You are on page 1of 37

GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG BỐI

CẢNH CÁCH MẠNG 4.0 CỦA VIỆT NAM.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với đặc trưng cơ bản là trí tuệ nhân tạo và điều
khiển học có bước phát triển vượt bậc cho phép con người kiểm soát từ xa mọi thứ,
không giới hạn về không gian, thời gian; tương tác nhanh hơn, tốt hơn và chính xác
hơn. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, bao
gồm Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh quốc phòng và
mọi mặt của đời sống với mức độ khác nhau. Việt Nam đang trên đà phát triển hội
nhập với kinh tế thế giới với nhiểu cơ hội và đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi Việt Nam
cần nhận ra được tình trạng của đất nước và có những định hướng phát triển trí thức
Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tổng quan về tổng quan Cách mạng Công nghiệp 4.0 trên thế
giới và Việt Nam, tình hình hội nhập quốc tế của Việt Nam; đánh giá, phân tích các
mặt tích cực, tiêu cực, tình hình hội nhập quốc tế ở một số ngành ở Việt Nam để làm
sơ sở nghiên cứu và đề xuất mục tiêu, chiến lược, giải pháp để đẩy mạnh hội nhập
quốc tế trong bối cảnh cách mạng 4.0 của Việt Nam 

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: tình hình hội nhập quốc tế của Việt Nam và các giải pháp đẩy
mạnh hội nhập quốc tế trong bối cảnh cách mạng 4.0 của Việt Nam 

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài bao quát các hoạt động hội nhập và hợp tác trong các
nhiều lĩnh vực, bao gồm các các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTTP) Châu Á - Thái Bình Dương đang đóng vai trò đầu
tàu trong tăng trưởng và liên kết toàn cầu, các cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được thông qua tại Đại hội XI của Đảng, Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 cũng như các diễn đàn hợp tác đa phương và song
phương mà Việt Nam tham gia trong giai đoạn 2011 - 2020. Đề tài cũng đề cập đến
một số hoạt động trong giai đoạn trước năm 2010 có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng
đến các giai đoạn sau, như việc Việt Nam tham gia vào cam kết xây dựng Cộng đồng
ASEAN, tầm nhìn ASEAN đến năm 2025; cam kết gia nhập WTO (thời hạn
31/12/2018), các Mục tiêu Bôgo của APEC về tự do hóa thương mại và đầu tư năm
2020... và một số hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và các đối tác được ký kết
trước năm 2010 nhưng việc thực thi cam kết kéo dài trong cả giai đoạn 2011 - 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài dùng Phương pháp nghiên cứu định tính để thu thập các thông tin để tổng
quan tình hình hội nhập quốc tế dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
của Việt Nam, hệ thống hóa được một số vấn đề chung về hội nhập quốc tế; phân tích
và đưa ra các biện pháp phù hợp với hôi nhập quốc tế của Việt Nam.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.1. TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1.1.1. Quan niệm và nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế

1.1.1.1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan hội nhập kinh tế quốc tế

a, Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế 

Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết
nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích, đồng thời tuân
thủ các chuẩn mực quốc tế chung .

           b, Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế

Thứ nhất, do xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế .

Toàn cầu hoá diễn ra trên nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,
v.v. trong đó, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế nổi trội nhất, vừa là trung tâm vừa là cơ sở
và cũng là động lực thúc đẩy toàn cầu hoá các lĩnh vực khác. Toàn cầu hoá kinh tế là
sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu
vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển
hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. 

Trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành tất yếu
khách quan: 

Toàn cầu hóa kinh tế đã lôi cuốn tất cả các nước vào hệ thống phân công lao động
quốc tế, các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia tăng, khiến cho
nền kinh tế của các nước trở thành một bộ phận hữu cơ và không thể tách rời của nền
kinh tế toàn cầu. Trong toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên
phạm vi toàn cầu. Do đó, nếu không hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự
đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế quốc
tế tạo ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện
ngày càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cách mạng công nghiệp, biến nó
thành động lực cho sự phát triển .

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước,
nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay .

Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để
tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học - công
nghệ, kinh nghiệm của các nước cho phát triển.

 Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát
triển có thể tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên
tiến, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt. 

Hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở cửa thị trường, thu hút vốn, thúc đẩy công
nghiệp hoá, tăng tích lũy; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập
tương đối của các tầng lớp dân cư.
 Bởi vậy, các nước đang và kém phát triển phát triển cần phải có chiến lược hợp lý,
tìm kiếm các đối sách phù hợp để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá đa bình diện và
đầy nghịch lý.

1.1.1.2. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế

Thứ nhất, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện hội nhập hiệu quả, thành công.

Hội nhập là tất yếu, tuy nhiên, đối với Việt Nam, hội nhập không phải bằng mọi
giá. Quá trình hội nhập phải được cân nhắc với lộ trình và cách thức tối ưu. Quá trình
này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị các điều kiện trong nội bộ nền kinh tế cũng như các
mối quan hệ quốc tế thích hợp.

Thứ hai, thực hiện đa dạng các hình thức, các mức độ hội nhập kinh tế quốc tế .

Hội nhập kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo đó hội nhập kinh
tế quốc tế có thể được coi là nông, sâu tùy vào mức độ tham gia của một nước vào các
quan hệ kinh tế đối ngoại, các tổ chức kinh tế quốc tế hoặc khu vực. Theo đó, tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế được chia thành các mức độ cơ bản từ thấp đến cao là:
Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Khu vực mậu dịch tự do (FTA), Liên minh thuế
quan (CU), Thị trường chung (hay thị trường duy nhất), Liên minh kinh tế - tiền tệ...

1.1.2 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến quá trình phát triển của Việt
Nam

1.1.2.1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn
trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất
và người tiêu dùng. Cụ thể là:

      Thứ nhất, Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy
thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng các lợi thế kinh
tế của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu với hiệu
quả cao. 
Thứ hai, Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và
tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và
nghiên cứu khoa học với các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học - công
nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và
chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế. 

Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế
mũi nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản
phẩm và doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh,
làm tăng khả năng thu hút khoa học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền
kinh tế.

Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước
tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công
nghệ sản xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc tế.

Thứ năm, hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước,các
cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại,mẫu
mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới
bên ngoài, từ đó có cơ hội tìm kiếm việc làm cả lẫn ở trong và ngoài nước.

Thứ sáu, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách
nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều
chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.

Thứ bảy, hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị,
tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh hơn.

Thứ tám, hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện
để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn
hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã
hội.
     Thứ chín, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích

hợp trong trật tự quốc tế, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong
các tổ chức chính trị, kinh tế toàn cầu.

    Thứ mười, hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình,
ổn định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở
ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề
quan tâm chung như môi trường, biến đổi khí hậu, phòng chống tội phạm và buôn lậu
quốc tế.

1.1.2.2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế

   Bên cạnh những thành quả và ưu điểm nêu trên, hội nhập kinh tế quốc tế thời gian
qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế và bất câp. Những hạn chế và bất cập này đã được nêu
lên trong nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt gần đây là Nghị quyết số 06-NQ/TW về
thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị -
xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ
mới, cũng như trong nhiều công trình nghiên cứu và trên các diễn đàn kinh tế. Những
hạn chế, bất cập chủ yếu có thể kể đến như:

 Sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam vẫn
còn yếu so với các nước, kể cả các nước trong khu vực. Hội nhập kinh tế quốc
tế làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh
tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh
tế - xã hội. Các ngành kinh tế, doanh nghiệp mang tính mũi nhọn, có khả năng
vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực và thế giới chưa nhiều, một số sản phẩm
đã bắt đầu gặp khó khăn trong cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu có xu hướng giảm.
 Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm bộc lộ những yếu kém cơ bản của
nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện
về căn bản. Tăng trưởng thời gian qua phần nhiều dựa vào các yếu tố như tín
dụng, lao động rẻ mà thiếu sự đóng góp đáng kể của việc gia tăng năng suất lao
động hay hàm lượng tri thức, công nghệ.
 Hiệu quả đầu tư chưa cao như mong muốn, chậm đổi mới chính sách liên quan
đến thu hút FDI. Việc thu hút các dự án FDI tăng về số lượng, nhưng chất
lượng chưa đảm bảo, công nghệ chưa tốt, đặc biệt công nghệ trong lĩnh vực
Việt Nam cần đổi mới mô hình tăng trưởng.
 Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy đã có
nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, đôi khi
lúng túng trong các việc xác định hướng đi. Các thị trườn bất động sản, tài
chính, lao động, khoa học - công nghệ tuy đã hình thành và phát triển nhưng
vẫn cần có sự cải thiện thêm.
 Xuất hiện các điểm “cổ chai” về thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực… gây
cản trở cho quá trình phát triển. Trong đó, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng là
các nội dung đặc biệt quan trọng, cần lưu tâm để có thể vượt qua thách thức,
nắm bắt cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế.
 Một số địa phương lúng túng trong việc triển khai công tác hội nhập kinh tế
quốc tế. Vẫn còn tồn tại khoảng cách khá xa về năng lực và thiếu sự gắn kết, hỗ
trợ giữa khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Công tác thông tin truyền thông về hội nhập, năng lực giải
quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế còn hạn chế; chưa tận dụng được
hết các cơ hội do các hiệp định FTA mang lại.
 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc
gia vào thị trường bên ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những
biến động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị trường quốc tế.
 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và
rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm
tăng khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng trong xã hội.
 Đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên
hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động,
nhưng có giá trị gia tăng thấp. Do vậy, dễ trở thành bãi thải công nghiệp và
công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi
trường ở mức độ cao.
 Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực nhà
nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy
trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
 Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống
Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
 Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế,
buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp...

   Những tác động tiêu cực đối của hội nhập kinh tế quốc tế đối với một số lĩnh vực:

 Đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu: Dù hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, song
việc có tận dụng được các ưu đãi về thuế quan để mở rộng thị trường hay không
lại phụ thuộc vào việc đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ cũng như các yêu
cầu khác (an toàn thực phẩm, vệ sinh dịch tễ...). Với năng lực tự sản xuất và
cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, thì những yêu cầu về quy tắc xuất xứ
hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại cho các doanh nghiệp Việt
Nam.
 Đối với sản xuất trong nước: Việc tự do hóa thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia
tăng nhanh chóng nguồn hàng nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là từ các nước
TPP, EU vào Việt Nam do giá thành rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng,
phong phú hơn sẽ tác động đến lĩnh vực sản xuất trong nước.
 Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật
không hiệu quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất
lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ
được sản xuất trong nước.
 Đặc biệt, sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp, nông dân Việt Nam đứng
trước sự cạnh tranh gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản và nông dân là
những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập.
 Đối với lĩnh vực đầu tư: Việc gia tăng dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam
cũng đặt ra yêu cầu về tăng cường năng lực của cơ quan quản lý trong việc
giám sát dòng vốn ra vào, tránh nguy cơ bong bóng hoặc rút vốn ồ ạt, để nền
kinh tế có thể hấp thụ lượng vốn một cách có hiệu quả.
1.1.3. Thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại

1.2. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0

1.2.1 Quan niệm về cách mạng 4.0

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay cách mạng công nghiệp 4.0 (4IR) là sự
kết hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra
những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội của thế giới.

1.2.2 Giới thiệu về cách mạng 4.0

Chúng ta sẽ cùng điểm danh những cuộc cách mạng đã xảy ra trước cuộc cách mạng
công nghệ 4.0 dưới đây.

Cuộc cách mạng lần thứ nhất: Cuộc cách mạng đầu tiên diễn ra vào cuối thế kỷ 18
và đầu thế kỷ 19. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất này là việc
sử dụng năng lượng nước, hơi nước và cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng công
nghiệp này được đánh dấu bởi dấu mốc quan trọng là việc James Watt phát minh ra
động cơ hơi nước năm 1784. Phát minh vĩ đại này đã châm ngòi cho sự bùng nổ của
công nghiệp thế kỷ 19 lan rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa Kỳ.

Cuộc cách mạng lần thứ hai: Cuộc cách mạng này về lĩnh vực sản xuất hàng loạt
thông qua máy móc dựa vào năng lượng điện. Cuộc cách mạng này diễn ra vào cuối
thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khoảng năm 1870 đến khi Thế Chiến I nổ ra. Cuộc cách
này đã mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và
dây chuyền lắp ráp. Công nghiệp hóa thậm chí còn lan rộng hơn tới Nhật Bản sau thời
Minh Trị Duy Tân, và thâm nhập sâu vào nước Nga, nước đã phát triển bùng nổ vào
đầu Thế Chiến I. Về tư tưởng kinh tế – xã hội, cuộc cách mạng này tạo ra những tiền
đề thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở quy mô thế giới.

Cuộc cách mạng lần thứ ba: Cuộc cách mạng này về sản xuất tự động với máy
tính, điện tử và cách mạng số hóa. Thời gian diễn ra từ những năm 70 của thế kỷ 20,
khoảng từ 1969, với sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông tin (CNTT), sử dụng
điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này thường
được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự
phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980)
và Internet (thập niên 1990).

Công nghiệp 4.0 manh nha xuất hiện vào đầu những năm 2000. Tuy nhiên, tên gọi
của thuật ngữ này được gọi chính xác vào năm 2016, được đề cập qua bản “Kế hoạch
hành động chiến lược công nghệ cao” của GS. Klaus Schwab. Ông là chủ tịch Diễn
đàn Kinh thế Thế giới Industry 4.0. Trong hơn 75 năm qua, Cách mạng Công nghiệp
lần thứ 4 đã được ứng dụng trên nhiều lĩnh vực công nghệ quan trọng. Năm 2011, khái
niệm Industry 4.0 được nhắc đến đầu tiên tại Hội chợ công nghiệp Hannover (Công
hòa Liên bang Đức). Công nghệ 4.0 phát triển mạnh mẽ tại Đức và lan rộng ra ra
những quốc gia tiên tiến khác như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. Năm 2013,
theo đà phát triển, từ khóa “Công nghệ 4.0” tiếp tục nổi lên qua một bài báo cáo của
chính phủ Đức. Theo báo cao, cụm từ này đề cập đến những chiến lược công nghệ cao,
tự động hóa các hoạt động sản xuất mà không cần sự góp sức của con người. Khái
niệm Công nghiệp 4.0 tiếp tục được khai thác tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần
thứ 46 (Thụy Sĩ) Thuật ngữ này đã trở thành chủ đề chung của nhiều quốc gia và trở
thành nền tảng quan trọng của cuộc sống hiện đại bây giờ.

1.3. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 4.0 Ở
VIỆT NAM

Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những chủ đề kinh tế có tác động tới toàn bộ tiến
trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, liên quan trực tiếp đến quá trình
thực hiện định hướng và mục tiêu phát triển đất nước. Với cả những tác động đa chiều
của hội nhập kinh tế quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, Việt Nam cần phải tính
toán một cách thức phù hợp để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế thành công.

1.3.1. Nhận thức sâu sắc về thời cơ và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại
Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế có tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn đến
những vấn đề cốt lõi của hội nhập, về thực chất là sự nhận thức quy luật vận động
khách quan của lịch sử xã hội. Đó là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để xây dựng
chủ trương và chính sách phát triển thích ứng.

Trong nhận thức, trước hết cần phải thấy rằng hội nhập kinh tế là một thực tiễn
khách quan, là xu thế khách quan của thời đại, không một quốc gia nào có thể né tránh
hoặc quay lưng với hội nhập. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài dòng chảy của lịch
sử, hội nhập quốc tế không chỉ là “khẩu hiệu thời thượng” mà phải là “phương thức
tồn tại và phát triển” của nước ta hiện nay.

Nhận thức về hội nhập kinh tế cần phải thấy rõ cả mặt tích cực và tiêu cực vì tác
động của nó là đa chiều, đa phương diện; trong đó, cần phải coi mặt thuận lợi, tích cực
là cơ bản. Đó là những tác động thúc đẩy của hội nhập kinh tế quốc tế tới: tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế, tiếp cận khoa học công nghệ, mở rộng thị trường...; đồng thời
cũng phải thấy rõ những tác động mặt trái của hội nhập kinh tế như: những thách thức
về sức ép cạnh tranh gay gắt hơn; những biến động khó lường trên thị trường tài chính,
tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế và cả những thách thức về chính trị, an ninh, văn
hóa. Nhận thức này là cơ sở để đề ra đối sách thích hợp nhằm tận dụng ưu thế và khắc
chế tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với điều kiện thực tiễn.

Về chủ thể tham gia hội nhập, Nhà nước là một chủ thể quan trọng nhưng không
phải là duy nhất. Nhà nước là người dẫn dắt tiến trình hội nhập và hỗ trợ các chủ thể
khác cùng tham gia sân chơi ở khu vực và toàn cầu. Song, hội nhập quốc tế toàn diện
là sự hội nhập của toàn xã hội vào cộng đồng quốc tế, trong đó doanh nghiệp và đội
ngũ doanh nhân sẽ là lực lượng nòng cốt, nhà nước không thể làm thay các chủ thể
khác trong xã hội. Trong tiến trình hội nhập, người dân sẽ được đặt vào vị trí trung
tâm, do đó, hội nhập kinh tế quốc tế phải được coi là sự nghiệp của toàn dân; doanh
nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức, đó là những lực lượng đi đầu trong tiến trình
này...

Thực tế hiện nay, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về hội
nhập kinh tế quốc tế có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và thực hiện
nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận phiến diện,
ngắn hạn và cục bộ; do đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và ứng phó hữu hiệu với
các thách thức.

1.3.2. Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập kinh tế phù hợp

Thực chất chiến lược hội nhập kinh tế là một kế hoạch tổng thể về phương hướng,
mục tiêu và các giải pháp cho hội nhập kinh tế. Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế
phải phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế:

Trước hết, cần đánh giá đúng được bối cảnh quốc tế, xu hướng vận động kinh tế,
chính trị thế giới; tác động của toàn cầu hóa, của cách mạng công nghiệp đối với các
nước và cụ thể hóa đối với nước ta; trong đó, cần chú ý tới sự chuyển dịch tương quan
sức mạnh kinh tế giữa các trung tâm; xu hướng đa trung tâm, đa tầng nấc đang ngày
càng được khẳng định; nền tảng kinh tế thế giới có những chuyển dịch căn bản do tác
động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự phát triển của công nghệ thông tin.

Trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xu hướng liên kết kinh tế đa tầng nấc, đặc
biệt là các hiệp định thương mại tự do (FTA) gia tăng mạnh, Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTTP)... Châu Á - Thái Bình Dương đang đóng vai trò đầu tàu trong tăng
trưởng và liên kết toàn cầu.

Mặt khác, cũng cần phải đánh giá được vai trò của tổ chức kinh tế quốc tế, các công
ty xuyên quốc gia và vai trò của các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và
EU; cũng như các điều chỉnh chính sách của các nước này trong vai trò chủ đạo, dẫn
dắt các xu hướng liên kết kinh tế quốc tế.

Hai là, đánh giá được những điều kiện khách quan và chủ quan có ảnh hưởng đến
hội nhập kinh tế của nước ta. Cần làm rõ vị trí của Việt Nam để xác định khả năng và
điều kiện để có thể hội nhập.

Hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã và đang được đẩy nhanh về tốc độ
cũng như phạm vi song việc chuẩn bị bên trong lại không đi liền với tiến trình này.
Những vấn đề mang tính vĩ mô như khung khổ pháp lý, năng lực thể chế, chất lượng
nguồn nhân lực như là nút thắt của nền kinh tế, cản trở cạnh tranh ở nhiều cấp độ. Hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam còn nhận thức khá mơ hồ, thiếu sự quan tâm, thiếu
thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế. Chưa nắm bắt được các luật chơi, những quy
định trên sân chơi lớn. Điều này dẫn đến chưa chủ động trong hoạch định chiến lược
sản xuất kinh doanh khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Những hạn chế này cần
phải được tính toán cụ thể, khắc phục kịp thời để từng bước nâng cao năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế.

Ba là, trong xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế cần nghiên cứu kinh nghiệm của
các nước nhằm đúc rút cả những bài học thành công và thất bại của họ để tránh đi vào
những sai lầm mà các nước đã từng phải gánh chịu hậu quả.

Bốn là, xây dựng phương hướng, mục tiêu, giải pháp hội nhập kinh tế phải đề cao
tính hiệu quả, phù hợp với thực tiễn về năng lực kinh tế, khả năng cạnh tranh, tiềm lực
khoa học - công nghệ và lao động theo hướng tích cực, chủ động.

Năm là, chiến lược hội nhập kinh tế phải gắn với tiến trình hội nhập toàn diện đồng
thời có tính mở, điều chỉnh linh hoạt để ứng phó kịp thời với sự biến đổi của thế giới
và các tác động mặt trái phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế.

Sáu là, chiến lược hội nhập kinh tế cần phải xác định rõ lộ trình hội nhập một cách
hợp lý. Đây là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo hội nhập kinh tế
có hiệu quả, nhằm tránh những cú sốc không cần thiết, gây tổn hại cho nền kinh tế và
các doanh nghiệp. Lộ trình cần phải xác định được các yếu tố thời gian, mức độ, bước
đi trong các giai đoạn hội nhập kinh tế và bám sát được tiến triển bên ngoài và bên
trong để điều chỉnh lộ trình một cách thích hợp. Bên cạnh đó, cũng cần xác định các
ngành, các lĩnh vực cần ưu tiên trong hội nhập kinh tế, trên cơ sở đó tập trung các
nguồn lực để hình thành các lĩnh vực nòng cốt, các nhân tố đột phá trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế.

1.3.3. Tích cực, chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế .Nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cho đến nay, về hợp tác song phương, Việt
Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan
hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh
thổ, ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần.

Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế là sự hình thành các liên kết kinh tế quốc tế
và khu vực để tạo ra sân chơi chung cho các nước.

*Các mốc cơ bản trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

• Năm 1995: gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)

• Năm 1996: tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA)

• Năm 1996: tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)

• Năm 1998: tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)

• Năm 2007: chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO)

Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC...
Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực tham gia các
hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này.

Việt Nam đã thực hiện nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng minh bạch
và tự do hóa thể hiện ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các
cam kết mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ. Thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng
nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN; thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của
APEC, tích cực đề xuất và triển khai nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM...

Việt Nam triển khai đầy đủ, nghiêm túc các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, đặc
biệt là về cắt giảm thuế quan, mở cửa dịch vụ, đầu tư,... Về cơ bản Việt Nam đã hoàn
thành lộ trình cắt giảm theo WTO từ năm 2014. Bên cạnh đó, Việt Nam đã thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ ban hành các biểu thuế ưu đãi, thuế nhập khẩu đối với các FTA đã ký
kết.
Hiện nay, chúng ta đang nỗ lực hoàn tất các cam kết quốc tế lớn có thời hạn trong
giai đoạn 2015 - 2020 nhằm nâng tầm hội nhập quốc tế như: cam kết xây dựng Cộng
đồng ASEAN, tầm nhìn ASEAN đến năm 2025; cam kết gia nhập WTO (thời hạn
31/12/2018), các Mục tiêu Bôgo của APEC về tự do hóa thương mại và đầu tư năm
2020...

Việc tích cực tham gia các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện nghiêm túc các cam
kết của các liên kết góp phần nâng cao uy tín, vai trò của Việt Nam trong các tổ chức
này; tạo được sự tin cậy, tôn trọng của cộng đồng quốc tế đồng thời giúp chúng ta
nâng tầm hội nhập quốc tế trên các tầng nấc, tạo cơ chế liên kết theo hướng đẩy mạnh
chủ động đóng góp, tiếp cận đa ngành, đa phương, đề cao nội hàm phát triển để đảm
bảo các lợi ích cần thiết trong hội nhập kinh tế.

1.3.4 Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp

Một trong những điều kiện của hội nhập kinh tế quốc tế là sự tương đồng giữa các
nước về thể chế kinh tế. Trên thế giới ngày nay hầu hết các nước đều phát triển theo
mô hình kinh tế thị trường tuy có sự khác biệt nhất định. Việc phát triển theo mô hình
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của nước ta mặc dù có sự khác biệt
với các nước về định hướng chính trị của sự phát triển nhưng nó không hề cản trở sự
hội nhập. Vấn đề có ảnh hưởng lớn hiện nay là cơ chế thị trường của nước ta chưa
hoàn thiện; hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, chính sách điều chỉnh
kinh tế trong nước chưa phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; môi trường
cạnh tranh còn nhiều hạn chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc
tế, cần hoàn thiện cơ chế thị trường trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ về sở hữu, coi trọng
khu vực tư nhân, đổi mới sở hữu và doanh nghiệp nhà nước; hình thành đồng bộ các
loại thị trường; đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế...

Đi đôi với hoàn thiện cơ chế thị trường cần đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước
trên cơ sở thực hiện đúng các chức năng của nhà nước trong định hướng, tạo môi
trường, hỗ trợ và giám sát hoạt động các chủ thể kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi
hỏi phải cải cách hành chính, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngày càng minh bạch
hơn, làm thông thoáng môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước để thúc đẩy mạnh
mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đó là cơ sở
then chốt để nước ta có thể tham gia vào tầng nấc cao hơn của chuỗi cung ứng và giá
trị khu vực cũng như toàn cầu.

Nhà nước cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là luật pháp liên quan đến
hội nhập kinh tế như: đất đai, đầu tư, thương mại, doanh nghiệp, thuế, tài chính tín
dụng, di chú... Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với luật pháp quốc
tế; đồng thời phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là
tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế; xử lý có hiệu quả các tranh chấp, vướng mắc
kinh tế, thương mại nhằm bảo đảm lợi ích của người lao động và doanh nghiệp trong
hội nhập.

1.3.5 Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế

Hiệu quả của hội nhập kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế cũng như của các doanh nghiệp.

Với nền tảng công nghệ và hạ tầng yếu kém, nguồn lao động có chất lượng thấp,
quy mô đầu tư nhỏ bé khiến cho năng lực cạnh tranh thấp, hạn chế khả năng vươn ra
thị trường thế giới của các doanh nghiệp.

Tác động của hội nhập kinh tế có thể rất tích cực, song không có nghĩa đúng với
mọi ngành, mọi doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, ngành hàng, lợi ích cũng không
tự đến. Để đứng vững trong cạnh tranh, các doanh nghiệp phải chú trọng tới đầu tư, cải
tiến công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.

Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp vượt qua
những thách thức của thời kỳ hội nhập. Nhà nước cần chủ động, tích cực tham gia đầu
tư và triển khai các dự án xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, gắn với nhu cầu của các doanh nghiệp; tổ chức các khóa đào tạo, trao đổi kinh
nghiệm về kỹ năng hội nhập, quản trị theo cách toàn cầu, đề cao năng lực sáng tạo, đặc
biệt là kiến thức về quy định, luật kinh tế, thương mại quốc tế... phát triển, hoàn thiện
hạ tầng cơ sở sản xuất, giao thông, thông tin, dịch vụ... giúp giảm chi phí sản xuất và
tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút vốn, công nghệ tiên tiến, thúc đẩy tăng năng suất
lao động của các doanh nghiệp.
1.3.6. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối
chính trị độc lập, tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm bảo đảm độc lập, tự chủ
vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho nền kinh tế,
cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có độc lập tự chủ về chính trị thì nội
dung cơ bản của độc lập, tự chủ của một quốc gia là xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ.

Nền kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước khác,
người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển,
không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện trợ... để
áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020 được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đều nhấn mạnh, đường lối xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế được thực hiện xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 cũng nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức
mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại
là yếu tố quan trọng đế phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ”.

Quán triệt tinh thần đó, Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, cụ thể hóa, đề ra
các nguyên tắc, phương châm để nhận thức đúng và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế.

Để xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ đi đôi với tích cực và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện một số biện pháp sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện, bổ sung đường lối chung và đường lối kinh tế, xây dựng và
phát triển đất nước.
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ trọng
tâm nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa
xã hội, giúp Việt Nam đi tắt, đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với các nước khác. Trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung vào một số biện pháp sau:

(1) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển sang tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu.

(2) Mở rộng và tìm kiếm thị trường mới, đa dạng hóa thị trường, nguồn vốn đầu tư và
đối tác, tránh phụ thuộc vào một thị trường, một đối tác, tạo nền tảng cho phát triển ổn
định, bền vững. Chiến lược thị trường cần gắn kết chặt chẽ với chiến lược sản phẩm và
xúc tiến quảng bá sản phẩm nhằm nâng cao vị thế và uy tín của sản phẩm hàng hóa
trong nước;

(3) Quy định chặt chẽ và mạnh dạn trong đổi mới công nghệ. Đi liền với quá trình du
nhập công nghệ, cần tăng nguồn tài chính đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, nhằm
từng bước nghiên cứu phát triển, tiến tới tự chủ dần về công nghệ.

Thứ ba, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
đáp ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển đồng thời qua đó
phát huy vai trò của Việt Nam trong quá trình hợp tác với các nước, các tổ chức khu
vực và thế giới. Để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả, trong thời
gian tới cần chú ý thực hiện những giải pháp cụ thể sau:

(1) Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các
FTA yêu cầu ở cấp độ cao hơn trong hội nhập kinh tế toàn cầu, tham gia các điều ước
quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư...; có đại diện làm việc tại các tổ
chức thương mại, đầu tư, giải quyết tranh chấp quốc tế.

(2) Huy động mọi nguồn lực để thực hiện thành công ba đột phá chiến lược: cải cách
thể chế; phát triển hạ tầng cơ sở; phát triển nguồn nhân lực.

( 3) Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện
môi trường sản xuất, kinh doanh để thu hút đầu tư trong và ngoài nước tham gia sản
xuất hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu ra
thị trường khu vực và thế giới
(4) Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn thiện
thể chế kinh tế, hành chính, đặc biệt là tăng cường áp dụng khoa học - công nghệ hiện
đại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế, nhất là những ngành
có vị thế của Việt Nam.

Thứ năm, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong hội
nhập quốc tế. Mở rộng quan hệ quốc tế phải quán triệt và thực hiện nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; giải quyết các tranh chấp bằng thương
lượng hòa bình. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác quốc tế về kinh
tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để tạo sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa nước
ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam:

Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX nhấn mạnh: “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia”. Để thực
hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản của cách mạng và lợi ích căn bản của đất nước, trong
bối cảnh thế giới ngày nay, chúng ta cần giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế.

Độc lập, tự chủ là khẳng định chủ quyền quốc gia, dân tộc. Hội nhập quốc tế là
phương thức phát triển đất nước trong thế giới ngày nay. Giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế có mối quan hệ biện chứng; vừa tạo tiền đề cho nhau và phát huy lẫn
nhau, vừa thống nhất với nhau trong việc thực hiện mục tiêu cơ bản của cách mạng và
lợi ích căn bản của đất nước của dân tộc, trước hết là mục tiêu phát triển và an ninh.

Giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong là nền tảng của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Song, độc lập, tự chủ không
có nghĩa là biệt lập, “đóng cửa” với thế giới, vì điều đó không phù hợp với xu thế
khách quan của thời đại, sẽ không thể phát triển và tất yếu làm suy yếu độc lập, tự chủ.
Giữ vững độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Có giữ
vững độc lập, tự chủ thì mới có thể đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vì không giữ được độc
lập, tự chủ thì quá trình hội nhập sẽ chuyển hóa thành “hòa tan”, mục tiêu phát triển và
an ninh đều không đạt được. Đồng thời, càng hội nhập quốc tế có hiệu quả thì càng có
thêm điều kiện và tạo được thế thích hợp để giữ vững độc lập, tự chủ thông qua việc
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo lập sự đan xen lợi ích với đối tác, nâng cao vị
thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc
phòng, an ninh...

Vừa giữ vững độc lập, tự chủ, vừa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế còn là
phương thức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hiệu quả của hội nhập quốc tế được đo bằng mức độ thực hiện các mục tiêu phát
triển, an ninh và gia tăng vị thế của đất nước. Để bảo đảm hội nhập quốc tế có hiệu
quả, cần độc lập, tự chủ trong việc quyết định chiến lược tổng thể, mức độ, phạm vi, lộ
trình và bước đi hội nhập quốc tế trên từng lĩnh vực. Hội nhập quá nhanh, quá rộng
trong khi năng lực tự chủ còn yếu thì không thể có hiệu quả.

Độc lập, tự chủ còn là cơ sở để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Càng hội nhập sâu rộng
càng đòi hỏi khẳng định bản sắc, càng có nhu cầu giữ gìn giá trị văn hóa, truyền thống
dân tộc.

Hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững
độc lập, tự chủ. Sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ
thuộc của nước này vào nước khác. Trường hợp này dễ xảy ra đối với các nước nghèo,
nước nhỏ trong mối quan hệ với các nước giàu, nước lớn. Hội nhập quốc tế cũng có
thể tác động tới sự phân hóa xã hội của từng nước, khi lợi ích từ việc hội nhập được
phân chia khác nhau đối với các nhóm khác nhau trong xã hội, và từ đó góp phần làm
trầm trọng thêm các vấn đề xã hội. Hội nhập quốc tế còn có thể làm cho lợi ích nhóm
nổi trội hơn, từ đó làm cho quá trình quyết sách thêm phức tạp, nhất là trong trường
hợp lợi ích nhóm trong các nước liên kết với các yếu tố nước ngoài. Hội nhập quốc tế
không hiệu quả sẽ làm suy giảm độc lập, tự chủ, suy giảm chủ quyền quốc gia.
Để hội nhập có hiệu quả, không thể tuyệt đối hóa độc lập, tự chủ và quan niệm về
độc lập, tự chủ là bất biến. Tuyệt đối hóa hay quan niệm cứng nhắc về độc lập, tự chủ
sẽ ngăn cản hội nhập, bỏ lỡ thời cơ hoặc làm giảm hiệu quả của hội nhập và do đó sẽ
tác động tiêu cực trở lại tới độc lập, tự chủ. Mặt khác, nếu không chủ động, sáng tạo
tìm ra những phương thức mới phù hợp với hoàn cảnh và các điều kiện hình thành từ
quá trình hội nhập quốc tế, thì việc bảo đảm độc lập, tự chủ cũng sẽ gặp nhiều thách
thức.

Việc quán triệt, xử lý thành công mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc
tế đã góp phần quan trọng giúp đất nước ta đạt được những thành tựu phát triển to lớn,
có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới. Nước ta đã tiến vào một chiều sâu mới trên
quỹ đạo hội nhập quốc tế, thực hiện những điều chỉnh căn bản, nâng cao vị thế, quy
mô và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; độc lập dân tộc được củng cố, năng lực tự
chủ quốc gia được tăng cường. Từ chỗ chỉ có quan hệ ngoại giao với hơn 30 nước vào
năm 1986, đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 187 nước; có quan hệ kinh tế
với hơn 223 quốc gia và vùng lãnh thổ (7). Quan hệ của nước ta với tất cả các nước
lớn đều phát triển tốt đẹp; đặc biệt, quan hệ với một số nước bắt đầu đi vào chiều sâu,
thực chất và hiệu quả thông qua việc xác lập những khuôn khổ đối tác toàn diện và đối
tác chiến lược. Từ chỗ đứng ngoài, nước ta đã là thành viên của hơn 70 tổ chức khu
vực và thế giới. Từ chỗ chỉ có các hiệp định kinh tế song phương dựa trên nguyên tắc
lỏng lẻo, nước ta đã tiến tới có các hiệp định kinh tế mang tính thể chế cao hơn trên cả
cấp độ song phương, đa phương khu vực và toàn cầu, trong đó có những hiệp định
thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), Hiệp định thương mại Việt Nam - Liên minh châu Âu (VEFTA),... thể hiện sự
tích cực, chủ động đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu, rộng.

Chốt lại, hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi khách quan của thời kỳ toàn cầu hóa.
Hội nhập kinh tế có tác động cả về mặt tích cực và tiêu cực cho các nước. Với xu
hướng chung của hội nhập trên toàn thế giới, Việt Nam cần phải tích cực và chủ động
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập phù hợp
với khả năng và điều kiện của mình, tích cực khai thác lợi thế của hội nhập để phát
triển đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ, các tác động bất lợi do hội nhập kinh tế
quốc tế mang lại.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM
2.1.1. Nông nghiệp ( Thương )
2.1.2. Công nghiệp ( Thư)
Thời gian qua, Chính phủ Việt Nam luôn khuyến khích và tạo điều kiện, cơ chế
tốt nhất để phát triển ngành CNHT theo tinh thần của Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày
22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp
quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, đã xác định ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo, CNHT là động lực phát triển kinh tế.
Các hoạt động thu hút đầu tư với sự tham gia của nhiều tập đoàn kinh tế lớn và
công ty đa quốc gia hàng đầu tại Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước cũng đã có
bước phát triển, vươn lên mạnh mẽ. Đã hình thành và phát triển được các tập đoàn
kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo...
như: Viettel, Vingroup, Trường Hải, Thành Công, Hòa Phát..., tạo nền tảng cho
CNHT, giúp Việt Nam từng bước tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị
toàn cầu.
Đặc biệt, các bộ, ngành đã phối hợp đẩy mạnh triển khai nhiều chương trình, dự
án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNHT để mở rộng thị trường và nâng cao trình độ
các doanh nghiệp CNHT Việt Nam. Cụ thể như: Dự án hợp tác với Samsung trong
Chương trình phát triển nhà cung cấp; Chương trình đào tạo chuyên gia tư vấn Việt
Nam trong lĩnh vực cải tiến sản xuất và chất lượng; Chương trình tư vấn cải tiến doanh
nghiệp… Bộ Công Thương đã triển khai thành lập 3 trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát
triển công nghiệp tại 3 vùng kinh tế trọng điểm khu vực miền Bắc, miền Trung và
miền Nam nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và CNHT đổi mới sáng
tạo, chuyển giao công nghệ sản xuất thử nghiệm, nâng cao năng suất chất lượng, tạo
giá trị gia tăng cũng như tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Tháng 6/2020, khai trương
Hệ thống cơ sở dữ liệu các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và CNHT Việt Nam.
Hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin này đã có hơn 3.600 doanh nghiệp triển vọng của
Việt Nam trong các lĩnh vực như: cơ khí chế tạo, ô tô, điện tử, dệt may, da giày.
Các hỗ trợ trên đã giúp các doanh nghiệp trong ngành cải thiện năng suất và chất
lượng sản phẩm, góp phần đáp ứng nhu cầu cho sản xuất nội địa. Doanh nghiệp CNHT
trong nước ngày càng tích cực áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ quản lý hiện đại vào
sản xuất, chế tạo. Hiện nhiều doanh nghiệp sản xuất linh kiện Việt Nam đã có năng lực
khá tốt tại một số lĩnh vực như: sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy;
linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa - cao su kỹ thuật, săm lốp các
loại. Các sản phẩm này đã đáp ứng được nhu cầu trong nước và được xuất khẩu.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp CNHT đã có sự đổi mới, nâng cao năng lực sản
xuất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tiếp cận kỹ thuật công nghệ mới đảm bảo
các tiêu chuẩn của các đối tác…
Mặc dù sự phát triển của CNHT thời gian qua đã đạt được một số thành tựu đáng
khích lệ, song trong bối cảnh hội nhập và kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều thách thức
do đại dịch Covid-19 đã và đang khiến tất cả các ngành kinh tế, trong đó ngành công
nghiệp của Việt Nam gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Báo cáo việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề nhiệm
kỳ khóa XIV và một số Nghị quyết trong nhiệm kỳ khóa XIII lĩnh vực công thương
của Chính phủ cho biết, năng lực tự cung ứng các sản phẩm CNHT trong nước còn
nhiều bất cập; tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành công nghiệp còn thấp. Điển hình
như đối với ngành dệt may: Hiện tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp dệt may mới
đạt khoảng 40%-45%. Tương tự với ngành da giày, nguyên phụ liệu chiếm tới 68%-
75% trong cơ cấu giá thành sản phẩm giày dép, nhưng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm này
của doanh nghiệp Việt Nam hiện chỉ đạt 40%-45%. Thậm chí, với ngành điện tử tin
học, viễn thông; điện tử chuyên dụng và các ngành công nghiệp công nghệ cao, tỷ lệ
nội địa hóa còn thấp hơn nhiều, cụ thể lần lượt là 15% và 5%. Ngành điện tử của Việt
Nam phụ thuộc rất lớn vào các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là SamSung. Hầu hết các
linh kiện nội địa hóa đều do các doanh nghiệp FDI cung cấp. Mới chỉ có khoảng 35
doanh nghiệp Việt Nam là nhà cung ứng cấp 1 cho SamSung. Các doanh nghiệp Việt
Nam chủ yếu cung cấp vật tư tiêu hao, bao bì, in ấn... với giá trị cung ứng rất nhỏ so
với nhu cầu linh kiện và phụ tùng của SamSung.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cho biết, thực tế các sản phẩm CNHT trong nước
chủ yếu vẫn là linh kiện và chi tiết đơn giản, với hàm lượng công nghệ trung bình và
thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Việt Nam chưa có các doanh nghiệp
đứng đầu chuỗi sản xuất tầm cỡ khu vực và quốc tế đóng vai trò dẫn dắt phát triển và
lan tỏa trong ngành công nghiệp. Dung lượng thị trường trong nước còn nhỏ, chưa
đảm bảo quy mô công suất sản xuất kinh tế đối với sản phẩm CNHT và gần như không
có sản phẩm công nghiệp chủ lực, đủ khả năng cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu và
thiếu sự chủ động về các vật liệu cơ bản. Trong khi đó, thị trường xuất khẩu phải chịu
sự cạnh tranh gay gắt đặc biệt từ các đối thủ cạnh tranh.
Cùng đó, quy mô chủ yếu của các doanh nghiệp CNHT Việt Nam là nhỏ và siêu
nhỏ nên đa số có trình độ công nghệ, quản lý thấp, nguồn nhân lực hạn chế… dẫn tới
khó có thể đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của đối tác về tiêu chuẩn, chất
lượng, giá thành, thời gian giao hàng. Trình độ của đội ngũ quản lý, lãnh đạo doanh
nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam còn hạn chế, trong khi đây là nhân tố quyết
định đường lối, chiến lược kinh doanh và cách thức vận hành doanh nghiệp, khả năng
chấp nhận rủi ro để thực thi các điều chỉnh, cải cách thông qua đầu tư, đổi mới công
nghệ, cách thức quản lý.
Bên cạnh đó sự thiếu liên kết giữa các doanh nghiệp cũng đang kìm hãm sự phát
triển của CNHT. Theo đó, các doanh nghiệp trong nước chưa tham gia được sâu vào
hệ sinh thái và chuỗi giá trị của các doanh nghiệp đầu chuỗi và doanh nghiệp nước
ngoài. Theo tổng hợp, trong số doanh nghiệp cung cấp cho các công ty của Nhật Bản
tại Việt Nam, có 58,9% các doanh nghiệp là doanh nghiệp FDI có trụ sở tại Việt Nam
và chỉ khoảng 13% nguồn dịch vụ, sản phẩm đầu mua tại địa phương được cung cấp
bởi các doanh nghiệp Việt Nam.
Mối liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp nước
ngoài, giữa các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp lớn vẫn còn hạn chế. Cụ thể,
trong ngành công nghiệp ô tô có 20 doanh nghiệp lắp ráp ô tô lớn đang hoạt động, chỉ
có 81 nhà cung cấp cấp 1 và 145 nhà cung cấp cấp 2 và cấp 3.Trong khi đó tại Thái
Lan chỉ có 16 nhà lắp ráp ô tô lớn nhưng quốc gia này có tới 690 nhà cung cấp cấp 1
và 1.700 nhà cung cấp cấp 2 và cấp 3.
Ngoài ra, do phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp nguyên phụ liệu, linh kiện đầu
vào nhập khẩu, hầu như chưa có công nghiệp hỗ trợ đi kèm khiến sản xuất còn manh
mún, bị động, chi phí cao, đặc biệt là các ngành công nghiệp chủ lực, như: điện tử; dệt
may; da giày - túi xách; sản xuất, lắp ráp ô tô... nên khi dịch bệnh Covid-19 bùng nổ
tại các quốc gia cung ứng linh phụ kiện sản xuất chủ yếu cho Việt Nam, như: Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản..., các ngành công nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn trong
việc bảo đảm các yếu tố đầu vào sản xuất. Nguyên phụ liệu trong nước chỉ co cụm ở
các doanh nghiệp FDI, còn doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được chất lượng
cho các đơn hàng xuất khẩu. Số doanh nghiệp Việt Nam tham gia trong lĩnh vực công
nghiệp hỗ trợ còn khá khiêm tốn. Các doanh nghiệp cung cấp linh kiện, bán sản phẩm
hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc đang đầu tư vào Việt Nam,
tiếp theo là các doanh nghiệp Đài Loan (Trung Quốc), cuối cùng mới là các doanh
nghiệp Việt Nam với tỷ trọng thấp vì vẫn đang còn khoảng cách tiêu chuẩn chất lượng
khá lớn giữa các nhà cung cấp linh kiện trong và ngoài nước. Điều này dẫn đến giá trị
gia tăng của sản phẩm công nghiệp Việt Nam thấp, năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong các ngành này hạn chế. 

Một trong những thách thức, khó khăn khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt
động sản xuất CNHT hiện nay là sự thiếu sự đồng bộ, nhất quán trong các quy định,
chính sách áp dụng của các địa phương. Trong khi đặc trưng của CNHT có tính kết nối
sản xuất theo chuỗi không phân biệt địa giới hành chính, song các địa phương áp dụng
các chính sách, quy định khác nhau về giãn cách, kiểm soát lưu thông hàng hoá… điều
này đã tạo thêm khó khăn cho doanh nghiệp trong duy trì hoạt động sản xuất, giao
dịch, lưu thông hàng hoá. Chưa thành lập cơ quan độc lập của Nhà nước để chuyên hỗ
trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ có điều kiện tiếp cận những tập đoàn, doanh
nghiệp công nghiệp lớn nhằm học hỏi và ký kết hợp đồng cung ứng sản phẩm.

2.1.3 Thực trạng về lao động Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế 

Trong xu thế hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi thị trường lao động ở
Việt Nam phát triển linh hoạt để hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Thế nhưng, do mới hình thành và phát triển chưa đồng bộ, nên thị trường lao
động Việt Nam đang bộc lộ nhiều điểm yếu lẫn mâu thuẫn, trong đó nghiêm trọng nhất
là mất cân bằng giữa cung và cầu, năng suất lao động thấp. Trong khi chúng ta dư thừa
sức lao động ở nông thôn thì ở lĩnh vực phát triển công nghiệp, các ngành dịch vụ
trung cao cấp lại thiếu hụt lao động trầm trọng.

Lao động Việt Nam giàu lực lượng, nghèo kỹ năng, đó là đánh giá của không ít
các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nguồn nhân lực ở Việt Nam rất dồi dào nhưng
lại thiếu trầm trọng về chất lượng. Lao động Việt Nam được đánh giá là khéo léo,
thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện đại được
chuyển giao từ bên ngoài nhưng thiếu tính chuyên nghiệp. Trên thị trường lao động
hiện tại, nguồn nhân lực cao cấp và công nhân tay nghề cao vẫn đang là mối quan tâm
của nhà tuyển dụng. Thị trường đang rất cần các chuyên gia về quản trị kinh doanh,
lập trình viên, kỹ thuật viên, các nhà quản ly trung gian  hiểu biết về tài chính và tiếp
thị với yêu cầu cơ bản về tiếng Anh, những công nhân có tay nghề cao, ham học hỏi.
Tuy nhiên, nguồn cung ứng lao động có chất lượng trên thị trường còn hạn chế. Bên
cạnh đó, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng hợp tác để hoàn thành công việc của lao
động Việt Nam quá yếu kém. Nhiều nhà quản lý nước ngoài đã nhận xét: “Lao động
Việt Nam làm việc rất tốt khi tự mình giải quyết công việc, nhưng nếu đặt họ trong
một nhóm thì hiệu quả kém đi nhiều”. Chính điều này đã khiến cho nhiều doanh
nghiệp không thể thành đạt được, cho dù họ đã tập hợp được đội ngũ nhân công có
đẳng cấp cao.

Khi tham gia TPP, Việt Nam có lợi thế là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu
lao động trẻ. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2014, quy mô
lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó số người
trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng 20,8%; khu vực dịch vụ là
32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động qua đào
tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây (theo số liệu của Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội), trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 30%. Lao động qua
đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động.
Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học - công nghệ,
đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà
trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài.

Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, do
vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng
30%. Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và
hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo.
Chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những “điểm nghẽn” cản trở
sự phát triển. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm 2012), lao động phổ thông
không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số lao động; lao động đã qua đào
tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là
3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, lao động qua đào tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy
và thường xuyên, phi chính quy, dạy nghề dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp)
chiếm khoảng 34% tổng số lao động trong cả nước. Trên thực tế, chất lượng nguồn
nhân lực của Việt Nam còn thấp và có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu
vực. Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề,
công nhân kỹ thuật bậc cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt
Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng
Thế giới (trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59
điểm... Do vậy, nên năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á -
Thái Bình Dương (thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp
hơn Hàn Quốc 10 lần). Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Malaysia và 2/5
Thái Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2% mỗi
năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng
suất trung bình hằng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%. Việt Nam còn thiếu
nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của trị
trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm khác. Trình độ
ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội
nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chủ
yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm 2011, Việt Nam xếp thứ
65/141 nước được xếp hạng về năng lực cạnh tranh).

Từ những  đánh giá trên, có thể thấy, nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay có các
đặc điểm sau:

- Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức; chưa
được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến nơi đến chốn.

- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng
và chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí
thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng phối hợp thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp là do công
tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự chuyển biến
của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chưa
giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy người,
dạy nghề…

Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện nay còn nhiều
yếu kém và hạn chế, như bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập
và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động,
đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về thị
trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, thiếu thống nhất
và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung - cầu lao
động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước. Ngoài ra, còn thiếu mô
hình dự báo thị trường lao động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia
làm công tác thống kê, phân tích, dự báo.

Những yếu kém trên đây cũng  chính  là những thách thức lớn đối với lao động
Việt Nam,  đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ nặng nề trong việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong quá trình tham gia
TPP và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2.2 ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM
2.2.1. Ưu điểm và nguyên nhân ( Thoại )
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to lớn
trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất
và người tiêu dùng. Cụ thể là:

* Tạo điều kiện mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học - công nghệ, vốn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 
 Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp
cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản
xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc tế.

 Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra động lực để các doanh nghiệp phải ý thức
và thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh, đổi mới tư duy về sản xuất và tư duy thị
trường phù hợp; những động lực đó sẽ tác động làm giảm chi phí và tăng năng suất,
chất lượng lao động trong sản xuất công nghiệp. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ buộc
doanh nghiệp phải cơ cấu lại và thay đổi từ phương thức tổ chức sản xuất đến quy
trình và các công đoạn trong toàn bộ quá trình sản xuất của ngành công nghiệp; thúc
đẩy năng lực sáng tạo trong sản xuất công nghiệp nhờ việc thử nghiệm sản phẩm mới
ít rủi ro, bớt tốn kém hơn nhờ sự hỗ trợ của các công nghệ mới. Về phía cung ứng,
nhiều ngành công nghiệp đang chứng kiến sự tiếp cận của các công nghệ mới. Do đó,
các doanh nghiệp sẽ tiếp cận được với các công nghệ hiện đại, cải thiện phẩm chất, tốc
độ, giá cả mà khi được chuyển giao nó có giá trị hơn.

=> Ví dụ: 

1. Sự xuất hiện của các khu công nghiệp mới và hiện đại như ở Bình Dương, Hà
Nội, Hồ Chí Minh, … Năm 2011, Sam Sung của Hàn Quốc đã chọn Việt Nam làm nơi
đặt nhà máy.

2. Công nghệ ô tô điện VinFast - sự kết hợp của nhiều đối tác lớn trên toàn cầu.
VinFast bắt tay với Pininfarina và Torino Design (Ý) - 2 studio thiết kế ô tô lừng danh
thế giới. VinFast hợp tác với ProLogium (Đài Loan) sản xuất và ứng dụng pin thể rắn
trên các mẫu ô tô điện. VinFast hợp tác với Gotion High-Tech (Trung Quốc) nghiên
cứu và sản xuất cell pin LFP cho xe điện. VinFast đầu tư vào công ty tiên phong trong
công nghệ pin sạc siêu nhanh Storedot (Israel). VinFast chọn Cerence (Mỹ) làm đối
tác cung cấp giải pháp AI. VinFast bắt tay ZF (Đức) phát triển công nghệ hỗ trợ lái
trên ô tô điện.

             * Tạo cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực
khoa học - công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên
cứu khoa học với các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học - công nghệ hiện
đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao
công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nền kinh tế.

=> Ví dụ:

1.  Đến năm 2017, Việt  Nam  có  khoảng  6,5  triệu  người  có
trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, tăng hơn 3,7 triệu người so với năm
2009 (năm đầu tiên triển khai Nghị quyết số  27- NQ/TW về Xây dựng
đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước). Kết quả
này cho thấy, đội ngũ trí thức Việt Nam đã tăng thêm khoảng 2,8 triệu
người sau 9 năm (2009 - 2017) so với 2,25 triệu người  trong  10  năm 
trước  khi  ban  hành Nghị quyết số 27-NQ/TW (1999 - 2009). Ngoài trí
thức trong nước, còn có khoảng hơn 400.000 trí thức Việt kiều (trong đó
có hơn 6.000 tiến sĩ và hàng trăm trí thức tên tuổi được đánh giá cao)
trên tổng số hơn bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 100
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

 Năm 2019 tại hội chợ xúc tiến thương mại, 38 doanh nghiệp Nhật Bản
đã tới ĐH Bách khoa Hà Nội để tìm kiếm nhân lực chất lượng cao. Có hơn
900 sinh viên đăng ký tham dự và ứng tuyển vào các vị trí việc làm của các
doanh nghiệp Nhật Bản năm 2019.

 * Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước:

Người dân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng
loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với
thế giới bên ngoài. 

=> Ví dụ: 

Riêng thị phần điện thoại thông minh đã có vô số hãng nước ngoài được lưu thông
trong thị trường Việt Nam phải kể đến như Iphone, Samsung, Oppo, Xiaomi, …. bên
cạnh dòng điện thoại nội địa là Vinsmart, Mobiistar, Bphone

* Tạo điều kiện để thúc đẩy hội nhập của các lĩnh vực văn hóa, chính trị, củng
cố an ninh - quốc phòng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên chiến trường quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp
thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa,
văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Ví dụ: Những năm gần đây, dấu ấn của người Việt liên tục xuất hiện trong các bộ
phim đình đám xứ Hàn. Họ không chỉ tham gia diễn xuất mà còn đảm nhận bộ phận
sản xuất quan trọng. Đội ngũ chế tác của nước ta cũng góp mặt trong loạt dự án đình
đám xứ kim chi như Squid Game, Penthouse, Hotel del Luna, My Name, Sweet Home,
Memories of the Alhambra. Sự xuất hiện của các studio đến từ Việt Nam khiến khán
giả không khỏi tự hào. Điều hãnh diện hơn là các bộ phim này đều được khen ngợi về
kỹ xảo hình ảnh đỉnh cao.

Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo điều
kiện cho cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân chủ, văn minh.

Hội nhập kinh tế quốc tế giúp đảm bảo an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở
khu vực và quốc tế để tập trung cho phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở ra khả
năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan
tâm chung như: môi trường, biến đổi khí hậu, phòng, chống tội phạm và buôn lậu quốc
tế, đại dịch toàn cầu.

Ví dụ: Đại diện Bộ Y tế số vaccine do Chính phủ Nhật Bản viện trợ không hoàn
lại, hỗ trợ Việt Nam phòng COVID-19 là 1.540.000 liều vaccine AstraZeneca. Như
vậy, đến nay, Chính phủ và nhân dân Nhật Bản đã hỗ trợ cho Việt Nam tổng cộng 5,6
triệu liều vaccine phòng COVID-19 và nhiều trang thiết bị, vật tư y tế khác. Việt Nam
tiếp nhận thêm 6,27 triệu liều vắc-xin COVID-19 do CHLB Đức, Đại Công Quốc Lúc-
xăm-bua, Cộng hoà Bồ Đào Nha, Vương quốc Anh hỗ trợ thông qua Cơ chế COVAX. 

2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân ( Thương )


Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ra
nhiều rủi ro, bất lợi đó là:

Gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế của
nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về
mặt kinh tế - xã hội:
Năng lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ nước ta còn thấp do trang thiết bị công
nghệ còn yếu kém, lạc hậu hơn thế giới 10 đến 30 năm.

Giai cấp công nhân nước ta còn nhiều hạn chế, bất cập. “Sự phát triển của giai cấp
công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế. Thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công
nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần
công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống”.

Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực nhà
nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an
ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội:

Quá trình hội nhập không chỉ có sự tham gia của các lực lượng kinh tế tiến bộ mà
còn cả các thế lực phản động, khủng bố, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia … Nhà
Nước phải có chính sách ngăn chặn đúng đắn nhưng bên cạnh đó không được đóng
cửa giao thương hay hạn chế hội nhập. 

Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống
Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài, tư tưởng sính
ngoại khiến bản sắc truyền thống phai mờ hơn xưa

2.2.3 Thành tựu hội nhập quốc tế trong bối cảnh cách mạng 4.0

Vào top 20 nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới. 

Dấn WTO được ghi nhận rõ nét trong việc đưa Việt Nam trở thành một nền kinh
tế có độ mở cao, tới 200% GDP và cải thiện cán cân thương mại hàng hóa, chuyển từ
nhập siêu sang xuất siêu 6 năm liên tục kể từ 2016 đến nay.Theo Tổng cục Thống kê,
nếu năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước chỉ ở mức 84,7 tỷ USD (xuất
khẩu 39,8 tỷ USD), thì đến năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt
tới 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020 và tăng hơn 7 lần so với năm
2006.Trong đó, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm
2020; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng
21,1%, chiếm 73,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.Từ năm 2016 đến nay, cán cân thương
mại luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm, từ 1,77 tỷ USD (năm
2016); 2,1 tỷ USD (năm 2017); 6,8 tỷ USD (năm 2018); 10,9 tỷ USD (năm 2019); trên
19 tỷ USD (năm 2020) và năm 2021, dù chịu ảnh hưởng nặng nề dịch COVID-19,
Việt Nam vẫn đạt mức xuất siêu gần 4 tỷ USD…Báo cáo rà soát thống kê thương mại
thế giới năm 2020 của WTO ghi nhận trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa
lớn nhất thế giới, Việt Nam có mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí thứ
39 vào năm 2009 lên vị trí thứ 23 vào năm 2019 và lọt vào tốp 20 năm 2021.

Nhiều chỉ số xếp hạng quốc tế được cải thiện.

Việc tuân thủ các cam kết hội nhập cũng giúp Việt Nam cải thiện nhiều chỉ số xếp
hạng quốc tế quan trọng khác.Theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế
giới (WEF), chỉ số “Năng lực cạnh tranh toàn cầu” (GCI) của Việt Nam đã cải thiện
mạnh. Trong 10 năm (2007-2017), chỉ số GCI của Việt Nam tăng 13 bậc, từ hạng
68/131 vào năm 2007 lên 55/137 vào năm 2017 và chuyển từ nhóm nửa dưới của bảng
xếp hạng lên nhóm nửa trên.Năm 2020, quy mô GDP Việt Nam đứng thứ 44 thế giới,
đứng thứ 4 Đông Nam Á và bình quân GDP/đầu người đứng thứ 6 khu vực.  “Thương
hiệu Quốc gia Việt Nam” là thương hiệu tăng giá trị nhanh nhất thế giới, khi tăng tới
29% so với năm 2019, lên 319 tỷ USD; từ vị trí 42 lên 33 trong danh sách 100 thương
hiệu quốc gia của Brand Finance (hãng định giá thương hiệu và tư vấn chiến lược độc
lập hàng đầu của Anh).Theo bảng xếp hạng về chỉ số tự do kinh tế năm 2021 (Index of
Economic Freedom 2021) mới công bố của Heritage Foundation (Mỹ), với điểm tổng
thể của Việt Nam là 61,7 điểm (cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới). Việt
Nam là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương
và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới trong bảng xếp hạng tự do kinh tế của
Heritage Foundation...Còn theo Báo cáo chỉ số quyền lực mềm toàn cầu năm 2021,
được Brand Finance - công ty tư vấn chiến lược và định giá thương hiệu độc lập hàng
đầu thế giới, có trụ sở tại London (Anh) công bố tại “Hội nghị thượng đỉnh 2021 về
quyền lực mềm toàn cầu” ngày 25/2/2021 - Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khối
ASEAN được nâng hạng trong bảng xếp hạng này.Cụ thể, vị trí của Việt Nam được
cải thiện, tăng 2,5 điểm, thay đổi từ 50/60 lên 47/105 quốc gia được xếp hạng. Việt
Nam được đánh giá là điểm sáng nhờ sự tăng hạng vượt bậc về thương hiệu quốc gia
và những kết quả về kinh tế, xã hội đã đạt được trong năm qua.Theo đánh giá của
Brand Finance, Việt Nam đã phát huy tương đối tốt mọi khía cạnh của quyền lực mềm,
đặc biệt là sự hội nhập của “Thương hiệu Quốc gia Việt Nam” và các thương hiệu sản
phẩm hàng đầu. Uy tín quốc gia của Việt Nam trong năm qua đã tăng lên phần lớn nhờ
chủ trương và phản ứng nhanh nhạy của Chính phủ, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao trong
công tác hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu trong và ngoài nước
cũng như sự năng động, nỗ lực của doanh nghiệp Việt Nam.Bên cạnh các chỉ số về
kinh tế, theo khảo sát và đánh giá của Liên Hợp Quốc, chỉ số phát triển bền vững
(SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng, từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm
2018 và thứ 49 vào năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống
dưới 3% vào năm 2020, với mức giảm trung bình là hơn 1,4%/năm.

Trong năm 2019, trước khi dịch COVID-19 bùng phát trên thế giới, Việt Nam
được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định, tăng trưởng nhanh tốp đầu khu vực và thế
giới; được IMF đánh giá nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng
trưởng toàn cầu năm 2019.Cũng trong năm 2019, Việt Nam lọt vào tốp 10/163 nước
“đáng sống nhất thế giới” trong bảng xếp hạng của HSBC Expat; đứng thứ 83/128
nước trong xếp hạng các nước an toàn nhất; xếp thứ 94/156 nước trong Bảng xếp hạng
quốc gia hạnh phúc. Việt Nam đứng thứ 84/161 nước trong xếp hạng bảo vệ nhà đầu
tư của Forbes và xếp thứ 39/80 nước trong xếp hạng các nước "tốt nhất thế giới" theo
đánh giá của trang U.S. News & World Report

CHƯƠNG 3 . GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ


TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 4.0 CỦA VIỆT NAM 
Những biện pháp đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong bối cảnh cách mạng
4.0 của VN.
 Trong thời kì cách mạng 4.0 tại Việt Nam, chúng ta cần phải đưa ra những biện pháp
đẩy mạnh việc hội nhập quốc tế bằng việc tối ưu hóa những tác động tích cực và giảm
thiểu tối đa hay khắc phục những hậu quả tiêu cực mà quá trình hội nhập quốc tế để
lại. Một số biện pháp mà Việt Nam có thể áp dụng và thực hiện trong tương lai có thể
kể đến như sau:

 Đối với cơ quan quản lý Nhà nước:

Tăng cường tuyên truyền cho các doanh nghiệp các thông tin về lộ trình và các
cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Nâng cao năng lực giám sát thị trường tài chính nhằm kịp thời đối phó với
những biến động của dòng vốn, những ảnh hưởng lây lan từ khủng hoảng tài
chính của một nước trong khu vực. Đồng thời tăng cường tuyên truyền cho các
doanh nghiệp các thông tin về lộ trình và các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam.
Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ hợp lý để thúc đẩy phát triển những
ngành có lợi thế so sánh, nhằm tăng năng suất và tăng sức cạnh tranh của hàng
hóa trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu.
Việt Nam có thể tận dụng tối đa các ưu đãi thuế quan, Nhà nước cần hỗ trợ
doanh nghiệp đáp ứng tốt các điều kiện về xuất xứ, rào cản kỹ thuật, vệ sinh
dịch tễ từ các thị trường nhập khẩu.

Khi tham gia FTA thế hệ mới, Việt Nam cần phải điều chỉnh cả những yếu tố
không phải yếu tố thương mại như những nội dung liên quan tới lao động,
quyền sở hữu trí tuệ... Do đó, việc thực hiện các cam kết trong FTA thế hệ mới
đòi hỏi những thay đổi về chính sách và luật pháp trong nước.

 Đối với hiệp hội ngành nghề:

Tiếp tục đẩy mạnh vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và các cơ quan quản lý,
tạo điều kiện kết nối giao lưu giữa các doanh nghiệp hội viên; tăng cường phổ
biến thông tin hội nhập về pháp luật của các nước, sở hữu trí tuệ, sở hữu công
nghiệp, quản lý chất lượng, các quy tắc xuất xứ... cho doanh nghiệp hội viên; hỗ
trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu.
Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại - đầu tư theo thị trường, ngành
hàng, lĩnh vực kinh doanh cụ thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong
và ngoài nước cũng như hỗ trợ doanh nghiệp tiếp thị thương hiệu của sản phẩm,
doanh nghiệp tới các thị trường xuất khẩu trọng điểm.
Triển khai các hoạt động cung cấp và tư vấn cho các doanh nghiệp về pháp luật
kinh doanh, các kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như kinh nghiệm
đối phó với các vụ kiện quốc tế, các rào cản thương mại của các thị trường xuất
khẩu.

 Đối với doanh nghiệp:


Chủ động tìm hiểu và nghiên cứu về thông tin, kiến thức về hội nhập kinh tế
quốc tế, pháp luật quốc tế. Mặc dù Việt Nam đã ký kết không ít các hiệp định
thương mại tự do với các nước và khu vực, song sự hiểu biết của doanh nghiệp
trong nước về các FTAs là khá hạn chế, trong khi đó các doanh nghiệp FDI lại
rất chủ động và chuẩn bị khá kỹ để đón đầu và tận dụng ưu đãi từ các FTAs.
Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về TPP cũng như các FTAs là việc cần thiết
các doanh nghiệp nếu muốn đứng vững trong cạnh tra-nh. Bên cạnh đó cũng
cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ và các hiệp hội để doanh nghiệp có thể tiếp
cận các thông tin từ TPP, FTAs một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất.
Chủ động đầu tư và đổi mới trạng thiết bị công nghệ theo chiều sâu nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm, bởi nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế
thì sản phẩm của doanh nghiệp không thể cạnh tranh với các nước khác. Như
vậy, dù hiệp định có mở ra cơ hội, doanh nghiệp cũng không thể tiếp cận thị
trường và tham gia vào chuỗi cung ứng.
Chủ động lựa chọn và thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. Việc loại bỏ thuế
quan cho các đối tác trong TPP chỉ áp dụng đối với các sản phẩm hàng hóa có
nguồn gốc xuất xứ nội khối. Trên thực tế, với các FTA đã ký kết, cũng chỉ có
khoảng 30% doanh nghiệp đã tận dụng được các ưu đãi thuế quan.
Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động trong việc lựa chọn nguồn gốc của các
nguyên phụ liệu, đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ. Đồng thời phải
thực hiện tốt như các yêu cầu khác (vệ sinh, kiểm dịch động thực vật, hàng rào
kỹ thuật…).
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có tay nghề và nhân
lực trình độ cao. Bên cạnh đó, cần chủ động tạo sự liên kết gắn bó giữa các
doanh nghiệp, cùng xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa và nước
ngoài.
Các hàng rào kỹ thuật và hệ thống vệ sinh và kiểm dịch thực vật khắt khe có thể
là những rào cản khiến hàng hóa Việt Nam khó vào thị trường các nước đối tác
FTA. Thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam chính là áp lực cạnh tranh với
hàng hóa giá rẻ, dịch vụ chất lượng tốt từ các nước đối tác trên chính thị trường
nội địa. Qua việc phân tích, làm rõ những cơ hội, thách thức đối với Việt Nam
trong quá trình tham gia vào các hiệp định FTA thế hệ mới.
 Đối với lĩnh vực đầu tư

Việc gia tăng dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam cũng đặt ra yêu cầu về tăng
cường năng lực của cơ quan quản lý trong việc giám sát dòng vốn ra vào, tránh
nguy cơ bong bóng hoặc rút vốn ồ ạt, để nền kinh tế có thể hấp thụ vốn đầu tư
hiệu quả.

KẾT LUẬN (Kết luận chính là tóm tắt lại 3 chương trên mỗi chương vài dòng)
Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang từng bước phát triển ảnh hưởng

You might also like