You are on page 1of 8

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN


-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:
Nêu cảm nhận của em về Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V

Họ và tên SV: Bùi Phương Vi


Mã SV: 11218227
Lớp tín chỉ: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam_08
GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoàn

HÀ NỘI 2023

1
MỤC LỤC
A. Lời mở đầu……………………………………………………………….....3
B. Nội dung…………………………………………………………………….4
Phần I: Ý nghĩa lịch sử của Đại hội Đảng toàn quốc lần V………………....4
1.1 Hoàn cảnh đất nước khi diễn ra Đại hội Đảng lần V……………………….4
1.2 Ý nghĩa lịch sử của Đại hội Đảng lần V……………………………………5
Phần II: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kì đầu tiến lên XHCN…….5
Phần III: Liên hệ bản thân……………………………………………………
6
C. Kết luận……………………………………………………………..………7
D. Tài liệu tham khảo…………………………………………………..……..7

2
A. Lời mở đầu

Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được trong hơn bảy thập
kỷ qua đều bắt nguồn từ việc Đảng nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, vạch ra
đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với thực tiễn đất nước và xu
thế thời đại. Trải qua 91 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã trải qua 13 kỳ đại hội đại biểu toàn quốc. Mỗi kỳ Đại hội là
một mốc son chói lọi phản ánh sự trưởng thành của Đảng và cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
V của Đảng (tháng 8/1982) là một trong những cột mốc đáng nhớ, là sự kiện
mở đầu cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước vượt qua khó
khăn, tiến lên phía trước. Quyết định đổi mới đã tạo ra một luồng sinh khí mới
cho Đảng Cộng sản và cho đất nước ta trong tình hình lúc bấy giờ, đường lối
đổi mới đó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được thực tiễn cuộc sống kiểm
nghiệm, khẳng định là đúng đắn. Đường lối đó là cả một quá trình Đảng ta tìm
tòi, nghiên cứu tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta trên cơ sở vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu có phê phán, chọn lọc kinh nghiệm của
cách mạng thế giới, tham khảo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, đặc biệt
là các nước trong khu vực. Khẳng định quyết định đổi mới đất nước của Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ V là một bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt
Nam.

Trên nền tảng giá trị khoa học và hiện thực, trong công cuộc đổi mới này,
sinh viên cần phải nhận thức rõ và hành động thực tiễn tốt hơn nữa, góp phần
vào thực hiện hóa đường lối đổi mới của Đảng và xây dựng một xã hội phồn
vinh.

3
B. Nội dung
Phần I: Ý nghĩa lịch sử của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V
1.1. Hoàn cảnh đất nước khi diễn ra Đại hội Đảng lần V
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V diễn ra trong bối cảnh kinh tế đất  nước sau
5 năm Kháng chiến chống Mỹ đang gặp những trì trệ nghiêm trọng:  Hoa Kỳ tiếp tục
thực hiện chính sách bao vây cấm vận và kế hoạch hậu chiến; Chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân tình nguyện
Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba
nước Đông Dương và trong nước tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng
nghiêm trọng. Một phần do sau những năm liên tục chiến tranh, việc khắc phục hậu
quả chiến tranh rất phức tạp và kéo dài. Đặc biệt, những sai lầm, khuyết điểm trong
việc duy trì mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp quá lâu, cộng với hậu
quả do hai cuộc chiến tranh biên giới làm khó khăn lại càng trở nên gay gắt. Thời gian
từ Đại hội IV đến Đại hội V của Đảng là giai đoạn cả nước bước vào thực hiện nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cả nước tập
trung xây dựng kinh tế.
1.2. Ý nghĩa lịch sử của Đại hội Đảng lần V

Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, những biến động của tình hình
quốc tế và những âm mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ V đã diễn ra, kịp thời để giải quyết các vẫn đề. Báo
cáo Chính trị tại Đại hội nêu rõ trong giai đoạn mới của cách mạng, Đảng phải
lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: “Xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa”. Báo cáo đề ra những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội
trong 5 năm (1981-1985) và những năm 80, là: Đáp ứng nhu cầu cấp bách và
thiết yếu, tiến tới cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; tiếp tục
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; trang bị thêm thiết bị kỹ thuật cho
các ngành kinh tế, chuẩn bị cho bước phát triển mạnh mẽ của công nghiệp nặng
trong chặng đường tiếp theo; hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; đáp ứng
nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an
ninh trật tự.

Đại hội đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về
quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn
hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
4
xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn
an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà
bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội”.
Báo cáo đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế
và văn hoá 5 năm (1976-1980) và 2 mục tiêu là bảo đảm nhu cầu của đời sống
nhân dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Về
đối ngoại, Đại hội nêu rõ trong giai đoạn mới, cần ra sức tranh thủ những điều
kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc
phòng, cùng các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa đế
quốc.

Phần II: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kì đầu tiến lên XHCN
Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với vai trò của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Trước các nhiệm vụ lịch sử, Đảng và Bác Hồ đã kịp thời xác
định đúng đắn, sáng tạo đường lối, chiến lược, sách lược đưa cách mạng đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu
sắc thời cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong
mỗi thời kỳ, xác định đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng.
Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít
giữa các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam độc lập dân tộc, dân
chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong Chánh cương vắn tắt, Đảng ta đã xác
định rõ "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản"; "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"
Sau năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng nhưng
miền Nam vẫn tạm thời bị Mỹ, ngụy chiếm đóng. Trên cơ sở phân tích tình
hình, nhận thức rõ những mâu thuẫn khác nhau ở mỗi miền Nam, Bắc, Đảng và
Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam là vừa tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành
triệt để cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, hoàn thành mục tiêu giải
phóng dân tộc trong cả nước, đưa cả nước lên chủ nghĩa xã hội. Muốn đấu
tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến
5
lên chủ nghĩa xã hội. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước
không được phép lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng chiến lược
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.
Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi
mới đúng đắn, sáng tạo làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng
Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng trong
bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn
càng làm nổi bật những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới là rất to lớn và
có ý nghĩa lịch sử, khẳng định lý tưởng cộng sản cao đẹp, sức sống bền vững
của chủ nghĩa xã hội hiện thực và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đất nước có hoà bình, thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội nhưng với mô hình và kinh nghiệm của các nước xã hội chủ
nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm của nó.
Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật,
nói đúng sự thật", kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ
những thành công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng và nhân dân ta luôn kiên định với mục tiêu và con đường mà Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn: Độc lập dân tộc và CNXH là nhân tố
quyết định để nhân dân ta vượt qua thách thức, khó khăn, thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ chính trị, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu cho mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phần III: Liên hệ bản thân


Là sinh viên đang được học tập rèn luyện dưới mái trường xã hội chủ
nghĩa, đồng thời cũng là một trong những chủ nhân tương lai của đất nước, bản
thân tôi luôn luôn nhận thức sâu sắc rằng: Thứ nhất, phải quán triệt sâu những
nội dung cơ bản của những quan điểm, đường lối chiến lược, phương châm có
tính nguyên tắc trong quá trình đổi mới mục tiêu cuối cùng là giữ vững
độc lập, ổn định chính trị, phát triển đất nước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là tính ưu việt mà chỉ có xã hội chủ
nghĩa mới có. Thứ hai, phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước; phải chống mọi biểu hiện suy thoái, biến chất tư tưởng, lệch lạc, tư
chuyển hóa tự diễn biến trong mọi người và làm thất bại mọi âm mưu chống
phá của các thế lực thù địch như: diễn biến hòa bình, khủng bố, bạo loạn, lật
đổ, phi chính trị hóa Quân đội); góp phần giữ vững ổn định chinh trị để phát
triển đất nước.
Bên cạnh đó, cần phải không ngừng học tập rèn luyện, tu dưỡng phẩm
chất đạo đức, tính tiên phong gương mẫu trong mọi hoạt động; đồng thời tích
6
lũy kiến thức, kinh nghiệm để sau này cống hiến và phục vụ đất nước, nhất là
trong giai đoạn hiện nay nước ta đang đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tiến tới nền công nghiệp 4;0, chính phủ điện tử số.
Điều quan trọng là đất nước ta có ổn định được chính trị để phát triển đất
nước hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Sự lãnh đạo sáng suốt tài tình
của Đảng, nhà nước, sự vào cuộc các cấp các nghành và chính quyền, lực
lượng vũ trang, mọi tầng lớp công nông trí thức và cơ quan đoàn thể quần
chúng và đặc biệt có tôi và các bạn trẻ khác – những chủ nhân tương lai của đất
nước ủng hộ và làm theo mọi đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng
Sản Việt Nam trong quá trình quá độ lên XHCN hiện nay.

C. Kết luận.

Có thể khẳng định, những vấn đề nói trên là cốt lõi của những quan điểm,
đường lối chiến lược của Đảng ta trong lĩnh vực Chính trị, phản ánh thực trạng
xã hội ta hiện nay với tư cách là những bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ, vừa
mang tính chất định hướng lâu dài vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể
cần đạt tới trong từng bước đi, từng giai đoạn, từng thời kỳ của cả thời kỳ quá
độ. Điều này mang ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng không chỉ đối với
thực tiễn mà cả lý luận. Quan điểm, đường lối của Đảng ta về nội dung Chính
trị trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội chính là thành tựu to lớn về tư
duy lý luận của Đảng ta mấy chục năm lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nhất là ba mươi năm đổi mới vừa qua. Tuy nhiên, đó chỉ là lý
luận tổng quát, trong thời kỳ quá độ, nhiều đặc trưng mới, cụ thể và phù hợp
hơn với thực tiễn, với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản về vấn đề chính
trị chắc chắn sẽ được Đảng ta tiếp tục bổ sung và hoàn thiện. Tùy theo từng
thời điểm mà chúng ta, mỗi công dân đang sống, học tập và làm việc trên đất
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có trách nhiệm, hành động cụ
thể góp phần cho thời kỳ quan độ lên CNXH diễn ra một cách nhanh chóng,
thuận lợi và thành công.

D. Tài liệu tham khảo.


1. Bộ giáo dục và đào tạo (2019), Giáo trình Lịch sử Đảng Cọng sản Việt Nam,
Nhà xuất bản Hà Nội.
2. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Hệ thống tư liệu – Văn kiện Đảng
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-
dang/lan-thu-v/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-v-cua-dang-21
3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Vai trò lãnh đạo của Đảng – Nhân tố
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam

7
https://dangcongsan.vn/xay-dung-chinh-don-dang-nhung-viec-can-lam-ngay/
tu-nghi-quyet-den-cuoc-song/vai-tro-lanh-dao-cua-dang-nhan-to-quyet-dinh-
thang-loi-cua-cach-mang-viet-nam-534291.html
4. Văn kiện Đảng Toàn tập - Tập 43 (1982)

You might also like