi áp dụng hạn ngạch nhập khẩu
Hạn ngạch nhập khẩu còn có thể biến một doanh nghiệp trở thành nhà độc quyền về nhập
khẩu mặt hàng đó. Điều này sẽ gây ra nhiều sự bất lợi cho người tiêu dùng.
Việc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu chẳng đem lại lợi ích gì cho ngân sách chính phủ
nhưng lại đem về lợi nhuận rất lớn cho những doanh nghiệp xin được giấy phép.
Kinh tế cũng sẽ phải chịu nhiều thiệt hại hơn so với với áp dụng các loại thuế quan ngắn
hạn.
d) Hỗ trợ xuất khẩu:
Dự án “Thúc đẩy sản xuất và thương mại hồ tiêu bền vững tại Việt Nam” sẽ hỗ trợ phát
triển chuỗi cung ứng hồ tiêu và góp phần vào tăng trưởng bền vững của ngành; cải thiện
đời sống của 10.000 hộ nông dân trồng hồ tiêu ở Tây Nguyên và giúp các doanh nghiệp
sản xuất, chế biến hồ tiêu tăng sản lượng bền vững.
e) Quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật
Đánh Giá hoạt động xuất nhập khẩu của Viêt Nam:
1. Những kết quả đạt được
1.1. Về xuất khẩu: Kết thúc năm 2020, về cơ bản các mục tiêu đề ra trong Chiến lược
xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030 đều đạt được.
Tăng trưởng xuất khẩu vượt mức kế hoạch đề ra.
- Về quy mô xuất khẩu: Năm 2020, trong bối cảnh kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng
nề từ Covid-19, xuất khẩu của các nước trong khu vực đều giảm so với năm trước, xuất
khẩu của Việt Nam vẫn đạt được mức tăng trưởng dương, kim ngạch xuất khẩu ước đạt
gần 281,5 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019. Như vậy, Tăng trưởng xuất khẩu giai
đoạn 2016 -2020 đạt trung bình khoảng 11,7%/năm, cao hơn mục tiêu 10% đề ra tại Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
- Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm
lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều
kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Khác với các năm trước đây, động lực tăng trưởng xuất khẩu trong 2 năm qua không đến
từ nhóm nông sản, thủy sản mà đến từ các mặt hàng thuộc nhóm công nghiệp. Tỷ trọng
nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm trên 86,1% tổng kim ngạch xuất khẩu, cao hơn
mức 84,2% của năm 2019; 82,9% của năm 2018 và 81,1% của năm 2017. Điều này thể
hiện những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế đã
thực sự tác động, tạo thuận lợi và cơ hội cho sản xuất và hoạt động kinh doanh, xuất nhập
khẩu của doanh nghiệp.
- Quy mô các mặt hàng xuất khẩu tiếp tục được mở rộng. Số mặt hàng đạt kim ngạch
xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên đã tăng qua các năm, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2020 là 31 mặt hàng (trong đó có 9 mặt hàng xuất
khẩu trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD), chiếm tỷ trọng 92% tổng
kim ngạch xuất khẩu.
- Thị trường xuất khẩu, nhập khẩu được mở rộng, không chỉ tăng cường ở các thị
trường truyền thống mà còn khai thác được các thị trường mới, tiềm năng và tận dụng
hiệu quả các FTA. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã vươn tới hầu hết các thị trường
trên thế giới, nhiều sản phẩm đã dần có chỗ đứng vững chắc và nâng cao được khả năng
cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như EU, Nhật Bản, Mỹ,
Úc...
Việt Nam đã xuất siêu chủ yếu vào thị trường các nước phát triển, có yêu cầu khắt khe về
chất lượng đối với hàng hóa nhập khẩu như Hoa Kỳ (xuất siêu gần 62,7 tỷ USD); EU
(xuất siêu gần 20,3 tỷ USD). Riêng đối với thị trường EU, cả năm 2020, xuất khẩu sang
thị trường EU 34,94 tỷ USD giảm 2,3% so với cùng kỳ năm 2019 do các tác động của đại
dịch. Tuy nhiên, sau 5 tháng thực thi Hiệp định EVFTA, xuất khẩu sang thị trường EU
đạt khoảng 15,38 tỷ USD, tăng khoảng 1,6% so với cùng kỳ năm 2019. Nhiều mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực tại thị trường EU sau khi Hiệp
định EVFTA được thực thi, điển hình như thủy sản, tôm, gạo…
Đối với thị trường các nước CPTPP, kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, kim ngạch xuất
khẩu sang các thị trường là thành viên CPTPP đạt mức tăng tích cực. Năm 2020, xuất
khẩu sang Canađa duy trì mức tăng trưởng dương, đạt 4,35 tỷ USD, tăng 11,9%; xuất
khẩu sang Mexico đạt 3,17 tỷ USD, tăng 12,2%...
1.2. Về nhập khẩu: Cùng với việc thúc đẩy xuất khẩu, trong những năm gần đây chúng ta
đã tiếp tục thực hiện tốt khâu kiểm soát nhập khẩu.
- Về quy mô nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tăng từ 174,8 tỷ USD năm
2016 lên 253,4 tỷ USD năm 2019 và đạt khoảng 262,4 tỷ USD vào năm 2020 tăng 3,6%
so với năm 2019. Tăng trưởng nhập khẩu giai đoạn 2016-2020 đạt trung bình 9,6%/năm.
Như vậy, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của kim ngạch nhập khẩu trong giai
đoạn này thấp hơn so với tốc độ tăng bình quân của kim ngạch xuất khẩu, đạt mục tiêu
Chiến lược đề ra.
- Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu: Kiểm soát nhập khẩu được thực hiện tốt. Theo đó,
nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu đã tăng trưởng chậm lại. Nhập khẩu tập trung chủ yếu
ở nhóm hàng cần thiết phục vụ sản xuất, xuất khẩu và phục vụ các dự án đầu tư trong
nước. Nhập khẩu của nhóm hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu và hàng hóa thiết
yếu luôn chiếm gần 89%; nhập khẩu của nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu chỉ
chiếm dưới 6,27%.
1.3. Cán cân thương mại
Việt Nam vẫn duy trì được đà tăng trưởng ổn định trong hoạt động xuất nhập khẩu với
việc tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm thứ hai liên tiếp đạt mức trên 500 tỷ USD. Tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2020 mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch
Covid-19 vẫn đạt khoảng 543,9 tỷ USD.
Cán cân thương mại hàng hóa đạt thặng dư trong toàn bộ thời kỳ Kế hoạch 5 năm 2016 -
2020 với mức xuất siêu năm sau tăng cao hơn năm trước, qua đó đóng góp lớn vào tăng
trưởng GDP, tạo công ăn việc làm, tiêu thụ hàng hóa, đặc biệt là nông sản hàng hóa cho
người nông dân. Xuất siêu giúp nâng cao dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và ổn định kinh
tế vĩ mô. Năm 2020, xuất siêu ghi nhận mức kỷ lục gần 19,1 tỷ USD.
2. Những vấn đề còn tồn tại, khó khăn
- Kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản sụt giảm do gặp khó khăn về thị
trường và giá bán. Mức độ đa dạng hóa thị trường của một số mặt hàng thuộc nhóm nông
sản, thuỷ sản chưa cao.Với nông sản, ta đã làm tốt công tác đàm phán để nước nhập khẩu
cắt giảm thuế nhập khẩu cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam (thông qua các Hiệp định
FTA); Tuy nhiên, việc đàm phán để được công nhận về quản lý chất lượng, quản lý an
toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật còn hạn chế. Do vậy, nhiều mặt hàng dù đã
được nước ngoài giảm thuế về 0% nhưng một số nông sản của Việt Nam vẫn chưa được
phép nhập khẩu vào một số thị trường.
- Một số ngành trong nhiều năm là động lực tăng trưởng xuất khẩu như sản phẩm điện tử,
máy vi tính và sản phẩm quang học, đặc biệt là điện thoại di động không còn duy trì được
tốc độ tăng trưởng ấn tượng như giai đoạn trước.
- Mặc dù Việt Nam đã và đang rất tích cực, chủ động xử lý có hiệu quả các vấn đề trong
tranh chấp thương mại, xử lý các biện pháp phòng vệ thương mại, vượt qua các rào cản
thương mại của các thị trường nhập khẩu nhưng tình hình thế giới đang có những diễn
biến hết sức phức tạp, khó lường, các nước ngày càng gia tăng các biện pháp hạn chế
thương mại, bảo hộ sản xuất trong nước. (Trong năm 2020, Việt Nam đã ghi nhận 39 vụ
việc khởi xướng điều tra mới, tăng gần 2,5 lần so với năm 2019). Hàng hóa xuất khẩu của
Việt Nam đang phải đối diện với nhiều khó khăn do nhiều nước chuyển sang áp dụng
nhiều hình thức mới thay vì áp dụng các hàng rào kỹ thuật như áp thuế chống bán phá
giá, chống trợ cấp và tự vệ thương mại... đòi hỏi cần có sự khẩn trương nghiên cứu, thay
đổi trong cách tiếp cận để kịp thời điều chỉnh, ứng phó.
- Việc đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do đã mang lại nhiều thuận lợi
trong cắt giảm thuế quan, mở cửa thị trường. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh, hoạt
động thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài, phát triển công nghiệp hỗ trợ, cơ sở
hạ tầng, nguồn nhân lực chưa có sự cải thiện rõ rệt để tận dụng tối đa lợi ích mang
lại. Vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa có nhận thức đúng về tầm quan trọng của công tác
quản trị rủi ro, ứng dụng công nghệ thông tin, cải tiến mẫu mã sản phẩm, phương thức
marketing trong thương mại quốc tế cũng như chưa chủ động kết nối với các doanh
nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để nâng cao năng lực
cạnh tranh.
- Xuất khẩu vẫn còn phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (FDI). Mặc dù tỷ trọng giá trị xuất khẩu của khối FDI đã giảm trong thời gian qua
nhưng vẫn chiếm trên 64% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Do sản xuất và xuất khẩu của
khối này phụ thuộc rất mạnh vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu nên mỗi khi có
biến động xảy ra đối với chuỗi cung ứng, xuất khẩu của ta sẽ chịu tác động mạnh.
3.Xuất nhập khẩu Việt Nam kể từ khi đại dịch xuất hiện
Năm 2020 có dấu ấn đặc biệt đối với thương mại toàn cầu, với sự bùng phát và diễn biến
phức tạp của đại dịch COVID-19. Các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để
ngăn chặn dịch bệnh COVID-19 bùng phát đã khiến thương mại toàn cầu đình trệ, chuỗi
cung ứng đứt gãy, dẫn tới làn sóng phá sản nhiều DN trên toàn cầu.
Đối với Việt Nam, với việc thực hiện “mục tiêu kép” vừa đảm bảo phát triển kinh tế - xã
hội, vừa quyết liệt phòng, chống dịch bệnh COVID-19, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm
2020 đạt 2,91%. Đây là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020, tuy nhiên, xét
dưới tác động chung của đại dịch COVID19, kết quả này là tương đối ấn tượng khi so với
các quốc gia trong khu vực và trên thế giới (tăng trưởng GDP âm hoặc không tăng
trưởng).
Năm 2020, Việt Nam đạt được kỷ lục mới về quy mô kim ngạch XNK. Tổng trị giá XNK
hàng hóa của cả nước đạt 545,36 tỷ USD, tăng 5,4% với năm 2019. Trong đó, trị giá
hàng hóa xuất khẩu đạt 282,65 tỷ USD, tăng 7,0% (tương ứng tăng 18,39 tỷ USD) và
nhập khẩu đạt 262,70 tỷ USD, tăng 3,7% (tương ứng tăng 9,31 tỷ USD).
Trong năm 2020, Việt Nam đã có 31 mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 9
mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD. Việt Nam đã
xuất siêu chủ yếu vào thị trường các nước phát triển, có yêu cầu khắt khe về chất lượng
đối với hàng hóa nhập khẩu như: Hoa Kỳ (xuất siêu gần 62,7 tỷ USD), Liên minh châu
Âu (xuất siêu gần 20,3 tỷ USD)...
Cán cân thương mại hàng hóa của cả nước vào cuối năm 2020 đạt giá trị thặng dư 19,95
tỷ USD, đây là mức cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016. Năm 2021,
kinh tế thế giới và Việt Nam vẫn chưa hết khó khăn bởi do đại dịch COVID-19 tiếp tục
bùng phát.
Kể từ khi bùng phát đại dịch COVID-19 đến nay, hoạt động XNK của Việt Nam tiếp tục
có nhiều ảnh hưởng, trong đó có thể chỉ ra một số thách thức sau:
- Kinh tế toàn cầu suy giảm trên diện rộng: Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 sụt
giảm sâu nhất kể từ sau cuộc đại suy thoái 1929-1930. Theo Báo cáo của Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế (OECD), GDP toàn cầu năm 2020 sụt giảm 4,2% so với năm
2019. Năm 2020, phần lớn các nền kinh tế, khu vực kinh tế trên toàn cầu đều tăng trưởng
âm (ngoại trừ Trung Quốc, Ai Cập, Việt Nam).
- Các nền kinh tế là các thị trường lớn xuất khẩu của Việt Nam đều giảm như: Tăng
trưởng kinh tế khu vực đồng tiền chung châu Âu suy giảm 7,3%; Mỹ suy giảm 3,5%;
Trung Quốc chỉ đạt mức tăng trưởng 2,3% - mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008...
- Thương mại toàn cầu thu hẹp mạnh: Xu hướng suy yếu của hoạt động thương mại toàn
cầu xuất hiện trong cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu ở phần lớn các quốc gia trên thế
giới khi nhu cầu về hàng hóa, nguyên liệu sản xuất giảm mạnh và các chuỗi cung ứng
hàng hóa bị gián đoạn
Triển vọng thương mại u ám hơn tại các nước phụ thuộc vào xuất khẩu và hoạt động du
lịch. Những nước xuất khẩu dầu mỏ cũng chịu cú sốc mạnh khi giá dầu giảm trong nửa
đầu năm 2020. Thương mại toàn cầu bị ảnh hưởng bởi căng thẳng thương mại Mỹ -
Trung, dẫn tới gia tăng bảo hộ thương mại và các rủi ro tài chính có thể trầm trọng thêm
bởi đại dịch kéo dài.
- Đứt gãy chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng và xu hướng dịch chuyển đầu tư: Các biện pháp
phong tỏa và đóng cửa biên giới để ngăn chặn dịch COVID-19 bùng phát đã khiến
thương mại toàn cầu đình trệ, chuỗi cung ứng đứt gãy, dẫn tới làn sóng phá sản DN khắp
thế giới. Vì sự đứt gãy đột ngột của chuỗi cung ứng toàn cầu mà hiện tượng khan hiếm
hàng hóa đã xảy ra trên toàn thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo, sản xuất ô tô,
thiết bị y tế...
Trước tình hình này, các nước đã đa dạng hóa đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh nội địa hóa
và khu vực hóa nhằm ngăn chặn rủi ro, đảm bảo sự ổn định cho chuỗi cung ứng. Tại Việt
Nam, một số ngành công nghiệp chế biến chịu tác động mạnh: Ngành Dệt may do đứt
gãy chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào, cầu giảm mạnh và xuất khẩu giảm sút nghiêm
trọng, đặc biệt là xuất khẩu tới các thị trường chủ lực và truyền thống như Mỹ, EU...
- Nguy cơ từ tình trạng dịch bệnh kéo dài: Đây là nguy cơ lớn nhất và gia tăng rủi ro cho
các nguy cơ vừa đề cập. Hiện nay, trước tình hình dịch bệnh phức tạp, các DN đã và đang
phải cố gắng duy trì sản xuất nhưng vẫn đối mặt với nguy cơ các thị trường quốc tế sẽ
dừng, huỷ đơn hàng để chuyển sang nước khác, đến khi dịch được kiể
4. Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong đại dịch
Đối với cơ quan quản lý
- Tiếp tục tổ chức khai thác, tận dụng cơ hội từ các FTA để tìm giải pháp phát triển thị
trường và tháo gỡ các rào cản để thâm nhập các thị trường mới; Tiếp tục theo dõi sát sao
diễn biến của đại dịch COVID-19 trên thế giới và trong nước để có các biện pháp ứng
phó kịp thời, hỗ trợ DN; Đưa ra những khuyến cáo đối với các cơ quan, DN tham gia
XNK, cần nhận thức rõ được những diễn biến trên thị trường thế giới để có thể tranh thủ
khai thác hết cơ hội, tiếp tục duy trì được thế mạnh xuất khẩu trong bối cảnh hiện nay.
- Ưu tiên triển khai các hoạt động xúc tiến xuất khẩu và các thị trường xuất khẩu sớm
khôi phục sau đại địch; tập trung theo dõi sát tình hình từng thị trường để rà soát, xác
định các chủng loại hàng hóa mà các nước đang có nhu cầu nhập khẩu để khai thác, thúc
đẩy xuất khẩu.
- Tăng cường các hoạt động hỗ trợ DN về thị trường, cải cách thủ tục hành chính liên
quan đến XNK, tháo gỡ khó khăn về đầu vào, hỗ trợ về thông tin và đẩy mạnh tổ chức
các hoạt động xúc tiến thương mại trực tuyến, nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa.
- Nâng cao năng lực trong công tác cảnh báo sớm, phân tích, cảnh báo tình hình tăng
trưởng xuất khẩu nóng, dẫn tới nguy cơ bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương
mại và chủ động có biện pháp phù hợp để bảo vệ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
- Có chính sách hỗ trợ tín dụng, chính sách thuế hỗ trợ đối với các DN xuất khẩu. Đối với
DN XNK
- Đa dạng hóa hơn nữa các đối tác thương mại, giảm thiểu những tác động đến từ một đối
tác thương mại cụ thể.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực quản trị và sức khỏe tài chính cũng như khả
năng thích ứng để vượt qua các thách thức, rủi ro trong hoạt động giao thương quốc tế.
- Cần có những chuyển đổi mạnh về cơ cấu ngành hàng thông qua việc nghiên cứu, dự
báo các nhu cầu. Chú trọng nâng cao chất lượng, đổi mới quy trình xúc tiến thương mại
cho phù hợp với tình hình mới...
Năm 2021, dù dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, thời gian giãn cách xã
hội áp dụng tại nhiều tại các tỉnh, thành phố lớn của cả nước, song tình hình xuất nhập
khẩu ghi nhận nhiều điểm sáng. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, đến hết ngày
15/9/2021, tổng trị giá xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt gần 454.58 tỷ USD. Trong đó,
tổng trị giá xuất khẩu đạt gần 225,2 tỷ USD, tăng 19,8% tương ứng tăng 37,15 tỷ USD so
với cùng kỳ năm 2020; tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt 229,38 tỷ USD, tăng
32,2% (tương ứng tăng 55,92 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2020. Tăng trưởng xuất khẩu
mạnh mẽ trong những năm qua, đặc biệt của các DN FDI đã góp phần cải thiện đáng kể
cán cân thương mại của Việt Nam, tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước về một môi trường
kinh doanh minh bạch, thuận lợi. Vốn ODA cung cấp cho Việt Nam tăng mạnh qua các
giai đoạn, từ 1993 - 2015 vốn cam kết đạt 91,1 tỷ USD, vốn giải ngân đạt 58 tỷ USD
(63,7%).
Kinh tế đối ngoại cũng đã góp phần tích cực vào việc đưa Việt Nam từ quốc gia đói
nghèo trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu lương thực lớn nhất thế giới, có mức
thu nhập trung bình và luôn đạt mức tăng trưởng kinh tế. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tăng
trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006-2019 của Việt Nam đạt 6,26% (bình quân thế giới
là 3,69%), quy mô GDP từ 66,4 tỷ USD năm 2006 tăng lên 261,6 tỷ USD năm 2019,
GDP theo đầu người từ 797 USD năm 2006 tăng lên 1.154 USD năm 2008, đưa Việt
Nam bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình, năm 2019 đạt 2.740 USD. Đặc
biệt, kể từ năm 2020, đại dịch COVID-19 bùng phát, khiến hầu hết các nền kinh tế, kể cả
các nền kinh tế tăng trưởng âm, nhưng Việt Nam vẫn là một trong ba quốc gia có mức
tăng trưởng kinh tế dương, (+2,91%) năm 2020.
Hai xu hướng cơ bản trong chính sách thương mại quốc tế: tự do hoá thương mại và bảo
hộ thương mại. Biểu hiện của hai xu hướng này trong chính sách ngoại thương của Việt
Nam.
(liên hệ với chính sách kinh tế đối ngoại cuarVieetj Nam qua việc nhà nước ta sử dụng
các công cụ: thuế.
Giải pháp: https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/phat-trien-kinh-te-doi-ngoai-trong-
boi-canh-hoi-nhap-quoc-te-hien-nay-340853.html
https://dav.edu.vn/su-phat-trien-trong-chinh-sach-doi-ngoai-cua-viet-nam-sau-dai-hoi-
lan-thu-xiii-cua-dang/
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/816720/day-manh-phat-
trien-kinh-te-doi-ngoai-phuc-vu-cong-nghiep-hoa%2C-hien-dai-hoa-dat-nuoc-trong-tien-
trinh-hoi-nhap-quoc-te.aspx
Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước
Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Tự do hóa thương mại được xem là một hướng đổi mới quan trọng trong chính sách và cơ
chế quản lý thương mại và kinh tế đối ngoại.
- Đẩy mạnh giao thương với các quốc gia trên thế giới: tham gia các tổ chức kinh tế lớn.
- Ký kết hiệp định song phương và đa phương, mở rộng quan hệ ngoại giao: tính đến
nay, Việt Nam tham gia ký kết hơn 13 hiệp định thương mại tự do, 1 FTA đã ký nhưng
chưa có hiệu lực, 2 FTA đang đàm phán, trong đó bao gồm cả các FTA thế hệ mới, Các
FTA này đã đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn và có
quan hệ thương mại với trên 230 thị trường.
Có thể thấy trong xu hướng này, các mức thuế của Việt Nam có xu hướng giảm:
Ngày càng hoàn thiện và đổi mới chính sách nhập khẩu để khuyến khích nhập khẩu cạnh
tranh nhằm đổi mới công nghệ, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng xuất khẩu và hàng sản xuất thay thế nhập khẩu có thể xem là hướng đi -
định hướng hợp quy luật trong bối cảnh hiện nay. Theo đó cần tiếp tục:
1- Mở rộng và đa dạng hóa thị trường nhập khẩu, hạn chế sự phụ thuộc quá mức vào một
số thị trường. Hết sức chú trọng các thị trường Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, Nhật Bản -
những thị trường có công nghệ cao, công nghệ nguồn;
2- Có chính sách cởi mở để khuyến khích, thu hút đầu tư phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ nhằm từng bước giảm thấp việc nhập khẩu;
3- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật. Mở rộng hợp tác khu vực để hài
hòa hóa tiêu chuẩn. Tăng cường kiểm tra tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu
nhằm hạn chế và tiến tới loại bỏ việc nhập khẩu công nghệ cũ, công nghệ lạc hậu.
Luật Thương mại và các cơ chế, chính sách quản lý ngày càng hoàn thiện nhằm tạo điều
kiện thực hiện thuận lợi hóa thương mại. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được sửa
đổi cho thống nhất, đồng bộ với quy định của Hiến pháp và các luật hiện hành; tương
thích với các cam kết và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, cần bắt đầu từ việc tạo một môi
trường kinh doanh thuận lợi mà ở đó, doanh nghiệp có thể hoạt động theo các quy luật
của thị trường.
Hiện nay chính phủ Việt Nam đã ban hành 12 nghị định về các biểu thuế ưu đãi cho các
đối tác trong 12 hiệp định này.
Nhiều hiệp định đang tiến tới năm xóa bỏ thuế quan bao gồm 8512
% vào năm 2019. Cùng kết thúc lộ trình vào năm 2019 khoảng 60%
5. Hội nhập kinh tế quốc tế: khái niệm, các hình thức hội nhập kinh tế khu vực. Tác động
tích cực và tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế. Liên hệ: Một số định chế kinh tế quốc
tế tiêu biểu mà Việt Nam đang tham gia: WTO, AEC, CPTPP (cơ hội và thách thức, giải
pháp).
Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập EVFTA:
EVFTA có hiệu lực từ ngày 1-8-2020, đang mở ra cơ hội lớn cho sản phẩm dệt may Việt
Nam thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường EU. Cụ thể, quy mô thị trường EU 27 hiện nay
là 500 triệu dân, GDP đạt 18.292 USD năm 2019, chiếm 22% GDP toàn cầu. Tổng kim
ngạch nhập khẩu dệt may của khu vực hiện vào khoảng 250 tỷ USD/năm, chiếm 34%
tổng cầu dệt may thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu (XK) dệt may của Việt Nam vào EU năm 2019 đạt khoảng 5,5 tỷ
USD, chiếm thị phần 2,2% tổng nhập khẩu dệt may của EU, xấp xỉ thị phần của
Campuchia, đứng sau Trung Quốc, Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan. Hiện Bangladesh,
Pakistan, Campuchia đều được miễn thuế hoặc hưởng thuế suất 0% khi XK vào EU với
điều kiện xuất xứ dễ dàng hơn Việt Nam.
https://trungtamwto.vn/file/17898/17.%20Co%20hoi%20va%20thach%20thuc%20voi
%20linh%20vuc%20thuong%20mai%20hang%20hoa%20cua%20Viet%20Nam%20khi
%20EVFTA%20co%20hieu%20luc.pdf
Xuất khẩu ngành dệt may của Việt NAm sang EU
Năm 2011 là một năm đầy thắng lợi với ngành dệt may Việt Nam, đặc biệt là tại thị
trường Châu u. Khủng hoảng kinh tế châu u 2011 kéo theo sự suy giảm trong nhu cầu
tiêu dùng hàng dệt may tại thị trường này, tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang
EU trong năm 2011 của Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh, đạt 2,52 tỷ USD, chiếm 15,9%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam. Đây là mức tăng trưởng cao
nhất của ngành dệt may nước ta vào thị trường EU trong 5 năm kể từ 2006. Không chỉ
tăng về kim ngạch, giá trị thặng dư của nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam xuất khẩu
vào thị trường EU cũng tăng rất nhanh trong năm 2011. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trên được cho là do tình trạng các nhà nhập khẩu EU đã chuyển hướng đặt hàng từ Trung
Quốc sang Việt Nam.
Năm 2016, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc các nước đang phát triển đạt 300 tỷ USD
(chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch toàn cầu) tăng gấp hơn 3 lần so với năm 2011 (đạt
91 tỷ USD, tương đương 50% tổng kim ngạch toàn cầu). Tốc độ tăng trưởng trong kim
ngạch xuất khẩu ngành dệt may trong vòng 15 năm của khu vực các quốc gia đang phát
triển là 8,3%/năm, trong khi tốc độ này chỉ là 2,8% cho khu vực còn lại. Tuy nhiên, giữa
các quốc gia đang phát triển không có tốc độ tăng trưởng đồng đều, Campuchia và
Bangladesh là hai quốc gia mới nổi về xuất khẩu dệt may đạt được mức tăng trưởng 8%,
cao hơn các quốc gia đứng đầu về xuất khẩu trong đó có Việt Nam. Doanh nghiệp dệt
may Việt Nam cũng gặp phải khó khăn khi các nhà nhập khẩu EU có xu hướng chuyển
dần những đơn hàng từ Việt Nam (nhằm tránh mức thuế nhập khẩu 10%) sang các nước
bạn hàng khác như Campuchia, Lào và Bangladesh do các nước này được hưởng tiêu
chuẩn Tối huệ quốc (MFN) với mức thuế suất nhập khẩu 0% của EU. Xuất khẩu dệt may
Việt Nam sang các thị trường năm 2016 nhìn chung tăng trưởng thấp do nhu cầu nhập
khẩu hàng dệt may tại các thị trường lớn cũng bị sụt giảm. Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu
dệt may Việt Nam chỉ tăng trưởng 1 con số trong năm 2016, nhưng xét trong tổng thể
kinh tế toàn cầu cũng như các biến động kinh tế, chính trị lớn tại các thị trường chính,
đây là một nỗ lực đáng ghi nhận. Tại thị trường Châu u, Việt Nam đã xuất khẩu 3,51 tỷ
USD giá trị hàng dệt may, chỉ tăng 3% so với năm 2015, nhưng chiếm đến 12,3% trong
số 28,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu toàn ngành.
Tiếp tục đà tăng trưởng, trong năm 2019, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam
vào thị trường EU đạt hơn 4,2 tỷ USD, tăng trưởng hơn 135 triệu USD. Trong tháng
1/2019, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU tăng mạnh so với cùng kỳ 2018 với mức
tăng hơn 81 triệu USD (24,5%) mặc dù ngay sau đó, kim ngạch xuất khẩu đã giảm sâu
xuống chỉ còn 141,8 triệu USD, tức là giảm 29,3% so với cùng kỳ năm 2018. Tuy vậy,
tình trạng này ngay lập tức được ổn định vào tháng 3/2019 khi kim ngạch xuất khẩu ghi
nhận trong tháng này là hơn 281 triệu USD, gấp đôi tháng 2/2019 và tăng 5,5% so với
cùng kỳ năm 2018. Trong 9 tháng cuối năm 2019, mức độ tăng trưởng có sự biến động
theo chiều hướng tích cực dù mức tăng là không lớn và tốc độ tăng không ổn định. Mức
tăng có sự chậm lại vẫn là do những ảnh hưởng trong kinh tế chính trị châu u. Kể từ quý
II/2019, tăng trưởng kinh tế khu vực đồng tiền chung châu u Eurozone không thể giữ
được mức tăng trưởng 0,4% như các quý trước đó mà chỉ tăng 0,2%. Hai nền kinh tế lớn
nhất châu u là Đức và Anh đều gặp nhiều khó khăn: kinh tế Anh do ảnh hưởng của
Brexit bị sụt giảm 0,2%, nền kinh tế Đức cũng suy yếu rõ rệt khi căng thẳng thương mại
Mỹ - Trung ngày một leo thang cùng với tác động của Brexit.
Năm 2020 là một năm đen tối của nền kinh tế toàn cầu. Đại dịch Covid-19 xuất
hiện ngay đầu năm đã trở thành sát thủ vô hình đẩy nền kinh tế toàn cầu đang trong giai
đoạn phục hồi mong manh sa lầy vào đợt suy thoái tồi tệ nhất kể từ sau Thế chiến thứ II.
Từ Trung Quốc và các quốc gia châu Á, Covid-19 đã lan sang châu u và biến nơi đây trở
thành tâm dịch; kinh tế châu u bị giáng một đòn nặng nề. Ngay lập tức, cầu về hàng dệt
may bị sụt giảm nghiêm trọng. Theo thống kê, trong năm 2020, có đến 87,1% doanh
nghiệp dệt may Việt Nam bị giảm đơn hàng; 53,5% doanh nghiệp dệt may bị khách hoãn
hủy đơn và có đến 22,9% doanh nghiệp dệt may không xuất khẩu được khi hàng loạt
chuỗi cung ứng nguyên phụ liệu từ nước ngoài bị gián đoạn, đứt gãy. Ngoại trừ tháng
2/2020, trong tất cả các tháng còn lại, xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường EU
đều giảm so với cùng kỳ năm ngoái, với mức giảm đều rất sâu, từ 80-140 triệu USD.
Mức giảm sâu nhất được ghi nhận vào tháng 5 là 143,03 triệu USD (36,3%) so với tháng
5/2019.
Như vậy, trước khi EVFTA có hiệu lực, chính phủ và các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc tiếp cận thị trường EU màu mỡ với hơn 500 triệu
dân. Quy mô xuất khẩu liên tục có sự cải thiện qua các năm dù mức độ cải thiện là không
đồng đều do ảnh hưởng của những biến động kinh tế khu vực và toàn cầu. Từ chỗ là mặt
hàng hạn chế nhập khẩu, hiện nay hàng dệt may Việt Nam đã được xuất khẩu rộng rãi
sang thị trường châu u với quy mô đạt hơn 4 tỷ USD mỗi năm. Tuy nhiên, dư địa thị
trường EU với Việt Nam còn rất lớn. Là hai thị trường mang tính chất bổ sung đầy tiềm
năng nhưng tỷ trọng hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm 2% tổng sản lượng
hàng dệt may nhập khẩu tại liên minh kinh tế này. Không những thế, còn có rất nhiều thị
trường châu u mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đến nay vẫn chưa thâm nhập
được nhiều: Estonia, Slovenia, Latvia, Litva, Manta, Rumani, Síp, Ai Len, Bồ Đào Nha,
Bungary.
Nhìn chung, ngoại trừ năm 2020 vừa qua nền kinh tế Việt Nam và toàn thế giới bị ảnh
hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19 thì giai đoạn từ 2011-2020 đã chứng kiến sự tăng
trưởng liên tục về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU, từ 2,52 tỷ
USD vào năm 2011 thì tới năm 2019 con số đạt 4,25 tỷ USD và sau đó giảm sâu còn 3,63
tỷ USD trong năm 2020. Mặc dù kim ngạch hằng năm vẫn tăng trưởng nhưng xét về cơ
cấu thị trường xuất khẩu thì chủ yếu vẫn tập trung tại các quốc gia lớn như Đức, Anh,
Tây Ban Nha, Hà Lan và Pháp - nhóm các nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam
nhiều nhất tại thị trường EU. Trong đó, Đức luôn duy trì là nước nhập khẩu hàng đầu
Việc hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang EU vẫn chỉ tập trung chủ yếu ở thị trường
của một số quốc gia sẽ cần được quan tâm nhiều hơn trong thời gian tới khi 2 bên đã ký
kết Hiệp định EVFTA. Đặc biệt, Việt Nam nên đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến
thương mại và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu sang các nước nội khối liên minh Châu
u EU. Trong giai đoạn 2011 - 2020 được nghiên cứu, nhóm 5 quốc gia đứng đầu của xuất
khẩu dệt may Việt Nam liên tục chiếm trên 75% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may Việt
Nam của thị trường rộng lớn 28 nước thành viên. Điều này cho thấy còn rất nhiều các
quốc gia khác Việt Nam cần quan tâm, thúc đẩy và hợp tác hơn nữa để ngành dệt may
trong nước có cơ hội được thâm nhập sâu hơn vào thị trường EU đầy tiềm năng.
Các mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường EU bao gồm: hàng
dệt kim, đồ thể thao, quần dài và quần short, đồ lót, áo thun, áo jacket… trong đó nhập
khẩu đồ thể thao tăng mạnh. Trong giai đoạn từ 2013 - 2018, nhập khẩu đồ thể thao tăng
trung bình 10,34% mỗi năm, trong khi các chủng loại hàng may mặc khác tăng 4% đến
9,6% mỗi năm. Tăng trưởng nhập khẩu đồ thể thao được thúc đẩy bởi chức năng của nó
và xu hướng ngày càng tăng của người châu u tham gia thể thao vì lý do sức khỏe. Số
liệu này cho thấy các nhà sản xuất đồ thể thao trong nước đang có cơ hội tăng xuất khẩu
đối với hàng thể thao vào thị trường EU trong những năm tới.
Hiện nay, các mặt hàng dệt may của Việt Nam ngày càng được ưa chuộng hơn bởi sự đa
dạng hóa cả về mẫu mã và chủng loại, hứa hẹn sẽ có thêm nhiều sản phẩm dệt may được
xuất khẩu sang thị trường đối tác. 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu sang thị trường
EU lớn nhất gồm áo jacket, quần, áo thun, đồ lót, áo sơ mi, quần áo trẻ em, quần short,
quần áo bảo hộ lao động, váy, quần áo bơi, chiếm đến 88,42% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng may mặc của Việt Nam sang EU năm 2019. Màn và khăn chiếm tỷ trọng thấp nhất
trong cơ cấu xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang EU, với tỷ trọng chỉ khoảng 0,02%
mỗi loại được tiêu thụ hàng năm (Chi tiết tham khảo phụ lục 4).
EU cũng là thị trường tiêu thụ chính cho một số sản phẩm may mặc của Việt Nam như
caravat, khăn bàn, găng tay, quần áo bảo hộ lao động, quần áo mưa, áo gió, áo đạo hồi…
Đặc biệt 91% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng caravat của Việt Nam là sang EU
https://docs.google.com/document/d/1ZKXYvwx_f5q7XdPxp0PInC2oBPW7zwl2/edit#
Ngành thủy hải sản: http://vasep.com.vn/chuyen-de/hiep-dinh-cptpp-va-cac-fta-co-hoi-
thach-thuc