You are on page 1of 18

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

I. Tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế

1. Khái niệm về hội nhập quốc tế

2. Những nhân tố thúc đẩy hình thành và phát triển việc hội nhập quốc tế

II. Quá trình hình thành, cơ hội và thách thức phát triển đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của
Đảng trong hội nhập quốc tế

1. Quá trình hình thành, phát triển chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng

2. Cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế

III. Đường lối của đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đối ngoại

IV. Kết quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại của nước ta sau gần 20 năm thực hiện đường
lối của Đảng

1. Thành tựu

2. Hạn chế

V. Sự thay đổi về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế qua các văn kiện

1. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo

2.Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế

VI. Nguyên nhân dẫn đến những thay đổi

1.Tình hình thế giới thời kì đổi mới

2. Tình hình trong nước

VII. Những vấn đề đất nước ta gặp phải trong quá trình hội nhập quốc tế

1. Hội nhập quốc tế và vấn đề ổn định chính trị - xã hội, kinh tế

2. Hội nhập quốc tế và vấn đề giữ vững văn hóa dân tộc, giữ gìn bản sắn văn hóa dân tộc, giữ
vững trận địa tư tưởng - văn hóa

3. Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập quốc tế
VIII. KẾT LUẬN

LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là sau những năm 1970, có bốn yếu tố cơ bản quyết định xu
hướng phát triển của nền kinh tế thế giới bao gồm: sự suy yếu hoặc ít nhất là sự thay đổi trong vai trò bá
quyền của nước Mỹ, quá trình toàn cầu hóa tài chính và sản xuất, sự phát triển của mạng lưới các định
chế hợp tác quốc tế, và sự gia tăng cạnh tranh giữa các quốc gia và các công ty.

Hội nhập kinh tế quốc tế (international economic intergration) được sử dụng để chỉ quá trình gắn kết
nền kinh tế và thị trường của một quốc gia với nền kinh tế và thị trường và khu vực thông qua các biện
pháp tự do hóa và mở cửa thị trường trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.Để hiểu
rõ hơn về hội nhập kinh tế quốc tế cần phân biệt nó với hợp tác kinh tế quốc tế. hội nhập kinh tế quốc tế
là giai đoạn phát triển cao của hợp tác kinh tế quốc tế và phân công lao động quốc tế.

Hội nhập quốc tế, trước hết và chủ yếu trên bình diện kinh tế, là một nội dung quan trọng trong đường
lối đối ngoại vủa Đảng và Nhà nước ta hướng tới việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
đáp ứng yêu cầu của sựu nghiệp cách mạng nước nhà.Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới đến nay, hội
nhập quốc tế ngày càng trở nên cấp bách đối với nước ta nhằm vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh
tế, đẩy lùi cuộc bao vây , cấm vận thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ nghiên cứu sự thay đổi trong chính sách của Đảng và Nhà nước ta
trong vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện thông qua các văn kiện Đại hội VIII, IX, X nhằm thực
hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.

E m xin chân thành cảm ơn cô ....... đã giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này!

Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2018

I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1. Khái niệm về hội nhập quốc tế


Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc
tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân
mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà
các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội.Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp
tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.

2. Những nhân tố thúc đẩy hình thành và phát triển việc hội nhập quốc tế
- Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và kinh tế thị trường đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng
thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc tế nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế.

- Quá trình xã hội hóa và phân công lao động ở mức cao đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia và
được quốc tế hóa ngày càng sâu sắc thể hiện ở việc hợp tác ngày càng sâu sắc giữa các quốc gia theo
hình thức song phương, tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu.

- Hội nhập quốc tế đang trở thành xu thế chủ đạo trong sự phát triển của thế giới ngay nay. Hội nhập
quốc tế đã, đang và sẽ chi phối, quyết định toàn bộ các quan hệ quốc tế và làm thay đổi cấu trúc toàn
cầu, dù cho thế giới vẫn còn tồn tại những bất đồng và chia rẽ.

II. Quá trình hình thành, cơ hội và thách thức phát triển đường lối đối ngoại
thời kỳ đổi mới của Đảng trong hội nhập quốc tế

1. Quá trình hình thành, phát triển chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng
Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta
cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.

- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 61996) của
Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ với tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".

- Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và một tâm thế chủ động hơn bằng tuyên bố
"Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển".

- Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, trong đó đề cập nhiều nội dung hết sức quan trọng về đối ngoại, đặc biệt là ba vấn đề: về các
mâu thuẫn của thế giới hiện nay; về lợi ích của Việt Nam; về đối tượng, đối tác. Hội nghị Trung ương 8,
khóa IX đã khẳng định một lần nữa: "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách
mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia", "kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã
hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc". Hội nghị cũng đã
nhấn mạnh cách nhìn biện chứng về đối tượng, đối tác: "trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần
tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta", làm cơ sở
mở rộng và phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh với các chủ thể quan hệ quốc tế.

- Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"

2. Cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế

2.1. Những cơ hội trong hội nhập quốc tế


a. Hội nhập quốc tế thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực kinh tế

b. Hội nhập quốc tế thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

c. Hội nhập quốc tế có tác động tích cực đến lao động, việc làm và các vấn đề xã hội

d. Hội nhập quốc tế thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ

e. Hội nhập quốc tế góp phần bảo vệ môi trường sinh thái

f. Hội nhập quốc tế góp phần mở rộng giao lưu văn hoá Việt Nam với thế giới

2.2. Những thách thức trong hội nhập quốc tế


a. Những thách thức trong lĩnh vực kinh tế

b. Những thách thức trong lĩnh vực khoa học, công nghệ

c. Những thách thức trong lĩnh vực môi trường

d. Tác động của hội nhập quốc tế đến lĩnh vực tư tưởng, văn hoá

III. Đường lối của đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề đối ngoại
Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam diễn ra cùng một

lúc trên 4 mặt


Một là, tạo dựng và củng cố môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Việc củng cố và thúc đẩy các mối quan hệ song phương, nhất là quan hệ với các nước láng giềng và
các nước trong khu vực có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.
Nhận thức rõ điều đó, hoạt động đối ngoại đã tập trung giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường
hóa quan hệ với Trung Quốc. Đồng thời triển khai mạnh mẽ các hoạt động ngoại giao song phương cấp
cao với các nước ASEAN, chủ động tham gia các hoạt động của Hiệp hội và năm 1995, Việt Nam chính
thức tham gia ASEAN. Hoạt động đối ngoại cũng đã góp phần kiên quyết đấu tranh chống âm mưu và
hành động lợi dụng chiêu bài "nhân quyền", "dân chủ" và "tự do tín ngưỡng" để can thiệp vào công việc
nội bộ Việt Nam. Toàn bộ các hoạt động đã góp phần quan trọng và thiết thực vào việc tạo dựng môi
trường khu vực tương đối ổn định và thuận lợi cho đất nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.

Hai là, ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi góp phần vào công cuộc phát triển đất nước,
mở rộng hợp tác kinh tế. Đây là một nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao Việt Nam thời kỳ đổi mới. Nhờ
những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam đã làm thất bại chính sách bao vây cấm vận của Mỹ và đồng minh,
mở rộng và đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại song phương với hơn 130
nước và lãnh thổ, đón nhận nguồn đầu tư trên 36 tỷ USD của hơn 60 nước và lãnh thổ, tranh thủ hơn 13
tỷ USD từ nguồn viện trợ ưu đãi chính thức của các chính phủ và các tổ chức quốc tế và hàng tỷ USD viện
trợ không hoàn lại của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế thuộc hệ thống Liên hợp quốc và các tổ
chức phi chính phủ. Việc tạo dựng môi trường quốc tế hòa bình, tăng cường hợp tác, mở rộng thị
trường, tranh thủ vốn, công nghệ phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước cũng là sự đóng góp trực
tiếp và thiết thực cho yêu cầu bảo đảm an ninh. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, lực lượng sản xuất phát triển nhanh và quốc tế hóa cao độ, đẩy nhanh xu thế toàn cầu hóa. Trong
bối cảnh đó, các nước đều tìm cách giành cho mình một vị thế xứng đáng trong phân công lao động quốc
tế, tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý để phát triển, đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình. Nhận
rõ xu thế đó, Việt Nam đã đề ra chủ trương hội nhập và kiên trì thực hiện chủ trương đó. Đại hội lần thứ
VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới".

Ba là, nâng cao vị thế nước nhà trên trường quốc tế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa
dạng hóa, đa phương hóa, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước thuộc tất cả các
châu lục và lần đầu tiên trong lịch sử có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn, các ủy viên thường
trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Có thể nói ngoại giao đa phương là một điểm sáng trong hoạt
động ngoại giao thời đổi mới.

Bốn là, chủ động tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các hoạt động đối ngoại phong phú, đa dạng cả theo đường Đảng lẫn Nhà
nước và các hoạt động quốc tế nhân dân đã góp phần duy trì và củng cố quan hệ đoàn kết hữu nghị với
các đảng phái chính trị, trước hết là các Đảng cộng sản và công nhân, các tổ chức tiến bộ đấu tranh cho
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, từ đó tranh thủ sự hỗ trợ về chính trị có lợi cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu:

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với

chiến lược phát triển đất nước

IV. Kết quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại của nước ta sau gần 20
năm thực hiện đường lối của Đảng

1. Thành tựu
Các hoạt động đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính
trị - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, đưa đất nước vượt qua những thách thức và đi vào giai đoạn
phát triển mới; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Từ chỗ bị bao vây, cấm
vận về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay nước ta đã phát triển quan hệ đa phương, đa dạng với các
chủ thể quan hệ quốc tế. Trong hai thập kỷ qua, thông qua đàm phán hòa bình, ta đã giải quyết được
một số vấn đề do lịch sử để lại về biên giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn trên biển với các nước liên quan,
phấn đấu xây dựng đường biên giới trên đất liền và trên biển thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị,
ổn định, hợp tác cùng phát triển. Việt Nam đã tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các
đảng cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả, các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới; góp
phần tích cực vào sự hồi phục của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vào việc củng cố phong
trào. Không liên kết, vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội. Đường lối chính trị của Đảng ta và những thành
tựu đổi mới của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đồng thời, các hoạt động đối ngoại của
Đảng, của các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta đã góp phần làm cho dư luận thế giới hiểu đúng về Việt
Nam, đồng tình và ủng hộ công cuộc đổi mới, tăng cường hậu thuẫn chính trị quốc tế cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới đang toàn cầu hóa. Với sự ổn định về chính trị xã hội, truyền thống văn hóa, sự phát triển
kinh tế năng động và chính sách đối ngoại rộng mở, môi trường đầu tư thông thoáng, Việt Nam ngày
càng trở thành một điểm đến an toàn và hấp dẫn cho hợp tác và đầu tư quốc tế. Việt Nam đã được các
nước ủng hộ đăng cai tổ chức và đã tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng các nước có sử
dụng tiếng Pháp năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển
Việt Nam và châu Phi năm 2003, Hội nghị cấp cao ASEM-5 năm 2004... Qua các hội nghị cấp cao này, Việt
Nam đã để lại dấu ấn của mình trong đời sống chính trị quốc tế đương đại. Thực tiễn hoạt động đối
ngoại của ta trong 20 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển của Đảng ta là đúng đắn. Chúng ta kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đó.Theo tinh thần
của Nghị quyết Đại hội X của Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian tới bám sát những định hướng lớn
như sau:- Tiếp tục mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại của ta đi vào chiều sâu, ngày càng ổn
định và bền vững. Đặc biệt coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các nước láng
giềng có chung biên giới, các nước Đông - Nam Á và Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN). Thúc
đẩy quan hệ hợp tác ổn định lâu dài với các nước lớn, các trung tâm kinh tế, chính trị của thế giới. Mở
rộng và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân
tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, các nước trong phong trào
Không liên kết... Tích cực hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực. Không ngừng phát triển quan hệ
với các đảng cộng sản và các đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng có
chung biên giới. Tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, đảng cánh tả, phong trào cách mạng và tiến
bộ có nhiều ảnh hưởng ở các khu vực trên thế giới. Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng
tham chính ở các nước trong khu vực và các nước có quan hệ đối tác quan trọng với nước ta. Tăng
cường quan hệ với các chính đảng khác có quan hệ với Đảng ta và hữunghị với Việt Nam. Tích cực hoạt
động tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng mà các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta là thành
viên. Chủ động tham gia tích cực các phong trào, diễn đàn quốc tế của nhân dân thế giới chống chiến
tranh và chạy đua vũ trang, chống các mặt trái của toàn cầu hóa, chống chủ nghĩa bá quyền và chính trị
cường quyền, vì hòa bình, công lý, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã
hội. Mở rộng quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước, các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc
tế...- Tiếp tục thúc đẩy giải quyết bằng thương lượng hòa bình những vấn đề còn tồn tại về biên giới,
lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan; phấn đấu xây dựng đường biên giới trên đất liền và trên biển
với các nước láng giềng thành đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển.

2. Hạn chế
Bên cạnh những thành công đã đạt được thì quá trình thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế cũng bộc lộ những hạn chế: Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn,
chúng ta còn lúng túng bị động. Chưa xây dựng quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước.
Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh; không đồng bộ gây khó khăn cho việc
thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và
dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết. Doanh nghiệp
nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lý và công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp,
trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các nghành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh
đều kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực. Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại
nhìn chung chưa đáp ứng được cả nhu cầu cả về số lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về luật pháp
quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh; công tác tổ chức chỉ đạo chưa sát và chưa kịp thời.

V. Sự thay đổi về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế qua các văn kiện
1. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
* Cơ sở đế xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo.

Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ ra cơ hội và thách thức của việc mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo hoạt động
đối ngoại.

* Cơ hội và thách thức

+ Về cơ hội: Xu thế hòa bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu hóa kinh tế tạo điều kiện thuận lợi
cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện mới cho quan hệ đối ngoại và
hội nhấp kinh tế quốc tế.

+ Về thách thức: Những vấn đề toàn cầu như phân hoá giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia
gây tác động bất lợi đối với chúng ta trong qúa trình hội nhập. Nền kinh tế Việt Nam chịu sức ép cạnh
tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị trường
quốc tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm
chí khủng hoảng kinh tế- tài chính. Ngoài ra lợi dụng toàn cầu hoá, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài
"dân chủ", "nhân quyền" chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta.

Những cơ hội và thách thức trên có tác động qua lại, có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội không tự phát
huy tác đụng mà tuỳ thuộc vào khả năng vận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để
vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại nếu không nắm bắt được cơ hội, bỏ qua cơ hội
thách thức sẽ tăng lên lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. ...

* Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại

Lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới
để phát triển kinh tế, xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh
tế quốc tế để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn
lực bên ngoài tạo thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò và nâng cao vị thế của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc. dân chủ và tiến bộ xã hội.

* Tư tưởng chỉ đạo

Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt sâu sắc các quan điểm sau:

(1)- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc

XHCN, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam.
(2)- Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan

hệ đối ngoại.

(3)- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, cố gắng thúc đẩy mặt hợp

tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối tác, tránh trực

diện đối đầu, tránh bị đẩy vào thế cô lập.

(4)- Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ

chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp tác với khu vực, chủ động tham gia các tổ chức

đa phương, khu vực, toàn cầu.

(5)- Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác định hội nhập

kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.

(6)- Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ môi

trường sinh thái trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

(7)- Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài;

xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh của đất

nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

(8)- Trên cơ sở các cam kết gia nhập tổ chức WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế,

chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước.

(9)- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức
mạnh của khối đoàn kết toàn dân trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế
Trong các văn kiện của đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khoá X (2- 2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn như:

- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiệt lập đi vào chiều sâu, ổn định bền vững: Hội nhập sâu sắc và đầy
đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ củng cố địa vị bình đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào
việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập trật tự kinh tế mới công bằng hơn; có điều
kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi các doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp
thương mại với các nước khác, hạn chế những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.

- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ động và tích cực xác định lộ
trình hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng các ưu điểm WTO dành cho các nước đang phát triển và
kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng phải hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường theo
một lộ trình hợp lý.

- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, qui định của
WTO: Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phát triển kinh
tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây
dựng sắc thuế công bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể doanh nghiệp.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước: Kiên quyết loại bỏ
nhanh các thủ tục hành chính không còn phù hợp; đẩy mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm
kiểm tra, giám sát, thực hiện công khai, minh bạch trong mọi chính sách, cơ chế quản lý.

- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế:
Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu tư nước ngoài để nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp điều chỉnh qui mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định
đúng đắn chiến lược sản phẩm và thị trường; điều chỉnh qui hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp
nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm.

- Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập: Bảo vệ và phát huy
các giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập; xây dựng cơ chế giám sát và chế tài xử lý sự xâm
nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hoá không lành mạnh, gây phương hại đến sự phát triển đất
nước, văn hoá và con người Việt Nam; kết hợp hài hoà giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền
thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hoá tiên tiến trong quá trình giao lưu với nền văn hoá bên
ngoài.

- Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm y tế; đẩy mạnh
công tác xoá đói, giảm nghèo; có biện pháp cấm, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có hại cho môi
trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong qúa trình hội nhập: Xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án chống lại âm mưu "diễn biến hoà bình" của các
thế lực thù địch.

- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị
đối ngoại và kinh tế đối ngoại: Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại
giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt
động đối ngoại song phương, đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ
thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, công bằng, cùng có lợi.

- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng cơ sở đảng trong các doanh nghiệp và xây dựng
giai cấp công nhân trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, vì nhân dân, do nhân dân trong cải cách hành chính.

VI. Nguyên nhân dẫn đến những thay đổi


Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thay đổi trong chính sách đối ngoại các văn kiện đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X là do hoàn cảnh lịch sử, tình hình trong nước và tình hình thế
giới.

1.Tình hình thế giới thời kì đổi mới


Từ giữa thập kỷ 80, cuộc cách mạng khoa hộc công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục phát
triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia dân tộc. Các nước xã hội chủ
nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến đầu thập kỷ 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn
đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai trên cơ sở hai khối độc lập do Liên Xô và Hoa kỳ đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã,
mở ra hình thành một trật tự thế giới mới. Trong thời kỳ này, những cuộc chiến tranh cục bộ xung đột,
tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế của thế giới là hòa bình hợp tác và phát triển. Trước diễn biến mới của
tình hình thế giới, các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến
lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với nhu cầu nhiệm vụ bên trong và xu
hướng phát triển của thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước
đang phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật,
công nghê, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Các nước
cũng đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa
vào sức mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế và khoa học công nghệ
được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu. Xu thế toàn cầu hóa phát triển khá mạnh mẽ trong thời kỳ này.
Thực tế cho thấy rằng, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triển thì phải tích
cực, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn
trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua.

2. Tình hình trong nước


Sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam từ nữa cuối thập kỷ 70 tạo nên tình
trạng căng thẳng, mất ổn định trong khu vực và gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển của các mạng
Việt Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng ở
nước ta. Vì vậy, vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới bình
thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây
dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta. Ở trong nước, do hậu quả nặng nề của
chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan khác, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm
trọng, Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong
những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay
gắt để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các
nguồn lực trong nước; còn phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó hợp tác kinh tế với các nước
và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ:
“Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia chi phối, chứa
đựng nhiều mâu thẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.”

Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó lường. Toàn cầu hoá tiếp tục
phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích
cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi
bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố
vẫn xẩy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp.

Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều thách thức. Sau gần hai thập
kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi
thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc
tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so
sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn
nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng
và tệ quan liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức
tạp, đan xen và tác động lẫn nhau. Việc tạo dựng môi trường quốc tế hòa bình, tăng cường hợp tác, mở
rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước cũng là sự đóng góp
trực tiếp và thiết thực cho yêu cầu bảo đảm an ninh. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ, lực lượng sản xuất phát triển nhanh và quốc tế hóa cao độ, đẩy nhanh xu thế toàn cầu hóa. Trong
bối cảnh đó, các nước đều tìm cách giành cho mình một vị thế xứng đáng trong phân công lao động quốc
tế, tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý để phát triển, đấu tranh để bảo vệ lợi ích của mình.

Vì thế, nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc
Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương
châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Có thể nói ra đời do yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới của
xu thế QHQT thời đại mới, chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá là đúng đắn kịp thời đáp
ứng yêu cầu của Việt Nam, phù hợp với xu thế thế giới. Và thực sự, chính sách đối ngoại đổi mới qua các
văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX, X đã đem lại những thành tựu mới đưa đất nước vững bước trên con
đường phát triển. những thành tựu đạt được từ chính sách đối ngoại đổi mới đã khẳng định rõ vị trí vai
trò lãnh đạo của Đảng là nhạy bén sâu sắc, kinh nghiệm và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng rất vững vàng. Với
những kinh nghiệm thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới những năm qua, chúng ta có thể hoàn toàn
tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà
nước chắc chắn có những đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của Việt Nam, vào sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựngmột đất nước Việt Nam dân giầu nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh, đưa đất nước vững bước vào thế kỷ XXI.

VII. Những vấn đề đất nước ta gặp phải trong quá trình hội nhập quốc tế

1. Hội nhập quốc tế và vấn đề ổn định chính trị - xã hội, kinh tế


Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những thách thức, đó là: nguy cơ thất nghiệp và tình
trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng có thể dẫn đến những bất ổn về chính trị - xã hội; những nguy
cơ đối với độc lập, chủ quyền, sự lựa chọn định hướng chính trị... Đòi hỏi chúng ta phải “chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” nhằm giảm thiểu các tác
động tiêu cực từ quá trình hội nhập. Cụ thể là: tiếp tục hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng,
thúc đẩy chuyển dịch và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh; đón đầu các
thành tựu khoa học - công nghệ và quản lý tiên tiến của thế giới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...

Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, trong đó “chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” là định hướng cơ bản, lâu
dài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng vào mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới, thực hiện hiệu quả chủ trương này, vấn đề ổn định chính trị là hết sức quan trọng.Công
cuộc đổi mới đã thu được nhiều kết quả, kinh tế - xã hội đất nước đã và đang chuyển mình mạnh mẽ tạo
nên sức mạnh nội lực cho đất nước, đói nghèo lạc hậu đang dần dần được đẩy lùi, đời sống nhân dân
được từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém vẫn còn, nhất là sự phát triển chậm
của nền kinh tế. Nhận rõ những hạn chế, yếu kém tồn tại, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách cụ thể, đề ra những giải pháp sửa chữa, khắc phục, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp
thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Làm thế nào để hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, tạo đà
phát triển mà vẫn giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ
vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đặt ra cho toàn
Đảng, toàn dân ta hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII số 06-NQ/TW ngày 5-11-2016 về
“thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối
cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, chỉ rõ ổn định chính trị gắn với phát
triển kinh tế là nền tảng cho sự phát triển bền vững đất nước.Ổn định chính trị là độ bền vững và tính
toàn vẹn của một chế độ chính quyền hiện hành dưới sự lãnh đạo của đảng chính trị. Điều này được xác
định dựa trên sự phục tùng quyền lực một cách tự nguyện tự giác hay sự chống đối, hiện tượng bạo lực
diễn ra trong cả nước thực hiện bởi các công dân liên quan đến nhà nước. Một xã hội có nền chính trị ổn
định là một xã hội trong đó người dân hài lòng với đảng cầm quyền và hệ thống chính trị, tự nguyện thực
hiện các quyền và nghĩa vụ công dân một cách chủ động và mang tính tích cực xã hội cao. Sự ổn định
chính trị là một trong những yếu tố không thể thiếu, góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách
phát triển kinh tế. Nền chính trị ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hòa bình và thịnh vượng.
Nếu nhìn sang một số quốc gia khác trong khu vực, dễ thấy rằng, trừ Singapore, thì từ năm 1990 trở lại
đây, hầu hết các nước đều trải qua các cuộc đảo chính hay khủng hoảng chính trị. Trong khi đó, nền
chính trị của Việt Nam luôn ổn định, đây là một bảo đảm cho sự gắn kết để thực hiện chính sách kinh tế
nhất quán. Thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam cũng là dựa trên sự ổn định chính trị.Về mặt
chính trị, sự kiện quan trọng có tính chất đột phá trong lãnh đạo công cuộc đổi mới chính là sự ra đời
của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). Đảng ta xác định xây
dựng CNXH ở Việt Nam là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường với yếu tố quan trọng, điều kiện
tiên quyết là phải giữ vững được ổn định chính trị.Sự ổn định chính trị - xã hội vừa là tiền đề, vừa là kết
quả của những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế của Việt Nam và là điều kiện thuận lợi cho phát
triển quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương
lớn của Đảng ta, là nội dung trọng tâm của hội nhập quốc tế và là một bộ phận quan trọng, xuyên suốt
của công cuộc đổi mới. Trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, các chủ trương cơ bản về hội nhập kinh tế
quốc tế được nêu tại các kỳ Đại hội Đảng với quyết tâm đẩy mạnh hội nhập kinh tế để tăng trưởng và
phát triển.

Quán triệt chủ trương của Đại hội XIIvề đẩy mạnh hội nhập quốc tế và Nghị quyết số 06-NQ/TWvề thực
hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh
nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là một nội dung trọng tâm trong các kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội, với mục tiêu thúc đẩy và tăng cường hiệu quả hội nhập quốc tế, góp
phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc
đẩy chuyển dịch và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh; tích cực tham gia
sâu và rộng vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Trong phát triển kinh tế và thương mại, cần chú trọng
việc đổi mới công nghệ và bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ nước ta trên thị
trường quốc tế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng,
trong đó “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ”
là chủ trương định hướng cơ bản, lâu dài cho những năm tiếp theo trong quá trình hội nhập quốc tế,
góp phần quan trọng vào mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế
trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị - xã hội là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong
chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Thực hiện
chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, đất nước đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
khu vực và thế giới. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan
trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc
tế, tạo nền móng cho việc xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta.
2. Hội nhập quốc tế và vấn đề giữ vững văn hóa dân tộc, giữ gìn bản sắn văn hóa
dân tộc, giữ vững trận địa tư tưởng - văn hóa

2.1. Văn hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa

Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để phục vụ cho nhu cầu
tồn tại và phát triển của mình. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy. Khái
niệm bản sắc được hiểu là toàn bộ những đặc điểm mà qua đó một người hay một cộng đồng người có
thể được nhận ra hoặc được biết một cách xác định khác với những người khác hay cộng đồng khác.

2.2. Tác động của hội nhập quốc tế đến văn hóa Việt Nam

Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế vừa là thời cơ, đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều khi
hoàn toàn mới mẻ, đối với vấn đề giữ gìn, bảo vệ, phát huy và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống
của mỗi quốc gia dân tộc. Sự tác động này là rất phức tạp, một mặt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho các
dân tộc hình thành và phát triển những giá trị văn hoá mới. Góp phần nâng cao trình độ tư duy khoa học
của xã hội công nghiệp, thể hiện ở việc phổ biến các giá trị văn hóa công nghệ, văn hóa thông tin cùng
các hoạt động và loại hình văn hóa mới phục vụ cho việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân và
qua đó, góp phần làm giàu thêm, phong phú thêm các giá trị văn hoá Việt Nam truyền thống. Mặt khác,
nó chứa đựng nguy cơ phá vỡ hoặc làm băng hoại những giá trị văn hoá truyền thống đã được tích tụ và
tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc.

2.3. Bảo vệ và phát triển văn hóa dân tộc, giữ vững trận địa tư tưởng trong quá trình hội
nhập quốc tế

a. Bảo vệ, phát huy những giá trị văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế

- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về văn hoá .

- Giữ vững và không ngừng phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Phát triển hài hoà giữa kinh tế và văn hoá.

- Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn hoá.

- Giới thiệu, quảng bá những nét văn hoá độc đáo của địa phương; đồng thời chủ động mở rộng hợp tác
với các địa phương trên thế giới.

b. Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng trong quá trình hội nhập quốc tế
- Nhận thức sâu sắc bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

- Kiên định, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

- Giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa

c. Thực hiện mục tiêu giữ vững ổn định chính trị, đấu tranh có hiệu quả chống âm mưu "diễn
biến hoà bình" trong quá trình hội nhập quốc tế

- Giữ vững ổn định chính trị - xã hội

- Đấu tranh chống quan điểm sai trái, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

- Những vấn đề cần quan tâm trong đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hoà bình" trong quá trình hội
nhập quốc tế

3. Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình hội nhập quốc tế
Trong những năm qua, thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế về môi trường, Bộ Tài Nguyên và Môi
trường đã triển khai hiệu quả các điều ước song phương, đa phương và kế hoạch hành động đã ký kết
với các quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức trong lĩnh vực này. Qua đó có điều kiện trao đổi kinh nghiệm,
vận động tài trợ cho việc triển khai các nhiệm vụ của ngành, nhất là trong điều kiện ngân sách nhà nước
còn khó khăn.

Hợp tác quốc tế về môi trường là một trong những nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
(BVMT) được đề cập trong các Luật BVMT, và là giải pháp quan trọng trong các chiến lược, kế hoạch
hành động quốc gia về môi trường. Trong hơn 20 năm qua, hợp tác quốc tế về môi trường đã hình thành
và phát triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực cho thành công chung của các hoạt động BVMT ở nước ta.
Mỗi giai đoạn phát triển, hợp tác quốc tế về môi trường có những phạm vi, đặc thù và hình thức khác
nhau. Cụ thể là, trong những năm 90 thế kỷ trước, hợp tác quốc tế về môi trường chủ yếu được thực
hiện qua các dự án hợp tác song phương với Thụy Điển, Ca-na-đa, với nội dung tập trung vào nâng cao
năng lực xây dựng thể chế và hình thức là tiếp nhận viện trợ.

Đến nay, hợp tác đã được mở rộng thông qua nhiều đối tác song phương như: Đan Mạch, Nhật Bản,
Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Trung Quốc… cũng như các tổ chức quốc tế đa phương (Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc, Quỹ Môi trường toàn cầu, Ngân hàng Thế
giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, ASEAN). Nội dung hợp tác đã đi vào chiều sâu, bao gồm hầu hết các
lĩnh vực quản lý môi trường như đánh giá tác động môi trường, kiểm soát ô nhiễm, xử lý ô nhiễm hóa
chất tồn lưu, bảo tồn đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu… Hình thức hợp tác được chuyển đổi từ tiếp
nhận viện trợ, sang quan hệ đối tác cùng hợp tác giải quyết vấn đề…

Trong giai đoạn tới, hợp tác quốc tế về môi trường có những bối cảnh mới, với những thuận lợi, khó
khăn, đòi hỏi phải có định hướng và giải pháp phù hợp với Việt Nam; qua đó tiếp tục hội nhập sâu rộng
hơn và từng bước khẳng định vị thế của nước ta trên trường quốc tế trong lĩnh vực môi trường. Về
thuận lợi, trong tiến trình hội nhập quốc tế nói chung và hợp tác quốc tế về môi trường nói riêng luôn
được coi là một nội dung, giải pháp quan trọng được thể hiện trong các chủ trương, đường lối của Đảng,
Nhà nước và các văn bản luật, dưới luật trong lĩnh vực này. Điển hình như: Luật Bảo vệ môi trường (năm
2014) có ba điều thuộc Chương 17, quy định nội dung hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường. Trong
Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 2011 - 2020, cũng nêu rõ “Thúc đẩy hội nhập và tăng
cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường”...

Ngoài ra, Việt Nam có nhiều vấn đề môi trường có tính toàn cầu và khu vực, vì vậy đã nhận được sự hỗ
trợ của quốc tế để triển khai nghiên cứu, đề ra các giải pháp trước tình trạng đa dạng sinh học tiếp tục
suy giảm, biến đổi khí hậu đang ngày càng gia tăng; ô nhiễm hóa chất, chất thải tiếp tục đe dọa hệ sinh
thái và sức khỏe con người… Các vấn đề môi trường này đều là vấn đề nóng ở Việt Nam, là những chủ đề
trọng tâm cho các dự án nghiên cứu điển hình cho thế giới. Việt Nam cũng đã có kinh nghiệm và năng
lực cơ bản cần thiết để thực hiện các dự án hợp tác quốc tế…

Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, hiện Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức. Nếu như giai đoạn trước đây, vai trò của Việt Nam chủ yếu là nước nhận tài trợ và hỗ trợ, thì trong
giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam cần phát huy vị thế mới của một đối tác tích cực tham gia các hoạt động
hợp tác quốc tế. Thí dụ như trong lĩnh vực hóa chất và chất thải, ngoài các nội dung nâng cao năng lực
quản lý, rà soát thể chế và chính sách, các yêu cầu của Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) đối với các đề xuất
dự án đòi hỏi những kết quả cụ thể trong việc loại bỏ các hóa chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy và chất
thải điện tử. Nhận thức về hợp tác quốc tế về môi trường có lúc có nơi còn chưa thật sự đầy đủ, còn tồn
tại quan điểm cho rằng hướng hợp tác quốc tế đơn thuần là tìm kiếm nguồn tài trợ và chỉ tham gia hợp
tác khi nguồn tài trợ rõ ràng, cụ thể. Tư duy này, phần nào cản trở phát triển tính chủ động, tính chiến
lược trong một số hoạt động hợp tác quốc tế thời gian qua…

Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về môi trường trong thời gian tới, chúng ta thay đổi
tư duy về hợp tác quốc tế, chuyển từ quan niệm thụ động tiếp nhận viện trợ sang chủ động hội nhập,
sẵn sàng cùng tham gia, chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi. Tăng cường đầu tư tài lực và nhân lực cho hợp
tác quốc tế về môi trường; bố trí kinh phí để thực hiện các sáng kiến, các sự kiện do Việt Nam chủ trì,
tiến tới cử đại diện Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế về môi trường. Xây dựng chiến lược hợp tác
quốc tế của ngành; xác định các định hướng hợp tác chiến lược, tập trung vào những vấn đề vừa giải
quyết nhu cầu trong nước vừa đóng góp giải quyết các vấn đề môi trường toàn cầu và khu vực, nhất là
chú trọng những vấn đề mới mà Việt Nam có lợi thế hiện nay…
VIII. KẾT LUẬN
Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó lường. Toàn cầu hoá tiếp tục
phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích
cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và
lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Các văn kiện ĐH VIII, IX, X bao gồm những đường lối đối ngoại
đúng đắn, hợp tình, hợp lý; là những thành tựu quan trọng đã đạt được trong hơn 55 năm xây dựng,
phát triển và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong hơn 15 năm thực hiện đổi mới. Ngày nay,
Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước, với tất cả các nước lớn, có quan hệ thương mại với
trên 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên tích cực của nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế và khu
vực; 70 nước và vùng lãnh thổ đã thiết lập các mối quan hệ hợp tác đầu tư với Việt Nam. Vị thế quốc tế
của đất nước ngày càng được tăng cường và nâng cao. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại trong
giai đoạn tới, cần xây dựng và thực hiện sự thống nhất quản lý đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Thống
nhất quan lý đối ngoại sẽ phát huy được tác dụng của khối đoàn kết nói trên, cộng hưởng được sức
mạnh của tất cả các bộ, ban, ngành và địa phương, tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động đối ngoại.
Có như vậy, việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam mới ngày càng phát triển và đạt được nhiều
thành tựu.

You might also like