You are on page 1of 9

ĐẠI HỌC UEH

TRƯỜNG KINH DOANH


KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING

TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Giảng viên: Phạm Thành Tâm


Mã lớp học phần: 22C1HIS51002623
Sinh viên: Lâm Nguyễn Thế Khang
Khóa – Lớp: K47 – MRC02
MSSV: 31211024897

TP Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 10 năm 2022


Câu 1: Anh, chị hãy trình bày những thành tựu, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước (từ năm 1986
đến nay).
Trả lời:
Quyết định Đổi mới của Đảng ta năm 1986 được xem như bước ngoặt quan trọng trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Từ 15 đến 18-12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI được tổ chức ở thủ đô Hà
Nội với sự tham gia của 1.129 đại biểu, thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước.
Khắc phục và kế thừa những kết quả từ các nghị quyết trong các kỳ đại hội IV và V, đại
hội đã đưa ra hàng loạt các quyết định mang tính thời cuộc và kế hoạch dài hạn cho sự
phát triển của đất nước.
36 năm kể từ đại hội đảng lần thứ VI – một mốc thời gian đủ lâu để nhìn lại một chặn
đường dài với nhiều thành tựu mà toàn đảng toàn dân ta đã đạt được trong công cuộc xây
dựng và bào vệ đất nước. Dù phải trải qua nhiều khó khăn thách thức, tuy nhiên, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đất nước đã có những bước phát triển trên tất cả các lĩnh vực; đời
sống nhân dân được cải thiện, nền kinh tế hội nhập sâu rộng với thế giới.
I. Thành tựu Đảng cộng sản Việt Nam.
1. Kinh tế
Đại hội lần thứ VI đã nhấn mạnh trong những năm qua việc nhìn nhận, đánh giá tình hình
cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy đã dẫn đến
nhiều sai lầm “trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế”. Đại hội thẳng thắn cho rằng: “Những
sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn,
sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí,
lạc hậu về nhận thức lý luận.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm khuyết
điểm, đổi mới tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra
đường lối đổi mới.
- Đầu tiên là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công – nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành
nông nghiệp; ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết
cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế huyện).
- Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm;
chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu.
- Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn
các thành phần kinh tế.
Bằng hàng loạt các chính sách từ định hướng trên, Đảng ta đã và đang làm tốt vai trò của
mình trong việc điều phối các hoạt động kinh tế và tạo động lực sản xuất cho nhân dân.

Quy mô nền kinh tế tăng nhanh


Trong suốt 36 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu
như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng
năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt
8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019
đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch
bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng
trưởng cao nhất khu vực, thế giới.

Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3 tỷ USD/năm
thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân dân cả về vật chất và
tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159
USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.

Những nỗ lực đổi mới trong 36 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được cải
thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Tính riêng năm
2019, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ
đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng
10 năm lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm
đến tin cậy cho các nhà đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam
đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng,
miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn
đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn
với chế biến công nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước
phát triển mạnh mẽ.

Qua 36 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu
nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như cà
phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt
hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng
nề bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng
5,1% so với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu
kể từ năm 2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế
giới về quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại
quốc tế.

Phát triển gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa - xã hội

Trong suốt quá trình 36 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản gắn kết hài hòa
với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài
nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải
quyết việc làm đã dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành
phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ không chấp nhận có sự
phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với
tích cực xóa đói giảm nghèo. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những
thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22%
năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo
đa chiều).

Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó, người dân dễ
dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế
cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân…
Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ thống y tế hoàn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới
tận thôn, bản; làm chủ được nhiều kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép
chi, tim, gan, thận...; kiểm soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19;
chủ động sản xuất được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phòng
Covid-19...

Bên cạnh đó, công tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm
thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội ngày càng mở rộng, mức hỗ
trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là người nghèo,
đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 25 năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho
hơn 112,5 triệu lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Từ năm 2003 - 2018,
ngành Bảo hiểm xã hội phối hợp với ngành Y tế đã đảm bảo quyền lợi cho trên 1.748
triệu lượt người tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, bình quân mỗi năm có trên 109
triệu lượt người thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.

Ngoài ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,” “Uống nước nhớ
nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và toàn thể nhân
dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong những năm qua cũng đã phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người
nghèo, vùng khó khăn.

Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao

Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế; tích cực xây
dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam
kết WTO. Đến nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị
trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.

Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã ký kết 15 FTA khu vực và song phương và
đang đàm phán 2 FTA với các đối tác khác. Các FTA mà Việt Nam tham gia có độ phủ
rộng hầu hết các châu lục với gần 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế
giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế - thương mại lớn nhất
của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á.
Do đó, việc tham gia và thực thi các FTA sẽ mang lại những cơ hội lớn cho Việt Nam,
tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh
nghiệp và sản phẩm...

Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao trong các tổ chức
quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc...
đóng góp tích cực và đang trở thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực,
được cộng đồng quốc tế tôn trọng. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các
cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 -
2016, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng kinh tế - xã
hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018.

Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam cùng lúc đảm nhận 3 trọng trách: Ủy viên không Thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Trong bối
cảnh vô cùng khó khăn của đại dịch Covid-19 và những thiệt hại nặng nề do thiên tai bão
lũ... song Việt Nam đã hoàn thành tốt cả ba trọng trách, góp phần nâng cao uy tín, vị thế
Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

2. Chính trị - xã hội


Tạo được chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình và
số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao động có việc làm.
Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nông thôn và
thành thị.

Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp giáo
dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao,
thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có
những mặt phát triển và tiến bộ.

Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy
được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng
thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.

Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân hưởng ứng,
phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng, đang trở
thành một nét đẹp mới trong xã hội ta.

Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đát nước, vào Đảng và Nhà nước được
nâng lên.

Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.


Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của
đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.

Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc
phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng
vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an
được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Công
tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường.

Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng và
chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội; đã ban
hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp
luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà những, tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động, đạt hiệu quả thiết thực hơn. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế,
xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa được phát huy. Các tầng lớp nhân dân, đồng bào các
dân tộc đoàn kết, gắn bó trong sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh. Đồng bào ta ở nước ngoài cũng ngày càng hướng về quê hương vì đại nghĩa ấy.

Công bằng trong tiếp cận giáo dục

Ba mươi năm đổi mới (1986-2016) là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp
phát triển của Việt Nam, trong bối cảnh đó, ngành giáo dục Việt Nam đã có nhiều thay
đổi, phát triển cả về quy mô và chất lượng.
Các công cuộc phổ cập giáo dục từ tiểu học cho đến bậc trung học đã được triển khai liên
tục và gặt hái được những thành quả nhất định.
Việt Nam đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; hoàn thành phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi mức độ I năm 2014; hoàn thành phổ cập giáo dục trung
học cơ sở vào năm 2010.
Tính đến tháng 6/2015, đã có 32 tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ em 5 tuổi.
Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên. Chất lượng giáo dục đỉnh cao có bước
phát triển mới. Một trong những minh chứng cho điều này là việc ghi dấu ấn của học sinh
Việt Nam trên sân chơi trí tuệ thế giới.
Tại các kỳ thi Olympic khu vực và quốc tế, học sinh Việt Nam đã đạt thành tích xuất sắc,
đặc biệt là trong 4 năm vừa qua, 100% học sinh tham gia đều đoạt giải. Cụ thể, từ năm
2000 đến nay có 67 huy chương vàng, 113 huy chương bạc, 80 huy chương đồng, cùng hai
giải thưởng danh dự.
II. Ý nghĩa lịch sử.
Về kinh tế, đổi mới nền kinh tế đất nước từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, đẩy mạnh nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị trường,
định hướng lên xã hội chủ nghĩa và chịu sự quản lý của Nhà nước;
Về chính trị – xã hội, đẩy mạnh vai trò của cả 03 nhánh quyền lực: lập pháp, tư pháp và
hành pháp; trong đó, vai trò của cơ quan lập pháp được chú trọng; hoạt động hành chính
nhà nước được đơn giản hóa, cụ thể hóa, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, lấy nhân
dân làm gốc, xây dựng nhà nước “của dân, do dân, vì dân”;

Về văn hóa – giáo dục, gìn giữ, kế thừa văn hóa truyền thống dân tộc, hội nhập và tiếp
cận nền văn hóa đa sắc màu của thế giới; cải cách giáo dục theo hướng chú trọng thực
hành, tăng tính tự do, tự chủ và chú trọng vào người học.

Có thể thấy, trong bối cảnh chung đó, ý nghĩa của công cuộc đổi mới 1986 là vô cùng
lớn. Sự đổi mới kịp thời không chỉ giúp nước ta giải quyết được các khó khăn, tồn tại
trong quá khứ mà còn chủ động, kịp thời nắm bắt được những cơ hội để phát triển, hoàn
thiện đất nước;… Và đặc biệt là tạo động lực cho nền kinh tế – xã hội phát triển vượt bậc
và hướng tới dân chủ hóa xã hội, đề cao hơn nữa quyền công dân.

III. Kinh nghiệm lãnh đạo.


Thứ nhất, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thực
chất là nhân dân dược làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị,
dân sự, kinh tế, đến văn hóa - xã hội. Đồng thời cơ chế để bảo đảm các quyền con người,
quyền công dân được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Với quan điểm đúng đắn, cùng cơ
sở pháp lý vững chắc, Đảng và Nhà nước ta đã huy động trí tuệ, tiềm năng, tính sáng tạo
của mỗi con người Việt Nam vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Theo tinh thần đó, trong thời qua cũng như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, đối với nước ta hiện nay, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết có ý nghĩa rất
thiết thực, là cơ sở cho sự ổn định, phát triển và tạo nên nguồn lực to lớn cho công cuộc
đổi mới. Trong thực tiễn biến đổi của quan hệ giữa các nước trên thế giới sau khi Liên Xô
ta rã đã khẳng định sức mạnh to lớn nhất, nguồn lực chủ yếu nhất để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc hiện nay là sức mạnh toàn dân tộc. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là rất cần
thiết để tạo nên nguồn lực to lớn đó. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần,
hội nhập quốc tế, chỉ có lợi ích quốc gia – dân tộc mới là tiêu điểm chung để đoàn kết tất
cả các giai cấp, tầng lớp của dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Thứ ba, không ngừng đổi mới và nâng cao tinh thần đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp vĩ đại,
đổi mới không phải được làm một cách ngẫu nhiên, tùy tiện mà phải tuân theo các
nguyên tắc nhất định. “bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa
phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội
nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn
hóa, của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước”.
Thứ tư, đổi mới phải gắn liền với thực tiễn khách quan thì mới có ý nghĩa, biết tận dụng
nguồn lực sẵn có kết hợp từ nguồn lực từ bên ngoài dẫn tới đưa ra được những quyết định
mang tính thời cuộc và có giá trị ở thời điểm được đưa ra.
Thứ năm, đẩy mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết là một truyền thống và bài học cực kỳ
quý báu của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và
giữ nước.

Câu 2: : Phân tích nhân tố quyết định đưa đến thắng lợi của công cuộc đổi mới
(1986 – nay). Từ vấn đề lịch sử trên, bạn có thể rút ra bài học gì cho cuộc sống của
bản thân?
Trả lời:
I. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới
1. Đại đoàn kết dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng chỉ có thể
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân
trong Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước”.
Từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định “đoàn
kết” là giá trị cốt lõi và “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. Đảng ta chủ trương tăng cường
xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp Nhân dân,
bảo đảm sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng vẫn luôn giữ chủ trương “lấy dân làm gốc”, mọi chiến
lược đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là quần chúng nhân dân và cũng chính vì lý do đó
khối đại đoàn kết trong nhân dân sẽ củng cố thêm sức mạnh và tạo ra động lực cho sự
thành công của công cuộc đổi mới. Quần chúng nhân dân vừa là động lực – vừa là người
thực hiện những quyết định theo chủ trương đặt ra, có thể nói nhân dân là nhân tố nền
tảng của cuộc đổi mới.
2. Đường lối lãnh đạo đảng
Từ ưu, nhược điểm của những cuộc đổi mới, Đảng ta đã chủ trương thay đổi dựa trên kết
quả của việc thực hiện các nghị quyết trước đây – tối ưu những cái đang thực hiện tốt,
quán triệt những quyết định sai lầm và tìm ra những định hướng mới cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Việc không ngừng vận động tạo ra những giá trị mới đồng thời hoạch định những chiến
lược để dẫn đến những giá trị cốt lõi trong định hướng ban đầu song song với việc truyền
thông chúng và thực hiện trong nhân dân đã thể hiện được phần nào vai trò không thể
thay thế của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước.
Bằng những chính sách và định hướng phù hợp với thời cuộc và nhìn sâu, nhìn xa hơi
trong chiến lược phát triển – Đảng như ngọn đuốt soi đường cho đất nước, giữ vai trò là
nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
II. Bài học rút ra cho bản thân.
Qua việc tìm hiểu về quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bản thân em đã tự nhìn nhận
lại và rút cho mình nhiều bài học quý báu để phát triển năng lực bản thân cũng như hòa
mình vào công cuộc đổi mới và xây dựng nước nhà:
- Biết nhận ra cái sai và tìm cách để sửa lỗi sai.
- Học hỏi, trau dồi, tận dụng những nguồn lực sẵn có để phát triển năng lực cá nhân và
mang lại giá trị cho cộng đồng.
- Coi trọng sức mạnh của đoàn kết.
- Linh hoạt trong đường lối phát triển, phát triển năng lực cá nhân và thay đổi để phù
hợp mới đáp ứng được nhu cầu thị trường.
- Mở rộng, chắt lọc các mối quan hệ và không dừng lại ở bất kỳ phạm vi nào kể cả
quốc gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Báo Hà Giang
Tạp chí Quốc phòng toàn dân
ĐẢNG ỦY KHỐI CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG

You might also like