You are on page 1of 13

Nhóm 1

Tô Hoàng Kham - 47.01.603.057

Nguyễn Thị Minh - 47.01.603.077

Đào Thị Bích Vân - 47.01.603.122

Nguyễn Nhật Lam – 47.01.603.060

Đề tài:

PHẦN 2: QUÁ TRÌNH MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ


ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
I) Quá Trình Mở Rộng Quan Hệ Đối Ngoại Của Việt Nam

1) Thời kỳ 1986 - 1990

Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội
lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối mới, với những quyết sách
toàn diện.

Đặt nền tảng của chiến lược kinh tế đối ngoại gắn bó với cộng đồng xã hội chủ nghĩa,
trước hết với Liên Xô, đồng thời chúng ta cần phấn đấu để có những quan hệ năng động
hơn về kinh tế khoa học kỹ thuật với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mở thêm
quan hệ hợp tác với các nước đang phát triển, với một số nước và tổ chức tư nhân trong
thế giới tư bản chủ nghĩa, chủ trương tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước phát
triển trên cơ sở bình đằng và cùng có lợi.

Hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta tập trung chủ yếu vào chương trình đối ngoại,
nhưng các đối tác chưa được đa dạng và vẩn còn chủ yếu gói gọn trong Hội đồng tương
trợ kinh tế.

Một trong những chủ trương mang tính đột phá của thời kì này là “Công bố chính sách
khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các
ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với luật đầu tư cần có
các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều
vào nước ta để hợp tác kinh doanh”.

2) Thời kỳ 1991 – 2000


Trong giai đoạn này Việt Nam vẫn còn bị cô lập trên trường Quốc tế. Hoa Kỳ tiếp tục
xây dựng chính sách cấm vận đối với Việt Nam.

Bước sang giai đoạn mới, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII diễn ra từ
ngày 24/6/1991 đến ngày 27/6/1991 với phương châm: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới tiến
lên theo con đường Chủ nghĩa Xã hội.

Chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế
độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Đây chính
là tư tưởng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới.

Đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài vào nước ta đầu tư, hợp tác kinh doanh.

Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền hạn thành viên của nước ta trong các tổ chức
quốc tế; gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều
kiện.

3) Thời kỳ 2001 – 2010

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ
môi trường. Chính phủ và cán bộ, ngành và các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và
thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành
động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và doanh nghiệp; đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn chỉnh hệ
thống luật pháp, nâng cao nâng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Đây
là một bước phát triển mới về quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế, kế thừa và phát triển
quan điểm “Đa dạng hóa đa và phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ
chức” của Đại hội Đảng lần thứ VII.

Chủ trương của đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần X: “Mở rộng quan hệ đối ngoại,
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, với phương châm “chủ động, linh hoạt,
sáng tạo và hiệu quả”. “Tiếp tục đổi mới thể chế kinh tế, rà soát lại các văn bản pháp quy,
sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán, ổn
định và minh bạch”.

II) Những thành tựu của đạt được của Việt Nam trong hội nhập quốc tế

Từ năm 1986 sau khi thực hiện các đường lối, chủ trương đúng đắn thì nền kinh tế
Việt Nam đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu nhất định. Quá trình
hội nhập quốc tế ở Việt Nam được chia thành 4 giai đoạn:

1) Giai đoạn 1986 – 1990:

Thành tựu kinh tế đối ngoại quan trọng nhất của thời kỳ này là việc thành lập Liên
doanh dầu khí Việt – Xô vào ngày 19/11/1981 (bắt đầu khai thác vào ngày 26/06/1986)
đã đóng góp chủ yếu vào kim ngạch xuất khẩu và ngân sách của nước ta vào giai đoạn
này.

Đến giữa năm 1989, nước ta cơ bản kiềm chế được lạm phát phi mã, Tốc độ tăng
trưởng GDP không ngừng tăng, nước ta từ một nước thiếu lương thực phải nhập khẩu,
năm 1989 Việt Nam xuất khẩu được 1,37 triệu tấn gạo.

Nước ta có sự chuyển dịch căn bản về đối tác thương mại và thị trường, đến năm 1986
Việt Nam đã có quan hệ ngoại thương với 43 quốc gia và đa số các nước đều thuộc Hội
đồng tương trợ kinh tế.
Năm 1988 là năm đầu tiên Việt Nam thu hút được vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
và đã không ngừng tăng lên. Số vốn đăng ký năm 1990 đạt 735 triệu USD, gấp đôi so với
năm 1988.

2) Giai đoạn 1991 – 2000:

Trong giai đoạn này Việt Nam không ngừng đẩy mạnh mở rộng quan hệ quốc tế với
các nước và các tổ chức kinh tế trên thế giới như:

- Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (3 – 4/09/1990)

- Bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (11/07/1945)

- Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (7/1992)

- Gia nhập Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
(14/11/1998), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng tái thiết
và phát triển Quốc Tế (IDA), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB),…

Ở giai đoạn này Việt Nam đã ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại đầu tư
với khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tạo điều kiện để thúc đẩy sự tăng
trưởng nhanh chóng của thương mại đầu tư và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các
nước khác nhau trên thế giới.

Việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ này mang lại thành tựu to lớn về mọi
mặt cả về kinh tế, thương mại lẫn chính trị. Từ năm 1991 đến năm 2000 tổng sản phẩm
trong nước tăng liên tục qua các năm với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 7,56%.

Một trong những thành tựu kinh tế to lớn nhất trong 10 năm vừa qua là phát triển nông
nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực. Sau nhiều năm kiên trì giải quyết vấn đề lương
thực, đến nay an toàn lương thực đã được khẳng định. Sản lượng lương thực qui thóc
năm 2000 đạt 35,6 triệu tấn, tăng 14,1 triệu tấn so với năm 1990, bình quân mỗi năm
trong 10 năm 1991- 2000 tăng trên 1,4 triệu tấn.

Sản xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định với tốc độ tăng bình quân mỗi
năm 13,6%.
Về thương mại đã có sự tăng trưởng ngoạn mục. Kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng từ
4.425,2 triệu USD năm 1991 lên 31.247,1 triệu USD năm 2001, bình quân năm tăng
19%/ năm.

Năm 2001, hàng hóa của Việt Nam đã xuất khẩu sang 72 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tuy nhiên nhập khẩu vẫn còn cao hơn xuất khẩu tương đối nhiều, chứng tỏ nền kinh tế
nước ta vẩn còn phụ thuộc vào nước ngoài.

3) Giai đoạn 2001 – 2010:

Hội nhập quốc tế đã đóng góp một phần khiêm tốn vào những kỷ lục mới của đất nước
về thu hút 20,3 tỷ USD FDI, 5,4 tỷ USD ODA và gần 50 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu.
Năm 2008, Việt Nam nhận chức Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc với nhiệm kỳ 2 năm. Vị thế mới đồng nghĩa với việc trọng trách lớn hơn của Việt
Nam trước cộng đồng quốc tế, trước những vấn đề an ninh, hòa bình và phát triển bền
vững toàn cầu.

Tiếp tục mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế, thương mại song phương. Những
hiệp định quan trọng nhất về thương mại và đầu tư được ký kết trong thời kỳ này gồm:
Ngày 10/12/2001, Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu
lực. Đây là Hiệp định mang lại sự tăng trưởng vượt bậc của xuất khẩu của Việt Nam sang
thị trường Hoa Kỳ.

Hiệp định đối tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản (VJEPA). Hiệp định được ký
vào ngày 25/12/2008 và chính thức có hiệu lực vào ngày 24/6/2009. VJEPA là một hiệp
định kinh tế toàn diện cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế.

KHUÔN KHỔ ASEAN:

Với Trung Quốc, ngày 04/11/2002, các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc đã ký
Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện, với mục tiêu thành lập Khu vực Thương
mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA). ACFTA được thực hiện vào ngày
01/01/2010 đối với ASEAN-6 và Trung Quốc, với việc loại bỏ thuế đối với khoảng 97%
dòng sản phẩm thuộc Danh mục thông thường.

Với Nhật Bản, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) được
các bên ký kết vào ngày 14/4/2008.

Với Hàn Quốc, Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện giữa Chính phủ các
nước ASEAN và Chính phủ Cộng hòa Triều Tiên được ký kết tại Kuala Lumpur vào
ngày 13/12/2005 và có hiệu lực vào ngày 01/7/2006.

Với Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân, Hiệp thành lập Khu vực Thương mại tự do ASEAN -
Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân (AANZFATA) được ký kết vào ngày 27/01/2009.

Với Ấn Độ, Hiệp định Khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN Ấn Độ đã được ký
kết ngày 8/10/2003 (AIFTA) tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Ấn Độ lần thứ 2 ở Bali,
In-đô-nê-xi-a.

Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới.

Trong quá trình đàm phán, để đáp ứng các yêu cầu của đàm phán đa phương, Việt
Nam đã có những nỗ lực vượt bậc nhằm hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách của
mình phù hợp với yêu cầu gia nhập WTO (Pháp lệnh Chống bán phá giá, Luật Đầu tư,
Luật Sở hữu trí tuệ, …).
Nền kinh tế nước ta dần đi vào ổn định, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm đạt
khoảng 7%, tổng sản phẩm trong nước năm 2010 tăng vượt bật gấp 3,26 lần so với năm
2000. Đời sống người dân được cải thiện hơn trước.

Về thương mại đã có sự tăng trưởng nhảy vọt, thể hiện ở

Kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng từ 31.247,1 triệu USD năm 2001 lên 203.655,6
triệu USD năm 2011, bình quân tăng 50%/năm. Riêng xuất khẩu tăng từ 15.029,2 triệu
USD năm 2001 lên 96.905,7 triệu USD năm 2011, tăng bình quân 49,5%/năm. Nhập
khẩu tăng từ 16.217,9 triệu USD năm 2001 lên 106,749,9 triệu USD năm 2011, bình
quân xấp xỉ 51%. Tuy nhiên trong suốt thời kỳ, Việt Nam vẫn rơi vào tình trạng thâm hụt
cán cân thương mại khá nghiêm trọng.

4) Giai đoạn 2011- 2020

Việt Nam tích cực đàm phán và ký kết các hệp định thương mại tự do đa phương và
song phương.
Ngân hàng Thế giới đã đánh giá Việt Nam đã phát triển vượt bậc từ một trong những
quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp, với GDP
đầu người đạt khoảng 2800 USD năm 2019, hơn 45 triệu người thoát nghèo.

Ngày 11/11/2011, Việt Nam và Chi-lê ký Hiệp định thương mại tự do Việt Nam- Chi-
lê. Hiệp định chính thức có hiệu lực vào tháng 2/2014. Đây là Hiệp định FTA đầu tiên
Việt Nam đàm phán, ký kết với một nước Mỹ La-tinh. Hiệp định sẽ mở ra cơ hội cả hai
bên trong trao đổi thương mại, đồng thời sẽ tăng hoạt động đầu tư của Chi-lê vào Việt
Nam.

- Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), được thay thế bằng Hiệp định
CPTPP. Đối với Việt Nam, Hiệp định có hiệu lực từ ngày 14/01/2019.

- Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA): Hiệp định được ký kết
ngày 5/5/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày 20/12/2015.

- Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA): Hiệp định chính thức được ký
kết vào ngày 30/6/2019 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/8/2020.

- Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Vương quốc Anh (UKVFTA): Hiệp định
chính thức được ký kết vào ngày 29/12/2020.

- Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP): Hiệp định đã chính thức được
ký kết ngày 15/11/2020 giữa 10 quốc gia thành viên của ASEAN và các đối tác đối thoại
là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, - Ốt-xtrây-lia và Niu Di-lân.

Việc trở thành thành viên của Tổ chức phát triển toàn cầu như WTO, IMF thúc đẩy
khả năng tiếp cận và truyền bá tri thức trong thương mại, đầu tư va quyền sở hữ trí tuệ ở
Việt Nam. Việt Nam trở thành một quốc gia tầm trung có mức thu nhập trung bình và tốc
độ tăng trưởng GDP nhiều năm liền thuộc nhóm nhanh nhất thế giới (7,02% năm 2019).

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về
ASEAN 2018 tại Hà Nội đã đưa ra các sáng kiến xây dựng các quy tắc của ASEAN v26
hợp tác chia sẻ dữ liệu, hòa mạng di động một giá cước toàn ASEAN, khuôn kết nối các
vườn ươm sáng tạo quốc gia vào mạng lưới khu vực, kết nối mạng giáo dục và xây dựng
hệ thống học tập suốc đời trong ASEAN nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0.
Vị thế Việt Nam ngày càng được quốc tế công nhận rộng rãi. Việt Nam hiện có quan
hệ ngoại giao hầu như tấ cả các nước thành viên Liên hợp quốc (189/193); xác lập
khuông khổ quan hệ với tất cả 5 nước Ủ y viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc trong tổng số 16 đối tác chiến lược; 14 Đối tác toàn diện; là thành viên của hơn 70
tổ chức/ diễn đàn khu vực toàn cầu; nền kinh tế mở lớn, hội nhập sâu rộng với khu vực,
thế giới có quan hệ thương mại với 230 thị trường; trong đó FTA với 60 nền kinh tế, là
điểm đến ngày càng hấp dẫn, an toàn đáng tin cậy cho các nhà đầu tư và khách du lịch
quốc tế.

Việt Nam hiện xếp thứ ba trong ASEAN về quy mô kinh tế số. Chỉ số phát triển chính
phủ điện tử của Việt Nam xếp hạng 88/193 quốc gia trên thế giới. Trong thời gian tới
Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, hiệu quả hơn theo tinh thần ngoại
giao phục vụ và phát triển, phối hợp với các bộ ngành địa phương chọn lựa và thúc đẩy
hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực vấn đề phù hợp, qua đó thu hút, tranh thủ tối đa mọi
nguồn lực bên ngoài để tiếp tục thúc đẩy công cuộc đổi mới cải cách, nâng cáo sức mạnh
tỗng hợp của đất nước.

Tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta khá bền vững qua các năm, năm 2020 là năm có
tốc độ tăng trưởng GDP thấp nhất: 2,91% do tác động của Đại dịch Covid 19 trên toàn
thế giới, tuy nhiên đây vẫn là mức tăng trưởng đáng ngưỡng mộ của nhiều quốc gia; năm
2018 là năm có tốc độ tăng trưởng lớn nhất 7,08%.

III) Những hạn chế của Việt Nam trong hội nhập quốc tế

1) Giai đoạn 1986 – 1990

Đây là thời kì bản lề của công cuộc đổi mới với cột mốc lịch sử là Đại hội Đảng lần
thứ VI. Bên cạnh những thành tựu thì có những hạn chế.

Quan điểm và chủ trương hội nhập ở thời kì này vẫn đang mới bước đầu thí nghiệm
nên chưa có những quyết sách mạnh mẽ.

Về thành tựu hội nhập kinh tế, ngoại thương với các nước thuộc Hội đồng tương trợ
kinh tế vẫn chiếm ưu thế, chưa có sự chuyển dịch mạnh mẽ ngoại thương sang các nước
tư bản phát triển.

Kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng còn rất khiêm tốn, nhất là đầu tư từ
các nước tư bản phương Tây.

2) Giai đoạn 1991 – 2000

Có thể nói là thời kì hội nhập mang tính bước ngoặt, giúp nước ta có những bước tiến
nhảy vọt, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng cô lập trên trường quốc tế.
Song song với những thành tựu đáng kể này thì vẫn có một số hạn chế chính là:

Nhận thức và quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế chưa theo kịp sự phát triển của
tình hình thực tế, do vậy có lúc còn chần chừ do dự trong việc đưa ra những quyết sách
hội nhập kinh tế quan trọng.

Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế còn thấp. Chưa tham gia sâu vào các liên kết kinh tế
khu vực và toàn cầu .

Chính sách kinh tế đối ngoại nhất là chính sách về đầu tư và thương mại còn thiên về
bảo hộ và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Chậm đổi mới về chính sách trước biến động của khu vực và thế giới nên bỏ lỡ một số
cơ hội phát triển.

Chưa khai thông và phát triển được những thị trường quan trọng hàng đầu của thế giới
như: thị trường Hoa Kì, EU…
Kim ngạch ngoại thương và thu hút đầu tư nước ngoài do vậy còn rất khiêm tốn không
có những nhảy vọt đột phá.

3) Giai đoạn 2001 – 2010

Là thời kì tăng tốc hội nhập với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và kí kết
nhiều hiệp định thương mại tự do. Thời kì này gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng
nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế.

Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới với những cam kết song phương
và đa phương, tuy nhiên việc thực hiện những cam kết của Việt Nam còn nhiều hạn chế
nên đã bỏ lỡ những cơ hội cải cách và đổi mới sâu rộng hơn.

Trong quản lí điều hành vĩ mô chưa dự báo và lường hết những biến động của nền
kinh tế thế giới và những thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nên nhiều
khi biến động, lúng túng trong điều hành dẫn đến những hệ quả tiêu cực.

Trong thu hút đầu tư nước ngoài còn tình trạng chạy theo phong trào, thành tích,
không tìm hiểu kĩ đối tác nên phê duyệt nhiều dự án quy mô quá lớn dẫn đến tình trạng
phải thu hồi giấy phép. Chính sách đấu thầu và thu hút đầu tư còn nhiều bất cập, hệ quả là
nhiều trường hợp lựa chọn nhà đầu tư không phù hợp và quản lí đầu tư nước ngoài còn
nhiều sơ hở gây thiệt hại cho quốc gia.

Trong thương mại quốc tế chưa đa dạng hóa thị trường, còn quá phụ thuộc vào một số
thị trường xuất nhập khẩu. Tình trạng đó đã gây bất lợi, thiệt hại cho doanh nghiệp và nền
kinh tế, nhất là trong trường hợp thị trường quốc tế đang có nhiều biến động.

4) Giai đoạn 2011 – 2020:

Bước vào thập kỉ thứ hai của thế kỉ 21, đất nước đang đứng trước khó khăn và thách
thức mới khi mà:

Tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhưng chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng
và hiệu quả xuất khẩu còn thấp, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển dịch mạnh sang
hàng chế biến, chế tạo, nhưng vẫn còn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài; nhập siêu vẫn là nguy cơ, còn không ít bất cập trong cơ cấu nhập khẩu. Về
cơ bản nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tăng trưởng thương mại, vào khai thác tài
nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô với hàm lượng chế biến thấp và gia
công hàng hóa ở công đoạn thấp của chuỗi giá trị (dệt may, da giày, điện tử…).

Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt
Nam nói chung còn thấp, chịu sức cạnh tranh lớn từ doanh nghiệp nước ngoài, dẫn đến
một số ngành trong nước bị ảnh hưởng do tác động của việc mở cửa thị trường, nhập
khẩu tăng mạnh, song thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm,… Năng suất lao động
tăng chậm, thu hút đầu tư vẫn dựa vào lợi thế nhân công và chi phí mặt bằng rẻ, chi phí
năng lượng thấp đã ảnh hướng nhiều đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như
của doanh nghiệp, sản phẩm.

Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển chậm, thiếu đồng bộ, đặc biệt đối với khu vực đồng
bào dân tộc thiểu số.

Quản lí, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả chưa cao, còn lãng phí.
Tình trạng khai thác rừng, khai thác khoáng sản bất hợp pháp còn xảy ra ở nhiều nơi
nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu, ngăn chặn kịp thời

Nhiều tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thua lỗ, thất thoát lớn
gây nên tổn thất lớn cho nền kinh tế và gây bức xúc trong xã hội.

Khả năng tích lũy vốn nhân lực và tiến bộ công nghệ của Việt Nam còn rất khiêm tốn,
biểu hiện ở mức năng suất lao động thấp và trình độ công nghệ của đa số doanh nghiệp
còn khá lạc hậu.

Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực chưa
được triển khai đồng bộ, nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thế.

Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được cải thiện. Năng lực đội ngũ
cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Ngoại Giao chuyên biệt: Hướng đi, ưu tiên mới của ngoại giao Việt Nam đến năm
2030. Ts. Vũ Lê Thái Hoàng -NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.

Nên ngoại giao toàn diện Việt Nam trong thời kì hộp nhập Phạm Gia Khiêm- NXB
Chính trị quốc gia.

Giáo trình Hội nhập kinh tế quốc tế - NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2020
Báo Chính phủ: “Hội nhập kinh tế Quốc tế và những vấn đề đặt ra trong giai đoạn tới”

Tổng cục thống kê: “Tình hình kinh tế xã hội 10 năm 1991 – 2000”

Tổng cục thống kê Hải Phòng: “Tình hình kinh tế xã hội quý iv và năm 2020”

You might also like