You are on page 1of 6

Đại hội 12

I. Kinh tế
1)….
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Đến năm 2020, phấn đấu cơ bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế; bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị, giữa Nhà nước và
thị trường; bảo đảm sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con
người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển
xã hội bền vững; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ; bảo đảm tính công khai, minh bạch, tính dự báo được thể hiện trong xây dựng và
thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp
Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình
đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh.
Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật
sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảo đảm
quyền tự do kinh doanh các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu
quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối
với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn
thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản
doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.
3) Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan
trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác không đầu tư.
Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công khai, minh bạch về đầu tư, tài
chính và các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp công theo hướng nâng cao chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức
bộ máy, biên chế, nhân sự và tài chính; xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần
kinh tế tham gia vào lĩnh vực này.
4) Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể
Đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến,
phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ về tiếp cận nguồn vốn,
đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, hỗ trợ phát triển thị trường
5) Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; bảo đảm tính đúng, tính đủ và công khai, minh bạch
các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ công thiết yếu; đồng thời có chính sách hỗ
trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.
Thực hiện đa dạng hóa thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành
khung pháp lý, phát triển hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài
chính, bảo đảm lành mạnh hóa và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô, loại bỏ nguy cơ mất an toàn
hệ thống, phục vụ có hiệu quả phát triển sản xuất, kinh doanh; bảo đảm nguyên tắc thị trường
đối với thị trường tài chính gắn với tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước và
giám sát của xã hội
6) Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu
tư,... Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế
quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác cụ thể; kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội
lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
7) Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh
tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế
Đây chính là điểm mới trong chủ trương về kinh tế trong văn kiện đại hội XII so với các kỳ đại
hội trước đó
Tại Đại hội X (4/2006) của Đảng, KTTN chính thức được xác nhận là một thành phần kinh tế
trên cơ sở hợp nhất hai thành phần kinh tế: cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân và được xác định
rõ: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(1).
Đại hội đã thông qua một quyết định rất quan trọng là cho phép đảng viên được làm KTTN. Vai
trò của KTTN tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XI (1/2011) với luận điểm: “Kinh tế tư nhân
là một trong những động lực của nền kinh tế”(2).
Sự phát triển mới về nhận thức của Đảng đối với KTTN tại Đại hội XII là, chính thức xác nhận:
“Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở
hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế”(3). Đây là
một trong những điểm mới nhất của Văn kiện Đại hội XII. Điều đó thể hiện sự tiếp tục đổi mới
tư duy kinh tế của Đảng để phù hợp với thực tiễn phát triển của nền kinh tế sau 30 năm đổi mới.
Sự tăng trưởng ngày một mạnh mẽ của KTTN trong nền kinh tế nước ta được thể hiện rất rõ nét.
Từ chỗ chỉ tồn tại “thoi thóp”, “cầm chừng” trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, luôn luôn
lo ngại về nguy cơ bị “cải tạo”, bị phân biệt đối xử không chỉ trong ý thức xã hội mà còn cả
trong cơ chế, chính sách nhà nước, KTTN đã vươn lên mạnh mẽ trong thời kỳ đổi mới, đóng
góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho xã hội và phát huy những tiềm
năng, lợi thế sẵn có ở mỗi địa phương cũng như trong cả nước.
Sản phẩm của KTTN đã vươn tới các thị trường khó tính, đòi hỏi tiêu chuẩn cao về
chất lượng, mẫu mã, an toàn trong tiêu dùng, cạnh tranh và trụ vững được ở những thị
trường đó trong nhiều năm qua.
Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), năm 2015, cả nước có
hơn 500 nghìn doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động, đóng góp 30% ngân sách, 40% GDP. Tỷ
trọng đóng góp vốn đầu tư của khu vực KTTN tăng mạnh, chiếm hơn 2/3 tổng vốn đầu tư xã
hội.
Khu vực kinh tế này cũng đã giải quyết cho 4,72 triệu lao động có việc làm thường xuyên, chiếm
57,1% tổng số việc làm của khu vực doanh nghiệp, bình quân mỗi năm tăng thêm 8,7% lao động.
Sự phổ biến các thương hiệu sản phẩm của KTTN đã thể hiện rõ sự thừa nhận của xã hội đối với
thành phần kinh tế này(4).
Khi xác định “kinh tế tư nhân là động lực quan trọng” của nền kinh tế chính là nhằm đến vai trò
tích cực của thành phần kinh tế này. Nghĩa là đã nhận thấy rõ trong KTTN còn rất nhiều tiềm
năng chưa được giải phóng, nhiều nguồn lực chưa được huy động và trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta, KTTN chưa hoạt động tương xứng với khả năng và nguồn lực của
nó, chưa có địa vị phù hợp với đóng góp của chính nó.
II. Công nghiệp
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội XII khẳng
định, sau 30 năm đổi mới, quá trình CNH, HĐH đất nước ngày càng được đẩy mạnh và đạt được
những thành tựu quan trọng:
- “Công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi về trình độ theo hướng hiện đại. Tỷ
trọng công nghiệp chế tạo, chế biến trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỷ trọng công nghiệp
khai thác giảm dần (...); cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”.
- “Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến; nông nghiệp phát triển toàn diện hơn
theo hướng khai thác những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; ứng dụng khoa học - công
nghệ và mức độ cơ giới hóa được nâng lên; xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ”.
- “Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực (...) quá trình đô thị hóa diễn ra khá nhanh”.
- Cơ cấu kinh tế theo ngành dần chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông - lâm -
ngư nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, xây dựng.
Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH đất nước trong những năm qua còn nhiều hạn chế, kết quả
chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đạt mục tiêu đã hoạch định. Cụ thể là:
- “Thực hiện CNH, HĐH còn chậm, chưa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Quy hoạch phát
triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp hỗ trợ chưa có định hướng chiến lược
rõ ràng, hiệu quả thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém,
lạc hậu và thiếu tính kết nối. Phát triển đô thị thiếu đồng bộ, chất lượng thấp. CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm”.
Từ đó đảng đã đề ra những biện pháp (Trình bày slide số 8 ra)
III. Văn hóa
Trình bày văn hóa như trong slide đưa ra (cho tiết kiệm thời gian)
Nội dung đại hội 13
I. Kinh tế
Đầu tiên trình bày y chang trong slide ra sau đó dẫn dắt là nhìn chung thì về vấn đề kinh tế trong
văn kiện đại hội 13 chủ yếu xác định các chủ trương chính sách đối với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (Sau đó đọc từ đại hội lần thứ VI…)
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến Đại hội Đảng lần thứ XIII, thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa luôn được Đảng ta nhìn nhận và dần được hoàn thiện
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được bắt đầu ngay từ khi tiến hành
công cuộc đổi mới. Trải qua các kỳ Đại hội vấn đề này luôn được coi là một nội dung trọng tâm,
cần phải được quán triệt cả về nhận thức và hành động. Điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII
là làm rõ hơn vai trò, định hướng phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định rõ hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội
trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đề ra nhiều nhiệm
vụ mới, nội dung mới để tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong những năm tới.
Văn kiện Đại hội XIII làm rõ hơn vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: kinh tế nhà nước được
khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định
hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ
chế thị trường. Đây là chức năng quan trọng của kinh tế nhà nước, đồng thời cũng là điểm đặc
trưng khác biệt, tiến bộ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (Kinh tế nhà nước)
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các
thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành
viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết
giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.(Kinh tế tập thể, kinh tế hợp
tác)
Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế và được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm,
nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ được hỗ trợ thành các công ty, tập đoàn kinh
tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao; phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp,
đóng góp khoảng 55% GDP và đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp, đóng góp vào GDP
đất nước đạt 60% - 65%. Đồng thời, Văn kiện Đại hội XIII chủ trương định hướng phát triển kinh
tế tư nhân theo hình thức công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là
người lao động và hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã, kinh tế hộ. Kinh
tế tư nhân phát triển theo định hướng đó sẽ không mâu thuẫn mà đóng góp tích cực vào phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.(Kinh tế tư nhân)
Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục xác định kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng
của nền kinh tế đất nước, có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn đầu tư, công nghệ, phương
thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời chủ trương chuyển trọng tâm thu
hút đầu tư từ lượng sang chất, có trọng tâm, trọng điểm, có chọn lọc những dự án có công nghệ
mới, tiên tiến, hiện đại, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, kết nối chặt chẽ, hữu cơ
với khu vực kinh tế trong nước, chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước, hỗ trợ doanh
nghiệp trong nước tham gia vào mạng lưới sản xuất, kinh doanh, chuỗi giá trị toàn cầu.(Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài)
II. Công nghiệp
Đọc trong slide ra sau đó nhấn mạnh ở phần kinh tế biển có điểm mới là phát triển kinh tế biển
gắn chặt với bảo vệ chủ quyền biển đảo
Đây là điểm mới, phản ánh bước phát triển trong tư duy của Đảng ta về kết hợp phát triển kinh tế
với củng cố quốc phòng, an ninh trên biển, đảo. Quan điểm này hoàn toàn đúng đắn, cần thiết,
phù hợp với thực tiễn quá trình xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
hiện nay.
Như chúng ta thấy, thế giới đang bước vào giai đoạn bùng nổ, phát triển mới; tình trạng khan
hiếm nguồn nguyên liệu, nhất là về năng lượng dẫn tới cạnh tranh thị trường, tranh chấp lãnh thổ
và xung đột trở nên gay gắt hơn. Vì thế, vươn ra biển, khai thác đại dương đã trở thành mục tiêu
mang tính chiến lược của các quốc gia có biển và cả các quốc gia không có biển. Vì vậy, có thể
nói “Thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương” và Việt Nam không nằm ngoài xu hướng đó.
Dẫn chứng VD ra là biển đông hiện nay đang là điểm nóng và là vấn đề tranh chấp của khá nhiều
nước.
III. Văn hóa
Nói những sức mạnh quân sự là sức mạnh cứng thì những giá trị văn hóa tinh thần là sức mạnh
mềm…
Thuật ngữ “sức mạnh mềm”, “phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam” lần đầu tiên xuất
hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định, các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam và sức mạnh con người Việt Nam
đã trở thành cội rễ của sức mạnh mềm văn hóa dân tộc, là sức mạnh nội sinh, là nguồn lực và
động lực to lớn của đất nước trong phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Như nhiều quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam cũng có nền văn hóa của riêng mình. Đó là “thành
quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế
giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản
lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”(2). Văn hóa Việt Nam - như cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng nhấn mạnh - là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam, làm
nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác
ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh, viết nên
những trang sử lạ lùng bởi tính kiên cường trong hoạn nạn, bởi khí phách hào hùng trong giữ nước
và dựng nước; “chất văn hóa... là tinh hoa của dân tộc, của quý nhất mà ngày nay mọi người Việt
Nam chúng ta tự hào là người thừa kế và phát triển(3).
Trải qua biết bao biến cố và thăng trầm của lịch sử, chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác
nhau, nhưng văn hóa Việt Nam không bị đồng hóa, mà vẫn giữ vững bản sắc và thể hiện sức sống
mãnh liệt của mình trong khả năng tiếp biến linh hoạt và đầy sáng tạo. Khả năng “Việt hóa” hay
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là những minh chứng cho sự tiếp
biến đầy sáng tạo và sức sống mãnh liệt của sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam.

You might also like