Professional Documents
Culture Documents
-------***-------
ĐỀ TÀI:
Hội nhập kinh tế quốc tế và tác động tích cực, tiêu cực của
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam?
2
A. TÍNH CẤP THIẾT CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Muốn phát triển nền kinh tế của cả một đất nước thì bắt buộc nền kinh tế của nước đó
phải được hội nhập. Không một quốc gia, vùng lãnh thổ nào có thể tự phát triển đơn
độc.
Đầu tiên, mỗi quốc gia đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng biệt, điểm yếu của quốc
gia này lại là điểm mạnh của một quốc gia khác. Ví dụ, Singapore là một nước phát
triển, là một cường quốc công nghiệp phát triển với kỹ thuật tiên tiến bậc nhất thế giới,
tuy nhiên, đất nước này hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đề phải nhập từ bên
ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh
tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không
phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Đồng thời, Singapore cũng sẽ xuất khẩu những sản phẩm kỹ thuật, công nghiệp của
mình ra thị trường thế giới. Sự trao đổi, xuất nhập khẩu đó cũng chính là Hội nhập
kinh tế quốc tế, nếu không hội nhập, không giao lưu với các quốc gia khác, Singapore
sẽ không thể tồn tại được với nguồn lương thực, thực phẩm ít ỏi của mình.
3
B. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển
của quá trình tự do hóa thương mại và xu hướng mở cửa nền kinh tế của các quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề chủ yếu như: Đàm phán cắt giảm
các hàng rào thuế quan; đàm phán cắt giảm các hàng rào phi thuế quan; giảm thiểu các
hạn chế đối với hoạt động dịch vụ; giảm thiểu các trở ngại đối với hoạt động đầu tư
quốc tế; giảm thiểu các trở ngại đối với hoạt động dĩ chuyển sức lao động quốc tế; điều
chỉnh các công cụ, quy định của chính sách thương mại quốc tế khác.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã diễn ra từ rất sớm, tuy nhiên
không phải ngay từ đầu Việt Nam đã có thể nhận ra được tầm quan trọng của việc hội
nhập. Vậy nên, phải khá lâu kể từ khi bắt đầu quá trình hội nhập, Việt Nam mới thực
sự chú trọng và quan tâm tới vấn đề này.
4
C. VIỆT NAM VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
I. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc, đó là cả một quá
trình lao động không ngừng nghỉ của cả thế giới. Việt Nam đã bắt đầu “hội nhập”
ngay từ khi ý thức về Hội nhập kinh tế quốc tế chỉ là “trao đổi hàng hoá”. Hàng ngàn
năm về trước, khi chưa có khái niệm về “Hội nhập kinh tế quốc tế”, người ta có một
định nghĩa không quá rõ ràng cho quá trình này gọi là “long distance trading” – Hay
“trao đổi hàng hoá xa” (Ví dụ cho việc trao đổi hàng hoá xa chính là: Con đường tơ
lụa rất nổi tiếng) lúc đó người ta cũng mua bán xuyên biên giới, cũng tìm hiểu về văn
hoá các vùng lãnh thổ khác nhau, cũng ngoại giao nhưng chưa thực sự có một ai gọi
tên tất cả những hoạt động ấy là Hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam cũng vậy, trải qua biến động hàng ngàn năm, dù là ngàn năm Bắc thuộc hay
61 năm Pháp thuộc thì trong xương máu chúng ta vẫn là một quốc gia độc lập, vẫn
tham gia vào quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế kể từ khi khái niệm này được ra đời.
Tuy đã tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế từ rất sớm, Việt Nam chưa thực sự nhận ra
được ý nghĩa và tầm quan trọng của quá trình này. Bước ngoặt đầu tiên trong tiến
trình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam là sự kiện gia nhập ASEAN vào tháng
7/1995, bắt đầu hành trình thực sự tiến tới Hội nhập kinh tế quốc tế. Sáu năm sau,
trong kỳ Đại hội IX (năm 2001), “toàn cầu hoá” và “Hội nhập kinh tế quốc tế” mới
bắt đầu được nhắc đến nhiều hơn trong các chủ trương cho tương lai của Việt Nam.
Đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Tiếp theo, trong kỳ Đại hội
X của Đảng diễn ra vào năm 2006, Việt Nam đã tiến thêm một bước trong nhận thức
và hành động hội nhập quốc tế; đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn,
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
hợp tác quốc tế và khu vực”. Và đến Đại hội XI, Việt Nam nhấn mạnh đến hội nhập
quốc tế: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
5
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế;
vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”.
Việt Nam đang từng bước một Hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể nhận thấy Đảng và
nhà nước ta hiện tại đang thực hiện rất tốt công cuộc hội nhập này thông qua rất nhiều
thông tin cụ thể, điển hình như sự kiện Việt Nam gia nhập WTO (7/11/2006) được tổ
chức tại trụ sở WTO ở Geneva, Thuỵ Sĩ, và sau ngày 11/1/2007, Việt Nam đã chính
thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Ngoài
ra, còn có rất nhiều con số cụ thể và ấn tượng: Năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác
chiến lạc và đối tác chiện lược toàn diện; xây dựng được quan hệ ngoại giao với 189
quốc gia và vùng lãnh thổ; có quan hệ kinh tế với 160 nước, 70 vùng lãnh thổ. Giai
đoạn vừa qua, Việt Nam đã tích cực, chủ động trong đàm phán và ký kết các Hiệp
định thương mại tự do mới với các đối tác. Tính đến tháng 4/2016, Việt Nam đã tham
gia thiết lập 12 Hiệp định thương mại tự do (FTA) với 56 quốc gia và nền kinh tế trên
thế giới, trong đó có 6 FTA thế hệ mới là Hiệp định Việt Nam - EU và Hiệp định TPP.
II. Tác động tích cực của Hội nhập kinh tế quốc tế lên Việt Nam
1. Các hoạt động kinh tế.
a. Xuất nhập khẩu
Hiện nay, mức độ tự do thuế hoá quan của Việt Nam đối với các đối tác FTA ở mức
cao. Điều này đã mang lại một ảnh hưởng rất tích cực lên hoạt động xuất nhập khẩu
của Việt Nam do sử dụng hệ thống quản lý hải quan theo tiêu chuẩn quốc tế cũng như
cắt giảm hàng rào thuế quan. Từ đó mở ra cơ hội rất lớn cho việc mở rộng thị trường
ra quốc tế và dỡ bỏ rào cản thương mại để tham gia nhiều hơn vào chuỗi sản xuất và
cung ứng toàn cầu.
Mức độ tự do hóa thuế quan của Việt Nam trong Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN
(ATIGA) đạt khoảng 91%. Trong FTA ASEAN - Trung Quốc, 82,7% số dòng thuế về 0%;
trong FTA ASEAN - Hàn Quốc, con số này là 81,2% và trong FTA ASEAN - Nhật Bản
30%.
Thị trường nhập khẩu hiện nay đa dạng hơn rất nhiều so với trước đây, từ đó làm
giảm bớt sự phụ thuộc của thị trường vào các nguyên vật liệu truyền thống. Và
những gánh nặng đó sẽ tiếp tục được giảm bớt trong tương lai nhờ vào những
6
FTA mà Việt Nam sẽ tham gia trong tương lai gần, các Hiệp định này mở ra
những cánh cửa đưa Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong mạng
lưới kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh đó, việc thực hiện các cam kết trong các Hiệp định thế hệ mới như TPP,
EVFTA (dỡ bỏ các biện pháp hạn chế đầu tư và dịch vụ, bảo hộ đầu tư công bằng,
không phân biệt đối xử, mở cửa thị trường mua sắm Chính phủ, dịch vụ tài chính…) sẽ
khiến cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên thông thoáng hơn, minh bạch hơn,
thuận lợi hơn từ đó sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn nữa.
7
Đồng thời, cạnh tranh cũng sẽ kích thích ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ
cũng như đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế. Do sự cạnh tranh gây ra
phát triển và thay đổi liên tục nên các doanh nghiệp có truyền thống lâu đời
không thể tiếp tục giữ những quan điểm sản xuất mà buộc phải thay đổi và thích
nghi với thị trường mới và vẫn phải đảm bảo giữ được những nét truyền thống
riêng biệt.
8
quy tắc xuất xứ hàng hóa lại đang đặt ra thách thức và mối lo ngại cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu
quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng kém, ảnh
hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được sản xuất trong
nước.
Đặc biệt, sản phẩm nông nghiệp và các doanh nghiệp, nông dân Việt Nam đứng trước
sự cạnh tranh gay gắt, trong khi đó hàng hóa nông sản và nông dân là những đối tượng
dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập.
9
lượng, các quy tắc xuất xứ... cho doanh nghiệp hội viên; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng
thương hiệu.
Tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại - đầu tư theo thị trường, ngành hàng,
lĩnh vực kinh doanh cụ thể để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài
nước cũng như hỗ trợ doanh nghiệp tiếp thị thương hiệu của sản phẩm, doanh nghiệp
tới các thị trường xuất khẩu trọng điểm.
Triển khai các hoạt động cung cấp và tư vấn cho các doanh nghiệp về pháp luật kinh
doanh, các kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như kinh nghiệm đối phó với
các vụ kiện quốc tế, các rào cản thương mại của các thị trường xuất khẩu.
Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về TPP cũng như các FTAs là việc cần thiết các
doanh nghiệp nếu muốn đứng vững trong cạnh tra-nh. Bên cạnh đó cũng cần có sự hỗ
trợ từ phía Chính phủ và các hiệp hội để doanh nghiệp có thể tiếp cận các thông tin từ
TPP, FTAs một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất.
Chủ động đầu tư và đổi mới trạng thiết bị công nghệ theo chiều sâu nhằm nâng cao
chất lượng sản phẩm, bởi nếu không đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế thì sản phẩm
của doanh nghiệp không thể cạnh tranh với các nước khác. Như vậy, dù hiệp định có
mở ra cơ hội, doanh nghiệp cũng không thể tiếp cận thị trường và tham gia vào chuỗi
cung ứng.
Chủ động lựa chọn và thay đổi nguồn nguyên liệu đầu vào. Việc loại bỏ thuế quan cho
các đối tác trong TPP chỉ áp dụng đối với các sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc xuất
xứ nội khối. Trên thực tế, với các FTA đã ký kết, cũng chỉ có khoảng 30% doanh
nghiệp đã tận dụng được các ưu đãi thuế quan.
10
Do đó, doanh nghiệp cần phải chủ động trong việc lựa chọn nguồn gốc của các nguyên
phụ liệu, đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ. Đồng thời phải thực hiện tốt
như các yêu cầu khác (vệ sinh, kiểm dịch động thực vật, hàng rào kỹ thuật…).
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là lao động có tay nghề và nhân lực
trình độ cao. Bên cạnh đó, cần chủ động tạo sự liên kết gắn bó giữa các doanh nghiệp,
cùng xây dựng chiến lược phát triển thị trường nội địa và nước ngoài.
3. Tổng kết
Những mặt tiêu cực của hội nhập kinh tế vẫn luôn tồn tại và đó là điều không thể tránh
khỏi. Tuy nhiên, những mặt tiêu cực, những rủi ro đấy không phải là cố định, Việt
Nam có rất nhiều biện pháp có thể sử dụng để khắc phục các nhược điểm đó.
11
D. KẾT LUẬN
Gần 30 năm kể từ khi bắt đầu quan tâm và coi trọng hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam đã thu được rất nhiều thành tựu to lớn ở cả hai thị trường kinh tế trong và ngoài
nước. Không chỉ vậy, công cuộc hội nhập kinh tế còn làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, thúc
đẩy công tác xoá đói giảm nghèo, đồng thời góp phần phát triển nền công nghiệp nước
nhà. Ngoài những tác động tích cực, hội nhập kinh tế cũng có mặt trái mang lại những
tổn thất và rủi ro khó lường cho thị trường Việt Nam như: Gây sức ép lên các doanh
nghiệp sản xuất trong nước; đa dạng hoá mặt hàng nhưng lại không thể đảm bảo chất
lượng của mọi loại hàng hoá có mặt trên thị trường do trình độ phát triển chưa đạt yêu
cầu.
Để có thể phát triển nền kinh tế một cách toàn diện nhất, nhà nước cần chú trọng “đẩy
mạnh” chứ không phải “đẩy nhanh” quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài những
hiệp định thương mại được ký kết cũng nên tạo điều kiện để thức đẩy sự phát triển của
các ngành hàng sản xuất trong nước; sử dụng các nguồn lực nội tại một cách hợp lý và
đảm bảo tối đa chất lượng hàng hoá trên thị trường.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 664.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 112.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 235-236.
4. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin.
5. Số liệu từ Tổng cục Thống kê, Viện Chiến lược và chính sách tài chính,…
6. Wikipedia.
13