You are on page 1of 21

HỌ VÀ TÊN: HOÀNG THỊ KIM HƯƠNG ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN

LỚP: H827 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢNCỦA CHỦ NGHĨA MAC LÊ


NIN
(PHẦN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI)
CÂU HỎI:
Câu 1: Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân? Liên
hệ sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt nam hiện nay?
TRẢ LỜI
Câu 1: Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân?
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là tập đoàn xã hội hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền công nghiệp
hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tỉnh chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng
sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp tham gia vào sản xuất, tái sản xuất ra vật chất và cải tạo các mối quan hệ
xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới là sự nghiệp xác lập một hình thái kinh tế xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Trong lịch sử, sự nghiệp này được trao cho một giai cấp tiến bộ đương thời, đại diện cho một phương thức
sản xuất mới của nhân loại. Chẳng hạn giai cấp chủ nô với việc xác lập hình thía kinh tế xã hội chiếm hữu
nô lệ; giai cấp phong kiến với việc xác lập hình thía xã hội phong kiến; giai cấp tư sản với việc xác lập
hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa và hiện nay là giai cấp công nhân với việc xác lập hình thái kinh
tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử thường xuất hiện ở điểm giao thời – quá độ giữa một hình
thái cũ đang suy tàn và một hình thái mới đang xuất hiện
Điều kiện cơ bản để một giai cấp đảm nhận sứ mệnh lịch sử trước tiên giai cấp đó phải là một giai cấp đại
diện cho tiến bộ xã hội mà cụ thể là đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ với nâng suất lao động cao
hơn , cách tổ chức lao động xã hội phù hợp và tiến bộ hơn. Ban rthaan giai cấp đố cuãng có được một hệ
tư tưởng riêng phản ánh nhận thức về quy luật lịch sử và có được hạt nhân chính trị của gai cấp mình
( chính đảng)
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là những nhiệm vụ cần phải thực hiện trong quá trình xây dựng
hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, gồm các nội dung cơ bản là kinh tế, chính trị-xã hội, văn hóa,
tư tưởng.
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, do sự quy định của địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân gắn kiền
với phương thức sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, mang tính xã hội hóa cao. Phương thức sản xuất
quy định phương thức tư tưởng, giai cấp công nhân vì vậy có dduwwocj những đặc điểm của một giai cấp
cách mạng : tính tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, tinh thần triệt để cách mạng , tính đoàn kết quốc
tế , tính dân tộc… những phẩm chất này khách quan xác định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất,
cách mạng nhất và có năng lực lãnh đạo các giai cấp khác trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Thứ hai : những tiền đề vất chất của chủ nghĩa tư bản và sự vận động của mâu thuẫn cơ bản của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xã hội hóa sản xuất là tiền đề quan trọng nhất đã thúc đẩy sự vận động của
mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản xuất TBCN. Mâu thuẫn cơ bản đó là xung đột giữa tính chất
xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Quy luật
chung là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Công hữu những tư liệu SX
chủ yếu là yêu cầu khách quan và đã được quá trình SX hiện đại vạch ra. Xã hội hiện đại với xu thế xã hội
háo, dân chủ hóa mạnh mẽ hiện nay cũng đang làm chín muồi những tiền đề khách quan cho sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
Thứ ba: mẫu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân
- Chế độ bóc lột giá trị thặng dư đã khiến cho lợi ích cơ bản của hai giai cấp này đối lập nhau : một bên là
giai cấp bị bóc lột sức lao động, một bên là đi bóc lột sức lao động . Mâu thuẫn đó là không thể điều hòa và
là động lực chính cho cuộc đấu tranh giai cấp hiện đại
- Giải quyết mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa hai giai cấp này theo hướng xóa bỏ chế độ bóc lột giá trị
thặng dư là yếu tố khách quan. Muốn thực hiện được điều đó phải xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Nhưng muốn xóa bỏ nó thì phải xóa bỏ chế độ chính trị là cái đang bảo vệ quan hệ sản xuất ấy. Lật
đổ chế độ tư sản, nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước giai cấp công nhân là tất yếu trong quá
trình cách mạng kinh tế.
- Hiện nay, yêu cầu phát triển nhanh, nhân bản và bền vững của thế giới hiện đại cũng khách quan coi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân như một giải pháp mới cho phát triển.
- Thông qua việc phân tích tính chất khách quan của sứ mệnh lịch sử cúa giai cấp công nhân chúng ta thấy
được tất yếu kinh tế - chính trị xã hội của cách mạng XHCN và ý nghĩa nhân đạo lớn lao của sứ mệnh này.
Nó là một sự nghiệp của giải phóng và phát triển được nảy sinh từ chính những nhân tố hiện thực của xã
hội hiện đại chứ không phải là mong muốn chủ quan như sự xuyên tạc của các kẻ thù tư tưởng
Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử toàn thế giới .
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan, tức là không phụ thuộc vào ý muốn của
bất kỳ ai. Nhưng cũng như các quy luật xã hội khác, nó không “ tự động” diễn ra như các qui luật tự nhiên
mà nó cần có những yếu tố chủ quan . Những nhân tố chủ quan đó là :
- Thứ nhất : là sự phát triển của giai cấp công nhân, là kết quả của quá trình phát triển tự thân , tự giác , chủ
động. Với tư cách là chủ thế thực hiện sứ mệnh lịch sử, sự phát triển giai cấp công nhân là yếu tố chủ quan
quy định chất lượng và quy mô, tốc độ của quá trình này. Sự phát triển giai cấp công nhân được thể hiện ở
sự phát triển về lượng và phát triển về chất.
- Phát triển về lượng của giai cấp công nhân thể hiện sự tăng trưởng về số lượng cũng như tỷ lệ lao động
công nghiệp trong nền kinh tế.
Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân được thể hiện ở năng lực làm chủ công nghệ hiện đại và ý
thức giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc.
Thứ hai : là có Đảng cộng sản , nhân tố chủ quan cơ bản để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân
- Giai cấp công nhân coi Đảng cộng sản là hạt nhân chính trị của mình và sự ra đời của Đảng là mốc đánh
dấu sự trưởng thành của giai cấp. - --- Chủ nghĩa Mac- Lenin khẳng định việc giai cấp công nhân có tổ
chức được chính đảng trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức là dấu hiệu đã trở thành giai cấp tự
giác và đủ năng lực để thực hiện sứ mệnh lịch sử.
- Đảng coi giai cấp công nhân là cơ sở xã hội hàng đầu của mình. Quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp
công nhân là quan hệ “máu thịt”. Tính chất tiền phong thực tiến và lý luận, tính tổ chức khoa học và chặc
chẽ xác định Đảng là người lãnh đạo, là hạt nhân của giai cấp công nhân.
- Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân . không có lý luận thì phong trào công nhân
không đi được xa.
- Đảng cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Bằng hiểu biết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn,
Đảng cộng sản định ra cương lĩnh , đường lối, chiến lược, chính sách đấu tranh. Đảng cũng là người tổ
chức, động viên các sức mạnh, nguồn lực chính trị xã hội trong phong ttraof công nhân.
- Đảng cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc. Đây là sự
nghiệp cách mạng vĩ đại của những người lao động bị áp bức, bóc lột đứng lên giải phóng bản thân và
thoát khỏi áp bức giai cấp. Để làm tròn nhiệm vụ trên Đảng của giai cấp công nhân cần phải: nắm vững và
trung thành với chủ nghĩa Mac lenin; giữ vững và không ngững tăng cường tính chất giai cấp công nhân;
giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng , xây dựng Đảng mạnh về chính trị , tư tưởng và tổ chức
-Thứ ba: là phải có sự thống nhất của phong trào công nhân (phong trào công nhân trong từng nước với
phong trào công nhân quốc tế), từng bước xây dựng ý thức đoàn kết quốc tế.
Liên hệ sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt nam hiện nay?
- Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao
động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính công nghiệp.
- Giai cấp công nhân ta có sứ mệnh lịch sử to lớn : là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền
phong là Đảng cộng sản Việt Nam, là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, là lực lượng đí đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, là
lực lượng nòng cốt trong liên minh công – nông – trí.
- Thực hiện thành công sứ mệnh đó là đảm bảo cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Đẩy mạnh CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay.
- Thực trạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay :
- Cùng với sự nghiệp đổi mới và quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước giai cấp công nhân nước ta đã
có bước chuyển biến quan trọng tăng nhanh về số lượng , đa dạng về cơ cấu , chất lượng được nâng lên đã
hình thành ngày càng đông đảo công nhân trí thức, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam.
- Tuy vậy, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về số lượng, cơ cấu,
trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp của sự nghiệp CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Địa vị chính trị của giai cấp công nhân còn chưa thể hiện đầy đủ.
- Đối với vai trò lãnh đạo đất nước đi lên CNXH đang có mâu thuẫn trong yêu cầu tiền phong đi đầu với
những bất cấp về trình độ văn hóa , tay nghề và giác ngộ chính trị của một bộ phận lớn của công nhân nước
ta.
- Đối với vai trò đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH găn với phát triển kinh tế tri thức và hội
nhập kinh tế quốc tế của giai cấp công nhân nước ta cũng còn nhiều bất cập, hạn chế. Năng lực làm chủ
khoa học công nghệ của công nhân , năng lục lãnh đạo tổ chức, quản lý và kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa hoàn thiện …
- Đối vơi vai trò hạt nhân của khối kiên minh công- nông – trí thức và đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp
công nhân nước ta cũng còn nhiều bất cập trước hai lực cản lớn là mặt trái cơ chế thị trường và năng lực tố
chức quản lý cúa bản thân.
- Trước thực trạng nêu trên Đảng ta đã đưa ra quan điểm và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt
nam hiện nay
Quan điểm :
- Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng
cộng sản Việt Nam.
- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng và phát huy sức mạnh của liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và ddoooij ngũ tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn chặc chẽ với chiến lược phát triển kinh tế xã
hội, CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa giai cấp công
nhân là một nhiệm vụ chiến lược.
- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nổ lực
vương lên của bản thân công nhân, sự tham gia đống góp tích cực của người sử dụng lao động, trong đó sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp
trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân.
- Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt nam
Phương hướng :
- Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với chiến lược
phát triển kinh tế -xã hội, CNH-HĐH, hội nhập quốc tế.
- Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc , cấp bách của giai cấp công nhân, tạo được chuyển biến
thật sự mạnh mẽ và rệt trong nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân.
- Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước, nhất là ngành công nghiệp mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo, chú trọng tạo
nghề cho công nhân từ nông dân và nữ công nhân.
- Nâng cao hơn về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác phong công nghiệp và kỷ
luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân, nhất là công nhân trẻ.
- Tăng tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân.
- Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn , đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí minh
- Giải pháp thực hiện :
- Tiếp tục nghiên cứu tổng kết thuecj tiến , phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đẩy mạnh nâng cao chất lượng đào tạo nghề , từng bước trí thức hóa giai cấp công nhân
- Quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp , tinh thân dân tộc cho giai cấp công nhân
- Bổ sung, sửa đổi xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật đẻ đảm bảo quyền, lợi ích
hợp phá, chính đáng của công nhân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tỏ chức chính triij – xã
hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.
Câu 2: Phân tích quan điểm của Đảng: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử”?
Câu 2: Phân tích quan điểm của Đảng: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự
lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử”?
+ Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội:
Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội:
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Chế
độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước phát huy quyền làm chủ của nhân
dân lao động để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng.Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức. Con
người được giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo
điều kiện để phát triển hết khả năng của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm
không hưởng, các dân tộc đều bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau. Hòa bình, hữu nghị với các dân
tộc trên thế giới.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội:
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội sau khi được nhận thức để đạt tới
trong quá trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của chù nghĩa xã hội
ở Việt Nam là: Về chế độ chính trị: Xây dựng chế độ do nhân dân là chủ và làm chủ. Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ cùa mình chủ yếu bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Về kinh tế: Xây
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến,
được tạo lập trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Nhưng ở thời kỳ quá độ vẫn tồn tại nhiều
hình thức sở hữu. Từ nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa. Về
văn hóa: Phát triển văn hóa là mục tiêu quan trọng của chủ nghĩa xã hội, thậm chí cần đi trước để dọn
đường cho cách mạng công nghiệp. Bởi vậy, cán bộ phải có văn hóa làm gốc, công nhân và nông dân phải
biết văn hóa. Về quan hệ xã hội: Xây dựng cho được mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Hồ Chí
Minh căn dặn: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Thực hiện công bằng xã hội là tạo ra động lực cho chủ nghĩa xã hội. Và, để tạo động lực cho chủ nghĩa xã
hội, còn cần phải sử dụng vai trò điều chỉnh của các nhân tố về chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.
Chủ nghĩa xã hội tạo cơ sở củng cố, giữ vững độc lập dân tộc:
Chủ nghĩa xã hội với những ưu việt nội tại trên tất cả các lĩnh vực tạo ra cơ sở bảo đảm chắc chắn và bền
vững nhất cho độc lập thật sự và phát triển dân tộc. Những cơ sở đó là: Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ nguyên
nhân kinh tế sâu xa của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất sinh ra. Tạo ra cơ sở cơ bản này, chủ nghĩa xã hội sẽ triệt để giải phóng con người, phát triển
lực lượng sản xuất, tạo bước phát triển chưa từng có cho dân tộc.
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội là thực hiện cách mạng về kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ
thuật. Kết quả của cuộc cách mạng này là tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cao, văn hóa phát triển của chủ
nghĩa xã hội. Kết quả này là một cơ sở - một nhân tố cơ bản để thực hiện củng cố, giữ vững độc lập và phát
triển dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, bản chất của chủ nghĩa xã hội là xây dựng một xã hội dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Theo Người, đây là chiếc chìa khóa vạn năng để nhân dân Việt Nam xây dựng xã hội mới - xã hội
xã hội chủ nghĩa với sức mạnh kỳ diệu của nhân dân là chủ và biết làm chủ xã hội. Sức mạnh kỳ diệu này
là cơ sở để nhân dân Việt Nam củng cố, giữ vững độc lập dân tộc, biết cách tự bảo vệ và phát triển.
Trước hết, về chính trị: Xác lập và phát triển các thành tố của hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo; thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất và thực hiện đoàn kết toàn dân trong Mặt trận; giành
chính quyền và xây dựng một nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân và vì dân. Có tiền đề chính trị
này, khi cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa như là sự phát triển tự
nhiên, tất yếu của giai đoạn trước, không bắt đầu bằng một cuộc cách mạng xã hội.
Hai là, về kinh tế: Bước đầu hình thành đường lối kinh tế, từng bước xây dựng các cơ sở kinh tế có tính
chất xã hội chủ nghĩa. Mục đích xây dựng phát triển kinh tế là từng bước cải thiện đời sống nhân dân, bồi
bổ các lực lượng cách mạng. Những yếu tố kinh tế này khi đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiếp
nối và phát triển toàn diện trong điều kiện mới.
Ba là, về văn hóa - xã hội: Ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản do
Người sáng lập đã đưa ra đường lối xây dựng nền vãn hóa mới, nền văn hóa cách mạng, và giải quyết
những vấn đề xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đường lối xây dựng và phát triển văn hóa -
xã hội này được tiếp nối và phát triển trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu của độc lập dân tộc: Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra thời
đại mới, các nước đấu tranh giành độc lập dân tộc thắng lợi có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng
là con đường cách mạng triệt để nhất, hợp với xu thế thời đại. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong thời đại
ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi
toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới
giành được thắng lợi hoàn toàn”.
- Chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất có thể giải phóng triệt để dân tộc khỏi thân phận nô lệ, bất công
xã hội, bất bình đẳng giai cấp, đói nghèo và ngu dốt, giải phóng triệt để con người, đem lại tự do hạnh
phúc cho toàn dân. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
- Chủ nghĩa xã hội là điều kiện tiên quyết để củng cố và giữ vững ĐLDT: ĐLDT và CNXH là mục tiêu
xuyên suốt, luôn gắn chặt với nhau, quan hệ biện chứng và tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, ĐLDT là
điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH còn CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho ĐLDT. CNXH xóa
bỏ giai cấp, người bóc lột người, làm cho người dân thực sự tự do, hạnh phúc và bình đẳng. CNXH phát
triển cao hơn CNTB.
- Trong giai đoạn hiện nay, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn còn là con đường duy nhất
đúng đắn:
Thực tế chứng minh nhìn vào các nước trên thế giới có những quốc gia sau khi giành được độc lập họ đưa
đất nước đi theo con đường TBCN, nhưng thực tế hiện nay những Quốc gia này rơi vào tình trạng khó
khăn xung đột sắc tộc, tôn giáo, phân hóa giàu, nghèo, chiến tranh sắc tộc… tình hình chính trị bất ổn làm
cho những nước này không thể có độc lập thật sự. nhiều nước trước đây là CNXH như Đông Âu liên xô
nhưng do đường lối sai lầm nên sụp đổ họ đưa nước họ đi theo con đường TBCN thực tiễn hiện nay những
nước này vẫn rơi vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế, khủng hoảng về chính trị xung đột sắc tộc, tôn
giáo, thất nghiệp bất công trong XH.
- Những nước giành độc lập đi theo con đường TBCN đã có những thay đổi và có những bước phát triển
mới, song vẫn bộc lộ nhiều mâu thuẫn và khủng hoảng. Tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày một sâu sắc.
An sinh xã hội nhìn chung không được đảm bảo.
- Chủ nghĩa xã hội với những ưu việt nội tại trên tất cả các lĩnh vực tạo ra cơ sở bảo đảm chắc chắn và bền
vững nhất cho độc lập thật sự và phát triển dân tộc. Chủ nghĩa xã hội sẽ xóa bỏ nguyên nhân kinh tế sâu xa
của tình trạng người bóc lột người do chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất sinh
ra. Trên cơ sở đó, chủ nghĩa xã hội sẽ triệt để giải phóng con người, phát triển lực lượng sản xuất, tạo bước
phát triển chưa từng có cho dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
- Chúng ta đã biết rằng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn, xuyên suốt quá trình
cách mạng Việt Nam (CMVN), là con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng và dân tộc Việt Nam đã lựa
chọn Thực tiễn CMVN gần một thế kỷ qua cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cũng chính là con
đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng người.
- Ngay từ khi TD Pháp xâm lược VN, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược.
Từ năm 1858 đến trước 1930, đã có hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới sự lãnh đạo của
các sĩ phu, các nhà yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng đều bị TD Pháp đàn áp tàn bạo
và thất bại. Nguyên nhân chính là do không có đường lối CM đúng đắn theo một hệ tư tưởng tiên tiến,
khoa học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng đường lối cứu nước. Chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc bôn ba
nhiều nới trên thế giới, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng
tư sản điển hình (Pháp, Mỹ) thì con đường cứu nước mới được vạch ra. Người khẳng định “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào đất nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân
ta giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo Đảng. Vì vậy, có thể nói đó là sự
lựa chọn của lịch sử VN, của toàn dân tộc VN.
- Bài học đầu tiên sau gần 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định là “Nắm vững
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại
cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau” .
- Như vậy quan điểm của Đảng: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” là
con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. CNXH vừa là mục tiêu cơ bản
của cách mạng, vừa là lợi ích căn bản của quốc gia và là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. - --
Do đó, trong quá trình thực hiện, chúng ta cần quán triệt sâu sắc quan điểm: lấy phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa, xã hội là nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường
quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Bên cạnh đó, việc kiên định mục tiêu ĐLDT
gắn liền với CNXH đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nắm vững và thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và BVTQ XHCN; coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc
phòng - an ninh và đối ngoại; kiến tạo và giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng, bảo vệ và phát triển
đất nước. Trong thời đại toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ kết hợp tiếp
thu sáng tạo những thành tựu mới trên các lĩnh vực của thời đại với sự vận động của cách mạng Việt Nam
để đề ra đường lối đúng, bảo đảm vừa kiên định nguyên tắc chiến lược, vừa linh hoạt, sáng tạo trong những
giải pháp tổ chức thực hiện. Chúng ta phải vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan cách mạng hiện nay, tiếp tục quá trình đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh./.
Câu 3: Phân tích quan điểm của Lê Nin: “Dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào tiến bộ
nhất cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”? Liên hệ nền dân chủ ở nước ta hiện nay?
Câu 3: Phân tích quan điểm của Lê Nin: “Dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào
tiến bộ nhất cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”? Liên hệ nền dân chủ ở nước ta hiện nay?
Phân tích quan điểm của Lê Nin: “Dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào tiến bộ
nhất cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”
Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủ:
- Trong công xã thị tộc (thời nguyên thuỷ), thủ lĩnh đứng đầu bộ tộc được người dân của bộ tộc bầu ra hoặc
phế bỏ. Điều này cho thấy quyền dân chủ ra đời từ rất sớm.
- Khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời, giai cấp chủ nô lập ra nhà nước và lấy tên là Nhà nước dân chủ chủ nô, chỉ
đến giai đoạn này thì danh từ dân chủ mới chính thức được sử dụng.
- Dân chủ theo nguyên nghĩa Latinh
+ Dân chủ theo tiếng Hy Lạp cổ là từ ghép của hai chữ: Demos (nhân dân, quần chúng)
+ Kratos (sức mạnh, quyền lực) = quyền lực, sức mạnh thuộc về nhân dân.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ
+ Trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại, đã tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về dân chủ, và có
những quan niệm cho rẳng dân chủ là phi giai cấp, dân chủ là phi lịch sử. Đối ngược lại với những quan niệm đó,
chủ nghĩa Mác-Lênin đã đưa ra những luận giải mang tính khoa học về dân chủ như sau:
- Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin kế thừa những nhân tố hợp lý những hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân
loại về dân chủ, đặc biệt là việc chủ nghĩa Mác-Lênin đã tán thành quan điểm cho rằng: dân chủ là một nhu cầu
khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực của nhân dân.
- Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì khi đó sẽ không có “dân chủ chung chung, phi giai
cấp, siêu giai cấp”, “dân chủ thuần tuý”. Trái lại mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mạng bản chất
giai cấp thống trị. Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn với tư cách là một phạm trù lịch
sử, phạm trù chính trị.
- Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ thì dân chủ còn với ý nghĩa là một hình thức nhà nước, trong đó chính
quyền về mặt pháp lý thuộc về nhân dân, mọi công dân đề bình đẳng trước pháp luật, có quyền tham gia công
việc nhà nước, được sử dụng các quyền chính trị và các quyền tự do dân chủ, thiểu số phục tùng đa số.
- Thứ tư, với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều do một giai cấp thống trị cầm quyền chi phối mọi
lĩnh vực của toàn xã hội. Do vây, tính giai cấp thống trị cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chất của chế
độ chính trị, kinh tế, xã hội, … ở mỗi quốc gia dân tộc cụ thể.
Như vậy, trải qua các chế độ xã hội khác nhau thì dân chủ cũng có phản ánh mức độ phát triển khác nhau. Trong
lịch sử phát triển của mình, dân chủ đã trải qua các hình thức phát triển như: dân chủ chủ nô, dân chủ phong kiến
(quân chủ), dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
* Dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ vô sản) là gì ?
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức mới và cao của dân chủ, là nền dân chủ thật sự đối với đa số nhân dân lao
động, dân chủ được thực hiện trong thự tiễn nhưng nó vẫn là dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định : chuyên chính vô sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa về căn bản là
thống nhất với nhau. Nên ngay trong Đại hội VII, Đảng ta đã thống nhất cách gọi “chuyên chính vô sản” là
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, chúng ta có thể khái quát về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa như sau:
- Bản chất chính trị: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng
rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Bản chất kinh tế: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã
hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học – công nghệ hiện đại
nhằm thoả mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động.
- Bản chất tư tưởng - văn hoá: nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin làm nền tảng, chủ đạo
đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống của các
dân tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hoá, văn minh, tiến bộ mà nhân loại đã tạo ra ở các quốc gia – dân
tộc trên thế giới.
Liên hệ nền dân chủ ở nước ta hiện nay?
Với sự mở cửa hội nhập quốc tế, sau khi Việt Nam ký kết Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Chương
trình hành động Việt Nam 1993, Việt Nam tiến hành sửa đổi Hiến Pháp (1992), công nhận các quyền con
người theo các thỏa thuận đã ký. Nhà nước Việt Nam cho rằng nền dân chủ ở Việt Nam do Đảng Cộng sản
và nhân dân xây dựng sẽ tiếp tục hoàn thiện, mở rộng và phát huy. Xây dựng và hướng tới một xã hội xã
hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Trong Quốc hội đã có những tiếng nói phản biện, nghi ngại về hiệu quả hoạt động của chính phủ. Đặc biệt
sau những vấn đề trong quản lý của Chính phủ (vụ Vinashin, vụ cho thuê rừng, vụ tham nhũng PCI...), có
nhiều tiếng nói của đại biểu yêu cầu thay đổi cơ chế quản lý hiện nay trong kinh tế. Lần đầu tiên một đại
biểu quốc hội yêu cầu Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm Chính phủ, yêu cầu Chính phủ xin lỗi nhân dân. 
Trước đó, lần đầu tiên Quốc hội bỏ phiếu bác bỏ một dự thảo Xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam của
chính phủ, dù đã được coi là nghị quyết của Bộ Chính trị. Nhiều cán bộ cao cấp lên tiếng đề nghị chính
phủ thận trọng trong dự án Bauxite Tây Nguyên.
Một số tờ báo vạch rõ nguy cơ của việc thiếu dân chủ,dân chủ hình thức qua đó kiến nghị những giải pháp
để Đảng Cộng sản Việt Nam đổi mới, mở rộng dân chủ trong và ngoài Đảng, trong bầu cử, trong lựa chọn
lãnh đạo, trong ra quyết định
Chính phủ Việt Nam khẳng định luôn quan tâm đến dân chủ và tìm cách mở rộng, phát huy dân chủ ở Việt
Nam, tuy nhiên cũng nhìn nhận rằng Hoa Kỳ và các nước phương Tây đã sử dụng vấn đề dân chủ làm một
chiêu bài, "vũ khí" trong chiến lược Diễn biến hòa bình nhằm mục đích chuyển hóa, lật đổ, và thay thế các
nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chính phủ Việt Nam luôn nhấn mạnh việc không chấp nhận các lực lượng
ngoại quốc lấy lý do dân chủ để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, cũng như việc một số cá
nhân trong nước "Đội lốt dân chủ” để tiến hành vu cáo, xuyên tạc, bóp méo thông tin, thực hiện các hành
vi vi phạm pháp luật Việt Nam
Câu 4: Phân tích tính tất yếu và tầm quan trọng của liên minh Công- Nông- Trí thức trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay?
Câu 4: Phân tích tính tất yếu và tầm quan trọng của liên minh Công- Nông- Trí thức trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay?
- Lênin về tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức:
+ Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, Lenin đã vận dụng và phát triển lý luận lý luận về liên minh công –
nông và các tầng lớp lao động  trong thực tiễn đấu tranh trở thành liên minh công nông binh trong Cách
mạng tháng mười Nga ( 1917).
+ Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lenin càng mở rộng liên minh nầy , không chỉ bao gồm các
giai tầng cơ bản , lực lượng to lớn nhất: công nông – binh, mà cả với các tầng lớp lao động khác.
+ Lenin khẳng định : Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giữa giai cấp vô sản, đội
tiền phong của những người lao động , với đông đảo những tầng lớp lao động không vô sản ( tiểu tư sản,
tiểu chủ, nông dân, trí thức ….)
+ Tính tất yếu của liên minh trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa được lenin nhấn mạnh: Nguyên
tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản
có thể giữ được  vai trò lãnh đạo và chính quyền Nhà nước:.
-Tính tất yếu của liên minh giai cấp trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ cở sở
sau:
+ Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng, liên minh nầy đã tập hợp được lực lượng sản xuất và
lực lượng cách mạng cơ bản và đông đảo nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Xét về nguyên tắc lãnh đạo cách mạng , trong liên minh công nông trí, duy nhất chỉ có giai cấp công
nhân thông qua đảng mình lãnh đạo hệ thống chuyên chính vô sản.
+ Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của chuyên chính vô sản. liên minh nầy nhằm xây dựng chủ nghĩa , chủ
nghĩa cộng sản vì lợi ích của toàn thể nhân dân.
+ Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, xét về mặt kinh tế , cùng với những tất yếu chính trị - xã hội
phải liên minh ở trên thì liên minh kinh tế lại nổi lên là nhân tố quyết định nhất, quyết định cuối cùng cho
sự thắng lợi chủ nghĩa xã hội.
-Đối với các nước nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội, lenin đã chỉ rỏ:
+ Phải gắn chặt công nghiệp và nông nghiệp với dịch vụ, khoa học và công nghệ trong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất.
+ Phải đặc biệt chú trọng nông nghiệp để nó thật sự trở thành cơ sở của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
+ cần thỏa mãn những lợi ích kinh tế thiết thực trước mắt cho nông dân thì mới xây dựng được cơ sở kinh
tế của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa công sản.
+ Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản với kỷ thuật, không một thế lực đen tối
nào đứng vững được.
+ giải quyết được vấn đề kinh tế giữa các giai tầng trong liên minh.
Để giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, “ thực hiện liên minh công nông là một
việc khó, nhưng vô luận thế nào đó cũng là khối liên minh vô địch duy nhất để chống lại bọn tư bản”
Vì lợi ích thiết thực của mỗi nước xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải ra sức cũng cố mối liên minh nầy, đoàn kết
ngày càng chặc chẽ hơn giữa nông dân và trí thức xung quanh giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó
là Đảng Công sản.
Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo và hướng dẫn trong sự hợp tác về chính trị của công nhân, nông dân
và trí thức nhằm mục đích xây dựng thành công xã hội công sản chủ nghĩa không có giai cấp.
LIÊN MINH CÔNG – NÔNG – TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CNXH:
Liên minh công – nông – trí thức ở Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề có tầm
quan trọng đặc biệt, tạo động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đến
thắng lợi.
Nguyên tắc cơ bản chung nhất của liên minh công – nông trí là “ kết hợp đúng đắn các lợi ích” trên các
lĩnh vực các nội dung của liên minh.
1 Nội dung chính trị của liên minh:
-Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của liên minh công – nông –
trí và của cả dân tộc. Để thực hiện nội dung nầy trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa , liên minh
công nông trí phải trên lập trường chính trị- tư tưởng của giai cấp công nhân.
- Liên minh công – nông – trí phải do đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam
Lãnh đạo. Nội dung nầy có ý nghĩa như một nguyên tắc về chính trị của liên minh.
-  Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , liên minh công – nông – trí thức ở nước ta làm nền tảng cho
liên minh chính trị rông lớn là mặt trận tổ quốc, làm nền tảng, cơ sở xã hội cho nhà nước.
Nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung , phương thức đổi mới hệ thống chính trị ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay.
2 Nội dung kinh tế của liên minh:
-Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vật chất của liên minh công nông trí thức ở nước ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Mục tiêu cơ bản là “ kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế “ của công – nông – trí thức và của toàn xã hội.
( Nhà nước làm đại  diện).
- Nội dung phương thức liên minh kinh tế là: xuất phát từ nhu cầu kinh tế của mọi công -  nông -  trí thức
và xã hội mà thúc đẩy sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực công nghiệp , nông nghiệp và khoa học công
nghệ và kinh tế xã hội nhằm thỏa mãn các nhu cầu kinh tế ( lợi ích kinh tế ) của các giai tầng cơ bản và
toàn xã hội.
 - Cách thức chung để thực hiện nội dung kinh tế của liên minh công – nông – trí thức ở nước ta trong thời
kỳ quá độ là:
+ Xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với gắn liền với nhu cầu kinh tế của công – nông – trí thức và toàn
xã hội trong những điều kiện, thời điểm cụ thể.
+ Phát triển đa dạng hóa các hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu kinh tế giữa các giai tầng cơ bản, các
nghành các lĩnh vực, vùng miền giữa nước ta và nước ngoài.
+ Từng bước hoàn thành quan hệ sản xuất xã hội bằng cách đa dạng hóa các hình thức sở hữu và sử dụng
tư liệu sản xuất, trên cơ sở công hữu hóa những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Để thực hiện nội dung liên minh kinh tế, trong phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, Đại hội
X của Đảng ta xác định:
Một là: tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống
nhân dân.
Hai là: phát triển nhanh hơn về công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh
và hiện đại hóa.
Ba là: phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ
3. Nội dung của văn hóa xã hội của liên minh.
_ Mục tiêu trên lĩnh vực của liên minh nầy là: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, tinh thần và phát triển toàn diện của công, nông, trí thức.
-          Nội dung chung:
+ Công, nông, trí thức phải vừa lá chủ thể sáng tạo, vừa là chủ thể hưởng thụ về mọi mặt một cách công
bằng những thành quả của liên minh và sự nghiệp cách mạng.
+ Thực hiện xóa đói giảm nghèo cho các giai tầng cơ bản nầy trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Thực hiện tốt các “chính sách xã hội “- đền ơn đáp nghĩa; hỗ trợ nông dân, công nhân trí thức, người có
công với sự nghiệp cách mạng.
+ Nâng cao dân trí, kiến thức và khoa học công nghệ, nhận thức về chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội cho
công nông, trí thức.
+ Làm tốt công tác huy hoạch tổng thể phát triển công ngiệp, khoa học công nghệ và đô thị gắn với huy
hoạch phát triển công nghiệp nông thôn, các kết cấu hạ tầng ngày càng thuận tiện và hiện đại.
-Từ năm 2006 đến năm 2010 ,cần tập trung làm tốt các nội dung:
+ Phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội;
+ kiềm chế tốc độ tăng dân số, chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý giải quyết tốt các vấn đề việc làm và an
sinh xã hội;
+ Tiếp tục đẩy mạch xóa đói giảm nghèo;
+ Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân;
+ Phát triển thể dục thể thao…
Chỉ có thực hiện tốt các nội dung chủ yếu trên, lên minh mới trở nên toàn diện , giữ vững định hướng xhcn
thì các thành phần cơ bản của liên minh : công – nông – trí thức, cũng như toàn xã hội mới xích lại gần
nhau trên thực tế..CSLL
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nêu rõ: “… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ
quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”, từ tư tưởng của Người cho ta thấy rõ: ĐĐK dân tộc là
tâ ̣p hợp mọi người dân vào cuô ̣c đấu tranh chung. Trong tiến trình cách mạng Viê ̣t Nam, Đảng ta luôn
giương cao ngọn cờ ĐĐK toàn dân tộc, xác định đó là đường lối, chiến lược, là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu trong kháng chiến cứu nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… ĐĐK toàn dân tộc thực
sự là nhân tố đảm bảo thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, là một vấn đề cốt tử của cách
mạng… Như ĐH X của Đảng khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tô ̣c trên nền tảng liên minh GCCN
với nông dân và đô ̣i ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Viê ̣t
Nam, là nguồn sức mạnh, đô ̣ng lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiê ̣p xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn
độc chống lại GCTS thì sẽ bị thất bại. Nhưng nếu giai cấp công nhân liên minh được với đại đa số NDLĐ
mà chủ yếu là giai cấp nông dân và giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách mạng nhất định thắng lợi.
Sở dĩ như vậy là vì giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức có những vị trí và vai trò
quan trọng trong xã hội.

Trong cách mạng XHCN, liên minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đô ̣i ngũ trí thức là mô ̣t tất yếu
khách quan:
Trước hết, xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cuô ̣c cách mạng XHCN. Đây là cuô ̣c cách mạng cuối
cùng trong lịch sử với nội dung rô ̣ng lớn, toàn diê ̣n trên tất cả tất cả các mă ̣t, các lĩnh vực của đời sống xã
hô ̣i nhằm lâ ̣t đổ CNTB, xây dựng thành công CNXH, CNCS với tích chất gây go, quyết liê ̣t, lâu dài gian
khổ. Để thực hiện được nội dung, mục đích của cuô ̣c cách mạng XHCN,

phải có mô ̣t lực lượng đông đảo dưới sự lãnh đạo của GCCN nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để thực hiện
thắng lợi cuô ̣c cách mạng XHCN. Do đó, cần phải liên minh 3 lực lượng đông đảo trong xã hô ̣i, đó là liên
minh giữa GCCN với giai cấp nông dân và đô ̣i ngũ trí thức.

Hai là, là từ vai trò, vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đô ̣i ngũ trí thức trong cách mạng
XHCN.

Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng XHCN, với SMLS thủ tiêu CNTB, xây dựng thành
công XHCN, XHCS trong phạm vi mỗi nước, mỗi dân tộc và trên toàn thế giới. Trong cuô ̣c đấu tranh đó
GCCN phải có lực lượng, phải thực hiện liên minh giai cấp để tạo thành sức mạnh to lớn nhằm xóa bỏ
CNTB, xây dựng thành công CNXH. Muốn thực hiện thắng lợi SMLS của mình GCCN phải tiến hành liên
minh chă ̣t chẻ với nông dân và trí thức.

Giai cấp nông dân Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin là lực lượng xã hô ̣i đông đảo, có vai trò
quan trọng trong sản xuất và xây dựng chính quyền. Trong xã hô ̣i cũ nông dân bị bóc lô ̣t nă ̣ng nề, có
nguyê ̣n vọng được giải phóng. Song, do địa vị kinh tế-xã hô ̣i của mình không cho phép nông dân có khả
năng tự giải phóng mình và giải phóng xã hô ̣i. Chỉ có thể thoát khỏi áp bức bóc lô ̣t và phát huy vai trò khi
giai cấp nông dân liên minh chă ̣t chẻ với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN.

Trí thức là tầng lớp xã hô ̣i có vai trò quan trọng ngày càng tăng trong cách mạng XHCN. Trí thức tham
gia tích cực vào quá trình xây dựng CNXH, đổi mới đất nước, đi đầu trong lĩnh vực phát triển khoa học,
công nghê ̣ và văn hóa tinh thần. Song, trong xã hô ̣i cũ, trí thức cũng bị bóc lô ̣t và không có khả năng tự
giải phóng mình, muốn thoát khỏi áp bức bóc lô ̣t và phát huy cao nhất vai trò của mình, trí thức phải liên
minh với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN. Ngược lại, công-nông không được nâng cao kiến thức,
không dần được trí thức hóa, thì không thể xây dựng CNXH được.

Ba là, từ yêu cầu, đă ̣c điểm kinh tế, chính trị-xã hô ̣i của TKQD và của CNXH. Trong TKQĐ vẫn còn
tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp, các giai cấp có lợi ích căn bản thống nhất, song cũng còn những lợi
ích riêng của mỗi giai tầng. Muốn giải quyết đúng đắn

mối quan hê ̣ giữa các lợi ích bảo đảm sự cân bằng và thống nhất về lợi ích kinh tế-chính trị-xã hô ̣i của mỗi
giai tầng trong xã hô ̣i, thì phải thực hiện liên minh giữa GCCN, giai cấp nông dân và đô ̣i ngũ trí thức. Mă ̣t
khác, do yêu cầu xây dựng những cơ sở vâ ̣t chất của CNXH, đòi hỏi phải xây dựng và củng cố phát triển
khối liên minh công-nông-trí thức, V.I.Lênin chỉ ra: “Nếu không có sự liên minh ấy thì không thể có dân
chủ bền vững, không thể có cải cách XHCN được”.

Theo quan điểm cơ bản của CN Mác-Lênin khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở châu Âu, nhất
là ở Anh, Pháp cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thành lý luận về liên minh công,
nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các
cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức được mối liên minh với "người bạn đồng minh tự
nhiên" của mình là giai cấp nông dân. Do vậy, trong các cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân luôn
đơn độc và cuộc cách mạng vô sản này đã trở thành "bài ca ai điếu".

Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa đế quốc), V.I. Lênin đã vận dụng
và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công, nông và các tầng lớp lao động
khác trong Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917). Trong thời kỳ đầu của thời kỳ quá
độ, không chỉ có liên minh công, nông mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Ngay cả trong
chuyên chính vô sản. Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định trong thời kỳ quá độ không chỉ liên minh giữa các
giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao động khác mà ngược lại, rất cần phải liên minh với họ để thực
hiện mục tiêu chung do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề giai cấp công nhân liên minh với
họ là điều tất yếu. Qua mối liên minh này, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nông dân, công
nhân được tập hợp về mục tiêu chung là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc.
Đây là điều kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về mặt chính trị-xã
hội, là yếu tố tiên quyết.

Liên minh công - nông - trí thức là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhu
cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu phát triển của trí thức.

Tính tất yếu của liên minh công-nông-trí thức ở VN trong thời kỳ quá độ lên CNXH vẫn là sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo những luận điểm cơ bản của CN Mác-Lênin về liên minh công-nông và các tầng lớp
lao động khác và hoàn cảnh cụ thể của VN.

Và quan điểm, đường lối và chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCS VN về liên minh công-
nông-trí thức là nhất quán từ khi Đảng ta mới thành lập, lãnh đạo cách mạng VN đến nay và luôn luôn
được thực hiện, kiểm nghiệm qua thực tiễn và phát triển phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất
nước và của thời đại.

Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu cầu khách
quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng CNXH, mà
còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hô ̣i của đất nước. Liên minh thể
hiện tính quy luật chung của cách mạng XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và
thường có nền kinh tế chậm phát triển.

Đại hội VII của Đảng ta cũng khẳng định: “CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện … nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, không
ngừng nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân”.
Cách mạng không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại. Không thể tiến hành CNH đất nước,
nếu không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hóa cao…

Như vâ ̣y, liên minh công-nông-trí thức là tất yếu khách quan, là quy luâ ̣t của quá trình cách mạng
XHCN. Liên minh công-nông-trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở chính trị-xã hội vững chắc cho
chế độ mới. Bởi vì, đó những lực lượng lao động sản xuất, là những lực lượng chính trị cơ bản và đông đảo
nhất để xây dựng và bảo vệ CNXH. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng XHCN
không thể thành công ở những nước nông nghiệp nếu ba lực lượng đó tách rời nhau, không được tổ chức
lại, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của GCCN thông qua ĐCS. Do đó liên minh công-nông-trí thức vừa là nòng
cốt, vừa là nền tảng của khối ĐĐK toàn dân tộc, của Nhà nước XHCN.

Nội dung cơ bản của liên minh công-nông-trí thức trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta là: Kết hợp đúng
đắn các lợi ích (về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hô ̣i) của GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và
của toàn xã hô ̣i.

Nội dung chính trị của liên minh: Mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản của liên minh thực chất là mang
lại lợi ích chính trị, quyền làm chủ x1t, là xây dựng mô ̣t Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCS với
đường lối chính trị, đường lối cách mạng nhất quán: Đô ̣c lâ ̣p dân tộc gắn liền với CNXH; mang lại lợi ích
cho GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức.

Nội dung kinh tế của liên minh: Đây là nội dung cơ bản quyết định nhất, là cơ sở vâ ̣t chất kỹ thuâ ̣t của
liên minh trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta. Nội dung này của liên minh thực chất là mang lại lợi ích kinh
tế cho các đối tượng liên minh và toàn thể nhân dân lao đô ̣ng; là thời kỳ phát triển kinh tế nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tâ ̣p thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền KTQD. Thực hiện tiến bô ̣ và công bằng xã hô ̣i ngay từng
bước và từng chính sách phát triển. Nội dung kinh tế của liên minh trong TKQĐ được biểu hiê ̣n qua 3 mối
quan hê ̣ kinh tế cơ bản: Mối quan hê ̣ kinh tế giữa công nghiê ̣p và nông nghiệp; giữa Nhà nước với nông
dân; giữa Nhà nước với tầng lớp trí thức. Ba mối quan hê ̣ kinh tế này xuất hiê ̣n dựa trên các ýt của nền
KTTT định hướng XHCN.

Nô ̣i dung văn hóa, xã hô ̣i của liên minh: Văn hóa-xã hô ̣i là mục tiêu, là đô ̣ng lực của các nội dung
chính trị, kinh tế, suy cho cùng là nhằm phục vụ những nhu cầu, lợi ích vâ ̣t chất và tinh thần ngày càng cao
của công-nông-trí thức và của nhân dân. Vừa khuyến khích mọi giai tầng làm giầu chính đáng, vừa tích
cực xóa đói giảm nghèo, nhất là cho đại đa số dân cư là nông dân, miền núi … Nâng cao dân trí, văn hóa
cho nông dân, công nhân và nhân dân lao đô ̣ng, xóa mù chữ, phổ câ ̣p giáo dục phổ thông; chăm sóc sức
khỏe nhân dân, đă ̣c biê ̣t là công nhân và nông dân; chống các biểu hiê ̣n tiêu cực, tham nhũng, quan liêu và
tê ̣ nạn xã hô ̣i. Thực hiện tốt các chính sách xã hô ̣i, nhất là gia đình thương bênh binh, gia đình liê ̣t sỹ, già
cả neo đơn, khuyết tâ ̣t … Viê ̣c quy hoạch phát triển đô thị gắn liền với công nhân, khoa học và công nghê ̣
phải gắn liền với quy hoạch xây dựng nông thôn, miền núi, hải đảo

Để phát huy vai trò của khối liên minh công-nông-trí thức ở nước ta hiện nay, đó là giải quyết tốt
những chính sách đối với từng thành viên trong liên minh như Đại hô ̣i X của Đảng đã khẳng định, đó là:

Đối với GCCN, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt
chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo
hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với công nhân; chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân
bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ
quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở
các khu công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú.

Đối với giai cấp nông dân, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ tiên
tiến vào nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tốt chính sách về ruộng đất. Tạo điều kiện thuận lợi để giúp
nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyến khích nông dân hợp tác với các doanh nghiệp,
hợp tác xã, chủ trang trại để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất,
tiêu thụ nông sản hàng hoá. Hỗ trợ và khuyến khích nông dân học nghề, tiếp nhận và áp dụng thành tựu
khoa học, công nghệ.

 Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân
tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ
xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản
biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội.

* CNXH khoa học là sự phản ánh bằng lý luận phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phát huy
vai trò lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Việc đề ra chiến lược, sách lược cách mạng;
việc thiết lập, phát huy vai trò hiệu lực Nhà nước; việc xây dựng, củng cố khối liên minh công nhân, nông
dân và trí thức; việc xây dựng và phát huy mối quan hệ các dân tộc trên phạm vi quốc gia và quốc

Đối với một Nhà nước XHCN, một nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực của Nhà nước đều
thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong là Đảng Cộng sản, đại diện cho quyền lợi của giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nó có vai trò, vị trí quan trọng đối với khối liên
minh trong cuộc cách mạng XHCN.

Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu tranh cách mạng một cách đơn
độc chống lại giai cấp tư sản thì sẽ bị thất bại. Nhưng nếu giai cấp công nhân liên minh được với đại đa số
nhân dân lao động mà chủ yếu là gc nông dân và giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách mạng nhất
định thắng lợi.

Về giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động SX vật chất trong lĩnh vực nông nghiệp, bao
gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Lênin đã phân tích một cách khoa học về giai cấp nông dân, đây là một
lực lượng đông đảo nhất, có tinh thần cách mạng quật khởi, đấu tranh bất khuất và có nhiều đóng góp vào
sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, nhưng nông dân vốn có PTSX phân tán, kỹ thuật lạc hậu,
năng suất lao động thấp kém, KT nông dân nông thôn chủ yếu là tự cung tự cấp. nông dân không dựa trên
tư hữu nhỏ để bóc lột các giai cấp và tầng lớp XH. Vì vậy khi liên minh với gccn, họ có mặt tích cực là dễ
gắn bó với gccn, nhưng trong đấu tranh họ muốn bảo vệ mảnh đất nhỏ bé của mình, không muốn xa rời, do
đó họ trở nên trì trệ, bảo thủ, không có tinh thần cách mạng triệt để.

Mặt khác, nông dân không có hệ tư tưởng độc lập. Tư tưởng của họ phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp
thống trị XH đương thời. Trong cách mạng XHCN, khi chưa được giác ngộ thì lập trường tư tưởng của
nông dân không kiên định, dễ dao động. Phải trải qua quá trình giác ngộ và đấu tranh cách mạng lâu dài,
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCS mới từng bước khắc phục được những mặt hạn chế của họ.

Nông dân vốn có cơ cấu không thuần nhất, với nhiều thành phần như: cố nông, bần nông, trung nông, phú
nông, họ không có sự cố kết cả về mặt KT lẫn tư tưởng và tổ chức. Giai cấp nông dân là LLSX và lực
lượng chính trị - XH đông đảo nhất trong những nước nông nghiệp. Nông dân gắn bó với cội nguồn dân
tộc, có ý thức dân tộc sâu sắc, có truyền thống yêu nước, có khả năng cách mạng to lớn. Tuy nhiên, do đặc
điểm những hạn chế của giai cấp mình mà giai cấp nông dân không thể tự giải phóng mình và giải phóng
XH một cách triệt để.

Tầng lớp trí thức: là một tầng lớp XH đặc biệt, gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo, là
những người có trình độ học vấn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực lao động trí tuệ của mình.

Phương thức lao động của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân. Sản phẩm lao động của họ là những tri thức
khoa học sáng tạo, những giá trị về tinh thần. Những sản phẩm trí tuệ ấy thường có tác dụng đặt cơ sở lý
thuật, định hướng cho nhận thức và hoạt động thực tiễn trên nhiều lĩnh vực của sự phát triển XH.

Các sản phẩm trí tuệ của trí thức có giá trị sáng tạo khoa học đều có tác động trực tiếp đến năng suất lao
động, chất lượng SX, tốc độ tăng trưởng và phát triển của XH trên cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Nhưng do phương thức lao động đặc thù của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân, cho nên trí thức không thể
đại biểu cho một PTSX tiên tiến mà trong đó LLSX mang tính XH hóa cao, mặc dù ngày nay khoa học và
công nghệ ngày càng trở thành LLSX trực tiếp của XH và vai trò của trí thức ngày càng quan trọng.

Trí thức xuất thân trong tất cả các giai tầng trong XH. Họ hoạt động trong tất cả các ngành SX, các lĩnh
vực đời sống XH. Lợi ích của trí thức gắn bó với những cơ sở, những giai cấp mà họ phục vụ. Họ không có
hệ tư tưởng độc lập, chủ yếu vì không có PTSX riêng và địa vị KT-XH độc lập, từ thời chiếm hữu nô lệ
cho đến nay vai trò và tư tưởng của họ đều phụ thuộc vào giai cấp thống trị XH.

Trong các chế độ tư hữu, đại đa số trí thức là những người lao động bị áp bức, bóc lột (tuy hình thức và
mức độ bị bóc lột không hà khắc và nặng nề như đối với giai cấp nông dân và công nhân bị áp bức bóc
lột). Vì vậy, trí thức gắn bó với nhân dân, với dân tộc, luôn đấu tranh cho một XH hòa bình, dân chủ, bình
đẳng và tiến bộ. Khi được sự lãnh đạo của gccn, trí thức có điều kiện thể hiện là một lực lượng cách mạng
quan trọng, với nhiều đóng góp to lớn. nhưng trí thức không thể tự giải phóng mình khỏi chế độ tư hữu, áp
bức, bóc lột; càng không thể trở thành lực lượng độc lập để lãnh đạo cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân
và cách mạng XHCN.

Riêng đối với giai cấp công nhân, xét về nguồn gốc ra đời, là con đẻ của nền đại công nghiệp sinh ra và
phát triển theo đà phát triển của kỹ thuật và công nghệ và chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi SX đại CN
đã thay thế về cơ bản nền SX thủ công.

Dưới chế độ TBCN, giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động làm thuê cho nhà tư bản, là giai
cấp hoàn toàn không có TLSX, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Vì vậy, trong SX họ là
giai cấp bị phụ thuộc và trong phân phối là giai cấp bị bóc lột giá trị thặng dư, do đó giai cấp công nhân đối
lập trực tiếp về lợi ích với gc tư sản.

Chủ nghĩa Mác-Lênin xác định giai cấp công nhân chính là giai cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức quan trọng
là xóa bỏ chế độ bóc lột TBCN, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ XH TBCN lên XH XHCN và
CSCN.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã luận chứng một cách khoa học sâu sắc và đầy thuyết phục: Địa vị kinh
tế và xã hội của giai cấp công nhân đã quy định vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp, đó là người làm
cuộc cách mạng XH đánh đổ CNTB, xóa bỏ hình thái XH dựa trên nền tảng chế độ tư hữu và xây dựng XH
mới lấy chế độ công hữu về TLSX làm nền tảng, không có người bóc lột người.

CNTB ra đời đã đánh dấu một bước tiến vĩ đại về phát triển LLSX. Sự ra đời của nền đại CN một mặt tạo
ra cơ sở vật chất, mặt khác sản sinh ra giai cấp công nhân. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của
LLSX trong CNTB sẽ làm cho nó mang tính chất XH hóa ngày càng cao, mâu thuẫn với mối QHSX
TBCN dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX, tạo ra mâu thuẫn cơ bản trong XH tư bản: mâu thuẫn
giữa QHSX lỗi thời - đại diện là gc tư sản với LLSX mới - đại diện là giai cấp công nhân.

Theo quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, sớm muộn gì giai cấp công
nhân - người đại diện cho LLSX mới sẽ lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh lật đổ gc tư sản - người đại
diện cho QHSX lỗi thời, thiết lập QHSX mới, mở đường cho LLSX tiếp tục phát triển.

Là giai cấp đại biểu cho LLSX tiên tiến, do vậy giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng sáng
tạo ra PTSX mới tiến bộ hơn. Đồng thời là một giai cấp đối lập trực tiếp với lới ích của gc tư sản, giai cấp
công nhân là giai cấp đại biểu cho lợi ích của toàn bộ các giai cấp và người lao động trong XH, do đó học
trở thành lãnh tụ tự nhiên của quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống gc tư sản và xây dựng XH
mới.

Thực vậy, từ địa vị KT, XH của mình đã tạo cho giai cấp công nhân trở thành một giai cấp tiên tiến nhất,
có khả năng vạch ra đường lối đúng đắn phát triển XH tốt hơn, kiên quyết loại bỏ gc tư sản bóc lột, còn
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chỉ tiên tiến khi nào đia theo giai cấp công nhân làm CM.

Đặc điểm thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Thật vậy, sống dưới
chế độ TBCN giai cấp công nhân bị tước hết TLSX và bị áp bức bóc lột nặng nề. Muốn giải phóng họ phải
lật đổ ách thống trị của gc tư sản, xóa bỏ CNTB và mọi nguồn gốc sinh ra chế độ người bóc lột người. Mác
đã viết: “Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân chẳng mất gì hết ngoài xiềng xích trói buộc họ,
nhưng nếu được thì họ được cả thế giới về mình”. Sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân chỉ có thể
hoàn tất khi XH thoát khỏi tình trạng phân chia giai cấp và áp bức bóc lột, nghĩa là muốn giải phóng mình,
giai cấp công nhân phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn XH, do đó giai cấp công nhân là giai cấp
có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Đặc điểm tiếp theo là, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức
kỷ luật cao, bởi vì điều kiện SX và trình độ KHKT ngày càng hiện đại, lại có cơ cấu tổ chức SX khoa học
chặt chẽ đã tôi luyện cho giai cấp công nhân tính kỷ luật cao, trong cuộc đấu tranh chống lại gc tư sản có
bộ máy cai trị đàn áp khổng lồ với nhiều thủ đoạn thâm độc, giai cấp công nhân muốn chiến thắng thì phải
tổ chức thật chặt chẽ, có tinh thần đoàn kết cao và tinh thần kỷ luật cao, đó là cơ sở khách quan của việc
hình thành tính tổ chức chính trị của giai cấp công nhân có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh tự giải phóng
giai cấp mình khỏi chế độ làm thuê. Một đặc điểm nữa là, giai cấp công nhân ở các nước tư bản đều có địa
vị KT, XH giống nhau, ở đâu cũng chỉ là những người lao động làm thuê và chịu sự bóc lột của gc tư bản.

- Do vậy, họ có mục tiêu đấu tranh chung là xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột của CNTB, xây dựng chế độ
mới XHCN, XH không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Tuy nhiên, gc tư sản để duy trì sự thống trị của mình
đã có sự liên minh trên phạm vi quốc tế, hình thành nên CNĐQ, để chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và các dân tộc bị áp bức. Vì thế, muốn hoàn thành sứ mệnh của mình, giai cấp công nhân các
nước trên toàn thế giới phải cùng đoàn kết lại, cùng phối hợp đấu tranh trên phạm vi toàn cầu, chính vì vậy
giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế nhất.

Lý luận CN Mác-Lênin đã khẳng định: giai cấp công nhân muốn tiến hành đấu tranh cách mạng một cách
đơn độc chống gc tư bản thì sẽ thất bại; nhưng nếu giai cấp công nhân lôi kéo, liên minh được với đại đa số
quần chúng lao động, chủ yếu là giai cấp nông dân và giữ vững được vai trò lãnh đạo cách mạng thì cách
mạng sẽ hoàn toàn thắng lợi.

CN Mác-Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công – nông và các tầng lớp lao động khác, chẳng những
chỉ trong giai đoạn cách mạng giành chính quyền mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây dựng CNXH –
“trong thời đại chuyên chính vô sản”. Xét về nguyên tắc tập hợp lực lượng cách mạng của chuyên chính vô
sản thì liên minh này đã tập hợp được LLSX và lực lượng cách mạng đông đảo nhất, trong đó gccn là giai
cấp tiên phong lãnh đạo thông qua chính đảng của mình là ĐCS. Xét về lợi ích cơ bản thì CM XHCN vì lợi
ích của toàn thể nhân dân lao động. Đó là tính tất yếu của liên minh về mặt chính trị - XH.

Trong quá trình xây dựng CNXH, tức là khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, thì cùng với tính tất
yếu CT-XH, tính tất yếu của liên minh về mặt KT lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất cho sự
thắng lợi của CNXH. Đối với liên minh công – nông – trí ở một nước nông nghiệp đi lên CNXH, tính tất
yếu KT nổi lên mấy điểm cơ bản sau:

+ Tất yếu phải gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công nghệ trong một cơ
cấu KT quốc dân thống nhất.

+ Từ một nước nông nghiệp đi lên, thì tất yếu trước tiên phải đặc biệt chú trọng nông nghiệp, để cho nông
nghiệp thực sự trở thành cơ sở để tiến hành CNH, HĐH đất nước; từng bước hình thành nền CN hiện đại
có khả năng cải tạo toàn bộ nền KT quốc dân.

+ Nông nghiệp, CN và nhiều lĩnh vực KT đời sống, phải gắn liền với sự phát triển và ứng dụng khoa học
công nghệ ngày càng hiện đại thì mới có thể xây dựng thành công CNXH, CNCS. Lênin cũng đã rất coi
trọng vai trò tất yếu của khoa học công nghệ khi

bước vào xây dựng CNXH, Người cho rằng: Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản
và giới kỷ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được.

+ Có chính quyền rồi, phải quan tâm chăm lo giải quyết vấn đề KT trong liên minh, nếu không thì bản thân
công nhân, nông dân và đại đa số nhân dân lao động dù đã thoát khỏi ách nô lệ, áp bức, bóc lột nhưng
không thể thoát khỏi đói nghèo, bệnh tật, mù chữ… Những nội dung KT và VH, XH của liên minh khi
được thực hiện tốt, chính là giải quyết một cách cơ bản những vấn đề đặt ra đó trong quá trình xây dựng
CNXH.

Xây dựng và củng cố được khối liên minh này, thực chất là xác lập và củng cố vai trò lãnh đạo của ĐCS
trong cách mạng XHCN. Mặt khác, chính khối liên minh này là lực lượng cách mạng hùng mạnh, đảm bảo
cho giai cấp vô sản giành và giữ được chính quyền.

Qua bài học (thất bại cũng như thắng lợi) của các cuộc cách mạng như: cách mạng Pháp năm 1848-1850,
Công xã Pari năm 1871, cũng như từ thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, đã chứng
minh rằng các nước thất bại là do giai cấp công nhân và Đảng tiên phong của nó không liên minh được với
giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, không giữ được vai trò lãnh đạo thì không
những không đủ sức mạnh và trí tuệ để xây dựng CNXH mà còn mất cả chính quyền cũng như những
thành quả cách mạng đã giành được

Chính cương Đảng Lao động VN tại Đại hội lần thứ hai (tháng 2-1951) chỉ rõ: “Chính quyền của nước VN
Dân chủ Cộng hòa là chính quyền dân chủ của nhân dân …. lấy liên minh công nhân, nông dân và lao
động trí thức làm nền tảng và do gccn lãnh đạo”. (Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tập 12, trang 437).

Qua thực tiễn cách mạng VN, Chủ tịch HCM đã rút ra kết luận đúng đắn về vai trò khối liên minh công –
nông – trí là: “Chỉ có khối liên minh công – nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên quyết và
triệt để đánh đổ các thế lực phản CM, giành lấy và củng cố chính quyền của nhân dân lao động, hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân tộc, dân chủ và tiến lên CNXH” (HCM toàn tập, tập 10, NXB sự thật,
1989).

Văn kiện Đại hội ĐCS VN lần thứ VII đã khẳng định: “Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức
của mình và nếu bản thân công – nông không được nâng cao kiến thức thì không thể xây dựng được
CNXH”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐCS VN (năm 2001) chẳng những tiếp tục khẳng định
tính tất yếu và vai trò của liên minh công – nông – trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc VN
XHCN mà còn đặc biệt coi trọng vấn đề này khi đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

- Đại hội chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo.

Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu cầu khách
quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng CNXH, mà
còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển KT, VH, XH của đất nước. Liên minh thể hiện tính quy
luật chung của cách mạng XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và thường có nền
KT chậm phát triển.

Cốt lõi của liên minh về KT là mối quan hệ chặt chẽ giữa CN và nông nghiệp. Từ lâu, Chủ tịch HCM đã
khẳng định: “CN và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi
đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”.

Đại hội VII của Đảng ta cũng khẳng định: “CNH đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện … nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH, không ngừng
nâng cao năng suất lao động XH và cải thiện đời sống nhân dân”.

Nông nghiệp không thể có năng suất cao, hàng hóa nông sản nhiều và chất lượng tốt nếu không có sự tác
động trực tiếp của CN.

Cách mạng không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại. Không thể tiến hành CNH đất nước, nếu
không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hóa cao…

Đặc biệt trong nội dung kinh tế của liên minh công – nông, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà
nước và nông dân. Trong quan hệ đó, Nhà nước vừa là một chủ thể lợi ích đại diện XH, có quan hệ dân
chủ, bình đẳng cùng có lợi với nông dân, vừa là người có vai trò trách nhiệm và khả năng giúp đỡ, định
hướng và điều tiết hợp lý các quan hệ lợi ích, các hoạt động, thông qua luật pháp, chính sách và những cơ
sở kinh tế quốc doanh.

Phát huy vai trò của khối liên minh công – nông – trí ở nước ta hiện nay, đó là giải quyết tốt những vấn đề
XH:

thứ nhất, nước ta vừa trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt, trong đó nông dân, nông thôn có đóng góp trực
tiếp lớn về người và của cho đất nước, cũng như làm nhiệm vụ quốc tế. Vì vậy Đảng và Nhà nước phải
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, đặc biệt là các gia đình thuộc diện chính sách.

Thứ hai, phải giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn nhất là thanh niên học sinh, bộ đội hoàn
thành nghĩa vụ …
Thứ ba, chống mù chữ, nâng cao dân trí và đời sống VH, tinh thần cho nông dân, đấu tranh loại trừ các tệ
quan liêu, tham nhũng mất dân chủ

Thứ tư, Đảng và Nhà nước cần gắn chặt việc quy hoạch phát triển CN đô thị với quy hoạch và phát triển
nông thôn.

Thứ năm, cần đề ra chính sách sử dụng, bồi dưỡng và đãi ngộ thỏa đáng đối với trí thức.

Thứ sáu, đào tạo đội ngũ trí thức mới đủ sức đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển khoa học và công
nghệ hiện đại của đất nước trong những năm tới, như Đại hội VII của Đảng ta đã chủ trương “sử dụng có
hiệu quả và tăng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước.

Phát triển giáo dục và VH, nâng cao dân trí”, đó là những nhiệm vụ mà trí thức ở nước ta phải trực tiếp
nghiên cứu, đề xuất những chính sách, giải pháp và trực tiếp tham gia vào những hoạt động đổi mới. Thứ
bảy, đổi mới việc tổ chức, lãnh đạo, cơ chế quản lý đối với đội ngũ trí thức. Nhà nước phải kiện toàn hệ
thống các tổ chức, cơ quan khoa kỷ thuật để đi vào hoạt động đồng bộ trong sự phối hợp giữa các ngành
khoa học và trong mỗi lĩnh vực … đạt hiệu quả cao hơn cho XH. Từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý
khoa học …

Thành tựu đạt được của cách mạng nói chung và thành tựu KT-XH mới thu được hơn 15 năm đổi mới ở
nước ta đã khẳng định sự đúng đắn của liên minh công – nông – trí và vai trò của giai cấp công nhân VN
mà nòng cốt là Đảng Cộng sản VN tiên phong đã từng bước đưa cách mạng VN tiến lên con đường xây
dựng CNXH, góp phần tích cực vào việc bảo vệ phong trào cách mạng XHCN trên thế giới, bảo vệ CN
Mác-Lênin. Chúng ta luôn tin tưởng rằng với liên minh công – nông – trí và đặc biệt là đảng lãnh đạo tiên
của giai cấp công nhân VN ở thời đại ngày nay sẽ luôn tiếp nối truyền thống tốt đẹp của ông cha, vững tay
lái chèo con thuyền cách mạng VN cập bến “Dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”,
tiến lên CNXH và mục tiêu cuối cùng là CNCS

Tất yếu liên minh công nông trí trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta

- Vấn đề liên minh giai cấp công nhân vì giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động xã hội khác trong
cuộc cách mạng của giai cấp công nhân đấu tranh chống giai cấp tư sản, do Mác, Ăng - ghen phát hiện, xây
dựng, được Lê - nin vận dụng phát triển trong quá trình cách mạng XHCN và bước đầu xây dựng CNXH
ở nước Nga, là một nguyên lý căn bản trong lý luận CNXH KH.

- TB và xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc
xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH.

- Qua phân tích cơ cấu xã hội TBCN và kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân, từ những
tổn thất, thất bại trong cuộc đấu tranh đó, các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng, vì đã không tổ chức liên minh
với “người bạn tự nhiên” của mình đó là nông dân Lê - nin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh
công nông và các tằng lớp lao động khác của Mác trong giai đoạn CNTB phát triển cao - giai đoạn ĐQCN,
đã tổ chức liên minh và nhờ đó giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Mười vĩ đại.

- Trong hoàn cảnh lịch sử mới, giai cấp công nhân đã xoá bỏ được chế độ xã hội cũ, bước đầu xây dựng xã
hội mới, Lê nin lãnh đạo Đảng cộng sản tiếp tục mở rộng liên minh, không chỉ chủ yếu công - nông trước
đây mà các tầng lớp lao động, đặc biệt nhấn mạnh hơn vai trò của tầng lớp trí thức.

Trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và lãnh đạo, đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên lý đó, từng bước xây dựng được khối liên minh
công - nông - trí thức ngày càng vững chắc và góp phần to lớn vào thắng lợi trong trong suốt quá trình cách
mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Từ Đại hội lần thứ II năm 1951,

Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của “liên minh công nhân với nông dân và lao động trí thức”.

Tính tất yếu khách quan về sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH, không phải xuất phát từ ý chí chủ quan của các nhà kinh điển hay
của các ĐCS mà nó đặt trên cơ sở chín muồi của những yếu tố, điều kiện khách quan.

- Khi phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp trong CNTB, C.Mác chỉ ra, ngoài giai cấp công nhân là giai cấp
đang phát triển mạnh mẽ cùng với nền công nghiệp hiện đại thì còn các giai cấp và tầng lớp lao động xã
hội khác thống nhất với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và cùng đối lập với lợi ích cơ bản với giai
cấp tư sản.

- Từ những cuộc đấu tranh mang tính đối đầu đầu tiên của giai cấp công nhân với giai cấp tư sản bị thất
bại, theo Mác là do công nhân chiến đấu đơn độc, chưa liên hệ được với nông dân nên trở thành “bài ca ai
điếu”. Trong Cách mạng tháng Mười và sau khi giai cấp công nhân đập tan chính quyền của giai cấp thống
trị bóc lột, Lênin khẳng định “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giai cấp giữa
giai cấp vô sản, đội tiền phong của những người lao động với đông đảo những tầng lớp lao động không
phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức)”

Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy
khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng
không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại
nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát
triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. Để thực hiện
được vai trò lãnh đạo tiên phong của mình, giai cấp công nhân mà đứng đầu là ĐCS phải tổ chức tập hợp
được mọi lực lượng xã hội, trong đó chủ yếu là nông dân, trí thức. Muốn thế phải nắm bắt được đặc điểm,
vai trò, nhu cầu của các giai cấp tầng lớp.

Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát
triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu
việt mà không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên
phạm vi thế giới, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi
đầu trong việc giải phóng con người, giải

phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là
sự nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân.

Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu với tư liệu sản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu
cầu của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu

cho công nghiệp và xuất khẩu. Nông dân có tính hai mặt, vừa là người lao động, đồng thời là người tư hữu
nhỏ. Trong mọi chế độ xã hội nông dân không có hệ tư tưởng độc lập, luôn luôn phụ thuộc vào hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị đương thời. Luôn có nguyện vọng được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột nhưng
chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng tự giải phóng của mình. Tuy nhiên, nông dân luôn có vai trò to
lớn trong mỗi chế độ xã hội, là lực lượng cách mạng của giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến
bộ của các giai đoạn lịch sử. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi
chế độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội khác.
Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội. Họ là
lực lượng sản xuất đông đảo đầy tiềm năng, là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp hóa, là nơi cung
cấp lương thực, thực phẩm chủ yếu cho xã hội, thị trường đầy tiềm năng trong nền kinh tế thị trường của
thời kỳ quá độ. Giai cấp nông dân đã được giai cấp công nhân giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhu
cầu tìm đến với giai cấp công nhân cũng là nhu cầu tự thân của họ, nên là người bạn tự nhiên, gần gũi nhất
của giai cấp công nhân. Đây chính là mối quan hệ đồng hành, gắn bó khách quan tạo ra sự cố kết chặt chẽ
công – nông.

Tầng lớp trí thức, ta thường gọi là đội ngũ trí thức, là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc
biệt bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa
học, trí tuệ, tinh thần. Nói chung họ là những người có

trình độ học vấn và chuyên môn cao, am hiểu sâu rộng lĩnh vực chuyên môn của mình. Họ không phải là
giai cấp mặc dù số lượng ngày càng đông, mà chỉ là một tầng lớp vì họ không trực tiếp sở hữu tư liệu sản
xuất, họ chỉ sở hữu trí tuệ, lại xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội, không có hệ tư tưởng
độc lập. Dưới các chế độ thống trị trước đây, trí thức bao giờ cũng bị các giai cấp thống trị nắm lấy, làm
công cụ trong tay mình. Họ cũng là người bị bóc lột về cơ bản, và cũng luôn có nguyện vọng được giải
phóng. Cũng như giai cấp nông dân, họ chưa bao giờ tự làm nổi cuộc cách mạng giải phóng mình thành
công. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trí thức cũng đã được giải phống, càng có điều kiện để phát huy vai
trò của mình. Ở mọi quốc gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ, văn hoá của đất nước. Họ có vai trò
nghiên cứu khoa học, phát minh sang chế, vận dụng, ứng dụng, chuyển giao các thành tựu khoa học - công
nghệ tiên tiến phù hợp để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà
nước để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trí thức nói chung rất nhạy cảm về mặt chính trị xã hội, nên khi đã thấy
được vị trí vai trò tiên phong, lãnh đạo của giai cấp công nhân thì họ sẵn sàng tự giác đứng về phía công
nhân và dân tộc để thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội chung, trong đó có bản thân mình.

Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động
sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp
đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu
quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp
lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan
từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi
mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi”. Chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về tính tất yếu của liên minh công
- nông - trí thức, không chi trong giai đoạn giành chính quyền, mà còn đặc biệt lưu ý trong giai đoạn xây
dựng CNXH “trong thời đại chuyên chính vô sản”. Trong cuộc cách mạng giành chính quyền, cần phải
liên minh thì trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới liên minh càng phải được tiếp tục duy trì và củng cố.
“Nguyên tắc cao nhất của CCVS là duy trì khối liên minh…để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh
đạo và chính quyền nhà nước”.

- Trên cơ sở đó để giai cấp công nhân thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, như mục tiêu Đảng ta đã
đề ra là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vai trò đó chỉ được giữ vững và thực
hiện có kết quả tốt khi tổ chức tốt liên minh công, nông và trí thức. Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của
Nhà nước XHCN là xây dựng thành công CNXH, vì lợi ích của toàn thể nhân dân, nhưng nhân dân lại tập
trung chủ yếu trong công nhân, nông dân, trí thức.

- Đó là tất yếu về chính trị - xã hội. Vì mục têu chung cũng như lợi ích chính trị của từng giai cấp, tầng lớp
là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và những thành quả của cách mạng XHCN, các giai cấp tâng lớp
không được tách rời nhau hoặc hoạt động tự phát mà phải gắn bó hữu cơ với nhau thành một khối liên
minh vững mạnh. Liên minh phải được Đảng cộng sản - đội tiền phong của gia cấp công nhân lãnh đạo và
tổ chức hoạt động, thống nhất cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì mới làm cơ sở cho Nhà nước XHCN
và nòng cốt của khối Đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở gắn kết của các giai cấp tầng lớp công - nông - trí
thức ở nước ta còn tất yếu chính trị từ trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nhờ sự lãnh đao của Đảng,
họ đã đoàn kết lại trong mặt trận dân tộc thống nhất, trong đó liên minh công nông là nòng cốt. Lợi ích,
niềm tin của công nhân, nông dân, trí thức đối với Đảng đã được thiết lập vững chắc. Bước vào thờI kỳ quá
độ, mối liên kết chính trị đó tiếp tục được phát huy cao độ hơn. Sự phân tích trên cho thấy cơ sở khách
quan, là diều kiện chính tri- xã hội để liên minh công - nông - tri thức ngày càng bền chặt hơn.

Lê - nin đặc biệt nhấn mạnh khi chuyển từ giai đoạn giành quyền sang giai đoạn “ chuyên chính vô
sản”, chính trị đã chuyển sang chính trị trong lĩnh vực kinh tế, liên minh muốn được phát huy và củng cố
hơn phải lấy kinh tế làm cơ sở. Phải xuất phát từ yêu cầu khách quan về kinh tế - kỹ thuật của một nước
nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH, mà nhiệm vụ trung tâm là CNH, HĐH. Do đó phải gắn công nghiệp với
nông nghiệp và khoa học công nghệ hiện đại. Về tất yếu kinh tế - kỹ thuật, Lênin chỉ rõ: nếu không có kinh
tế nông nghiệp làm cơ sở thì một nước nông nghiệp không thể xây dựng được nền công nghiệp. Hồ Chí
Minh cũng chỉ rõ về tính tất yếu này: biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Tư tưởng đó tiếp tục được thể hiện trong hội
nghị trung ương bảy( Khóa IX)

You might also like