Professional Documents
Culture Documents
1. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu
vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác để củng cố nền
tảng cho một cộng đồng thịnh vượng và hòa bình của các quốc gia Đông Nam Á;
2. Để thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực thông qua việc tuân thủ, tôn trọng
công lý và nguyên tắc của pháp luật trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và
tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc;
3. Để thúc đẩy hợp tác tích cực và hỗ trợ lẫn nhau về những vấn đề quan
tâm chung trong kinh tế, xã hội, văn hóa, kỹ thuật, lĩnh vực khoa học và hành
chính;
4. Cung cấp hỗ trợ cho nhau dưới các hình thức đào tạo và nghiên cứu trong các
lĩnh vực giáo dục, chuyên nghiệp, kỹ thuật và hành chính;
5. Phối hợp hiệu quả hơn cho việc tận dụng các ngành nông nghiệp và công
nghiệp, mở rộng thương mại của các nước, bao gồm việc nghiên cứu các vấn đề
thương mại hàng hóa quốc tế, cải thiện giao thông vận tải, các phương tiện truyền
thông và nâng cao mức sống của người dân các nước;
7. Để duy trì sự hợp tác chặt chẽ và có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực với
mục tiêu và mục đích tương tự, và khám phá tất cả các con đường hợp tác gần gũi
hơn với nhau.
3.2. Nguyên tắc cơ bản
Trong quan hệ giữa các nước với nhau, các thành viên ASEAN đã thông qua các
nguyên tắc cơ bản sau đây, như được ghi nhận trong Hiệp ước Thân thiện và hợp
tác ở Đông Nam Á (TAC) năm 1976:
1. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc
của tất cả các quốc gia;
2. Quyền của mỗi Nhà nước trong việc bảo vệ sự tồn tại quốc gia khỏi sự can thiệp
từ bên ngoài, lật đổ hoặc cưỡng ép;
4. Giải quyết các bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hòa bình;
Phương thức ra quyết định của ASEAN là tham vấn và đồng thuận. Mọi vấn đề của
ASEAN đều phải tham vấn tất cả các nước thành viên và quyết định chỉ được
thông qua khi tất cả các nước thành viên nhất trí hoặc không phản đối.
Hợp tác khu vực phải được tiến hành từng bước, bảo đảm phù hợp với lợi ích, khả
năng của các nước thành viên ASEAN và tất cả đều có thể tham gia, không thành
viên nào bị “bỏ lại”.
Trong quan hệ với các đối tác, các quốc gia thành viên ASEAN phối hợp và nỗ lực
xây dựng lập trường chung, cũng như tiến hành các hoạt động chung trên cơ sở
thống nhất và đoàn kết, tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc đề ra trong Hiến
chương ASEAN (điều 41) và tài liệu Quan điểm của ASEAN về Ấn Độ Dương-
Thái Bình Dương (AOIP).
Hiến chương ASEAN quy định: Chức Chủ tịch ASEAN được luân phiên hằng năm
giữa các quốc gia thành viên theo thứ tự bảng chữ cái tên tiếng Anh của các nước.
Chủ tịch ASEAN chủ trì tất cả các cuộc họp chính thức của ASEAN; đồng thời
đóng vai trò dẫn dắt, điều phối trong việc xác định những lĩnh vực hợp tác trọng
tâm, đề xuất những sáng kiến và kế hoạch mới; bảo đảm phản ứng kịp thời và hiệu
quả với những vấn đề cấp bách hay những tình huống khủng hoảng tác động đến
ASEAN.
II. CƠ HỘI CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA TỔ CHỨC ASEAN
Tổng kim ngạch thương mại hàng hóa giữa Việt Nam và ASEAN đã có
bước phát triển mạnh mẽ và tăng trưởng nhảy vọt.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá Việt Nam – ASEAN giai
đoạn 1995 – 2020 ( tỷ đồng )
Năm đầu tiên hội nhập ASEAN, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt
Nam với ASEAN chỉ đạt mức khiêm tốn 3,5 tỷ USD. Đến năm 2015, tổng
kim ngạch xuất, nhập khẩu đã tăng 12 lần, đạt 42 tỷ USD. Và đến năm 2019
tăng 16,5 lần, đạt 57,5 tỷ USD. Năm 2020, mặc dù chịu tác động tiêu cực
của đại dịch Covid-19, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với
ASEAN tuy có sụt giảm nhưng vẫn đạt mức 53,6 tỷ USD, tăng 15,4 lần so
với năm 1995, chiếm 9,8% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của cả nước.
Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam đạt 23,1 tỷ USD, chiếm 8,2% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN đạt 30,5 tỷ
USD, chiếm 11,6% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhập siêu của Việt Nam với
khu vực này là 7,4 tỷ USD. Hiện nay, ASEAN đã trở đối tác thương mại lớn
của Việt Nam, sau các thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc.
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê được biết, trong 7 tháng năm 2021, tổng
kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và ASEAN ước tính đạt
40,8 tỷ USD, tăng 38,5% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó, xuất khẩu đạt
giá trị 16,1 tỷ USD, tăng 25,9%, nhập khẩu đạt 24,7 tỷ USD, tăng 48,2%.
Nhập siêu từ thị trường ASEAN ước tính đạt 8,6 tỷ USD, tăng 123% so với
cùng kỳ năm 2020.
Tỷ trọng Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu một số thị trường chủ yếu 7 tháng
năm 2021 (Nguồn: Tổng cục Thống kê).
Cũng theo Tổng cục Thống kê, các thị trường xuất, nhập khẩu chủ lực của
Việt Nam và ASEAN là Thái Lan, Ma-lay-si-a, In-do-ne-si-a, Cam-pu-chia,
Sin-ga-po. Trong 7 tháng năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu với
Thái Lan đạt 11,3 tỷ USD, chiếm 27,7% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu
của cả khu vực; với Ma-lay-si-a đạt 7,4 tỷ USD, chiếm 18,1%; với In-do-ne-
si-a đạt 6,5 tỷ USD, chiếm 15,9%; với Cam-pu-chi-a đạt 5,9 tỷ USD, chiếm
14,5%; với Sin-ga-po đạt 4,9 tỷ USD, chiếm 12%. Tuy nhiên, điểm hạn chế
trong thương mại hàng hóa với các nước ASEAN là Việt Nam vẫn chủ yếu
nhập siêu. Trong 10 năm gần đây, nhập siêu liên tục ở mức 6-7 tỷ USD,
chiếm trên 30% kim ngạch xuất khẩu.
Thống kê tổng lượng gạo xuất khẩu trong giai đoạn từ
2020-2022
50.00%
45.00%
40.00%
35.00%
30.00%
25.00%
20.00%
15.00%
10.00%
5.00%
0.00%
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022
Thống kê tổng lượng gạo xuất khẩu trong giai đoạn từ 2020-2022
Theo báo cáo của Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), trong số các
nước ASEAN, sản phẩm lúa gạo của Việt Nam được xuất khẩu chủ yếu sang
Philippines. Chỉ tính riêng trong năm 2021, Philippines là thị trường xuất
khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với lượng xuất khẩu đạt 2,45 triệu tấn, kim
ngạch trên 1,25 tỷ USD, giá trung bình 509,7 USD/tấn, tăng 10,7% về
lượng, tăng 18,5% về kim ngạch và tăng 7,1% về giá so với năm 2020,
chiếm 39,4% trong tổng lượng và chiếm 38% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu gạo của cả nước.
Quý 1/2022, Philippines tiếp tục đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam,
chiếm 44,7% trong tổng lượng và chiếm 42,6% trong tổng kim ngạch gạo
xuất khẩu của cả nước, đạt 672.136 tấn, tương đương 311,08 triệu USD, giá
trung bình 462,8 USD/tấn, tăng mạnh 63,3% về lượng, tăng 41,4% về kim
ngạch.
2. Về an ninh - chính trị
Theo Tiến sĩ Phạm Lan Dung, quyền Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt
Nam, điều này cho thấy tính thống nhất cao của ASEAN trong việc đề cao
luật pháp quốc tế trong giải quyết tranh chấp Biển Đông: “Việc lưu hành
công hàm với những nội dung mang đậm những ngôn ngữ và hàm ý pháp lý
cho thấy các quốc gia ngày càng đề cao vai trò và giá trị của luật pháp quốc
tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển 1982 (UNCLOS), qua đó khẳng định tính
chất phổ quát và nhất quán của Công ước Luật Biển đã thiết lập khuôn khổ
pháp lý, trong đó mọi hoạt động trên biển và đại dương được thực hiện. Đây
chính là các hành động thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật mà cộng
đồng quốc tế mong muốn”.
Nhận thức rõ Biển Đông là một trong những thách thức chính đối với Cộng
đồng ASEAN đến năm 2025, ASEAN đã và đang có những bước đi, quan
điểm rõ ràng hơn về những dự kiến, kế hoạch trong vấn đề này, dự báo
những tác động đối với ASEAN và các quốc gia thành viên cũng như nhấn
mạnh vai trò trung tâm ASEAN để xử lý vấn đề.
Trong cả hai Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 36 và lần thứ 37 trong năm
2020, vấn đề Biển Đông đều nhận được đồng thuận từ các lãnh đạo ASEAN
rằng cơ sở pháp lý duy nhất và nhất quán để giải quyết các vấn đề của Biển
Đông là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS
1982). Tất cả các nước cũng đã nhất trí thúc đẩy nhanh chóng tiến trình đàm
phán và ban hành Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC), văn
bản điều hành tất cả những xử sự trên biển giữa các bên liên quan vì một
khu vực Biển Đông hòa bình, ổn định và thịnh vượng
3. Về văn hóa giáo dục:
Quan hệ hợp tác về văn hoá giữa Việt Nam và ASEAN chính thức được
"khởi động" từ 22/7/1992, khi Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali (còn gọi là
Hiệp ước hợp tác và thân thiện) và trở thành quan sát viên của ASEAN. Tại
Hội nghị ngoại trưởng ASEAN lần thứ 26 ở Singapore (1993) Việt Nam
được mời tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) cùng các chương trình
và dự án hợp tác trên 5 lĩnh vực: khoa học - công nghệ, môi trường, y tế, văn
hoá - thông tin, du lịch. Trong thời gian từ 1993 đến 27/7/1995 (trước khi
được kết nạp làm thành viên thứ 7 của Hiệp hội) mới chỉ là quan sát viên
nhưng Việt Nam đã tích cực chuẩn bị và trực tiếp tham gia vào các hoạt
động của Uỷ ban chuyên ngành về văn hoá - thông tin (ASEAN - COCI).
Trên cơ sở các mối giao lưu, quan hệ văn hoá vốn có từ trước, nay mở rộng
và dần đi vào chuyên sâu. Từ sau ngày 28/7/1995, đến nay mối quan hệ hợp
tác văn hoá Việt Nam - ASEAN ngày càng được đẩy mạnh, từ bộ máy cơ
quan chuyên trách đến tuyên truyền, giới thiệu, trao đổi đoàn. Ngoài Uỷ ban
Quốc gia điều phối các hoạt động về ASEAN, các Bộ, ngành có liên quan
đều lập cơ quan chuyên trách về ASEAN. Uỷ ban ASEAN - COCI của Việt
Nam đặt tại Bộ văn hoá - thông tin (VH-TT).