You are on page 1of 57

CÂU HỎI:

Trong Đại hội X (2006), ĐCSVN đã đề ra chủ trương “chủ


động, tích cực hội nhập quốc tế”, Anh/chị hiểu hội nhập
quốc tế như thế nào? Theo Anh/Chị là sinh viên, cần phải
làm gì để chủ động hội nhập quốc tế.

Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh
thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động
hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh
thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung
mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội
nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Về bản chất, hội
nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm
đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
Hội nhập quốc tế hiện nay là nhiệm vụ chung của cả nước, cả xã hội. Hội
nhập quốc tế toàn diện thực chất là mở rộng các lĩnh vực hợp tác, không chỉ
chính trị và kinh tế đối ngoại, mà còn bao gồm an ninh quốc phòng, các lĩnh
vực hợp tác chuyên ngành như khoa học-kĩ thuật, y tế, giáo dục…

Cho đến nay, đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế được triển khai trên 3 lĩnh
vực chính gồm: Hội nhập trong lĩnh vực kinh tế (hội nhập kinh tế quốc tế),
hội nhập trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ và các lĩnh
vực khác. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập
quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập
kinh tế quốc tế

(+ Kinh tế:

Thứ nhất, thỏa thuận thương mại ưu đãi: Đây là phương thức thấp nhất của
hội nhập kinh tế quốc tế, nhưng có lịch sử hình thành lâu đời nhất so với các
hình thức khác của hội nhập kinh tế quốc tế. Theo phương thức này, các quốc
gia/vùng lãnh thổ tham gia các thoả thuận/hiệp định, trong đó cam kết dành
cho nhau các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hóa của
nhau, tạo thành các ưu đãi thương mại, ví dụ: Hiệp định về thỏa thuận thương
mại ưu đãi ASEAN năm 1977.

Trong các thỏa thuận/hiệp định thương mại ưu đãi, thuế quan và hàng rào phi
thuế quan có thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với khi áp dụng cho quốc gia
không tham gia thoả thuận/hiệp định.

Thứ hai, khu vực mậu dịch tự do: Khu vực mậu dịch tự do là một hình thức
hội nhập kinh tế quốc tế ở mức độ tương đối cao do hai quốc gia (ví dụ: Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam – Chilê) hoặc một nhóm các quốc gia/vùng
lãnh thổ (ví dụ: Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Úc và
Niu Dilân, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU) thiết lập.

Khối ASEAN cũng đã tuyên bố hình thành Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ
cột là Cộng đồng chính trị - an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn
hóa – xã hội.
Diễn đàn hợp tác kinh tế là hình thức hội nhập kinh tế quốc tế ra đời vào thập
niên 80 thế kỷ XX, ví dụ: Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) và Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM).

Chính trị:

hội nhập quốc tế về chính trị là quá trình các quốc gia tham gia vào các cơ
chế quyền lực tập thể vì những mục tiêu, lợi ích của quốc gia mình. Quốc gia
có thể hội nhập chính trị quốc tế thông qua ký điều ước quốc tế đa phương,
khu vực, tiểu khu vực hoặc song phương để thiết lập các mối liên kết quyền
lực (hiệp ước liên minh hay đồng minh) hoặc tham gia vào các tổ chức chính
trị khu vực (ví dụ như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN, Liên
minh châu Âu -EU) hay một tổ chức có quy mô toàn cầu (ví dụ như: Liên
hợp quốc (UN).

Quốc phòng – an ninh.

Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh được xác định
trong các văn bản của Đảng và Nhà nước. Theo đó, phạm vi hội nhập quốc tế
của Việt Nam ở lĩnh vực này là: Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song
phương về quốc phòng, an ninh với các nước láng giềng, các nước ASEAN,
các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống; từng bước đưa hợp tác đi vào
chiều sâu, hiệu quả. Chủ động phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng hội nhập quốc tế để xâm phạm an
ninh quốc gia nước ta. Đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các cơ quan an ninh,
tình báo, cảnh sát các nước, trước hết là các nước láng giềng, các nước lớn;
chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác chống tội phạm xuyên quốc
gia và đối phó với các thách thức về an ninh lương thực, an ninh nguồn nước,
an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh biển và các thách thức an ninh phi
truyền thống khác.)

Chúng ta tham gia vào môi trường quốc tế với sự chủ động trong hợp tác;
tích cực trong hoạt động và trao đổi; biết điều chỉnh linh hoạt dựa vào tình
hình thực tiễn chứ không có những chủ trương cứng nhắc và bảo thủ.

Tóm lại: Trong hội nhập quốc tế, mục tiêu cơ bản được Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định là nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều
kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời
sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh
Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng
hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực
vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới.)

Cần phải làm gì để chủ động hội nhập quốc tế

Một là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn của
Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.

Hai là, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính
sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các
tổ chức cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của các
tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người VN đang sinh sống và làm
việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và
thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh
tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên kết giữa các
vùng, miền, khu vực trong nước.

Bốn là, hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải
tạo thuần lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế,
củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải thực hiện đồng bộ trong
một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với
điều kiện thực tế và năng lực của đất nước

Năm là, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính
sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các
tổ chức cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội, của các
tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người VN đang sinh sống và làm
việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sáu là, nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà VN tham gia đi đôi với
chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật
lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ
động đề xuất sắng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố
và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực và
cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, và tiến bộ xã hội trên
thế giới.

So sánh đường lối công nghiệp hoá của Đảng thời kỳ trước
đổi mới và thời kỳ đổi mới. Vì sao trong quá trình xây dựng
CNH – HĐH
- Sự giống nhau:
+ Đảng ta luôn luôn khẳng định công nghiệp hóa đối với nước ta là một tất
yêu, khách quan. Bởi vì, công nghiệp hóa là vấn đề không mới, mà các nước
tư bản chủ nghĩa đã thực hiện từ lâu, công nghiệp hóa còn được đề cập trong
chủ nghĩaMác – Lê-nin. Đồng thời, tình hình đất nước ta tồn tại nền sản xuất
nhỏ lẻ, thủ công, manh mún, lạc hậu…

+ Điểm xuất phát của nước ta thấp do đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa nên cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của xã hội thiếu thốn và thấp
kém, năngsuất lao động thấp, đời sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu, công
cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc nhiều khó khăn…

+ Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta

- Sự khác nhau:
+ Đường lối công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới là ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý. Ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa gắn với
hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Đặc điểm của nước ta là tồn tại nền sản
xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ tầng chưa hình
thành… do đó cần phải tiến hành công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa được
hiểu quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.

Trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã chuyễn lao
động bằng máy móc, công cụ sang giai đoạn mới là tự động hóa, điều khiển
hóa, đây là quá trình hiện đại hóa. Như vậy, bối cảnh thế giới mang đến cho
chúng ta nhiều cơ hội và thách thức mới.Chính vì vậy, công nghiệp hóa phải
gắn với hiện đại hóa, nghĩa là chúng ta lựa chọn mô hình công nghiệp hóa
theo hướng rút ngắn bằng cách kết hợp hai quá trình đó là: quá trình tuần tự
(từ sử dụng lao động thủ công chuyển sang sử dụng máy móc, rồi từ sử dụng
máy móc chuyển sang tự động hóa, điều khiển hóa), quá trình nhảy vọt (lĩnh
vực nào đủ điều kiện thì phải hiện đại hóa ngay lậptức, phải đi trước đón đầu,
hội nhập với thời đại).

+ Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới tiến hành theo mô hình nền kinh tế
khép kín, hướng nội. Còn công nghiệp hóa thời kỳ đổi mới thì lấy công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển nền kinh tế thị trường giúp khai thác hiệu quả mọi nguồn lực
của nền kinh tế, sử dụng chúng hiệu quả để đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta diễn ra trong bối
cảnh toàn cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm
thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới... sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm khai thác hiệu quả thị
trường thế giới. Hội nhập quốc tế là việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.

+ Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới, chủ lực thực hiện công nghiệp hóa
là Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trở thành sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế mà
trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.

+ Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, phương thức phân bổ nguồn lực
để thực hiện công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa tập
trung của Nhà nước, theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các chỉ tiêu pháp
lệnh. Thời kỳ đổi mới, chủ yếu thực hiện bằng cơ chế kinh tế thị trường,
doanh nghiệp tự hạch toán kinh tế.

+ Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao
động, tài nguyên đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Công nghiệp hóa ở thời kỳ đổi mới, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học và
công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Con người
là yếu tố cơ bản tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để
phát triển yếu tố con người cần đặc biệt chú trọng phát triển giáo dục, đào
tạo. Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số
lượng, cân đối về cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng
tạo công nghệ mới. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đế tăng
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc
độ phát triển kinh tế. Ở nước ta, muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công
nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công
nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội sinh.

+ Công nghiệp hóa ở thời kỳ trước đổi mới, tiến hành một cách nóng vội,
giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến
hiệu quảkinh tế xã hội. Còn ở thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với pháttriển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa
dạng sinh học. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để thực
hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững. Phát triển kinh tế cũng là để thực hiện các vấn đề an sinh xã hội, vấn đề
văn hóa – xã hội... vì mục tiêu phát triển con người, mọi người đều hưởng
thành quả của sự phát triển.

Công nghiệp hóa-hiện đại hóa gắn với bảo vệ môi trường.
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, ô nhiễm nguồn nước,
không khí đang lan rộng không chỉ ở các KCN, khu đô thị, mà ở cả nhũng
vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm; biến đổi khí hậu và
nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả khôn lường. Đây chính
là kết quả của quá trình Công nghiệp hóa nhanh ở nước ta. Trước tình hình
đó, ngày 15-11-2004, Bộ Chính trị có Nghị quyết 41- NQ/TW "Về bảo vệ
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước”
đã khẳng định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một nội dung cơ bản
của phát triển bền vững trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Năm 2005,
Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, nội dung BVMT được nâng lên một tầm cao
mới, gắn chặt với quá trình CNH-HĐH: ''Đưa nội dung bảo vệ môi trường
vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các
chương trình dự án đầu tư''. Một điểm mới so với Đại hội X là đưa thêm nội
dung ''chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước
phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch”.
Việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng không
thể bỏ qua với môi trường. Việc các làng nghề sản xuất tự phát, sử dụng công
nghệ lạc hậu nên phần lớn đều gây ô nhiễm môi trường. CHH-HĐH sẽ kéo
theo đô thị hóa, đây thực sự là sức ép lớn về môi trường trong quản lý đô thị.
Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về
thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm
môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần
được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã
hội.
Có nghĩa là, cần cụ thể hóa nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
thân thiện với môi trường, tiếp cận mô hình tăng trưởng xanh đã được đề cập
trong văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI. Trong đó, Nhà nước cần dành sự
quan tâm đặc biệt để xây dựng năng lực nội sinh nhằm sử dụng và phát triển
các công nghệ tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng...; vì đây là động
lực chủ yếu để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo
hướng phát triển bền vững. Nhà nước cũng cần sử dụng công cụ tài chính
nhằm khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia
tăng lớn, sử dụng công nghệ sạch; sản xuất và sử dụng năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì không gây hại hoặc ít gây hại đến môi
trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế.
(Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta
có đủ năng lực, điều kiện để chuyên đổi thành công sang mô hình phát triển
bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông,
cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc chế tạo thành công các
sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học, cùng với năng lực
sáng tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu có đủ quyết tâm
và cách sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh chóng bước vào quỹ đạo phát
triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó có Việt Nam đã
cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện
một mô hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng;
ii) Tăng trưởng an toàn; iii) Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào
trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích được chia sẻ công bằng cho tất cả mọi
người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình CNH-HĐH nước ta.)
Chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững là biện pháp hữu hiệu nhất
có khả năng phòng ngừa và hạn chế tối đa các tác động xấu đối với môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Những yếu kém, khuyết điểm
trong công tác bảo vệ môi trường trong thời gian qua chủ yếu là do các cấp
các ngành thường nặng về quan tâm tới các chi tiêu tăng trưởng kinh tế, chưa
đảm bảo hài hòa, cân bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.

Trước hết, tất cả các dự án đầu tư phải có báo cáo đánh giá tác động môi
trường, được Bộ hoặc Sở Tài nguyên - Môi trường thẩm định trước khi được
phê duyệt. Đồng thời, tăng cường việc kiểm soát ô nhiễm tại nguồn; chú
trọng quản lý chất thải, nhất là các chất thải trong sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ y tế. Và cần có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng và
toàn xã hội về nhận thức và hành động, trong chỉ đạo điều hành và đặc biệt
trong tổ chức triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH-HĐH, gắn với phát triển KTTT.

Phân tích yếu tố thời cơ trong đường lối giành chính quyền
của ĐCSĐD (1939 - 1945) liên hệ với việc nắm bắt thời cơ
hiện nay của Việt Nam

74 năm trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng
Tám, đánh đổ thực dân, phong kiến; thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Một trong những yếu tố góp phần làm nên thắng lợi to lớn là
bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Thứ nhất là từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật
Bản bị thua to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương
trong thế chiến II, nên phải gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị
ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn chiến lược, nắm bắt
thời cuộc kịp thời, Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã
nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả
nước. Ngay sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa” đã được phát ra.

Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận
được thêm một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị
đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt
Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời soạn thảo “Quân
lệnh số 1” và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.

Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố
Hirôsima của Nhật Bản, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào nhận
định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng
chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút.
Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.

Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí
Minh và Trung ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự
chuyển biến nhanh chóng: phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân
đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước vũ khí trên khắp các chiến trường; quân
Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Vì vậy nếu không khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh kéo vào nhận
bàn giao chính quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành
khởi nghĩa được nữa, vì lúc này Việt Minh đang cùng phe với quân Đồng
minh.

Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái
vị và tiếp nhận sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc
lực lượng cách mạng đã chớp thời cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng
thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền
phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế
quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền
cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta.

Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và
với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời;
Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã chính
thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không tuyên bố độc lập,
chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính
quyền cũng phải bàn giao lại cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo sớm tiến
hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng
Tháng Tám thành công trên cả nước chính là nhằm ngay lập tức khẳng định
chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản động đội
lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh.

Có thể khẳng định, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách
mạng Tháng Tám: Ðảng ta đã chọn đúng thời cơ "nổ ra đúng lúc". Ðó là lúc
16 nghìn quân Anh chưa vào miền nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào
miền bắc để giải giáp quân Nhật; cũng là lúc quân Nhật bại trận mất tinh
thần, ngồi chờ Ðồng minh đến tước vũ khí; ngụy quyền tay sai bỏ trốn hoặc
đầu hàng chính quyền cách mạng. Chọn đúng thời cơ là một khoa học, là một
nghệ thuật, nhờ thế sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới
khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, không đổ
máu và thành công triệt để.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945 chứng tỏ, Ðảng ta, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời
cơ, cho nên đã chuẩn bị tốt lực lượng, sẵn sàng chủ động, chớp thời cơ lãnh
đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Ðây là sự vận dụng
sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn
khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.

Liên hệ hiện nay:


Thời gian qua, toàn cầu hóa và xu hướng hội nhập quốc tế là một diễn biến
khách quan mang tính tất yếu. Đảng ta đã biến nó thành cơ hội khi chuẩn bị
một tâm thế sẵn sàng hội nhập, bắt đầu từ kinh tế, rồi dần là văn hóa, thể
thao… cho đến chính trị. Việt Nam đã gia nhập ASEAN, trở thành thành viên
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ứng cử Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc… Vị thế, vai trò và uy tín của nước ta trên
trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Theo quy luật vận động, phát triển của xã hội, đi liền với những cơ hội, vận
hội mới luôn có những khó khăn, thách thức nảy sinh. Nếu biết vận dụng,
nắm bắt tốt cơ hội và luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách thì sẽ biến
điều bất lợi thành có lợi. Trung ương Đảng ta đã nắm bắt rất rõ quy luật vận
động ấy, từ đó thường xuyên, kịp thời có những nhận định, phân tích, định
hướng, chỉ đạo mang tính chiến lược. Gần đây nhất, trong Báo cáo chính trị
Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tình hình thế giới và
trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra
nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi
mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm,
nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”

Một trong những yếu tố giúp chúng ta nhìn nhận, phân tích, đón bắt, tận dụng
tốt thời cơ chính là nhân tố con người. Vì vậy, trong bối cảnh sự phát triển
như vũ bão của khoa học, công nghệ, chúng ta cần chú trọng nguồn nhân lực
chất lượng cao để đi tắt, đón đầu. Đảng ta chỉ ra rằng, ngoài quyết tâm chính
trị, thì yếu tố con người, nguồn lực con người có tri thức là yếu tố quyết định.
Do đó, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ đức, tài, có khả năng nắm bắt,
đón đầu, làm chủ khoa học công nghệ chính là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu, bởi đó là sức mạnh nội lực to lớn của toàn dân tộc. Trên cơ sở phát huy
nội lực, kết hợp tốt nội lực với ngoại lực thì chúng ta sẽ tạo nên sức mạnh
tổng hợp phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải nhìn nhận và xác định rõ một số thách thức,
rào cản cần phải phá bỏ và vượt qua để từ đó đón bắt thêm được nhiều cơ hội
mới, trong đó đáng chú ý là tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên làm xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nếu phá bỏ được những
rào cản này, cũng chính là cơ hội để chúng ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó
khăn, thách thức, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà
nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất
quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng
kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản
Việt Nam.

Vì sao ĐCSVN lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định


hướng XHCN là một tất yếu

Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phát
triển kinh tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn
thiện tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất
yếu khách quan, những nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần thực
hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.

Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp
sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN thực chất là
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội
Đảng VI (1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và
phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
chứng minh rằng, kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu
quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới
tư duy lý luận, nhất là tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và
kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.

Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: "... thực hiện nhất quán
và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa".

Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: "Để đi lên chủ nghĩa
xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế"

Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, chúng ta luôn khẳng định con đường mà
chúng ta lựa chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển
kinh tế thị trường. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước
ta được Đảng khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (năm 1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay Đại hội
Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.

- Do nhân dân làm chủ.

- Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.

- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng
tốt đẹp.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn
toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời
đại. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương
đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và
bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không có một nền kinh
tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn
với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng
hóa cụ thể.

Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và
phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình
thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và
sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định. Có
nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong
thời kỳ quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị
trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa
bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta khẳng định: phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất
quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng
kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng sản
Việt Nam.

Vì sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu? phân tích sự sáng
tạo của ĐCS trong cương lĩnh đầu tiên?

Vì sao nói Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan:
Tùy thời gian và đề để ghi đoạn (..)

(a/ Hoàn cảnh lịch sử thế giới:

+ Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh
tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính bước chuyển này đã làm cho
mâu thuẫn trong thế giới TBCN (tư bản chủ nghĩa) ngày càng trở nên gay
gắt. Cùng với mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì thời điểm
này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau do tranh giành
thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh hưởng. Đây là nguyên nhân
trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914- 1918). Đặc biệt là
sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa
với CNĐQ thực dân ngày càng trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang
tính thời đại.

+ Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân trở thành lực lượng chủ yếu đánh đổ chế độ
chuyên chế phong kiến, thành lập nhà nước chuyên chính cách mạng của giai
cấp công nhân và giai cấp nông dân. Điển hình là cuộc cách mạng vô sản đầu
tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga năm 1917. Thắng lợi của cuộc cách
mạng Tháng mười đã cổ vũ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa.

+ Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra
đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ
chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong trào ở tất cả các
quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã không còn vai trò tiên phong kể từ sau khi
Ăngghen qua đời năm 1895). Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành
lập, với khẩu hiệu "Vô sản thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã
đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.)

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
thể hiện rõ nét và sinh động về tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo trong việc
vận dụng CNMácLN, truyền thống dân tộc, kinh nghiệm của nước ngoài một
cách nhuần nhuyễn vào thực tiễn VN, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng đặt ra và được thể hiện ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng ta, thông qua tại Hội nghị thành lập ĐCSVN (từ ngày 3-7/2/1930).

Ngay từ khi Đảng CSVN mới thành lập, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng đã chỉ ra phương hướng cơ bản của cách mạng VN, đặt nền móng
cho việc xác định lý luận, đường lối, phương pháp cách mạng và những
nguyên tắc chủ yếu để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
VN.

Phân tích tính sáng tạo trong cương lĩnh chính trị đầu tiên:

Tuy hết sức ngắn gọn, vắn tắt nhưng CLCT đầu tiên của Đảng đã kết hợp
nhuần nhuyễn quan điểm dân tộc và giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và thời
đại với những luận điểm sau nổi bật.

Quan điểm dân tộc: kháng chiến toàn dân, liên minh công – nông -trí

Quan điểm giai cấp: công-nông là giai cấp lãnh đạo qua đội tiên phong là
Đảng, đoàn kết với giai cấp vô sản trên thế giới
Một là, cách mạng VN phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng để tiến lên xã hội cộng sản. (Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2
giai đoạn: giai đoạn thứ nhất đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giai
đoạn thứ hai là sau khi giành được thắng lợi sẽ chuyển sang làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã hội cộng sản). Hai là, trong cách mạng tư sản
dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và chống phong kiến.
(Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành
khắng khít không tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và
tay sai (phản đế) phải đặt lên hàng đầu.) Ba là, xác định lực lượng cách
mạng, bao gồm: giai cấp công - nông là gốc, những người yêu nước trong các
giai cấp khác là đồng minh của cách mạng. (Đảng phải vận động, thu phục
giai cấp mình để lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với
trung nông. Lực lượng cách mạng bao gồm: thứ nhất là giai cấp công - nông
là gốc, là động lực của cách mạng, thứ hai là những người yêu nước trong các
giai cấp khác là đồng minh của cách mạng.) Bốn là, lãnh đạo cách mạng là
giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của giai cấp là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Năm là, về phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương phải giành
chính quyền bằng bạo lực cách mạng. Sáu là, cách mạng Việt Nam đoàn kết
với giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa trên thế giới để chống chủ nghĩa
đế quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.

Từ những nội dung cơ bản trên, Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và
sáng tạo: vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt
Nam, vừa đáp ứng chính xác những yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ.
Sáng tạo trong vấn đề dân tộc, xác định thái độ với các giai cấp, liên minh
giai cấp và đoàn kết toàn dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, xác định rõ chủ trương "Làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Cuộc cách mạng này đánh đổ thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập, nhân dân được các quyền dân chủ, tự do,
hạnh phúc. Đó chính là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, xuyên suốt các chủ trương đường lối cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta
ra đời đến nay. Trong tư tưởng lớn đó, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc là ở
chỗ: xác định độc lập dân tộc là mục tiêu cốt tử, trực tiếp trước mắt, là tiền
đề, điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu của tiến trình cách
mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sáng tạo của
Nguyễn Ái Quốc là ở chỗ quan niệm lực lượng cách mạng ở nước ta là toàn
thể nhân dân. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong Đảng
ta nêu ra tư tưởng cần xây dựng liên minh Công-Nông-Trí dưới sự lãnh đạo
của Đảng làm nòng cốt cho lực lượng cách mạng Việt Nam bao gồm tất cả
các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Nguyễn Ái Quốc đánh giá đúng tầm quan trọng của nhân tố dân tộc trong
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, nêu ra chủ
trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân có thể đoàn kết được, có thể tạo
nên sức mạnh đánh đổ đế quốc và phong kiến.

Sự quan trọng của văn hóa với sự phát triển bền vững

Về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Quan điểm này được thể hiện qua mấy nội dung cơ bản sau
đây:

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.

Quan diểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc
là chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và
lành mạnh thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm
nhuần trong mỗi con người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối tiếp,
trao truyền và phát huy qua các thế hệ người Việt Nam, đó là tất yếu của
dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và hướng đến tương lai, tương lai
của những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Vì vậy, chúng ta làm cho văn
hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở
thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.

Để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã
hội, chúng ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn
lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác để làm giàu
thêm cho nền văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa Việt
Nam bắt kịp sự phát triển của văn hóa nhân loại trong thời đại ngày nay và
chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời, xa lạ với văn hóa. Đảng ta coi văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng nguồn lực văn
hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các giá trị
văn hóa là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó còn là
cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.

Hai là, văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.

Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây
dựng một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây
cũng chính là mục tiêu của văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất của văn
hóa. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác định: Mục tiêu
và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Đồng thời
nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã
hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay không thể phát triển
bằng mọi giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà làm
tổn hại đến tương lai.

Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối
quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công bằng xã
hội, đảm bảo bền vững về môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng vật chất
cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó phải cần đến văn hóa, sự tham gia
của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động của nền kinh tế vì mục tiêu phát
triển xã hội, phát triển con người, đó chính là vai trò của văn hóa trong kinh
tế, kinh tế trong văn hóa.

Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan
trọng, vì nó là nhu cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu
cầu tinh thần còn là nhu cầu nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa
ấy vừa đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy con
người đạt được niềm tin, sự khác vọng hạnh phúc.

Ba là, văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.

Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên
thiên nhiên, thậm chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế,
kinh tế phát triển, xã hội tiến bộ chính là nhờ coi trọng yếu tố văn hóa, con
người, thông qua việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
mở đường cho sự phát triển.

Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu
trong văn hóa, con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái
mới, cái tốt, cái tiến bộ nhưng không thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát
triển phải vựa trên cội nguồn, cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa. kinh
nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng,
ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy
kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần quan trọng
nằm trong văn hóa.

Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay
đổi quan niệm về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn
thuần chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố
này phong phú, đa dạng nhưng đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt, mà
dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ, tri
thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra những giá trị vật
chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và xã
hội, đó tức là văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển, chỉ có sự tham gia
của văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.

Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm
năng sáng tạo này nằm trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách
của mỗi cá nhân và cộng đồng. Chỉ có nguồn lực này là vô hạn, có khả năng
tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác sẽ không được
sự dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và năng lực
khai khác chúng, thì các nguồn lực đó dù có phong phú, đa dạng, thì cũng
không thể tham gia và phát huy tác dụng vào trong phát triển.

Vì sao trong thời kỳ đổi mới, ĐCSVN phải lựa chọn phương
châm đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa là
một tất yếu.

Đảng và Nhà nước luôn xác định Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời
của thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới. Hiểu biết sâu sắc
tình hình thế giới là điều kiện không thể thiếu để xác định những mục tiêu,
nhiệm vụ cho đất nước. Xa rời với sự vận động chung, tự cô lập mình với thế
giới bên ngoài là những sai lầm nguy hại, có thể ảnh hưởng đến sự sinh tồn
của cả dân tộc. Chính vì vậy, Đảng ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong
chính sách ngoại giao, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng và tính tất yếu của
chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại.

Đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa là một tất yếu vì những lý
do sau.
Đầu tiên, về mặt chính trị - ngoại giao, do không nắm bắt kịp thời xu thế phát
triển của thế giới mà chính sách đối ngoại của chúng ta mười năm trước đổi
mới đã bộc lộ nhiều hạn chế. Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, bị cô lập lại
bị các thế lực thù địch chống phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm,
không phù hợp với hoàn cảnh khiến nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh
tế - xã hội nghiêm trọng.

Những biến động của tình hình thế giới tác động sâu sắc đến nhận thức và tư
duy của Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của
hệ thống xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng
ta. Từ đây, Đảng ta nhận thức và rút kinh nghiệm, cần phải thay đổi mô hình
xã hội chủ nghĩa cũ, cụ thể hơn là đổi mới chủ trương và chính sách ngoại
giao sao cho hợp lí, hiệu quả.

Xuất phát từ tình hình cụ thể trong, ngoài nước và nhu cầu phát triển của
nước ta, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng
12/1986, Đảng ta bắt đầu đã có những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến
lược về đường lối và chính sách đối ngoại, đặc biệt coi trọng đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ ngoại giao.

Với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập là xu thế chung hiện nay, việc hợp tác đa
phương trên nhiều lĩnh vực là tất yếu. Hợp tác đa phương trong các lĩnh vực
văn hóa, an sinh xã hội, lao động, thông tin - truyền thông, môi trường, du
lịch...được mở rộng, từ đó thúc đẩy tiến bộ xã hội, phát triển thị trường lao
động và hệ thống an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo… Hội nhập khu vực và
quốc tế về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế đóng vai trò quan
trọng đối với việc phát triển nền khoa học, giáo dục tiên tiến, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, thông tin và y tế quốc gia đáp ứng nhu cầu của người
dân, tiến tới thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới trong các
lĩnh vực này.

Việc VN tham gia mạng lưới liên kết kinh tế đa phương đã góp từng bước
mở cửa, gắn nền kinh tế và thị trường trong nước với khu vực và thế giới,
tiếp thu những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, thu hút nguồn lực cho phát
triển, tạo thêm động lực xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội.

Phân tích mối quan hệ giữa chính trị - quân sự - ngoại giao
trong kháng chiến chống Mỹ (1965 – 1975)

Quân sự:
Miền Bắc vừa xây dựng kinh tế vừa tăng cường lực lượng quốc phòng
Đánh du kích, đánh mạnh mẽ

Chính trị:
Trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao có hai
nhiệm vụ lớn. Nhiệm vụ thứ nhất là tăng cường hậu phương quốc tế của
ta và làm suy yếu hậu phương của địch. Đối với hậu phương quốc tế của
ta, ngoại giao có nhiệm vụ thực hiện khẩu hiệu của Đảng đề ra là thêm bạn
bớt thù, tranh thủ từ bạn gần đến bạn xa, từ những đồng minh chiến lược
đến những người chỉ đồng tình với ta một điểm nào đó. Như trên đã nêu,
chúng ta chống đế quốc Mỹ là nhằm mục tiêu chung của loài người, của
thời đại, từ mục tiêu cao là chủ nghĩa xã hội, cho đến mục tiêu thấp là hòa
bình, độc lập dân tộc. Ai đồng tình với ta trên cơ sở chiến lược là đi tới
chủ nghĩa xã hội đều là bạn của ta. Ai chỉ đồng tình với ta dù chỉ là trên cơ
sở chủ nghĩa nhân đạo, ta cũng coi là bạn. Ta tranh thủ kết bạn với mọi
người từ mức thấp tới mức cao, theo đúng phương châm thêm bạn bớt thù
của Bác Hồ.

Nhiệm vụ thứ hai của ngoại giao là giải quyết vấn đề ta thắng địch thua.
Lãnh đạo ta nhìn vấn đề với đầu óc rất sáng suốt và thực tế. Với một địch
thủ lớn mạnh hơn hẳn như Mỹ, cuộc đấu tranh của ta chống Mỹ không thể
chỉ khi nào ta buộc đối phương phải quy hàng mới kết thúc. Phải có khái
niệm thật rõ thế nào là ta thắng, thế nào là địch thua thì mới xác định được
giải pháp. Ta thắng tức là khi nào ta bảo vệ được độc lập tự do, giải phóng
được đất nước của ta. Mỹ thua tức là Mỹ phải rút hết quân, chấm dứt xâm
lược, phải cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt
Nam.

Chính với tinh thần như vậy nên lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nói: Nếu Mỹ mà chịu nhận rút thì chúng tôi trải thảm đỏ cho mà rút. Ngoại
giao phải làm sao đạt được thực chất vấn đề như vậy. Để thắng một kẻ thù
cỡ lớn như thế mà ta lại là một nước nhỏ thì phải có ngoại giao đóng góp
vào đó, thực hiện phương châm thắng từng bước, tiến lên giành thắng lợi
hoàn toàn. Phải có ngoại giao để giải quyết vấn đề ta thắng địch thua.
Tạo lập một Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam làm nền tảng
vững chắc về chính trị và tinh thần cho cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu
nước của ta.

Trước một kẻ thù giàu mạnh như vậy, trong một bầu không khí sợ Mỹ phổ
biến trên thế giới như vậy, đitối cần thiết đối với ta là phải tạo lập được
một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đánh Mỹ để tập hợp dư
luận và cô lập Mỹ về chính trị và tinh thần.

Vì sao trong quá trình xây dựng công nghiệp hóa – hiện đại
hóa thời kỳ đổi mới. Đảng cộng sản Việt Nam lại gắn vấn đề
công nghiệp hóa – hiện đại hóa với vấn đề bảo vệ môi
trường?

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa với bảo vệ môi trường

Sau 25 năm đổi mới, nước ta đã vượt qua ngưỡng nước nghèo vào 2010,
bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu vượt bậc ấy, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức
nghiêm trọng về môi trường. Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi
trường, hiện nước ta có gần 4000 cơ sở sản xuất, hơn 1500 làng nghề gây ô
nhiễm, hơn 200 KCN cần được kiểm soát về khả năng gây ô nhiễm. Thực tế
là, ô nhiễm nguồn nước, không khí đang lan rộng không chỉ ở các KCN, khu
đô thị, mà ở cả nhũng vùng nông thôn; đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm;
biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra triều cường và những hậu quả
khôn lường; thành quả phát triển của nhiều địa phương trong nhiều năm chỉ
sau một đợt thiên tai có thể bị xóa sạch.

Quá trình CNH-HĐH đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết đối với môi trường. Chỉ
tiêu tăng GDP gấp 2,2 lần trong 10 năm tới với mức tăng trưởng công nghiệp
hằng năm 13% sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm ở các KCN và vùng
đô thị; việc CNH-HĐH các ngành công nghiệp nặng gây ra những ảnh hưởng
không thể bỏ qua với môi trường. Số liệu của Ủy ban KH-CN-MT của Quốc
hội cho thấy, mới có 60 KCN có trạm xử lý nước thải tập trung (chiếm 42%
số KCN đã vận hành). Mỗi ngày, các KCN thải ra khoảng 30.000 tấn chất
thải độc hại ra môi trường. Hầu hết các cụm, điểm, KCN chưa đáp ứng được
những tiêu chuẩn môi trường.

Đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là động lực lớn phát
triển các làng nghề. Theo thống kê, cả nước có gần 1500 làng nghề và tạo ra
11 triệu việc làm thường xuyên và không thường xuyên. Tuy nhiên do sản
xuất tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu nên phần lớn các làng nghề gây ô
nhiễm môi trường. Một cuộc khảo sát của Bộ Y tế tại 3 tỉnh Nam Định, Bắc
Ninh, Hưng Yên đã cho kết luận, hầu hết các làng nghề không có hệ thống xử
lý nước thải và kiểm soát chất thải rắn.

CHH-HĐH sẽ kéo theo đô thị hóa. Dân số đô thị năm 1996 là 19%, năm
2010 đạt 30% và dự kiến tăng lên 45% vào 2020. Đây thực sự là sức ép lớn
về môi trường trong quản lý đô thị. Theo nghiên cứu của Bộ KH-CN, các đô
thị Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Việt Trì, Ninh Binh, Quy Nhơn, Nha Trang,
Biên Hòa... là những tụ điểm phát thải các chất độc hại. Riêng Hà Nội, mỗi
năm thải vào môi trường nước khoảng 3.600 tấn chất hữu cơ, 320 tấn dầu
mỡ, hàng chục tấn kim loại nặng...

Song song với quá trình CNH-HĐH, chúng ta đang phải chịu những áp lực về
thay đổi cấu trúc và mô hình phát triển do sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm
môi trường ngày càng lộ rõ. Do đó, các mối quan tâm về môi trường cần
được lồng ghép ngay từ quá trình ra các quyết định về phát triến kinh tế và xã
hội.

Bước đột phá ở đây là chuyển đổi quyết liệt từ cơ chế nặng về ''bao cấp”, ''xin
cho” sang cơ chế kinh tế hóa, tài chính hóa trong quản lý tài nguyên, môi
trường. Thực tế hiện nay, nhà nước bỏ ra rất nhiều kinh phí, trang thiết bị và
nguồn nhân lực cho công tác điều tra tài nguyên khoáng sản, khí tượng, thủy
văn... nhưng thường là cung cấp không hoặc với khoản phí không đáng kể
cho các nhà đầu tư. Đó là sự bù đắp không cân xứng dẫn đến không đủ nguồn
lực cho công tác quy hoạch tài nguyên và môi trường.

Thực tiễn phát triển nước ta trong những năm gần đây khẳng định, chúng ta
có đủ năng lực, điều kiện để chuyên đổi thành công sang mô hình phát triển
bền vững. Kinh nghiệm phát triển lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông,
cơ khí tự động hóa, công nghệ vật liệu cũng như việc chế tạo thành công các
sản phẩm nano, những thành tựu trong công nghệ sinh học, cùng với năng lực
sáng tạo trong toán học, vật lý học, hóa học... cho thấy nếu có đủ quyết tâm
và cách sáng tạo, phù hợp, chúng ta sẽ nhanh chóng bước vào quỹ đạo phát
triển hiện đại mà 21 quốc gia thành viên APEC, trong đó có Việt Nam đã
cam kết tại Hội nghị Thượng đỉnh tại Tokyo tháng 11- 2010, về thực hiện
một mô hình tăng trưởng mới, đảm bảo 5 yêu cầu: i) Tăng trưởng cân bằng;
ii) Tăng trưởng an toàn; iii) Tăng trưởng bền vững; iv) Tăng trưởng dựa vào
trí tuệ; v) Tăng trưởng với lợi ích được chia sẻ công bằng cho tất cả mọi
người. Đây phải trở thành điểm xuyên suốt quá trình CNH-HĐH nước ta.

Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa là bước phát triển mới về tư duy lý luận, sự vận dụng
sáng tạo độc lập của Đảng? Vì sao Đảng cộng sản Việt Nam
lựa chọn mô hình kinh tế và thị trường Xã hội chủ nghĩa là
một tất yếu.

Trước Đại hội VI, chính những người cộng sản Việt Nam trước nhiều bế tắc
của đất nước do đói nghèo, khủng hoảng đã nỗ lực tìm ra lối đi, thừa nhận sự
tồn tại những hạt nhân hợp lý của kinh tế hàng hóa ngay trong lòng cơ chế
kinh tế tập trung bao cấp. Từ những khoán hộ, “khoán chui”, đổi mới cơ chế
quản lý tại các xí nghiệp và con đường tìm tòi đầy gian nan để đi đến bước
ngoặt Đổi mới từ Đại hội VI, chính thức đề cập sản xuất hàng hóa và xác
định “cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa” (Đại hội VI, năm 1986). Đó thực chất cũng là bước ngoặt Đảng Cộng
sản Việt Nam chấp nhận kinh tế thị trường để xây dựng CNXH trong thời kỳ
quá độ.

Đến Đại hội VII (năm 1991) xác định xây dựng “nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước”.
Đại hội VIII (năm 1996) chủ trương xây dựng “nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”.

Đại hội IX (năm 2001), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng và Nhà
nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Như vậy, phải sau 15 năm thực hiện Đổi mới, khái niệm “kinh tế thị trường
định hướng XHCN” mới chính thức được xác định từ Đại hội IX (2011) của
Đảng.

Từ đó đến nay, nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng
XHCN ngày càng được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Đại hội XII xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam
là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ban hành 3 Nghị quyết: “Hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN”, “Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”, “Phát triển kinh tế tư nhân trở
thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN”. Đây là sự kiện quan trọng, bởi tại các Nghị quyết này, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã bổ sung, phát triển nhiều nội dung mới, quan trọng về tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó, định
nghĩa về “Kinh tế thị trường định hướng XHCN” ở nước ta được thống nhất
“là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị
trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế,
có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.

Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế
vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và
được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện
trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh tế
thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

So sánh với kinh tế thị trường TBCN, kinh tế thị trường định hướng XHCN
vừa có những điểm tương đồng, nhưng cũng có những điểm khác biệt về bản
chất. Điểm tương đồng với kinh tế thị trường tư bản hiện đại là: dựa trên nền
tảng của chế độ phân chia sở hữu và đa sở hữu; nền kinh tế vận hành chủ yếu
thông qua và bằng cơ chế thị trường; có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước;
đa dạng hóa các hình thức phân phối.
Điểm khác biệt, sự sáng tạo trong triển khai kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam là ở chỗ, phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ
và công bằng xã hội. Các chủ thể trong kinh tế thị trường cạnh tranh nhau với
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Chính vì vậy, đi liền với tăng trưởng tất yếu là
sự phân hóa giàu nghèo, không ít người yếu thế bị bật ra khỏi vòng quay của
nền kinh tế, cũng vì vậy nảy sinh các hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã
hội. Trong CNTB, nhân dân lao động là người làm thuê, mục tiêu của CNTB
là tăng lợi nhuận, duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản. Để đạt tới mục tiêu
đó, CNTB đã có nhiều chủ trương, giải pháp về các vấn đề xã hội, trong đó
có những mặt tiến bộ như thực hiện giảm nhẹ sự bất bình đẳng trong xã hội
cũng như tìm cách giảm căng thẳng trong xã hội. Tuy nhiên, những mặt tiến
bộ ấy không bền vững vì mâu thuẫn cơ bản của CNTB là xã hội hóa tư liệu
sản xuất và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn tồn tại. Trong kinh
tế thị trường định hướng XHCN, phát triển kinh tế phải đi liền với việc giải
quyết tốt các vấn đề xã hội. “Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất
để thực hiện chính sách xã hội, nhưng mục tiêu xã hội lại là mục đích của các
hoạt động kinh tế”(3) và “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”(4).

Như vậy, thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải
là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt
và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại
ngày nay. Bản thân kinh tế thị trường cho đến nay được xem là phương cách
hiệu quả nhất trong phân bổ, khai thác các nguồn lực cho sự phát triển.
CNXH là xã hội tương lai, bảo đảm các điều kiện phát triển toàn diện của con
người. Do vậy, lựa chọn kinh tế thị trường là sự lựa chọn phù hợp với các
quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những
nước đi sau, cho phép các nước này rút ngắn được con đường đi của mình tới
CNXH trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế những khuyết tật
của thị trường.

Tại nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Đảng CSVN khẳng
định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước”. Ý kiến của Anh/chị
về vấn đề nêu trên. (Phân tích như câu dưới).

Quan điểm của Đảng về vị trí vai trò của văn hóa trong phát
triển bền vững đất nước.

Khái niệm văn hoá:

Chúng ta có thể nhìn thấy văn hóa ở đâu?

a/ Văn hóa là một hoạt động của sự phát triển

Ví dụ: Các làng nghề làm gốm vừa là hoạt động sản xuất vật chất vừa là văn
hóa.

Các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống vừa là hoạt động tinh thần,
vừa là văn hóa.

Tuy nhiên, không phải hoạt động nào cũng là văn hóa.

Giả sử một nhóm người thường xuyên tổ chức các buổi biểu diễn nghệ thuật,
như hát, múa, và diễn kịch. Những buổi biểu diễn này có thể được coi là một
hoạt động văn hóa, vì nó liên quan đến việc truyền tải và thể hiện các giá trị,
tư duy và niềm đam mê của một cộng đồng.

Tuy nhiên, nếu nhóm người này thường xuyên tổ chức các hoạt động đối lập
với các giá trị đạo đức, gây hại cho xã hội hoặc vi phạm pháp luật, thì không
thể nói rằng tất cả những hoạt động của họ đều là văn hóa. Một số hoạt động
của họ có thể bị coi là không văn minh hoặc không phù hợp với chuẩn mực
của một xã hội.

Vì vậy, mặc dù văn hóa bao gồm nhiều hoạt động, không phải hoạt động nào
cũng có thể coi là văn hóa, mà phải tuân thủ một số nguyên tắc, giá trị và tiêu
chuẩn xã hội.

b/ Văn hóa là giá trị và hệ giá trị

Hỏi: Các bạn có thể một số giá trị của người Việt Nam không ạ?

Trả lời: lòng nhân ái, yêu nước, đoàn kết, hiếu học, hiếu thảo, cần cù,…

c/ Văn hóa là sáng tạo

Văn hóa hiếu học, yêu khoa học thể hiện trong các nghiên cứu khóa học

Văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt Nam thể hiện trong thơ ca, trong các tác
phẩm nghệ thuật.

d/ Văn hóa điều chỉnh hành vi, ứng xử, đạo đức của con người

Trong một gia đình, việc dạy trẻ nhỏ về tôn trọng người lớn và đạo đức xã
hội là một ví dụ về văn hóa điều chỉnh hành vi. Bố mẹ có thể dạy con cái về
cách chào hỏi, cảm ơn và xin phép người lớn, cũng như tránh làm những việc
gây phiền hà hoặc vi phạm quy tắc đạo đức. Bằng cách truyền dạy những giá
trị này, gia đình đang áp dụng văn hóa để hướng dẫn con cái cách ứng xử tốt
và có ý thức xã hội.

Quy tắc ứng xử nơi công cộng.

Khái niệm về bền vững:

Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp
quốc đã đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, trong đó định
nghĩa phát triển bền vững là sự phát triển thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà không gây tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai.

Ba trụ cột của phát triển bền vững được xác định là:

+ Bền vững về mặt kinh tế: đảm bảo phát triển nhanh chóng, an toàn và chất
lượng.

+ Bền vững về mặt xã hội: đảm bảo công bằng xã hội và phát triển con
người, với chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất, bao gồm thu
nhập, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ và văn hóa.

+ Bền vững về môi trường sinh thái: khai thác và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên một cách hợp lý, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường
sống.

Theo báo cáo, Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam là 0,703 vào
năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc
gia.

Quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững đất
nước
Đảng xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động
lực phát triển bền vững đất nước.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội

+ Kế thừa các giá trị bản sắc của dân tộc

+ Giao lưu văn hóa, tiếp nhận có chọn lọc

Ví dụ: học hỏi các mô hình hiện đại trong kinh tế, các kì thi chuẩn hóa ở Việt
Nam, các sản phẩm nghệ thuật mang dấu ấn quốc tế (Tlinh, Võ Hạ Trâm, …)

Văn hóa là mục tiêu phát triển của đất nước

Hỏi: Mục tiêu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là gì ạ.

Trả lời: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là thực hiện sự nghiệp vì nhân dân - con người. Nói đến văn hóa là mục
tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng có nghĩa là toàn bộ sự phát triển
kinh tế - xã hội phải hướng tới sự phát triển con người, phát triển xã hội, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Phải đặt con người vào vị trí
trung tâm của sự phát triển, là mục tiêu của sự phát triển.

Ví dụ: Các thầy cô giáo đem chữ đến cho trẻ em vùng cao

Kiểm duyệt với các bộ phim

Dự thảo luật về quy tắc ứng xử với các nghệ sĩ

Văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững


Văn hóa định hình nhận thức, giá trị, tư tưởng và hành vi của mỗi cá nhân và
cộng đồng. Nó giúp tạo ra những giá trị xã hội và định hướng cho sự phát
triển.

Một ví dụ minh họa về vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững là
chương trình bảo tồn và phát triển du lịch cộng đồng. Bằng cách tôn trọng và
bảo vệ văn hóa địa phương, những chương trình du lịch cộng đồng tạo ra cơ
hội kinh doanh và phát triển cho các cộng đồng dân cư địa phương, đồng thời
bảo tồn và giới thiệu những giá trị văn hóa đặc trưng của vùng.

Mối quan hệ giữa đường lối kháng chiến và xây dựng chế độ
mới (1945-1954)

Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính. Đảng ta áp dụng phương châm này không chỉ trong công cuộc
kháng chiến chống giặc mà còn trong cả giai đoạn xây dựng chế độ mới,
là xây dựng căn cứ địa cho Cách mạng. Chính vì vậy mà giữa đường lối
kháng chiến và việc xây dựng chế độ mới có mối quan hệ song song và
chặt chẽ.

Đầu tiên, về đường lối kháng chiến chống Pháp, mục đích kháng chiến là
kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng Tám, "Đánh thực dân
Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập". Cuộc kháng chiến của dân
tộc tạ là một cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính
nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài. Nó là một cuộc chiến
tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình.

Xuất phát từ lòng tin vào sức mạnh của nhân dân - có dân là có tất cả, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, phải dựa vào dân, khơi nguồn sức mạnh,
sức sáng tạo của nhân dân. Người giải thích, toàn dân kháng chiến chính
là: "Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ
người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực
dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một
pháo đài. Trong công cuộc xây dựng chế độ mới, toàn thể nhân dân chính
là nguồn lực chính để thay đổi đất nước, tất cả mọi người cùng nhau góp
sức. Bất kì người dân, không phân biệt văn hóa, vùng miền, tôn giáo , tuổi
tác…đều có thể đóng góp công sức làm nên sức mạnh tập thể đất nước,
thay đổi bộ mặt nước nhà.

Về đường lối kháng chiến toàn diện là đánh địch về mọi mặt: chính trị,
quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Về chính trị: Thực hiện đoàn kết
toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân;
đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Về
quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, tiêu diệt địch…
Về kinh tế: xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát triển nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.

Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa
dân chủ mới.

Về ngoại giao: thêm bạn bớt thù , biểu dương thực lực. Trong công cuộc xây
dựng chế độ mới, Đảng ta chủ trương xây dựng toàn diện, mọi mặt. Đó là sự
thay đổi và xây dựng trên mọi bình diện và lĩnh vực đời sống: kinh tế, chính
trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao…Chỉ có sự tập trung xây dựng toàn diện,
đồng đều mới đưa đất nước tiến lên chế độ mới với sự phát triển nhanh chóng
và hợp lí.

Việc thực hiện đường lối kháng chiến lâu dài để chống âm đánh nhanh, thắng
nhanh của Pháp; để chuyển hóa tương quan lực lượng đánh thắng địch; để
củng cố hậu phương vững chắc. Điều này càng được áp dụng vào trong công
cuộc xây dựng chế độ mới. Toàn dân ra sức xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân với tâm thế kĩ lưỡng, cẩn thận và đúng đắn nên không thể hoàn thành
trong thời gian ngắn mà phải tiến hành lâu dài, có đường lối xây dựng cụ thể.

Phương châm dựa vào sức mình là chính có nghĩa là: “Phải tự cấp, tự túc về
mọi mặt". Nhân dân ta phải đồng sức đồng lòng thi đua sản xuất, huy động
hết sức người, sức của để xây dựng cơ sở vững chắc cho nền công nghiệp,
nông nghiệp. Chỉ có lao động mới tạo ra của cải vật chất. Vì ta bị bao vây
bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh, kháng chiến
dựa vào ý chí và sức mạnh nước nhà. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.

Tư tưởng chiến lược tấn công của Đảng trong giai đoạn
1959-1964

Trong giai đoạn 1959-1964, để phù hợp với tình hình đất nước, vừa phù hợp
với xu thế chung của thời đại,
Vì sao ĐCSVN coi văn hóa tinh thần là nền tảng tinh thần
của XH?

Theo Unessco: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động
mọi mặt của cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại; nó cấu
thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó
từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình.

Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm
nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối
và phát huy qua các thế hệ , được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong
cấu trúc xã hội của từng dân tộc; dồng thời, nó tác động hàng ngày đến cuộc
sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội –
văn hóa. Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử của
dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc vượt qua mọi
khó khăn để phát triển.

Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững
của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con
đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ
sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng
văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là cuộc vận động toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn
hóa,...

Nghệ thuật tạo bất ngờ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân (1968)

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) là một trong ba đòn
Tiến công chiến lược của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước. Nó đã gây cú “sốc đột ngột”, làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế
hoạch tác chiến của Mỹ; làm rung chuyển không chỉ toàn bộ chiến trường
miền Nam, mà còn gây chấn động Nhà trắng, Lầu năm góc và làm lay chuyển
ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn phải cách chức Bộ
trưởng Quốc phòng và Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt
Nam; đồng thời, xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán
với Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam tại Pa-ri. Về cá nhân, Giôn-xơn tuyên bố không tham
gia ứng cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ thứ 2. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Tết Mậu Thân (1968) về cơ bản đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” của Mỹ, mở ra khả năng và cục diện mới cho quân và dân ta thực hiện
quyết chiến chiến lược “đánh cho Mỹ cút”, tiến tới “đánh cho ngụy nhào”,
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào mùa Xuân 1975. Thắng lợi đó
có nhiều nguyên nhân và để lại nhiều bài học quý. Xét về lĩnh vực quân sự,
đó là bài học nghệ thuật tạo bất ngờ trên cả ba phương diện: chiến lược, nghệ
thuật chiến dịch và chiến thuật.

Trước hết là sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng và vũ khí trang bị. Đây là điều
kiện tiên quyết để ta mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân với
quy mô lớn trên toàn miền Nam, trong đó tập trung vào các thành phố, đô thị.
Vì thế, yêu cầu đặt ra là phải có lực lượng quân sự tinh nhuệ, lực lượng đấu
tranh chính trị hùng hậu, rộng khắp và khối lượng lớn vũ khí, trang thiết bị
quân sự... Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, các sư đoàn chủ lực dự bị
cơ động chiến lược (308, 304, 320, 312) được gấp rút kiện toàn về tổ chức,
biên chế, trang bị, đẩy mạnh huấn luyện để sẵn sàng vào chiến trường khi có
lệnh. Các trung đoàn, sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng từ nhiều nơi
trên chiến trường miền Nam bí mật hành quân “ém sẵn” ở các địa bàn ven đô.
Riêng khu vực Sài Gòn, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu 7 và
Quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập “Khu trọng điểm” gồm nhiều phân
khu (Tiểu đoàn mũi nhọn) được tổ chức và trang bị gọn nhẹ; trong đó, biên
chế nhiều tổ, đội biệt động, đặc công, bảo đảm cho các lực lượng vừa có mũi
nhọn, vừa có chiều sâu tiến công đồng loạt từ nhiều hướng vào Sài Gòn...
Bên cạnh đó, việc đảm bảo lương thực, thực phẩm, vũ khí, trang bị kỹ thuật
cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy (từ miền Bắc chuyển vào) được chuẩn bị
hết sức chu đáo. Trong nội đô, nhiều tổ chức - cơ sở cách mạng của ta đã sử
dụng các phương tiện vận tải (ô tô, xuồng máy) hợp pháp, đêm ngày bí mật
chuyển lương thực, thuốc men ra vùng giải phóng và nhận súng đạn đưa về
nội đô... Với chiến thuật “thiên biến vạn hóa” đó, chúng ta đã đưa một lực
lượng bộ đội chủ lực cùng với khối lượng lớn vũ khí, trang bị quân sự vượt
qua hệ thống trạm kiểm soát và mạng lưới mật vụ, biệt kích, thám báo chìm,
nổi dày đặc của địch, vào “lót sẵn” trong nội đô. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt,
tài tình, táo bạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân (thậm chí có
cả vợ, con của sĩ quan ngụy) trong các thành phố, thị xã đã nhiệt tình ủng hộ,
che chở, đùm bọc lực lượng cách mạng. Họ bí mật đào những căn hầm chứa
vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự ngay dưới nền nhà của mình; nhiều bà má,
chị, em không quản gian khổ, hiểm nguy, hy sinh để vận chuyển vũ khí vào
thành phố... Nhờ đó, các lực lượng của ta với đầy đủ vũ khí, trang bị đã “nằm
sẵn” trong lòng thành phố, thị xã, quận lỵ sẵn sàng chờ lệnh nổ súng tiến
công tiêu diệt địch. Những việc làm trên được khắc ghi trong sử sách là minh
chứng sống động về nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại
Hồ Chí Minh, mà biểu hiện cụ thể của nó là tạo bất ngờ cả về thế và lực đối
với địch.

Tạo bất ngờ về thời điểm tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Chọn dịp
Tết Nguyên Đán và thời khắc giao thừa1 đồng loạt nổ súng mở màn là nét
đặc sắc của nghệ thuật tạo bất ngờ; bởi đây là lúc địch sơ hở và chủ quan
nhất. Cân nhắc, nghiên cứu và tính toán rất kỹ, cụ thể từng chi tiết, phong tục
tập quán Tết cổ truyền của dân tộc trên đất phương Nam; việc “điều binh,
khiển tướng” của Quân lực Việt Nam cộng hòa từ nhiều năm trước đó, sau
khi có sự thống nhất giữa cơ quan chỉ đạo tối cao và chỉ huy các chiến
trường, Bộ thống soái quyết định chọn thời điểm Giao thừa là “giờ G” làm
hiệu lệnh nổ súng mở màn cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.
Với sự tính toán mưu lược chu tất như vậy, nên khi ta tiến công, địch hoàn
toàn bị bất ngờ, không kịp đối phó. Ngay sau khi sự kiện Tết Mậu Thân diễn
ra, giới chỉ huy quân sự và học giả Mỹ cũng như phương Tây đã xác nhận:
Vào những ngày Tết Mậu Thân, các đơn vị của Quân đội Việt Nam cộng hòa
chỉ có một nửa quân số, khiến cho Bộ Chỉ huy Quân sự Mỹ ở Sài Gòn vô
cùng lúng túng trong việc ứng phó. Từ thực tế đó, càng khẳng định: việc
chọn thời điểm Tết Nguyên Đán mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu
Thân có ý nghĩa chiến lược, góp phần tạo bất ngờ về thời gian - yếu tố quan
trọng làm nên thắng lợi của Xuân Mậu Thân. Vì thời gian là lực lượng.

Tạo bất ngờ về hướng và mục tiêu tiến công chủ yếu. Vào thời điểm trước
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, địch còn rất mạnh cả về thế
và lực, nên chúng ta không thể sử dụng toàn bộ lực lượng chủ lực để đánh
vào các thành phố lớn. Do vậy, chủ trương của Đảng ta là căng, kéo, lừa địch
trải lực lượng ra khắp chiến trường miền Nam, nhất là đến địa bàn có lợi để
dùng những quả đấm mạnh đánh những đòn tiêu diệt lớn, bẻ gãy các cuộc
hành quân “tìm diệt” của chúng. Thực hiện chủ trương đó, cuối năm 1967,
Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe
Sanh2, nhằm dụ quân Mỹ lên để giam chân và tiêu diệt chúng tại đó, tạo ra kẽ
hở, điểm yếu ở các đô thị. Trong khi đó, giới chức chỉ huy quân sự Mỹ và Sài
Gòn cho rằng bộ đội chủ lực ta có rất ít kinh nghiệm tác chiến trong thành
phố, lực chưa đủ mạnh để tiến công vào các cơ quan đầu não của chúng; bởi,
đây là những mục tiêu được canh phòng cẩn mật, với hệ thống thiết bị cảnh
giới tinh vi, hỏa lực ngăn chặn mạnh và dày đặc nhiều tầng, nhiều lớp. Từ
đánh giá sai về ta, lại “tuyệt đối hóa” sức mạnh của vũ khí, thiết bị chiến
trường, nên từ chỉ huy đến binh sĩ của quân đội Mỹ cũng như quân đội ngụy
chủ quan, mất cảnh giác. Do vậy, chọn đô thị là hướng tiến công chủ yếu là ta
đã chọn đánh vào điểm yết hầu, hiểm yếu của kẻ thù. Đòn hiểm đó đã phơi
bày sự thất bại về quân sự và sự yếu kém của Mỹ và chính quyền ngụy. Lần
đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã đưa được
chiến tranh vào đô thị, thực hiện một đòn đánh hiểm, đánh đau vào “trung
tâm đầu não” của địch; đồng thời, khẳng định: với đường lối chiến tranh nhân
dân đúng đắn, sáng tạo của Đảng thì mọi điều đều có thể xảy ra, dù khó khăn,
phức tạp đến mấy. Đó chính là tư duy chiến lược, chiến thuật của những bộ
não chỉ huy và trực tiếp điều hành chiến tranh thời đại Hồ Chí Minh; sự sáng
tạo, độc đáo, vượt trước của Đảng ta trong cuộc đấu mưu, đấu trí sinh tử với
kẻ thù. Sau thảm bại trong Tết Mậu Thân, với tâm trạng hoang mang, dao
động, nhiều giới chức quân sự và chính khách Mỹ đã tự hỏi: Tại sao nửa triệu
lính Mỹ và hơn 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên
không và ngoài biển, được cung cấp quá đầy đủ và được trang bị những vũ
khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối
phương tấn công! Chính nội dung câu hỏi đã lộ rõ và thừa nhận về sự bị động
và bất ngờ của quân Mỹ - lực lượng đóng vai trò chủ chốt trong chiến lược
“chiến tranh cục bộ”.

Ngoài ra, nét độc đáo về nghệ thuật tạo bất ngờ trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân còn được thể hiện ở cách thức phát hiệu lệnh tiến
công. Để bảo đảm bí mật, bất ngờ tuyệt đối, hiệu lệnh khởi phát cuộc Tổng
tiến công Tết của ta được ấn định vào thời điểm giao thừa, lúc Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc thơ chúc mừng năm mới trên Đài phát thanh tiếng nói Việt
Nam, một phương tiện thông tin đại chúng, có độ lan tỏa rộng, nhanh và ít bị
địch chế áp, theo dõi. Vì thế, Lời chúc Tết Mậu Thân của Bác trở thành một
sự kiện gây bất ngờ đối với quân thù. Như vậy, hiệu lệnh của cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân cũng thực sự là một hiện tượng thật đặc sắc,
góp thêm một bất ngờ nữa đối với Mỹ và Quân đội Sài Gòn.

Tóm lại, nghệ thuật tạo bất ngờ đối với Mỹ và Quân đội Việt Nam cộng hòa
thực sự là một trong những nhân tố đóng vai trò quyết định thắng lợi của
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Đây là “sản phẩm đặc biệt”
của tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh; nét đặc sắc
đáng ghi nhớ nhất, hấp dẫn nhất của sự kiện Tết Mậu Thân đã diễn ra cách
đây 45 năm, trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Bài học kinh nghiệm về nghệ
thuật tạo bất ngờ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968)
nói riêng, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, vẫn mãi
giữ nguyên giá trị để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

You might also like