Professional Documents
Culture Documents
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn
độc chống lại GCTS thì sẽ bị thất bại. Nhưng nếu giai cấp công nhân liên minh được với đại đa số NDLĐ
mà chủ yếu là giai cấp nông dân và giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách mạng nhất định thắng lợi.
Sở dĩ như vậy là vì giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức có những vị trí và vai trò
quan trọng trong xã hội.
Trong cách mạng XHCN, liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đô ̣i ngũ trí thức là mô ̣t tất yếu
khách quan:
Trước hết, xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cuô ̣c cách mạng XHCN. Đây là cuô ̣c cách mạng cuối
cùng trong lịch sử với nội dung rô ̣ng lớn, toàn diê ̣n trên tất cả tất cả các mă ̣t, các lĩnh vực của đời sống xã
hô ̣i nhằm lâ ̣t đổ CNTB, xây dựng thành công CNXH, CNCS với tích chất gây go, quyết liê ̣t, lâu dài gian
khổ. Để thực hiện được nội dung, mục đích của cuô ̣c cách mạng XHCN,
phải có mô ̣t lực lượng đông đảo dưới sự lãnh đạo của GCCN nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện
thắng lợi cuô ̣c cách mạng XHCN. Do đó, cần phải liên minh 3 lực lượng đông đảo trong xã hô ̣i, đó là liên
minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đô ̣i ngũ trí thức.
Hai là, là từ vai trò, vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đô ̣i ngũ trí thức trong cách mạng
XHCN.
Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng XHCN, với SMLS thủ tiêu CNTB, xây dựng thành
công XHCN, XHCS trong phạm vi mỗi nước, mỗi dân tộc và trên toàn thế giới. Trong cuô ̣c đấu tranh đó
GCCN phải có lực lượng, phải thực hiện liên minh giai cấp để tạo thành sức mạnh to lớn nhằm xóa bỏ
CNTB, xây dựng thành công CNXH. Muốn thực hiện thắng lợi SMLS của mình GCCN phải tiến hành liên
minh chă ̣t chẻ với nông dân và trí thức.
Giai cấp nông dân Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin là lực lượng xã hô ̣i đông đảo, có vai trò
quan trọng trong sản xuất và xây dựng chính quyền. Trong xã hô ̣i cũ nông dân bị bóc lô ̣t nă ̣ng nề, có
nguyê ̣n vọng được giải phóng. Song, do địa vị kinh tế-xã hô ̣i của mình không cho phép nông dân có khả
năng tự giải phóng mình và giải phóng xã hô ̣i. Chỉ có thể thoát khỏi áp bức bóc lô ̣t và phát huy vai trò khi
giai cấp nông dân liên minh chă ̣t chẻ với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN.
Trí thức là tầng lớp xã hô ̣i có vai trò quan trọng ngày càng tăng trong cách mạng XHCN. Trí thức tham
gia tích cực vào quá trình xây dựng CNXH, đổi mới đất nước, đi đầu trong lĩnh vực phát triển khoa học,
công nghê ̣ và văn hóa tinh thần. Song, trong xã hô ̣i cũ, trí thức cũng bị bóc lô ̣t và không có khả năng tự
giải phóng mình, muốn thoát khỏi áp bức bóc lô ̣t và phát huy cao nhất vai trò của mình, trí thức phải liên
minh với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN. Ngược lại, công-nông không được nâng cao kiến thức,
không dần được trí thức hóa, thì không thể xây dựng CNXH được.
Ba là, từ yêu cầu, đă ̣c điểm kinh tế, chính trị-xã hô ̣i của TKQD và của CNXH. Trong TKQĐ vẫn còn
tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp, các giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất, song cũng còn những lợi
ích riêng của mỗi giai tầng. Muốn giải quyết đúng đắn
mối quan hê ̣ giữa các lợi ích bảo đảm sự cân bằng và thống nhất về lợi ích kinh tế-chính trị-xã hô ̣i của mỗi
giai tầng trong xã hô ̣i, thì phải thực hiện liên minh giữa GCCN, giai cấp nông dân và đô ̣i ngũ trí thức. Mă ̣t
khác, do yêu cầu xây dựng những cơ sở vâ ̣t chất của CNXH, đòi hỏi phải xây dựng và củng cố phát triển
khối liên minh công-nông-trí thức, V.I.Lênin chỉ ra: “Nếu không có sự liên minh ấy thì không thể có dân
chủ bền vững, không thể có cải cách XHCN được”.
Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở châu Âu, nhất
là ở Anh, Pháp cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thành lý luận về liên minh công,
nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các
cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức được mối liên minh với "người bạn đồng minh tự
nhiên" của mình là giai cấp nông dân. Do vậy, trong các cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn
đơn độc và cuộc cách mạng vô sản này đã trở thành "bài ca ai điếu".
Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa đế quốc), V.I. Lênin đã vận dụng
và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công, nông và các tầng lớp lao động
khác trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917). Trong thời kỳ đầu của thời kỳ quá
độ, không chỉ có liên minh công, nông mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Ngay cả trong
chuyên chính vô sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định trong thời kỳ quá độ không chỉ liên minh giữa các
giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao động khác mà ngược lại, rất cần phải liên minh với họ để thực
hiện mục tiêu chung do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công nhân liên minh với
họ là điều tất yếu. Qua mối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, công
nhân được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc.
Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về mặt chính trị-xã
hội, là yếu tố tiên quyết.
Liên minh công - nông - trí thức là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhu
cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu phát triển của trí thức.
Tính tất yếu của liên minh công-nông-trí thức ở VN trong thời kỳ quá độ lên CNXH vẫn là sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo những luận điểm cơ bản của CN Mác-Lênin về liên minh công-nông và các tầng lớp
lao động khác và hoàn cảnh cụ thể của VN.
Và quan điểm, đường lối và chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS VN về liên minh công-
nông-trí thức là nhất quán từ khi Đảng ta mới thành lập, lãnh đạo cách mạng VN đến nay và luôn luôn
được thực hiện, kiểm nghiệm qua thực tiễn và phát triển phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất
nước và của thời đại.
Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu cầu khách
quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng CNXH, mà
còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hô ̣i của đất nước. Liên minh thể
hiện tính quy luật chung của cách mạng XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và
thường có nền kinh tế chậm phát triển.
Đại hội VII của Đảng ta cũng khẳng định: “CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện … nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, không
ngừng nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân”.
Cách mạng không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại. Không thể tiến hành CNH đất nước,
nếu không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hóa cao…
Như vâ ̣y, liên minh công-nông-trí thức là tất yếu khách quan, là quy luâ ̣t của quá trình cách mạng
XHCN. Liên minh công-nông-trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở chính trị-xã hội vững chắc cho
chế độ mới. Bởi vì, đó những lực lượng lao động sản xuất, là những lực lượng chính trị cơ bản và đông đảo
nhất để xây dựng và bảo vệ CNXH. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng XHCN
không thể thành công ở những nước nông nghiệp nếu ba lực lượng đó tách rời nhau, không được tổ chức
lại, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của GCCN thông qua ĐCS. Do đó liên minh công-nông-trí thức vừa là nòng
cốt, vừa là nền tảng của khối ĐĐK toàn dân tộc, của Nhà nước XHCN.
Nội dung cơ bản của liên minh công-nông-trí thức trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta là: Kết hợp đúng
đắn các lợi ích (về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hô ̣i) của GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và
của toàn xã hô ̣i.
Nội dung chính trị của liên minh: Mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản của liên minh thực chất là mang
lại lợi ích chính trị, quyền làm chủ x1t, là xây dựng mô ̣t Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCS với
đường lối chính trị, đường lối cách mạng nhất quán: Đô ̣c lâ ̣p dân tộc gắn liền với CNXH; mang lại lợi ích
cho GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức.
Nội dung kinh tế của liên minh: Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vâ ̣t chất kỹ thuâ ̣t của
liên minh trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta. Nội dung này của liên minh thực chất là mang lại lợi ích kinh
tế cho các đối tượng liên minh và toàn thể nhân dân lao đô ̣ng; là thời kỳ phát triển kinh tế nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tâ ̣p thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền KTQD. Thực hiện tiến bô ̣ và công bằng xã hô ̣i ngay từng
bước và từng chính sách phát triển. Nội dung kinh tế của liên minh trong TKQĐ được biểu hiê ̣n qua 3 mối
quan hê ̣ kinh tế cơ bản: Mối quan hê ̣ kinh tế giữa công nghiê ̣p và nông nghiệp; giữa Nhà nước với nông
dân; giữa Nhà nước với tầng lớp trí thức. Ba mối quan hê ̣ kinh tế này xuất hiê ̣n dựa trên các ýt của nền
KTTT định hướng XHCN.
Nô ̣i dung văn hóa, xã hô ̣i của liên minh: Văn hóa-xã hô ̣i là mục tiêu, là đô ̣ng lực của các nội dung
chính trị, kinh tế, suy cho cùng là nhằm phục vụ những nhu cầu, lợi ích vâ ̣t chất và tinh thần ngày càng cao
của công-nông-trí thức và của nhân dân. Vừa khuyến khích mọi giai tầng làm giầu chính đáng, vừa tích
cực xóa đói giảm nghèo, nhất là cho đại đa số dân cư là nông dân, miền núi … Nâng cao dân trí, văn hóa
cho nông dân, công nhân và nhân dân lao đô ̣ng, xóa mù chữ, phổ câ ̣p giáo dục phổ thông; chăm sóc sức
khỏe nhân dân, đă ̣c biê ̣t là công nhân và nông dân; chống các biểu hiê ̣n tiêu cực, tham nhũng, quan liêu và
tê ̣ nạn xã hô ̣i. Thực hiện tốt các chính sách xã hô ̣i, nhất là gia đình thương bênh binh, gia đình liê ̣t sỹ, già
cả neo đơn, khuyết tâ ̣t … Viê ̣c quy hoạch phát triển đô thị gắn liền với công nhân, khoa học và công nghê ̣
phải gắn liền với quy hoạch xây dựng nông thôn, miền núi, hải đảo
Để phát huy vai trò của khối liên minh công-nông-trí thức ở nước ta hiện nay, đó là giải quyết tốt
những chính sách đối với từng thành viên trong liên minh như Đại hô ̣i X của Đảng đã khẳng định, đó là:
Đối với GCCN, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt
chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với công nhân; chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân
bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ
quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở
các khu công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú.
Đối với giai cấp nông dân, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ tiên
tiến vào nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tốt chính sách về ruộng đất. Tạo điều kiện thuận lợi để giúp
nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyến khích nông dân hợp tác với các doanh nghiệp,
hợp tác xã, chủ trang trại để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất,
tiêu thụ nông sản hàng hoá. Hỗ trợ và khuyến khích nông dân học nghề, tiếp nhận và áp dụng thành tựu
khoa học, công nghệ.
Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân
tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ
xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản
biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội.
* CNXH khoa học là sự phản ánh bằng lý luận phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phát huy
vai trò lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Việc đề ra chiến lược, sách lược cách mạng;
việc thiết lập, phát huy vai trò hiệu lực Nhà nước; việc xây dựng, củng cố khối liên minh công nhân, nông
dân và trí thức; việc xây dựng và phát huy mối quan hệ các dân tộc trên phạm vi quốc gia và quốc
Đối với một Nhà nước XHCN, một nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực của Nhà nước đều
thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong là Đảng Cộng sản, đại diện cho quyền lợi của giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nó có vai trò, vị trí quan trọng đối với khối liên
minh trong cuộc cách mạng XHCN.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn
độc chống lại giai cấp tư sản thì sẽ bị thất bại. Nhưng nếu giai cấp công nhân liên minh được với đại đa số
nhân dân lao động mà chủ yếu là gc nông dân và giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách mạng nhất
định thắng lợi.
Về giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động SX vật chất trong lĩnh vực nông nghiệp, bao
gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Lênin đã phân tích một cách khoa học về giai cấp nông dân, đây là một
lực lượng đông đảo nhất, có tinh thần cách mạng quật khởi, đấu tranh bất khuất và có nhiều đóng góp vào
sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, nhưng nông dân vốn có PTSX phân tán, kỹ thuật lạc hậu,
năng suất lao động thấp kém, KT nông dân nông thôn chủ yếu là tự cung tự cấp. nông dân không dựa trên
tư hữu nhỏ để bóc lột các giai cấp và tầng lớp XH. Vì vậy khi liên minh với gccn, họ có mặt tích cực là dễ
gắn bó với gccn, nhưng trong đấu tranh họ muốn bảo vệ mảnh đất nhỏ bé của mình, không muốn xa rời, do
đó họ trở nên trì trệ, bảo thủ, không có tinh thần cách mạng triệt để.
Mặt khác, nông dân không có hệ tư tưởng độc lập. Tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị XH đương thời. Trong cách mạng XHCN, khi chưa được giác ngộ thì lập trường tư tưởng của
nông dân không kiên định, dễ dao động. Phải trải qua quá trình giác ngộ và đấu tranh cách mạng lâu dài,
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCS mới từng bước khắc phục được những mặt hạn chế của họ.
Nông dân vốn có cơ cấu không thuần nhất, với nhiều thành phần như: cố nông, bần nông, trung nông, phú
nông, họ không có sự cố kết cả về mặt KT lẫn tư tưởng và tổ chức. Giai cấp nông dân là LLSX và lực
lượng chính trị - XH đông đảo nhất trong những nước nông nghiệp. Nông dân gắn bó với cội nguồn dân
tộc, có ý thức dân tộc sâu sắc, có truyền thống yêu nước, có khả năng cách mạng to lớn. Tuy nhiên, do đặc
điểm những hạn chế của giai cấp mình mà giai cấp nông dân không thể tự giải phóng mình và giải phóng
XH một cách triệt để.
Tầng lớp trí thức: là một tầng lớp XH đặc biệt, gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, là
những người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực lao động trí tuệ của mình.
Phương thức lao động của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân. Sản phẩm lao động của họ là những tri thức
khoa học sáng tạo, những giá trị về tinh thần. Những sản phẩm trí tuệ ấy thường có tác dụng đặt cơ sở lý
thuật, định hướng cho nhận thức và hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của sự phát triển XH.
Các sản phẩm trí tuệ của trí thức có giá trị sáng tạo khoa học đều có tác động trực tiếp đến năng suất lao
động, chất lượng SX, tốc độ tăng trưởng và phát triển của XH trên cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Nhưng do phương thức lao động đặc thù của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân, cho nên trí thức không thể
đại biểu cho một PTSX tiên tiến mà trong đó LLSX mang tính XH hóa cao, mặc dù ngày nay khoa học và
công nghệ ngày càng trở thành LLSX trực tiếp của XH và vai trò của trí thức ngày càng quan trọng.
Trí thức xuất thân trong tất cả các giai tầng trong XH. Họ hoạt động trong tất cả các ngành SX, các lĩnh
vực đời sống XH. Lợi ích của trí thức gắn bó với những cơ sở, những giai cấp mà họ phục vụ. Họ không có
hệ tư tưởng độc lập, chủ yếu vì không có PTSX riêng và địa vị KT-XH độc lập, từ thời chiếm hữu nô lệ
cho đến nay vai trò và tư tưởng của họ đều phụ thuộc vào giai cấp thống trị XH.
Trong các chế độ tư hữu, đại đa số trí thức là những người lao động bị áp bức, bóc lột (tuy hình thức và
mức độ bị bóc lột không hà khắc và nặng nề như đối với giai cấp nông dân và công nhân bị áp bức bóc
lột). Vì vậy, trí thức gắn bó với nhân dân, với dân tộc, luôn đấu tranh cho một XH hòa bình, dân chủ, bình
đẳng và tiến bộ. Khi được sự lãnh đạo của gccn, trí thức có điều kiện thể hiện là một lực lượng cách mạng
quan trọng, với nhiều đóng góp to lớn. nhưng trí thức không thể tự giải phóng mình khỏi chế độ tư hữu, áp
bức, bóc lột; càng không thể trở thành lực lượng độc lập để lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân
và cách mạng XHCN.
Riêng đối với giai cấp công nhân, xét về nguồn gốc ra đời, là con đẻ của nền đại công nghiệp sinh ra và
phát triển theo đà phát triển của kỹ thuật và công nghệ và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi SX đại CN
đã thay thế về cơ bản nền SX thủ công.
Dưới chế độ TBCN, giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động làm thuê cho nhà tư bản, là giai
cấp hoàn toàn không có TLSX, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Vì vậy, trong SX họ là
giai cấp bị phụ thuộc và trong phân phối là giai cấp bị bóc lột giá trị thặng dư, do đó giai cấp công nhân đối
lập trực tiếp về lợi ích với gc tư sản.
Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định giai cấp công nhân chính là giai cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức quan trọng
là xóa bỏ chế độ bóc lột TBCN, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ XH TBCN lên XH XHCN và
CSCN.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã luận chứng một cách khoa học sâu sắc và đầy thuyết phục: Địa vị kinh
tế và xã hội của giai cấp công nhân đã quy định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp, đó là người làm
cuộc cách mạng XH đánh đổ CNTB, xóa bỏ hình thái XH dựa trên nền tảng chế độ tư hữu và xây dựng XH
mới lấy chế độ công hữu về TLSX làm nền tảng, không có người bóc lột người.
CNTB ra đời đã đánh dấu một bước tiến vĩ đại về phát triển LLSX. Sự ra đời của nền đại CN một mặt tạo
ra cơ sở vật chất, mặt khác sản sinh ra giai cấp công nhân. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của
LLSX trong CNTB sẽ làm cho nó mang tính chất XH hóa ngày càng cao, mâu thuẫn với mối QHSX
TBCN dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX, tạo ra mâu thuẫn cơ bản trong XH tư bản: mâu thuẫn
giữa QHSX lỗi thời - đại diện là gc tư sản với LLSX mới - đại diện là giai cấp công nhân.
Theo quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, sớm muộn gì giai cấp công
nhân - người đại diện cho LLSX mới sẽ lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh lật đổ gc tư sản - người đại
diện cho QHSX lỗi thời, thiết lập QHSX mới, mở đường cho LLSX tiếp tục phát triển.
Là giai cấp đại biểu cho LLSX tiên tiến, do vậy giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng sáng
tạo ra PTSX mới tiến bộ hơn. Đồng thời là một giai cấp đối lập trực tiếp với lới ích của gc tư sản, giai cấp
công nhân là giai cấp đại biểu cho lợi ích của toàn bộ các giai cấp và người lao động trong XH, do đó học
trở thành lãnh tụ tự nhiên của quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống gc tư sản và xây dựng XH
mới.
Thực vậy, từ địa vị KT, XH của mình đã tạo cho giai cấp công nhân trở thành một giai cấp tiên tiến nhất,
có khả năng vạch ra đường lối đúng đắn phát triển XH tốt hơn, kiên quyết loại bỏ gc tư sản bóc lột, còn
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chỉ tiên tiến khi nào đia theo giai cấp công nhân làm CM.
Đặc điểm thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Thật vậy, sống dưới
chế độ TBCN giai cấp công nhân bị tước hết TLSX và bị áp bức bóc lột nặng nề. Muốn giải phóng họ phải
lật đổ ách thống trị của gc tư sản, xóa bỏ CNTB và mọi nguồn gốc sinh ra chế độ người bóc lột người. Mác
đã viết: “Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân chẳng mất gì hết ngoài xiềng xích trói buộc họ,
nhưng nếu được thì họ được cả thế giới về mình”. Sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể
hoàn tất khi XH thoát khỏi tình trạng phân chia giai cấp và áp bức bóc lột, nghĩa là muốn giải phóng mình,
giai cấp công nhân phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn XH, do đó giai cấp công nhân là giai cấp
có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Đặc điểm tiếp theo là, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức
kỷ luật cao, bởi vì điều kiện SX và trình độ KHKT ngày càng hiện đại, lại có cơ cấu tổ chức SX khoa học
chặt chẽ đã tôi luyện cho giai cấp công nhân tính kỷ luật cao, trong cuộc đấu tranh chống lại gc tư sản có
bộ máy cai trị đàn áp khổng lồ với nhiều thủ đoạn thâm độc, giai cấp công nhân muốn chiến thắng thì phải
tổ chức thật chặt chẽ, có tinh thần đoàn kết cao và tinh thần kỷ luật cao, đó là cơ sở khách quan của việc
hình thành tính tổ chức chính trị của giai cấp công nhân có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh tự giải phóng
giai cấp mình khỏi chế độ làm thuê. Một đặc điểm nữa là, giai cấp công nhân ở các nước tư bản đều có địa
vị KT, XH giống nhau, ở đâu cũng chỉ là những người lao động làm thuê và chịu sự bóc lột của gc tư bản.
- Do vậy, họ có mục tiêu đấu tranh chung là xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột của CNTB, xây dựng chế độ
mới XHCN, XH không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Tuy nhiên, gc tư sản để duy trì sự thống trị của mình
đã có sự liên minh trên phạm vi quốc tế, hình thành nên CNĐQ, để chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và các dân tộc bị áp bức. Vì thế, muốn hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân các
nước trên toàn thế giới phải cùng đoàn kết lại, cùng phối hợp đấu tranh trên phạm vi toàn cầu, chính vì vậy
giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế nhất.
Lý luận CN Mác-Lênin đã khẳng định: giai cấp công nhân muốn tiến hành đấu tranh cách mạng một cách
đơn độc chống gc tư bản thì sẽ thất bại; nhưng nếu giai cấp công nhân lôi kéo, liên minh được với đại đa số
quần chúng lao động, chủ yếu là giai cấp nông dân và giữ vững được vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách
mạng sẽ hoàn toàn thắng lợi.
CN Mác-Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công – nông và các tầng lớp lao động khác, chẳng những
chỉ trong giai đoạn cách mạng giành chính quyền mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng CNXH –
“trong thời đại chuyên chính vô sản”. Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên chính vô
sản thì liên minh này đã tập hợp được LLSX và lực lượng cách mạng đông đảo nhất, trong đó gccn là giai
cấp tiên phong lãnh đạo thông qua chính đảng của mình là ĐCS. Xét về lợi ích cơ bản thì CM XHCN vì lợi
ích của toàn thể nhân dân lao động. Đó là tính tất yếu của liên minh về mặt chính trị - XH.
Trong quá trình xây dựng CNXH, tức là khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, thì cùng với tính tất
yếu CT-XH, tính tất yếu của liên minh về mặt KT lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự
thắng lợi của CNXH. Đối với liên minh công – nông – trí ở một nước nông nghiệp đi lên CNXH, tính tất
yếu KT nổi lên mấy điểm cơ bản sau:
+ Tất yếu phải gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công nghệ trong một cơ
cấu KT quốc dân thống nhất.
+ Từ một nước nông nghiệp đi lên, thì tất yếu trước tiên phải đặc biệt chú trọng nông nghiệp, để cho nông
nghiệp thực sự trở thành cơ sở để tiến hành CNH, HĐH đất nước; từng bước hình thành nền CN hiện đại
có khả năng cải tạo toàn bộ nền KT quốc dân.
+ Nông nghiệp, CN và nhiều lĩnh vực KT đời sống, phải gắn liền với sự phát triển và ứng dụng khoa học
công nghệ ngày càng hiện đại thì mới có thể xây dựng thành công CNXH, CNCS. Lênin cũng đã rất coi
trọng vai trò tất yếu của khoa học công nghệ khi
bước vào xây dựng CNXH, Người cho rằng: Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản
và giới kỷ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được.
+ Có chính quyền rồi, phải quan tâm chăm lo giải quyết vấn đề KT trong liên minh, nếu không thì bản thân
công nhân, nông dân và đại đa số nhân dân lao động dù đã thoát khỏi ách nô lệ, áp bức, bóc lột nhưng
không thể thoát khỏi đói nghèo, bệnh tật, mù chữ… Những nội dung KT và VH, XH của liên minh khi
được thực hiện tốt, chính là giải quyết một cách cơ bản những vấn đề đặt ra đó trong quá trình xây dựng
CNXH.
Xây dựng và củng cố được khối liên minh này, thực chất là xác lập và củng cố vai trò lãnh đạo của ĐCS
trong cách mạng XHCN. Mặt khác, chính khối liên minh này là lực lượng cách mạng hùng mạnh, đảm bảo
cho giai cấp vô sản giành và giữ được chính quyền.
Qua bài học (thất bại cũng như thắng lợi) của các cuộc cách mạng như: cách mạng Pháp năm 1848-1850,
Công xã Pari năm 1871, cũng như từ thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, đã chứng
minh rằng các nước thất bại là do giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của nó không liên minh được với
giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, không giữ được vai trò lãnh đạo thì không
những không đủ sức mạnh và trí tuệ để xây dựng CNXH mà còn mất cả chính quyền cũng như những
thành quả cách mạng đã giành được
Chính cương Đảng Lao động VN tại Đại hội lần thứ hai (tháng 2-1951) chỉ rõ: “Chính quyền của nước VN
Dân chủ Cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân …. lấy liên minh công nhân, nông dân và lao
động trí thức làm nền tảng và do gccn lãnh đạo”. (Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tập 12, trang 437).
Qua thực tiễn cách mạng VN, Chủ tịch HCM đã rút ra kết luận đúng đắn về vai trò khối liên minh công –
nông – trí là: “Chỉ có khối liên minh công – nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và
triệt để đánh đổ các thế lực phản CM, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên CNXH” (HCM toàn tập, tập 10, NXB sự thật,
1989).
Văn kiện Đại hội ĐCS VN lần thứ VII đã khẳng định: “Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức
của mình và nếu bản thân công – nông không được nâng cao kiến thức thì không thể xây dựng được
CNXH”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐCS VN (năm 2001) chẳng những tiếp tục khẳng định
tính tất yếu và vai trò của liên minh công – nông – trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc VN
XHCN mà còn đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Đại hội chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo.
Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu cầu khách
quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng CNXH, mà
còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển KT, VH, XH của đất nước. Liên minh thể hiện tính quy
luật chung của cách mạng XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và thường có nền
KT chậm phát triển.
Cốt lõi của liên minh về KT là mối quan hệ chặt chẽ giữa CN và nông nghiệp. Từ lâu, Chủ tịch HCM đã
khẳng định: “CN và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi
đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”.
Đại hội VII của Đảng ta cũng khẳng định: “CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện … nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, không ngừng
nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân”.
Nông nghiệp không thể có năng suất cao, hàng hóa nông sản nhiều và chất lượng tốt nếu không có sự tác
động trực tiếp của CN.
Cách mạng không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại. Không thể tiến hành CNH đất nước, nếu
không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hóa cao…
Đặc biệt trong nội dung kinh tế của liên minh công – nông, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà
nước và nông dân. Trong quan hệ đó, Nhà nước vừa là một chủ thể lợi ích đại diện XH, có quan hệ dân
chủ, bình đẳng cùng có lợi với nông dân, vừa là người có vai trò trách nhiệm và khả năng giúp đỡ, định
hướng và điều tiết hợp lý các quan hệ lợi ích, các hoạt động, thông qua luật pháp, chính sách và những cơ
sở kinh tế quốc doanh.
Phát huy vai trò của khối liên minh công – nông – trí ở nước ta hiện nay, đó là giải quyết tốt những vấn đề
XH:
thứ nhất, nước ta vừa trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt, trong đó nông dân, nông thôn có đóng góp trực
tiếp lớn về người và của cho đất nước, cũng như làm nhiệm vụ quốc tế. Vì vậy Đảng và Nhà nước phải
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, đặc biệt là các gia đình thuộc diện chính sách.
Thứ hai, phải giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn nhất là thanh niên học sinh, bộ đội hoàn
thành nghĩa vụ …
Thứ ba, chống mù chữ, nâng cao dân trí và đời sống VH, tinh thần cho nông dân, đấu tranh loại trừ các tệ
quan liêu, tham nhũng mất dân chủ
Thứ tư, Đảng và Nhà nước cần gắn chặt việc quy hoạch phát triển CN đô thị với quy hoạch và phát triển
nông thôn.
Thứ năm, cần đề ra chính sách sử dụng, bồi dưỡng và đãi ngộ thỏa đáng đối với trí thức.
Thứ sáu, đào tạo đội ngũ trí thức mới đủ sức đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển khoa học và công
nghệ hiện đại của đất nước trong những năm tới, như Đại hội VII của Đảng ta đã chủ trương “sử dụng có
hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước.
Phát triển giáo dục và VH, nâng cao dân trí”, đó là những nhiệm vụ mà trí thức ở nước ta phải trực tiếp
nghiên cứu, đề xuất những chính sách, giải pháp và trực tiếp tham gia vào những hoạt động đổi mới. Thứ
bảy, đổi mới việc tổ chức, lãnh đạo, cơ chế quản lý đối với đội ngũ trí thức. Nhà nước phải kiện toàn hệ
thống các tổ chức, cơ quan khoa kỷ thuật để đi vào hoạt động đồng bộ trong sự phối hợp giữa các ngành
khoa học và trong mỗi lĩnh vực … đạt hiệu quả cao hơn cho XH. Từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý
khoa học …
Thành tựu đạt được của cách mạng nói chung và thành tựu KT-XH mới thu được hơn 15 năm đổi mới ở
nước ta đã khẳng định sự đúng đắn của liên minh công – nông – trí và vai trò của giai cấp công nhân VN
mà nòng cốt là Đảng Cộng sản VN tiên phong đã từng bước đưa cách mạng VN tiến lên con đường xây
dựng CNXH, góp phần tích cực vào việc bảo vệ phong trào cách mạng XHCN trên thế giới, bảo vệ CN
Mác-Lênin. Chúng ta luôn tin tưởng rằng với liên minh công – nông – trí và đặc biệt là đảng lãnh đạo tiên
của giai cấp công nhân VN ở thời đại ngày nay sẽ luôn tiếp nối truyền thống tốt đẹp của ông cha, vững tay
lái chèo con thuyền cách mạng VN cập bến “Dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”,
tiến lên CNXH và mục tiêu cuối cùng là CNCS
Tất yếu liên minh công nông trí trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
- Vấn đề liên minh giai cấp công nhân vì giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động xã hội khác trong
cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản, do Mác, Ăng - ghen phát hiện, xây
dựng, được Lê - nin vận dụng phát triển trong quá trình cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng CNXH
ở nước Nga, là một nguyên lý căn bản trong lý luận CNXH KH.
- TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc
xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH.
- Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân, từ những
tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó, các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh
với “người bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh
công nông và các tằng lớp lao động khác của Mác trong giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN,
đã tổ chức liên minh và nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại.
- Trong hoàn cảnh lịch sử mới, giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước đầu xây dựng xã
hội mới, Lê nin lãnh đạo Đảng cộng sản tiếp tục mở rộng liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước
đây mà các tầng lớp lao động, đặc biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức.
Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh
công - nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách
mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951,
Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”.
Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển hay
của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan.
- Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp trong CNTB, C.Mác chỉ ra, ngoài giai cấp công nhân là giai cấp
đang phát triển mạnh mẽ cùng với nền công nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã
hội khác thống nhất với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản với giai
cấp tư sản.
- Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản bị thất
bại, theo Mác là do công nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai
điếu”. Trong Cách mạng tháng Mười và sau khi giai cấp công nhân đập tan chính quyền của giai cấp thống
trị bóc lột, Lênin khẳng định “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa
giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động với đông đảo những tầng lớp lao động không
phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”
Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy
khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng
không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại
nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát
triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. Để thực hiện
được vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập hợp
được mọi lực lượng xã hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức. Muốn thế phải nắm bắt được đặc điểm,
vai trò, nhu cầu của các giai cấp tầng lớp.
Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát
triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu
việt mà không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên
phạm vi thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi
đầu trong việc giải phóng con người, giải
phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là
sự nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân.
Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu
cầu của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu
cho công nghiệp và xuất khẩu. Nông dân có tính hai mặt, vừa là người lao động, đồng thời là người tư hữu
nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ tư tưởng độc lập, luôn luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị đương thời. Luôn có nguyện vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng
chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng tự giải phóng của mình. Tuy nhiên, nông dân luôn có vai trò to
lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến
bộ của các giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi
chế độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội khác.
Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Họ là
lực lượng sản xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp hóa, là nơi cung
cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị trường đầy tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của
thời kỳ quá độ. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu
cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất
của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết chặt chẽ
công – nông.
Tầng lớp trí thức, ta thường gọi là đội ngũ trí thức, là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc
biệt bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa
học, trí tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có
trình độ học vấn và chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ không phải là
giai cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một tầng lớp vì họ không trực tiếp sở hữu tư liệu sản
xuất, họ chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội, không có hệ tư tưởng
độc lập. Dưới các chế độ thống trị trước đây, trí thức bao giờ cũng bị các giai cấp thống trị nắm lấy, làm
công cụ trong tay mình. Họ cũng là người bị bóc lột về cơ bản, và cũng luôn có nguyện vọng được giải
phóng. Cũng như giai cấp nông dân, họ chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng giải phóng mình thành
công. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trí thức cũng đã được giải phống, càng có điều kiện để phát huy vai
trò của mình. Ở mọi quốc gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ, văn hoá của đất nước. Họ có vai trò
nghiên cứu khoa học, phát minh sang chế, vận dụng, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học - công
nghệ tiên tiến phù hợp để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà
nước để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trí thức nói chung rất nhạy cảm về mặt chính trị xã hội, nên khi đã thấy
được vị trí vai trò tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công
nhân và dân tộc để thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình.
Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động
sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp
đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu
quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp
lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan
từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi
mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi”. Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công
- nông - trí thức, không chi trong giai đoạn giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây
dựng CNXH “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Trong cuộc cách mạng giành chính quyền, cần phải
liên minh thì trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới liên minh càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố.
“Nguyên tắc cao nhất của CCVS là duy trì khối liên minh…để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh
đạo và chính quyền nhà nước”.
- Trên cơ sở đó để giai cấp công nhân thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, như mục tiêu Đảng ta đã
đề ra là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vai trò đó chỉ được giữ vững và thực
hiện có kết quả tốt khi tổ chức tốt liên minh công, nông và trí thức. Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của
Nhà nước XHCN là xây dựng thành công CNXH, vì lợi ích của toàn thể nhân dân, nhưng nhân dân lại tập
trung chủ yếu trong công nhân, nông dân, trí thức.
- Đó là tất yếu về chính trị - xã hội. Vì mục têu chung cũng như lợi ích chính trị của từng giai cấp, tầng lớp
là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và những thành quả của cách mạng XHCN, các giai cấp tâng lớp
không được tách rời nhau hoặc hoạt động tự phát mà phải gắn bó hữu cơ với nhau thành một khối liên
minh vững mạnh. Liên minh phải được Đảng cộng sản - đội tiền phong của gia cấp công nhân lãnh đạo và
tổ chức hoạt động, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới làm cơ sở cho Nhà nước XHCN
và nòng cốt của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở gắn kết của các giai cấp tầng lớp công - nông - trí
thức ở nước ta còn tất yếu chính trị từ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nhờ sự lãnh đao của Đảng,
họ đã đoàn kết lại trong mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó liên minh công nông là nòng cốt. Lợi ích,
niềm tin của công nhân, nông dân, trí thức đối với Đảng đã được thiết lập vững chắc. Bước vào thờI kỳ quá
độ, mối liên kết chính trị đó tiếp tục được phát huy cao độ hơn. Sự phân tích trên cho thấy cơ sở khách
quan, là diều kiện chính tri- xã hội để liên minh công - nông - tri thức ngày càng bền chặt hơn.
Lê - nin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “ chuyên chính vô
sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố
hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước
nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với
nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh
tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp. Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ về tính tất yếu này: biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục được thể hiện trong hội
nghị trung ương bảy( Khóa IX)