You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC

BỘ MÔN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

MÃ ĐỀ :05…..

TIỂU LUẬN MÔN


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài:
Chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế của Đảng từ Đại hội VIII (1996) đến nay
và vấn đề thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa
dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.

Họ và tên: Nguyễn Tiến Đạt…….......


Mã sinh viên: 19810310528.................
Lớp: D14CNPM6…………………….

HÀ NỘI ,01/2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1
NỘI DUNG....................................................................................................................... 2
CHƯƠNG I. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐƯỢC THÔNG QUA TẠI ĐẠI HỘI VIII (6/1996).........................2
CHƯƠNG II. THỰC HIỆN NHẤT QUÁN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỘC LẬP
TỰ CHỦ, MỞ RỘNG, ĐA DẠNG HÓA, ĐA PHƯƠNG HÓA CÁC QUAN HỆ
QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY......................................................................4
2.1. Vấn đề thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế ở nước ta hiện nay..............................................4
2.1. Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.............7
KẾT LUẬN.....................................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................11
MỞ ĐẦU

Trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng luôn nghiên cứu, áp dụng
những mô hình, chiến lược công nghiệp hóa phù hợp với thực tiễn đất nước. Từ năm 1994,
Đảng đã đưa ra quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đó là quá trình chuyển đổi căn
bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.

Từ thực tiễn đổi mới, Đảng đã rút ra nhiều bài học quý, như kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới; kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi
mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị; xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.

Nhờ thực hiện nhất quán đường lối đổi mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa mà trong những năm qua, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, “Chất lượng
tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch sang
chiều sâu”. Có thể thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những giải pháp quyết
định đưa nước ta sớm thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu về
kinh tế, đồng thời cải thiện đời sống của nhân dân.

1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐƯỢC THÔNG QUA TẠI ĐẠI HỘI VIII (6/1996)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã họp từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-
1996 tại Hà Nội (trong đó từ ngày 22-6 đến ngày 26-6 Đại hội nội bộ). Dự Đại hội có 1.198
đại biểu thay mặt cho 2.130.000 đảng viên trong cả nước và còn có 41 đoàn đại biểu quốc tế.
Đại hội VIII diễn ra trong bối cảnh Liên Xô tan rã và chủ nghĩa xã hội đi vào thoái trào.
Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển với trình độ ngày càng cao. Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Công cuộc đổi mới trong 10 năm (1986-1996) thu được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang
thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Căn cứ vào tình hình nêu trên và Cương lĩnh của Đảng, Đại hội khẳng định cần “tiếp
tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây
dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp”.

Đại hội cũng nêu rõ quan điểm chỉ đạo công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Giữ vững độc
lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối
ngoại.

Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới. Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo. Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng
tăng tích lũy cho đầu tư phát triển.

Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo
dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.

2
Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công
nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu
quyết định.

Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự
án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có.
Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo thêm nhiều việc
làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và
có hiệu quả.

Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh.

Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm cuối của thập
niên 1990 là:

“Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát
triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản;
phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở
rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở những khâu ách tắc
và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp
nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác
dụng nhanh và có hiệu quả cao. Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đẩy mạnh các
hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như chế biến nông, lâm,
thủy sản, khai thác và chế biến dầu - khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử
và công nghệ thông tin, du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ.”

Đại hội đã tổng kết và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, nêu nhiệm vụ tổng quát, những tư tưởng
chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển.

3
CHƯƠNG II. THỰC HIỆN NHẤT QUÁN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỘC LẬP TỰ
CHỦ, MỞ RỘNG, ĐA DẠNG HÓA, ĐA PHƯƠNG HÓA CÁC QUAN HỆ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vấn đề thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa
dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế ở nước ta hiện nay

Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đối với mọi thắng lợi của công tác đối
ngoại, phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên mặt trận đối ngoại; nhất
quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; vừa hợp tác
vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, "dĩ bất biến ứng vạn biến"; bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu
rộng vào khu vực và thế giới. Quá trình này đã thu được những kết quả hết sức to lớn, góp
phần quan trọng vào những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Điều đó cho thấy chủ
trương đúng đắn, chủ động tích cực hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta. Trong quá
trình triển khai, chính sách đối ngoại với mục tiêu bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia dân
tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Mối
quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế được quán triệt xuyên suốt trong mọi chính
sách và hành động. Kết quả là ta đã từng bước hội nhập một cách sâu rộng vào khu vực và
thế giới.

Năm 1990, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên minh châu Âu, năm
1995 chúng ta đã bình thường hoá quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung
hợp tác với Liên minh châu Âu và làm đơn gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Năm 2000,
Việt Nam ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Việc ký Hiệp định này có ý
nghĩa hết sức quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đầu tư, thương mại và tang
trưởng của nền kinh tế nước ta. Đến năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên
của tổ chức thương mại thế giới.

Cùng với quá trình hội nhập khu vực và toàn cầu, Việt Nam cũng đã tăng cường hợp
tác song phương, triển khai mạnh mẽ quan hệ hợp tác với các đối tác quan trọng, nhất là xây
dựng khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Nhìn chung, các đối tác chiến lược
và đối tác toàn diện mà Việt Nam ký kết đều là những đối tác quan trọng với lợi ích cả về
kinh tế, chính trị và đối ngoại nói chung. Việt Nam là nước duy nhất trong ASEAN đã thiết
lập khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện với toàn bộ 5 nước thành
viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ nhóm nước G7 và 13/20 nước G20 và 8/9

4
nước trong ASEAN. Các đối tác này chiếm 8/10 thị trường xuất khẩu chính, với 60,7% tổng
giá trị xuất khẩu; 9/10 thị trường nhập khẩu chính với 74,7% tổng giá trị nhập khẩu, 76,7%
tổng lượng khách du lịch; đóng góp 74% tổng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cơ sở
quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện đã ký kết đã góp phần củng cố môi trường
hoà bình, hữu nghị hợp tác với các đối tác quan trọng, đặc biệt là với các nước lớn, với các
nước láng giềng chung biên giới. Đồng thời, việc thiết lập quan hệ đối tác với các nước lớn,
có vai trò quan trọng góp phần giúp Việt Nam xử lý tốt quan hệ với các nước lớn, đưa hợp
tác trở thành chủ đạo, đồng thời tạo cơ chế và kênh trao đổi giảm thiểu sự khác biệt trong
quan hệ với các nước này, tạo điều kiện để tăng cường lòng tin. Thông qua các quan hệ song
phương đã được thiết lập đã tạo ra sự đan xen lợi ích, giúp Việt Nam tranh thủ được nguồn
lực quốc tế để phát triển đất nước. Ngoài ra, thông qua các đối tác quan trọng này, đã góp
phần nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, thể hiện thông qua vị trí của ta trong
chính sách đối ngoại của các nước cũng như trong các khuôn khổ hợp tác đa phương.

Kết quả hội nhập quốc tế của đất nước được thể hiện trên các lĩnh vực cụ thể sau đây:

Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực
hiện tương đối nhanh, sâu rộng. Chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
đối ngoại, Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm đã tạo
ra sự phát triển mạnh mẽ hội nhập của Việt Nam với các đối tác, nhất là các đối tác chiến
lược. Từ một nước bị bao vây cấm vận, với chính sách đối ngoại đúng đắn, giải quyết tốt
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã nhanh chóng thiết lập
quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng. Chúng ta đã
thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới. Trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đồng thời, chúng ta đã
chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên
hợp quốc và các tổ chức khu vực quan trọng. Hợp tác đa phương theo phương châm chủ
động, tích cực tham gia, nhất là vào quá trình xây dựng và định hình các quy tắc và luật lệ
mới, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương. Việc tham gia các cơ chế đa
phương một cách tích cực chủ động là để trực tiếp bảo đảm các lợi ích an ninh, phát triển và
vị thế của đất nước. Năm 2020 Việt Nam với vai trò là Chủ tịch ASEAN và là Uỷ viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc Việt Nam đã thể hiện rất tốt vai trò của
mình, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới. Với thế và
lực trong nước tăng lên cùng với chính sách đối ngoại chủ động, tích cực và hiệu quả vị thế
của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.

5
Về hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, hội nhập kinh tế quốc tế đã phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Độ mở của nền kinh tế nước
ta hiện nay vào loại cao nhất thế giới với tỷ trọng xuất khẩu trên GDP là hơn 200%. Việt
Nam đã tham gia vào hầu hết các hiệp định đa phương thế hệ mới. Với các kết quả hội nhập
kinh tế sâu, rộng như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp của Việt Nam mở
rộng thị trường, kết nối và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn
cầu. Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang chuyển sang giai đoạn phát triển
mới cả về chiều rộng, chiều sâu và toàn diện. Với những Hiệp định thương mại tự do thế hệ
mới vừa được ký kết có tính toàn diện, quy mô rộng, mức độ cam kết cao, điều chỉnh toàn
bộ các lĩnh vực, trong đó bao hàm nhiều nội dung mới như thương mại điện tử, phát triển
bền vững, các biện pháp sau biên giới, đồng bộ chính sách, giải quyết chính sách giữa nhà
đầu tư và nhà nước đem lại rất nhiều cơ hội cho phát triển, đồng thời đòi hỏi những nỗ lực
trong nước rất cao để có thể đem lại kết quả như mong muốn. Thông qua hội nhập quốc tế,
kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế nước ta tăng rất nhanh, từ 1,74 tỷ USD năm 1986 lên
10 tỷ USD năm 1996, 45 tỷ USD năm 2006 và 287,8 tỷ USD năm 2020 (5). Hội nhập kinh tế
quốc tế đã góp phần phát huy nội lực, tranh thủ được nguồn lực nước ngoài, đặc biệt là công
nghệ và quản trị hiện đại. Thông qua hội nhập quốc tế, Việt Nam đã thu hút được lượng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn, góp phần bổ sung nguồn lực trong nước. Nguồn vốn FDI thu
hút vào nước ta tăng rất nhanh, từ 428,5 triệu USD năm 1991 lên 4 tỷ USD năm 2006 và 20
tỷ USD năm 2020(6). Năm 2020, đã có 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam,
trong đó, dẫn đầu là Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Đồng thời, hội nhập
quốc tế cũng là áp lực giúp đẩy mạnh cải cách mạnh mẽ trong nước để bảo đảm điều kiện
hội nhập thành công và hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần tạo ra tốc độ tăng
trưởng cao của Việt Nam, góp phần đưa kim ngạch xuất nhập khẩu tăng liên tục trong nhiều
năm qua, góp phần chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng chất lượng hơn.

Tuy nhiên, quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế cũng cho thấy cần phải giải quyết tốt
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, qua những cuộc khủng
hoảng, hoặc những biến động của thế giới cho thấy để hội nhập thành công phải có nội lực
mạnh, đồng thời phải đa phương hoá, đa dạng hoá các đối tác, các thị trường để tránh những
rủi ro và lệ thuộc. Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài cũng cho thấy cần phải nhận thức
sâu sắc hiệu quả của thu hút đầu tư, nhất là giai đoạn hiện nay, phải bảo đảm thu hút được
công nghệ cao, công nghệ sạch và làm tốt việc chuyển giao công nghệ cũng như gắn kết giữa
doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

Hội nhập trong lĩnh vực văn hoá xã hội. Cùng với sự hội nhập nhanh, sâu rộng và
toàn diện trong lĩnh vực kinh tế, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hoá - xã hội cũng có
những bước phát triển quan trọng. Hội nhập với tốc độ cao hơn, toàn diện hơn, đa dạng về

6
hình thức, phương thức, đối tác và chất lượng hội nhập ngày càng nâng cao. Việt Nam đã ký
hơn 100 thoả thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hoá, đã thu hút bạn bè
quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều. Các hình thức giao lưu văn hoá, phim ảnh, thời
trang… của Việt Nam với quốc tế ngày càng nhiều.

Hội nhập văn hoá cũng là cơ hội để Việt Nam quảng bá đất nước, con người, văn hoá Việt
Nam và tiếp thu giá trị văn hoá các nước. Nhờ có hội nhập mạnh mẽ về văn hoá mà bạn bè
quốc tế đến Việt Nam ngày càng nhiều. Trong suốt nhiều năm vừa qua, khách du lịch đến
Việt Nam đều tăng với tốc độ cao, góp phần cả về phát triển kinh tế và văn hoá, xã hội.
Cũng từ thành công của hội nhập trong lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án,
nhiều công trình văn hoá tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện
để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hoá tiêu biểu của nhiều
quốc gia trên thế giới. Từ đó, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích
giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hoá- xã hội được tăng cường
sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Đồng thời,
hội nhập quốc tế cũng tạo công ăn việc làm, góp phần giảm nghèo bền vững ở Việt Nam.
Sau 35 năm đổi mới và hội nhập, tỷ lệ nghèo giảm mạnh. Theo số liệu thống kê, tỷ lệ nghèo
giảm mạnh từ gần 60% vào năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998, xuống còn 13,4% năm
2008 và đến năm 2016 chỉ còn 5,8%.

Hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh.

Thực hiện chính sách hội nhập quốc tế toàn diện, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực
quốc phòng an ninh cũng không ngừng được phát triển và mở rộng. Hội nhập quốc phòng -
an ninh vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước vừa góp phần bảo vệ độc lập, tự chủ,
chủ quyền quốc gia trong bối cảnh mới. Việt Nam đã chuyển từ chủ trương tham dự, sang
phát huy vai trò thành viên có trách nhiệm trên nhiều diễn đàn khu vực và toàn cầu. Nội
dung hội nhập quốc tế để giữ nước từ xa, từ sớm, giữ nước từ khi “nước còn chưa nguy”.
Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng - an ninh với các nước lớn và các nước
trong khu vực. Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện các cơ chế đối thoại Quốc phòng - An ninh,
giao lưu biên phòng với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, trao đổi hữu
nghị của tàu hải quân được đẩy mạnh. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính
thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tuỳ viên quân sự tại hơn 30 nước và hơn 40 nước có
văn phòng tuỳ viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn
đàn an ninh quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào các hoạt động hợp tác quốc tế
về an ninh quân sự toàn cầu. Việt Nam cũng đã tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình của

7
Liên hợp quốc. Việt Nam đã gửi các sỹ quan thông tin đến các Phái bộ gìn giữ hoà bình của
Liên hợp quốc tại Cộng hoà Trung Phi, Nam Xu Đăng và tiếp theo đó đã triển khai các bệnh
viện dã chiến cấp 2 và công binh. Như vậy, Việt Nam không chỉ giữ vững độc lập chủ quyền
của Tổ quốc mà còn chủ động, tích cực đóng góp vào việc duy trì hoà bình, an ninh quốc tế.
2.1. Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Trải qua hơn 90 năm đấu tranh với những thành quả cách mạng đã đạt được, cùng với
quyết định đổi mới và đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích và nguyện vọng
của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện là do Đảng ta đã nhận
thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa
và phát huy truyền thống dân tộc, những giá trị trong việc chớp thời cơ, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy
bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách
mạng, khi tình hình thế giới và trong nước thay đổi. Đối với sinh viên – thanh niên – hàng
ngũ tri thức trẻ hiện nay cần phải nỗ lực phấn đấu, tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó
khăn, thách thức góp phần thực hiện đường lối đổi mới của đất nước ta hiện nay.

Để thực hiện được nhiệm vụ này, sinh viên cần phải kiên trì thực hiện đường lối và
mục tiêu đường lối đổi mới, tích cực học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ lý luận chính trị,
bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn học tập và cuộc sống, đồng thời phải luôn luôn
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Sinh viên phải rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới đất
nước, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh
bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các
tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…

Sinh viên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chuyên
môn, khoa học, kỹ thuật, tay nghề. Trong thời kỳ đổi mới, sinh viên nước ta cần nâng cao
trình độ học vấn, tay nghề, khả năng thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị trường
lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế. Sinh viên phải tích cực tham gia xây
dựng xã hội học tập với phương châm: người sinh viên nào cũng phải học, ở đâu, làm gì,

8
thời gian nào cũng phải học; người sinh viên nào cũng phải xác định tham gia học tập
thường xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.

Sinh viên phải tích cực xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân, phải tích cực tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững
chắc. Đặc biệt, sinh viên hiện nay cần tự giác tham gia vào các Hội của Đoàn thanh niên,
phấn đấu trở thành Đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các tổ chức quần chúng
nhân dân.

Sinh viên cần phải tích cực tham gia xây dựng môi trường nhà trường, xã hội lành
mạnh và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Đồng thời, phải xung kích đi đầu trong
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tích cực tham gia các
chương trình, dự án của địa phương; tự nguyện, tự giác tham gia các thực hiện nghĩa vụ
quân sự, tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Cuối cùng, trong công cuộc đổi mới và bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều tác
động tiêu cự, sinh viên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải
quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh
hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết
các vấn đề toàn cầu như: giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo
vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng
ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo.

Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, lợi dụng những kẽ hở trong quá trình đổi mới đất
nước, các thế lực thù địch nhăm nhe nhằm mục đích âm mưu phá hoại sự nghiệp đổi mới
của đất nước, mà sinh viên lại là những đối tượng dễ bị lôi kéo, dễ dao động nhất, bởi các
thế lực thù địch đã luôn coi sinh viên là đối tượng chủ yếu để tuyên truyền, chống phá. Nếu
như đối với các nước xã hội chủ nghĩa trước kia, các thế lực thù địch lợi dụng các hình thức
truyền thống như tuyên truyền “rỉ tai” với mục đích “mưa dầm thấm lâu” bằng tờ rơi, báo
chí, phát thanh… thì ngày nay, các thế lực thù địch đã triệt để lợi dụng mạng xã hội để tấn
công vào sinh viên.

Nhận thấy, sinh viên, thanh niên là lực lượng chủ yếu sử dụng internet và mạng xã
hội, các thế lực thù địch đã ra sức đăng tải các bài viết, blog, hình ảnh, clip… trên các kênh
Youtube, mạng xã hội để đưa các thông tin bịa đặt, xuyên tạc, vu khống. Với cách kiểu “rỉ
tai”, kích động, “sử dụng đài phát thanh, truyền hình, tạp chí tiếng Việt trong đó có nội dung
rất phản động để tuyên truyền, chống phá cách mạng Việt Nam, đưa một số lượng lớn tài
9
liệu, sách báo, truyền đơn, băng hình… có nội dung phản động, đồi trụy vào Việt Nam, chỉ
đạo bọn cơ hội viết nhiều bài xuyên tạc, bôi nhọ tình hình Việt Nam, cho nên sinh viên cần
phải tỉnh táo, nâng cao cảnh giác, phòng chống và tố giác những người, đối tượng có hành vi
chống phá, đưa ra những luận điệu xuyên tạc con đường đổi mới đất nước và xây dựng xã
hội chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

10
KẾT LUẬN

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng “có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta”. Đại hội
VIII của Đảng là Đại hội tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân. Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là chính
sách nhất quán trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Về mặt lý luận đây là
mối quan hệ biện chứng, tất yếu, khách quan, bất kỳ quốc gia nào muốn hội nhập quốc tế
thành công đều phải vận dụng hợp lý mối quan hệ này. Chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta trong suốt những năm đổi mới vừa qua đã thể hiện nhất quán và từng bước cụ
thể nội dung của chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế cho từng giai
đoạn phù hợp với bối cảnh nhất định. Đó cũng là quá trình phát triển quan hệ đối ngoại và
hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thực tiễn triển khai và kết quả đạt được sau 35 năm đổi mới cho thấy chính sách đối
ngoại trên là hoàn toàn đúng đắn và khoa học. Hội nhập quốc tế của Việt Nam đã phát triển
nhanh chóng cả về chiều rộng và chiều sâu. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với hầu hết các nước trên thế giới, xây dựng đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với
nhiều nước, trong đó có nhiều nước lớn, có vị trí và tầm ảnh hưởng quan trọng của thế giới
và khu vực. Việt Nam cũng tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng
và thực sự có nhiều đóng góp quan trọng và có trách nhiệm trong những tổ chức này. Quá
trình đó, Việt Nam cũng đã từng bước hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh vực như chính
trị, kinh tế, văn hoá - xã hội và quốc phòng - an ninh. Trong đó hội nhập kinh tế là nòng cốt,
là cơ sở, hội nhập trong các lĩnh vực khác là toàn diện và bổ sung cho hội nhập kinh tế quốc
tế. Hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn có ý lịch sử của đất
nước trong 35 đổi mới vừa qua.

11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1 +
2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.

Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Dùng cho hệ
không chuyên lý luận chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.

12

You might also like