You are on page 1of 45

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍNH MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI:

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – SỰ SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA
LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI MỚI

LỚP: L02 - NHÓM: 03 - HK 221

GVHD: ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG

STT Họ và tên MSSV Ghi chú

1 Huỳnh Chí Cường 2012761

2 Phan Huy Cường 2012487

3 Mai Thành Danh 1910907

4 Trương Huy Diệu 1912857 Nhóm trưởng

5 Trần Đình Nghi Dung 1910930

6 Trần Thị Thùy Dung 2012806

TP. HỒ CHÍ MINH, 10/2022


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA
TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký

Phần 1.2 và tiểu


1 Huỳnh Chí Cường 2012761
kết Chương 1

Phần 3.1, kết


2 Phan Huy Cường 2012487 luận và trình
bày word

Phần 2.3 và tiểu


3 Mai Thành Danh 1910907
kết Chương 2

Phần mở đầu và
4 Trương Huy Diệu 1912857
phần 1.1

Phần 3.2 và tiểu


5 Trần Đình Nghi Dung 1910930
kết Chương 3

Phần 2.1 và
6 Trần Thị Thùy Dung 2012806
phần 2.2

NHÓM TRƯỞNG

(Ghi rõ họ tên, ký tên)


PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của
lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng
về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là
kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự
chuẩn bị công phu về mọi mặt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của
những chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng. 

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh những thành tựu vẫn còn những
hạn chế cần tiếp tục khắc phục. Trong gần 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn
đạt được, Việt nam cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn một số vấn đề chưa rõ, chưa sâu sắc
hoặc chưa cụ thể. Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng
bộ công cuộc đổi mới, Đảng phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm
sáng tỏ những vấn đề lý luận - thực tiễn do công cuộc đổi mới đặt ra. 

Sự ra đời và trở thành Đảng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam là kết quả
của quá trình sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời cách mạng Việt Nam thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới. Kể từ đây cách mạng Việt Nam nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế
giới đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần mình cho cách mạng thế giới. Như vậy,
việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, không có Đảng thì giai cấp
công nhân không trở thành lãnh tụ của cách mạng, không thể có khối liên minh công nông
và mặt trận dân tộc thống nhất. Với cương lĩnh cách mạng đúng đắn Đảng ra đời là sự chuẩn
bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng là
nguồn gốc của mọi thắng lợi. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của những điều

1
kiện khách quan và chủ quan của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp ở Việt Nam
trong thời đại mới, là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước, tích cực chuẩn bị
tư tưởng, tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng mà người có công lao đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Từ đó nhóm chọn chọn đề tài: “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời - Sự sàng
lọc nghiêm khắc của lịch sử dân tộc Việt Nam trong thời đại mới” làm bài tập lớn để kết
thúc môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhiệm vụ của đề tài

Một là, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp.

Hai là, làm rõ những nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ đầu 1930.

Ba là, làm rõ quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc
(1911-1920) và sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam

Bốn là, làm rõ sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản, sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Năm là, làm rõ giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

2
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỈ XX

1.1. Bối cảnh thế giới

Bối cảnh lịch sử của thế giới và tác động tới Việt Nam

Từ nữa sau thế kỷ XIX, đời sống xã hội các nước tư bản Châu Âu- Mỹ có nhiều
chuyển biến mạnh mẽ. Nổi bật nhất là chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền), đẩy mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi
và khu vực Mỹ-Latinh,biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đế quốc.

Trước sự xâm lược và nô dịch hóa của các nước tư bản đế quốc nhân dân các nước
thuộc đã dứng lên đấu tranh dành độc lập đặc biệt là khu vực châu Á. Bên ngoài thì bóc lột
các nước thuộc địa bên trong thì bốc lột nhân dân lao động dẫn đến những phong trào đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước mẫu quốc.

Khi mà không còn thuộc địa thì những nước đế quốc bắt đầu dòm ngó lẫn nhau. Dẫn
đến sự hình thành hai phe quân sự Hiệp Ước ( chủ yếu là Anh, Pháp, Nga về sau có thêm
Hoa Kỳ) và Liên minh Trung Tâm (chủ yếu là Đức, Áo-Hung, Bulgaria và Ottoman). Vào
ngày 28/7/1914 cuộc chiến giữa hai phe nổ ra và kéo dài đến ngày 11/11/1918. Chiến tranh
kết thúc với sự thất bại của phe Liên Minh và sự ra đời của Liên Xô.

Sự ra đời của nước nhà nước Xô viết đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Sự
ra đời ấy không chỉ ảnh hưởng đến giai cấp vô sản ở các nước tư bản, mà còn có tác động
sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Tháng 3/1919, Quốc tế
Cộng sản, do V.I.Lenin đứng đầu được thành lập, trờ thành ngọn cờ đầu trong phong trào
cách mạng vô sản thế giới. Quốc tê Cộng sản không chỉ lãnh đạo cách mạng vô sản mà còn
đề cập đến các vấn đề dân tộc và thuộc địa; giúp đỡ, chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc.
Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến lược và sách lược về vấn đề dân tộc và thuộc

3
địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản và thúc
đẩy phong trào dấu tranh ở khu vực này theo huynh hướng vô sản. Đại hội II của Quốc tế
Cộng sản (1920) đã thông qua Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa do V.I. Lenin khởi xướng, Cách mạng Tháng Mười Nga và những hoạt dộng của
Quốc tế Cộng sản đã ảnh hướng mạnh mẽ và thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam và Đông Dương.

1.2. Bối cảnh trong nước

Về chính trị

Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á có nền kinh tế tiềm lực, nhiều tài nguyên, nằm ở
vị trí địa chính trị quan trọng của khu vực châu Á , nên Việt Nam đã trở thành đối tượng
nằm trong mưu đồ xâm lược của các nước đế quốc, trong đó có thực dân Pháp. Sau một thời
gian dài điều tra, thâm nhập của các nhà truyền giáo và thương nhân Pháp, Ngày 1/9/1858,
Pháp nổ phát súng tấn công đầu tiên vào Đà Nẵng, bắt đầu quá trình từng bước xâm lược
Việt Nam. Thời điểm ấy chế độ phong kiến Việt Nam (dưới thời nhà Nguyễn) đã lâm vào
tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Trước sự tấn công của Pháp nhà Nguyễn không ngừng
thỏa hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và sau Hiệp ước Patơnốt ngày 6/6/1884, Việt Nam
chính thức trở thành thuộc địa của Pháp.

Tuy nhà Nguyễn đã đầu hàng nhưng nhân dân Việt Nam không chịu khuất phục,
phong trào đấu tranh nổ ra khắp nơi buộc Pháp phải dùng vũ lực để đàn áp. Pháp thi hành
chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết của nhân dân ta. Các phong
trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều
không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng
phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi
nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn
là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân lấy hệ tư tưởng phong kiến, tiêu biểu là
cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào
năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn

4
Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng về
lực lượng lãnh đạo.

Về kinh tế

Từ năm 1897, Pháp bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam: Cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914) với chính sách bóc lột “chia để trị” của thực dân
Pháp và tay sai, chúng thẳng tay đàn áp và bóc lột nhân dân với mục đích vơ vét, bóc lột một
cách tối đa để bù đắp vào sự tổn thất của chúng trong các cuộc chiến tranh xâm lược. Đồng
thời, chúng cũng muốn thăm dò thế mạnh về địa hình, điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên, cũng như nguồn lao động tại các nước thuộc địa.

Cuộc khai thác thuộc địa lần hai (1919 – 1929), sau thế chiến thứ nhất dù thắng lợi
nhưng bị thiệt hại nặng nên công cuộc khai thác thuộc lần hai của Pháp diễn ra với quy mô
lớn hơn và tàn bạo hơn hẳn lần thứ nhất. Trong lĩnh vực nông nghiệp Pháp tiến hành cướp
đoạt ruộng đất để lập đồn điền, đánh thuế cao vào những người ít đất làm cho nông dân mất
đất, phải ly hương đến đô thị và trở thành giai cấp công nhân, đánh thuế thấp vào địa chủ lấy
đất của nông dân, ép triều đình nhà Nguyễn khai khẩn đất hoang . Trong lĩnh vực công
nghiệp Thực dân Pháp tập trung và khai thác mỏ để vơ vét nguồn khoáng sản giàu có ở Việt
Nam, tất cả khoáng sản mà chúng vơ vét được đều được đưa về Pháp. Phần lớn các xí
nghiệp khai thác mỏ đều nằm trong tay các tập đoàn tư bản pháp, đồng thời, chúng còn tận
dụng nguồn nhân công lao động rẻ mạt tại Việt Nam để tiến vào các hầm mỏ làm việc cho
chúng, xây dựng nhiều cơ sở phục vụ đời sống của chúng tại Việt Nam nhằm tận dụng nhân
công và nguồn nguyên liệu tại chỗ phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của chúng khi hàng hóa
chính quốc chưa kịp chuyển sang. Trong lĩnh vực giao thông vận tải thực dân Pháp tập trung
phát triển một cách mạnh mẽ, mục đích xây dựng hệ thống giao thông của Pháp nhằm phục
vụ cho mục đích khai thác lâu dài là chủ yếu, đồng thời góp phần hỗ trợ trong việc bóc lột
nhân dân ta một cách dễ dàng.

Qua cả hai cuộc khai thác Pháp biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hóa
độc quyền của “mẫu quốc”, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người bản xứ để vơ vét tài
nguyên của chính họ, đồng thời xây dựng hệ thống giao thông hiện đại để dễ bề trấn áp các
phong trào cách mạng.
5
Về văn hóa – xã hội

Pháp thực hiện chính sách “ngu dân”, lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Du nhập
những giá trị phản văn hóa, những tệ nạn mới bên cạnh đó vẫn duy trì những tệ nạn sẵn
có. Dung rượu, thuốc phiện để đầu độc nhiều thế hệ, làm cho nhân dân u mê mà quên đi nỗi
quốc nhục nhằm giảm sức phản kháng chống thực dân Pháp. Bên cạnh đó ra sức tuyên
truyền tư tưởng “khai phá văn minh” và các giá trị của nước “Đại Pháp”.

Chế độ áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa của Pháp khiến
cho xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi mạnh mẽ. Các giai cấp xã hội cũ thì phân hóa, các
tầng lớp mới xuất hiện với những địa vị kinh tế khác nhau từ đó hình thành nhiều thái độ
khác nhau trước vận mệnh dân tộc

Thứ nhất là các gia cấp cũ bị phân hóa:

Địa chủ: một bộ phận cấu kết với thực dân Pháp và làm tay sai cho Pháp trong việc
ra tay đàn áp các phong trào yêu nước và ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận khác nêu cao
tinh thần dân tộc, khởi xướng và lãnh đạo các phong trào chống Pháp, bảo vệ các giá trị
phong kiến như phong trào Cần Vương; Một số trở thành lãnh đạo các phong trào nông dân
chống thực dân Pháp và chế độ phong kiến bù nhìn; Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh
doanh theo lối tư sản.

Nông dân: chiếm bộ phận đông đảo nhất (chiếm khoảng 90% dân số) nhưng cũng
đồng thời là giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất. Do vậy, bên cạnh những mâu thuẫn vốn có với
địa chủ, nông dân còn có mâu thuẫn sâu sắc với thực dân xâm lược. Từ đó có thể thấy rằng
nông dân là lực lượng chính trị hùng hậu nhất, có tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất
cho nền độc lập và giành lại ruộng đất từ tay địa chủ. Nên nếu có sự lãnh đạo đúng đắn, giai
cấp nông dân có thể vùng dậy lật đổ chế độ thực dân, phong kiến.

Các sĩ phu phong kiến: có sự phân hóa một bộ phận hướng sang tư tưởng dân chủ tư
sản; một bộ phận hướng theo tư tưởng vô sản; một số người khởi xướng phong trào yêu
nước và có nhiều ảnh hưởng lớn.

Thứ hai là các giai cấp mới hình thành:

6
Công nhân: hình thành và gắn liền với các công cuộc khai thác thuộc địa, với việc
thực dân Pháp thành lập các nhà máy, xí nghiệp và các đồn điền… Bên cạnh những đặc
điểm của công nhân quốc tế thì còn những nét riêng như ra đời trong hoàn cảnh nửa phong
kiến nửa thuộc địa vốn xuất thân từ những người nông dân mất đất, cơ cấu chủ yếu là công
nhân khai mỏ, đồn điền. Dù chiếm tỉ trọng ít1 nhưng đã sớm vươn lên tiếp nhận những giá trị
mới của thời đại, các phong trào dần chuyển đấu tranh nhanh chóng chuyển từ “tự phát”
thành “từ giác”, thể hiện rằng công nhân có thể trở thành giai cấp tiên phong lãnh đạo các
phong trào cách mạng.

Tư sản: xuất hiện sau giai cấp công nhân Việt Nam. Một số làm tay sai cho thực dân
có các lợi ích gắn liền với thực dân Pháp, tham gia vào các hoạt động đời sống kinh tế,
chính trị của chính quyền thực dân Pháp, trờ thành tư sản mại bản; số khác là tư sản dân tộc,
bị thực dân Pháp chèn ép, yếu ớt về kinh tế. Tuy có tinh thần yêu nước nhưng không đủ để
tập hợp các giai tầng để tiến hành cách mạng.

Tiểu tư sản: gồm tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,… bị thực dân, tư bản chèn ép,
khinh miệt vì vậy có tinh thần yêu nước nhạy bén với tình hình thời cuộc. Tuy nhiên vì lợi
ích kinh tế có thể dao động, thiếu kiên định, do đó tầng lớp tiểu tư sản không thể lãnh đạo
cách mạng.

Qua đó có thể thấy rằng cuối thế kỷ XIX, đầu XX, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
Việt Nam có nhiều biến đổi sâu sắc. Các chính sách cai trị và khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp đã làm phân hóa xã hội các giai cấp phong kiến cũ (địa chủ, nông dân) và
hình thành những giai cấp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ
chính trị khác nhau. Những mâu thuẫn mới xuất hiện, trong đó mâu thuẫn của dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động đã trở thành mâu thuẫn chính.

Nhiệm vụ Việt Nam đặt ra cần giải quyết????

7
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất, các nước đế quốc chịu tổn thất nghiệm trọng về
kinh tế quân sự. châu Á còn nhiều nước có tài nguyên khoáng sản chưa được khai thác, nền
phong kiến mục nát, lạc hậu khiến châu Á trở thành điểm thu hút đối với các nước đế quốc,
trong đó có Việt Nam. Với âm mưu chiếm đóng các nước Đông Dương, Pháp đã tiến hành
nhiều cuộc khảo sát thăm dò tình hình và xâm lược. Triều đình nhà Nguyễn thất bại dưới tay
Pháp, các cuộc khởi nghĩa diễn ra thiếu đường lối chỉ đạo phù hợp. Giữa những bế tắc và
thiếu sót của Việt Nam, các nhà tri thức yêu nước đã tìm thấy kế thừa và phát huy hệ tư
tưởng Mác-Lênin và phong trào cách mạng công nhân ở Nga (10/1917). Một phong trào có
ảnh hưởng lớn đến giai cấp vô sản và nhấn mạnh muốn giành chính quyền phải do giai cấp
số đông tự đứng lên đấu tranh, đồng thời phong trào cũng mở ra con đường chỉ đạo lối đi
đúng đắn cho phong trào cách mạng Việt Nam.

Sau khi ký các hiệp định và triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đã đánh dấu mất đi quyền
tự quyết cho dân tộc là cơ sở để lật đổ chế độ phong kiến. Các cuộc khởi nghĩa do giai cấp
phong kiến lãnh đạo với mục đích đánh đuổi thực dân Pháp và thành lập chế độ phong kiến
mới, triều đình mới không được nhân dân hưởng ứng nên đã thất bại. Trong hai lần khai thác
thuộc địa vơ quét của cải, bóc lột sức lao động của thực dân Pháp đã làm vùng dậy tình thần
yêu nước của nhân dân, nhiều cuộc khởi nghĩa diễn ra song các cuộc khởi nghĩa đều lẻ tẻ,
thiếu đường lối lãnh đạo lại mang đậm hệ tư tưởng phong kiến cũ nên đều thất bại. Yêu cầu
cấp bách đặt ra cho Việt Nam là phải có một tổ chức chỉ dẫn lãnh đạo các phong trào đúng
đắn, mang hệ tư tưởng mới và hiểu rõ tình hình ở Việt Nam để thi hành các chính sách cho
phù hợp với thực tiễn và quan trọng nhất là tổ chức phải kết nối được khối đại đoàn kết dân
tộc để tạo điều kiện giành độc lập. Tất cả đều là cơ sở cho quá trình thành lập Đảng sau này
mà Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị trong chặng đường ra đi tìm đường cứu nước của mình.

8
Qua hai lần khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã làm phân hóa các tầng lớp trong
xã hội đồng thời cũng phân hóa tinh thần nhận thức tham gia cách mạng của từng giai cấp.
Những địa chủ vừa và nhỏ, nông dân bị mất ruộng, bị đàn áp bóc lột sức lao động trong các
khu công nghiệp làm nêu cao tinh thần đấu tranh, yêu nước. Các địa chủ lớn và bọn phản
động làm tay sai cho Pháp. Làm cho mẫu thuẫn các giai cấp ở Việt Nam với thực dân Pháp
càng trở nên gay gắt. Các cuộc khởi nghĩa đều thất bại nhưng lại đều có chung một mục đích
là đánh đuổi thực dân Pháp đó cũng chính là mục tiêu chiến lược lâu dài trong quá trình
kháng chiến chống giặc ngoại xâm.

9
CHƯƠNG 2

QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến

2.1.1. Phong trào Cần Vương (1885 - 1896) - Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết

Hoàn cảnh

Sau khi vua Tự Đức qua đời (1883), lợi dụng triều đình Huế lục đục, Pháp tấn công
Thuận An, dùng vũ lực ép nhà Nguyễn đầu hàng, hoàn hành quá trình xâm lược Việt Nam.
Tuy nhiên sau đó, Pháp chỉ xác lập được quyền lực ở trung ương còn phần lớn ở Bắc và
Trung Kì chúng chưa chiếm được và phải đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân ta.

Trong khi đó, nội bộ nhà Nguyễn phân hóa sâu sắc thành hai phe: phe chủ chiến và
phe chủ hòa.

Phe chủ chiến do Tôn Thất Thuyết đứng đầu. Tuy có số lượng ít nhưng vẫn quyết
tâm chống Pháp, tích cực xây dựng căn cứ chuẩn bị cho cuộc chiến lâu dài. Trong hai năm
liên tiếp 1883-1884, phế bỏ các vua thân Pháp, đưa Hàm Nghi ( có tư tưởng chống Pháp) lên
ngôi vua vào tháng 6 năm 1884.

Việc đó làm cho Pháp quyết tiêu diệt phe chủ chiến. Lấy cớ triều đình đưa Hàm
Nghi lên ngôi vua mà không hỏi ý kiến Pháp, Pháp cho quân đóng ở đồn Mang Cá, Tòa
Khâm sứ định bắt cóc Tôn Thất Thuyết nhưng không thành. Pháp không công nhận và yêu
cầu giải tán triều đình mới. Tháng 7 năm 1884, khâm sứ Pháp cho quân chiếm đóng đồn
Mang Cá để o ép triều đình.
10
Đêm ngày 4 rạng ngày 5/7/1885, Tôn Thất Thuyết hạ lệnh tấn công Pháp tại đồn
Mang Cá, toà Khâm sứ. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Pháp phản công, Tôn Thất
Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị).

Ngày 13/7/1885 Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi ra chiếu Cần vương kêu
gọi văn thân , nhân dân đứng lên giúp vua đánh giặc.

Diễn biến:

Giai đoạn 1 từ giữa năm 1885 đến tháng 11 năm 1888

Sau khi chiếu Cần Vương ra đời, nhiều văn thân, sĩ phu yêu nước nhiệt liệt hưởng
ứng. Họ đã tập hợp nghĩa quân, xây dựng căn cứ, chiến đấu quyết liệt với thực dân Pháp và
tay sai trên một địa bàn rộng lớn, tại các tỉnh Miền Bắc và Trung Kỳ.

Có nhiều văn thân, người cùng chí hướng tham gia như Trần Xuân Soạn, Mai Xuân
Thưởng, Phan Đình Phùng, Phạm Bành.

Đặc điểm của phong trào thời kỳ này là trong những hoàn cảnh nhất định, phong
trào đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của triều đình kháng chiến do vua Hàm Nghi và Tôn
Thất Thuyết đứng đầu.

Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt, giai đoạn đầu kết thúc.

Giai đoạn 2 từ cuối năm 1888 đến năm 1896

Tuy không còn sự lãnh đạo thống nhất của triều đình nhưng các phong trào Cần
Vương vẫn tiếp tục phát triển và quy tụ thành những cuộc nổi dậy rộng lớn, có trình độ tổ
chức cao hơn và duy trì được cuộc kháng chiến chống Pháp trong nhiều năm như: Khởi
nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân, khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo,
khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo.

Tuy nhiên, phong trào phản vua thời kỳ này không thể khắc phục được tình trạng hy
sinh, thiếu sự phối hợp, chỉ đạo thống nhất của địa phương các cấp.

Kết quả: Thất bại

Nguyên nhân thất bại:

11
Phong trào Cần Vương đã được phe chủ chiến chuẩn bị từ cuối năm 1883, song song
việc chấn chỉnh quân đội, nâng cao khả năng và tinh thần chiến đấu, tinh giản bộ máy hành
chính, chuẩn bị cho vua rời khỏi Huế, tu bổ và mở rộng con đường Thượng đạo,… là những
việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Phong trào cũng thu hút được một số quan lại
trong triều đình và văn thân. Ngoài ra, phong trào còn thu hút đông đảo sĩ phu yêu nước thời
bấy giờ cùng sự hưởng ứng rộng rãi trong quần chúng.

Nguyên nhân dẫn đến thất bại:

Về khách quan:

Thực dân Pháp có lực lượng mạnh, được tay sai giúp đỡ: Pháp có tiềm lực về kinh
tế, quân sự. Đồng thời có sự giúp sức của tay ai, giáo dân. Về chủ quan:

Do hạn chế của ý thức hệ phong kiến: Cần Vương là giúp vua chống Pháp, khôi
phục chế độ phong kiến không đáp ứng các yêu cầu khách quan của lịch sử và đại bộ phận
nhân dân là xóa bỏ giai cấp phong kiến đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc.

Thiếu sự quy tụ và đường lối lãnh đạo: Phong trào Cần Vương vẫn chưa hội tụ và
tập hợp được thành một khối thống nhất; chưa có phương hướng hoạt động cũng như đường
lối chiến lược rõ ràng đủ mạnh để chống Pháp.

Yếu về lãnh đạo và lực lượng: các cuộc khởi nghĩa không đủ mạnh, chỉ có thể tấn
công vào chỗ yếu, sơ hở của địch, không đủ khả năng chiến tranh trực diện với địch. Một số
thủ lĩnh khi thấy bất lợi, nhanh chóng đầu hàng, khiến phong trào nhanh chóng suy yếu và
tan rã. Phong trào Cần Vương vẫn chưa hội tụ và tập hợp được thành một khối thống nhất;
chưa có phương hướng hoạt động cũng như đường lối chiến lược rõ ràng đủ mạnh để chống
Pháp.

Mang tính chất địa phương: Phong trào Cần Vương thất bại có nguyên nhân đến từ
sự kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các lãnh đạo của phong trào chỉ có uy tín tại địa
phương nơi xuất thân, khi họ bị bắt hoặc giết thì nghĩa quân đầu hàng hoặc giải tán.

Vũ khí: Với vũ khí tự túc, thô sơ, quân Cần Vương khó mà đối đầu với vũ khí hiện
đại của quân đội Pháp.

12
Quan hệ với nhân dân: Các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương không lấy
được sự tin tưởng từ nhân dân bởi gốc rễ chưa xuất phát từ nông dân. Các đạo quân còn đi
cướp bóc của dân chúng.

Mâu thuẫn với tôn giáo: Việc xung đột với Công giáo của quân Cần Vương buộc
nhiều giáo dân phải tự vệ bằng cách kết nối thông đồng với thực dân Pháp. Theo thống kê
của người Pháp cho biết, có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.

Mâu thuẫn sắc tộc: Sự sai lầm trong chính sách sa thải các quan chức Việt, cho dân
tộc thiểu số quyền tự trị khiến các sắc dân này đã đứng về phía Pháp. Chính người Thượng
đã bắt Hàm Nghi. Các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đã cắt đường liên lạc của quân
Cần Vương. Họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.

Ý nghĩa:

Phong trào Cần Vương đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên
khắp cả nước, hưởng ứng chiếu Cần Vương từ năm 1885 đến năm 1896.

Phong trào nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại
xâm của nhân dân ta.

Chứng tỏ khả năng lãnh đạo của giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến
không đáp ứng được yêu cầu của lịch sử lúc bấy giờ, là cơ sở để tìm ra hướng đi mới cho
phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX.

Để lại nhiều kinh nghiệm về lãnh đạo, khởi nghĩa vũ trang,… tạo tiền đề cho các
phong trào đấu tranh ở giai đoạn sau.

Ở thời kì này, hệ tư tưởng phong kiến vẫn được sử dụng làm vũ khí chống Pháp,
cuộc khởi nghĩa thất bại đã đặt dấu chấm hết cho giai cấp phong kiến đấu tranh trên hệ tư
tưởng phong kiến.

2.1.2. Khởi nghĩa Yên Thế (1884 - 1913) - Hoàng Hoa Thám

Nguyên nhân:

13
Kinh tế nông nghiệp sa sút, đời sống nông dân đồng bằng Bắc Kì vô cùng khó khăn,
một bộ phận phải phiêu tán lên Yên Thế, họ sẵn sàng nổi dậy đấu tranh bảo vệ cuộc sống
của mình.

Khi Pháp thi hành chính sách bình định, cuộc sống bị xâm phạm, nhân dân Yên Thế
đã đứng dậy đấu tranh.

Diễn biến: gồm 3 giai đoạn

Giai đoạn I: 1884 - 1892

Nhiều toán nghĩa quân hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đề Nắm, lúc này nghĩa quân
hoạt động riêng rẽ, chưa có sự chỉ huy thống nhất.

Tháng 4 - 1892 cuộc khởi nghĩa do Đề Thám chỉ huy

Giai đoạn II (1893- 1908): nghĩa quân vừa chiến đấu vừa xây dựng cơ sở.

Nghĩa quân đã chiến đấu quyết liệt, buộc kẻ thù hai lần phải giảng hòa và
nhượng bộ một số điều kiện có lợi cho ta.

Lần giảng hòa thứ nhất: sau khi bắt được tên điền chủ người Pháp - Sét-nay. Đề
Thám đã thỏa thuận với Pháp, nghĩa quân đã thả tên điền chủ, trong khi đó Đề Thám phải
được cai quản 4 tổng: Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ và Hữu Thượng.

Đặc biệt trong thời kì giảng hòa lần thứ hai (12/1897) Đề Thám cho sản xuất ở Phồn
Xương, tích lũy lương thực, xây dựng quân đội, sẵn sàng chiến đấu. Nhiều nhà yêu
nước đã tìm đến như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh.

Giai đoạn III: 1909 - 1913

Sau vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội, Pháp đã dần hiện thấy Đề Thám có
dính líu đến vụ đầu độc lính. Vì vậy, Pháp tập trung lực lượng, mở cuộc tấn công quy mô lên
Yên Thế.

Sau nhiều trận càn quét của địch, lực lượng nghĩa quân hao mòn dần. Ngày
10/2/1913 Đề Thám bị sát hại phong trào tan rã.

Kết quả: thất bại

14
Nguyên nhân thất bại:

So với phong trào Cần Vương với mục đích là bảo vệ ngôi vua, lập lại chế độ phong
kiến thì khởi nghĩa Yên Thế với lực lượng là nông dân, mục đích bảo vệ lợi ích trước mắt
của người nông dân, biết hòa hoãn đúng lúc và đã mang lại những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, sau đó khởi nghĩa thất bại do những nguyên nhân sau:

Là phong trào nông dân mang tính tự phát. Giai cấp lãnh đạo là nông dân, chưa có
đường lối đúng đắn, chưa có hệ tư tưởng lãnh đạo. Lúc này, cuộc khởi nghĩa vẫn chưa tìm ra
được con đường cách mạng và sứ mệnh của mình, họ nổi dậy khởi nghĩa để bảo vệ những
lợi ích trước mắt, chưa có tầm nhìn xa, vì vậy hành động một cách riêng lẻ, chưa triệt để nên
thất bại.

Chưa có sự liên kết với các phong trào yêu nước cùng thời. Nhiều lúc còn bị
động.

Quá phụ thuộc vào người chỉ huy, khi người chỉ huy chết thì khởi nghĩa nhanh
chóng tan rã.

Ở giai đoạn này, hệ tư tưởng phong kiến vẫn còn được sử dụng để chống Pháp, khởi
nghĩa Yên Thế thất bại phản ánh sự bế tắc của phong trào yêu nước của Việt Nam những
năm cuối thế kỉ XIX - đầu XX, đất nước lúc này rơi vào sự khủng hoảng về đường lối và
giai cấp lãnh đạo.

Ý nghĩa:

Khởi nghĩa diễn ra trong thời gian dài, vì vậy đã gây cho Pháp không ít tổn thất.
Đồng thời thể hiện tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta. Khởi nghĩa đã
buộc Pháp giảng hòa và nhượng bộ một số điều kiện có lợi cho ta, bước đầu giải quyết được
yêu cầu ruộng đất cho nông dân. Tuy khởi nghĩa đã thất bại nhưng cũng đã để lại nhiều bài
học cho các phong trào khởi nghĩa sau này.

2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản

2.2.1. Phong trào vào đầu thế kỷ XX

15
Ở giai đoạn này, giai cấp tư sản và tiểu tư sản chưa ra đời. Hệ tư tưởng tư sản đã ảnh
hưởng vào Vệt Nam. Các trí thức phong kiến tiếp thu hệ tư tưởng tư sản.

Phong trào Đông Du (1905 - 1908) - Phan Bội Châu

Hoàn cảnh:

Đất nước ta đang trong thời kì nửa phong kiến, tuy có đổi mới nhưng không thật sự
tiến bộ. Nhật Bản inhờ đi theo con đường dân chủ tư sản đã thành công. Do đó, đã khuyến
khích nhiều nhà yêu nước trong đó có Phan Bội Châu hình thành phong trào Đông Du.

Đầu thế kỉ XX, những người Việt Nam yêu nước do Phan Bội Châu đứng đầu lập ra
Hội Duy Tân với mục đích là đánh Pháp, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Hội dự định dựa
vào Nhật Bản để xúc tiến việc chuẩn bị bạo động, họ cho rằng Nhật Bản là nước cùng màu
da, cùng văn hóa, Nhật Bản đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trở nên giàu mạnh, thoát
khỏi đế quốc xâm lược, nên có thể dựa vào Nhật Bản.

Diễn biến:

Năm 1904, các nhà yêu nước lập ra Hội Duy Tân do Phan Bội Châu đứng đầu.

Mục đích của Hội là lập ra một nước Việt Nam độc lập.

Đầu năm 1905, Phan Bội Châu sang Nhật Bản nhờ giúp khí giới, tiền bạc để đánh
Pháp. Người Nhật Bản chỉ hứa đào tạo cán bộ cho cuộc bạo động vũ trang sau này. Tiếp đó,
Hội Duy Tân phát động thành viên tham gia phong trào Đông Du. Lúc đầu, phong trào
Đông du hoạt động rất thuận lợi, số học sinh sang Nhật Bản có lúc lên tới 200 người.

Đến đầu tháng 9/1908, thực dân Pháp câu kết với Nhật. Pháp cho Nhật vào buôn bán
ở Việt Nam, còn Nhật không cho các nhà yêu nước Việt Nam trú ngụ, nên nhà cầm quyền
Nhật trục xuất những người yêu nước Việt Nam.

Tháng 3/1909, Phan Bội Châu buộc phải rời Nhật Bản. Đến đây, Phan Bội Châu rút
ra bài học: “Đã là phường đế quốc dù da trắng hay da vàng thì chúng đều là một lũ cướp
nước như nhau”. Phong trào Đông Du tan rã, Hội Duy Tân ngừng hoạt động.

Kết quả:

16
Pháp cấu kết với Nhật trục xuất những người yêu nước ra khỏi Nhật, Phan Bội
Châu rời khỏi Nhật và phong trào tan rã.

Nguyên nhân thất bại:

Phong trào thất bại vì:

Thứ nhất, Phan Bội Châu và những nhà yêu nước chưa hiểu được bản chất thật sự
của Nhật Bản- một nước đế quốc cướp nước, ông nhận định con đường cách mạng chưa
đúng đắn – không thể dựa vào nước ngoài mà phải tự cứu lấy mình, quá nương nhờ vào
Nhật Bản, chưa chú trọng vào tiềm lực nước nhà.

Thứ hai, chính vì nương nhờ vào Nhật nên khi Nhật cấu kết với Pháp, trục xuất học
sinh về nước thì phong trào thất bại, Hội Duy Tân cũng ngừng hoạt động.

Ý nghĩa:

Phan Bội Châu là người dẫn đầu cuộc giải phóng dân tộc bằng con đường không
theo phong kiến. Ông phát động phong trào theo khuynh hướng bạo động với mục đích kêu
gọi thanh niên ra nước ngoài học tập, chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ giành lại độc lập nước
nhà. Ông tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, rèn luyện cho học sinh về tri thức, quân sự, rèn
luyện tư tưởng lãnh đạo, đạo đức cách mạng; nhằm đào tạo ra nguồn nhân lực có trình độ
văn hóa, quân sự cần thiết để giành lại độc lập nước nhà.

Mặc dù chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng phong trào Đông du
được coi là một trong những phong trào yêu nước mạnh mẽ nhất của nhân dân Việt Nam
đầu thế kỷ 20 và đặc biệt nhiều thanh niên du học của trào lưu này đã trở thành những hạt
nhân của các phong trào cách mạng tiếp theo trong công cuộc giải phóng dân tộc.

Tuy thất bại nhưng phong trào Đông Du cũng đã đào tạo cho cách mạng nước ta sau
này một đội ngũ chính trị có tư tưởng yêu nước tiến bộ bắt kịp xu thế của thời đại.

Phong trào Duy Tân (1906-1908) - Phan Châu Trinh

Hoàn cảnh:

Sau khi phong trào Cần vương thất bại, nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp ở
Việt Nam lại tiếp tục nổ ra, nhưng theo hướng mới. Trong số đó, theo đường lối duy tân
17
(theo cái mới), nổi bật có Duy Tân Hội cùng phong trào Đông Du (1905-1908) do Phan Bội
Châu đề xướng và Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động tại miền Trung Việt
Nam.

Diễn biến:

Phong trào Duy Tân hay còn được biết đến với tên gọi cuộc vận động Duy Tân hay
Phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ. Đây là một cuộc vận động cải cách ở miền Trung

Việt Nam diễn ra từ năm 1906 đến 1908. Cuộc vận động do Phan Châu Trinh phát
động nhanh chóng kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp.

Phan Châu Trinh chủ trương chỉ đạo phong trào Duy Tân không bạo động, cải tổ về
mọi mặt xã hội qua con đường nâng cao dân trí. Trong đó phong trào này chủ trương cải tổ
về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục một cách toàn diện. Với các hoạt động thực tế như:
Mở trường dạy học hiện đại, lập các nhà buôn lớn để tự lực, mở mang kinh tế.

Phong trào Duy Tân chú trọng đi theo cái mới và cải tổ loại bỏ đi cái cũ. Có thể nói
Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ đã đi đầu cho tinh thần cải cách với
những bản điều trần và văn bản Thiên hạ đại thế luận. Duy Tân chú trọng đến việc nâng cao
khả năng dân trí nhằm phát triển kinh tế và giành lại chính quyền.

Khác với phong trào Đông Du nhờ đến sự trợ giúp của người Nhật phong trào Duy
Tân lại chú trọng đến tiềm lực của nước nhà. Phan Châu Trinh từ quan tiến hành Bắc du,
Nam du nhằm xem xét tình hình trên cả nước. Từ đây ông cũng tìm được các văn sĩ và bạn
đồng chí hướng và tư tưởng canh tân với mình.

Tuy cùng chung chí hướng giành lại chính quyền với Phan Bội Châu nhưng ông lại
không đồng tình với chủ trương duy trì nền quân chủ. Ông càng không muốn sử dụng
bạo động cách mạng cũng như mưu cầu đến sự giúp đỡ ở bên ngoài nhất là khi Nhật Bản
cũng là nước đế quốc.

Phong trào Duy Tân còn được biết đến như một Hội ngoài ánh sáng với chủ trương
đi theo con đường dân chủ. Phong trào này diễn ra công khai với hình thức cải cách xã hội,
nâng cao dân trí và dân quyền. Tuy nhiên sai lầm chính của phong trào này lại là chủ trương
dựa vào Pháp để giàu mạnh.
18
Kết quả: thất bại

Nguyên nhân thất bại:

Phan Châu Trinh không hiểu được bản chất của thực dân Pháp, còn dựa vào Pháp,
không đề ra chiến lược tập hợp nông dân và công nhân.

Các đề nghị cải cách của phong trào Duy Tân còn tản mạn, xa rời thực tế, không phù
hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.

Chưa giải quyết được mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc đó như: mâu thuẫn
gay gắt giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp, mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân.

Quan trọng hơn cả là các đề nghị này không đáp ứng được nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân, do đó không được nhân dân ủng hộ.

Do triều đình Huế bảo thủ, từ chối mọi cải cách và không muốn đổi mới. Điều này
khiến cho xã hội Việt Nam luẩn quẩn trong trong bế tắc của xã hội thực dân nửa phong kiến,
đồng thời cũng khiến các cải cách của phong trào Duy Tân xa rời thực tế.

Ý nghĩa:

Phong trào Duy Tân theo khuynh hướng cải cách, có ý nghĩa giúp khơi dậy lên
tư tưởng tiến bộ, tấn công mạnh mẽ vào hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu và bảo thủ nhằm
làm thay đổi chế độ tư tưởng phong kiến.

Phong trào Duy Tân mang tính thời đại, góp phần giải quyết những yêu cầu thời bấy
giờ.

Phong trào sau chiến tranh thế giới lần thứ Nhất

Ở giai đoạn này, giai cấp tư sản, tiểu tư sản ra đời. Hệ tư tưởng tư sản tác động trực
tiếp vào Việt Nam. Các phong trào ở thời kì này theo khuynh hướng chính trị tư sản. Một số
phong trào như:

Phong trào quốc gia cải lương tư sản (1919-1923): lực lượng là bộ phận tư sản và
địa chủ lớp trên với nội dung vận động chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hóa, chống độc
quyền hương cảng Sài Gòn, chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ, đòi mở rộng viện
dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia.
19
Phong trào yêu nước dân chủ công khai (1925-1926): lực lượng chính là tiểu tư
sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị như: Việt Nam Nghĩa
đoàn, Hưng Việt,…; ra nhiều bài báo tiến bộ; có nhiều phong trào đấu tranh chính trị lớn
như: đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh,…
Tuy nhiên càng về sau, các phong trào này phân hóa rõ rệt, một bộ phận tiếp tục khuynh
hướng chính tị tư sản, bộ phận khác chuyển dần sang khuynh hướng cách mạng vô sản.

Phong trào cách mạng quốc gia tư sản(1927-1930):

Việt Nam Quốc dân Đảng ra đời( 1927), tập hợp lực lượng bao gồm thành phần tư
sản, tiểu tư sản, địa chủ và hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp. Mô phỏng theo chủ
nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, thực hiện chủ trương đánh đuổi đế quốc,
xóa bỏ chế độ vua quan, xây dựng dân quyền, tuy nhiên vẫn chưa có đường lối chính trị rõ
ràng.

Tháng 2/1929, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức ám sát tên trùm mộ phu Badanh ở
Hà Nội. Nhân sự Quan trọng hơn cả là các đề nghị này không đáp ứng được nguyện vọng
của các tầng lớp nhân dân, do đó không được nhân dân ủng hộ.

Do triều đình Huế bảo thủ, từ chối mọi cải cách và không muốn đổi mới. Điều này
khiến cho xã hội Việt Nam luẩn quẩn trong trong bế tắc của xã hội thực dân nửa phong kiến,
đồng thời cũng khiến các cải cách của phong trào Duy Tân xa rời thực tế.

Ý nghĩa:

Phong trào Duy Tân theo khuynh hướng cải cách, có ý nghĩa giúp khơi dậy lên
tư tưởng tiến bộ, tấn công mạnh mẽ vào hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu và bảo thủ nhằm
làm thay đổi chế độ tư tưởng phong kiến.

Phong trào Duy Tân mang tính thời đại, góp phần giải quyết những yêu cầu thời bấy
giờ.

Nhận xét:

Tóm lại, vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu
nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong

20
kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt; liên tục và rộng
khắp. Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu giành độc
lập cho dân tộc. Tuy nhiên, các phong trào dựa vào hệ tư tưởng phong kiến hay tư sản đều
thất bại. Nguyên nhân thất bại của các phong trào đó là do thiếu đường lối chính trị đúng đắn
để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một tổ chức
vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được phương pháp
đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù. Tuy thất bại song các phong trào yêu nước đã góp
phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên tri thức
tiên tiến chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu
hướng của thời đại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần
phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng
dân tộc.

2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản

2.3.1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920)

Trước sự đàn áp, thống trị và bóc lột của Thực dân Pháp, mặc cho những phong trào
yêu nước, đấu tranh diễn ra rất sôi nổi nhưng thất bại do còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Lúc
này nhận thấy được sự sai lầm và những hạn chế trong đường lối Cách mạng, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, với tinh thần yêu nước thương dân, Người đã quyết tâm
ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước trước sự tác động của những yếu tố trong nước và ngoài
nước.

Thứ nhất, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.

Cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển
lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và tiến hành xâm lược các nước nhỏ, yếu để làm thị trường
tiêu thụ sản phẩm công nghiệp tư bản; để vơ vét tài nguyên, bóc lột lao động, nô dịch dân
tộc. Tuy nhỏ bé, lạc hậu, nhưng các nước này không cam chịu làm nô lệ cho thực dân, đế
quốc mà quyết tâm đứng lên đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, từ đó phong trào giải
phóng dân tộc phát triển. Sự kiện này tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, nhận thức của người

21
thanh niên Việt Nam yêu nước Nguyễn Tất Thành, trong việc so sánh đối chiếu với dân tộc
Việt Nam, dân tộc ta quyết không làm nô lệ cho thực dân Pháp, mà phải đấu tranh giành lại
nền độc lập cho dân tộc, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Thứ hai, chủ nghĩa Mác – Lênin và sự ra đời Đảng Cộng sản trên thế giới.

Trên thế giới chủ nghĩa Mác – Lênin phát triển và được hiện thực hóa bằng phong
trào vô sản với sự ra đời của các Đảng Cộng sản trên thế giới như: BaLan, Tiệp Khắc, Liên
Xô, v.v. các Đảng Cộng sản có khả năng tập hợp, đoàn kết, lãnh đạo, giai cấp công nhân và
dân tộc làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á.

Phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nước thuộc khu vực châu Á nổ ra như:
Indonesia, Trung Quốc nổ ra nhưng đều thất bại, mà nguyên nhân là thiếu tổ chức, thiếu
đoàn kết, đoàn kết rời rạc, nên Hồ Chí Minh không sang Trung Quốc hay Nhật tìm đường
cứu nước, mà sang Pháp để tìm đường cứu nước.

Thứ tư, tình hình trong nước

Từ những tháng đầu năm 1858 trở về trước, Việt Nam là một nước phong kiến độc
lập có chủ quyền; đến ngày 1/9/1858, Pháp xâm lược Việt Nam, sau hiệp định
Patơnốt(1884), Việt Nam trở thành nước thuộc địa của thực dân Pháp, lúc này Việt Nam mất
chủ quyền. Thực dân Pháp câu kết với chế độ phong kiến cùng áp bức, bóc lột các tầng lớp
nhân dân lao động, xã hội Việt Nam lúc này xuất hiện nhiều mâu thuẫn, xã hội đen tối, ngột
ngạt; một câu hỏi lớn đặt ra cho các thế hệ người Việt Nam là bằng con đường nào để giành
lại nền độc lập cho dân tộc?. Trong xã hội Việt Nam lúc này có hai mâu thuẫn cơ bản là
mâu thuẫn giữa cả dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và giữa giai cấp nông dân với địa
chủ, phong kiến. Dưới ách cai trị của thực dân phong kiến, nhân dân ta không cam chịu làm
nô lệ, đã liên tục đấu tranh giành độc lập dân tộc, theo các khuynh hướng của nông dân, trí
thức, tư sản; các phong trào yêu nước sôi nổi, mạnh mẽ, liên tục duy trì ngọn lửa cứu nước
trong lòng dân tộc, nhưng tất cả đều thất bại, do thiếu tổ chức, thiếu đường lối, chưa có
Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Nên sau này Hồ Chí Minh không đi theo con đường cứu nước của

22
các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ vì đó là con đường cứu nước không thành, cho dù Nguyễn
Tất Thành rất ngưỡng mộ các sĩ phu yêu nước với tinh thần hy sinh xả thân vì nước.

Thứ năm, quê hương và gia đình

Nguyễn Tất Thành sinh ra tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi
quê hương giàu truyền thống yêu nước, thương dân, hiếu học. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh
Sắc là một vị quan giáo dục có tinh thần yêu nước, thương dân; là Người cha thân ra Nguyễn
Tất Thành, đã dạy dỗ Nguyễn Tất Thành chu đáo về các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam như: yêu nước, thương dân, đoàn kết, cộng đồng, dân chủ, trung, hiếu,v.v. Cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc cũng định hướng cho Nguyễn Tất Thành muốn thắng giặc Pháp
thì phải hiểu văn hóa Pháp, muốn hiểu văn hóa Pháp thì phải học ngôn ngữ của Pháp. Trong
gia đình, anh ruột Nguyễn Sinh Khiêm và chị ruột Nguyễn Thị Thanh đã tích cực tham gia
chống giặc Pháp xâm lược bị bắt giam, bị đánh đập dã man. Nguyễn Tất Thành sinh ra và
lớn lên phải chứng kiến cảnh lầm than của nhân dân ta khi nước mất, nhà tan. Xuất phát từ
thương dân rồi trăn trở vì dân và quyết tâm ra đi tìm đường cứu dân, cứu nước. Chủ nghĩa
yêu nước nhân văn Việt Nam là cội nguồn động lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước. Người viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Ngày 5 tháng 6 năm
1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Từ Bến Nhà Rồng, Người xuất dương
sang Pháp trên con tàu buôn

Latouche -Tréville để tìm "tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi", sau hơn
một tháng trên biển đến ngày 6 tháng 7 năm 1911, tàu Latouche-Tréville cập cảng Marseille
Pháp. Từ nǎm 1911 đến 1920, Nguyễn Tất Thành đã đến nhiều nước ở châu Âu, châu Phi,
châu Mỹ, châu Á, để nghiên cứu, tìm đường cứu nước. Tháng 7 nǎm 1920 trên báo Nhân
đạo (L'Humanité - Pháp), Nguyễn Tất Thành đọc Sơ thảo “Luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa” của V.I Lênin.

Thứ sáu, trí tuệ và quyết tâm của Nguyễn Tất Thành.

Có thể nói, Nguyễn Tất Thành là một thanh niên Việt Nam yêu nước, thương dân có
lý tưởng, có khát vọng, có hoài bão, có quyết tâm; hy sinh trọn vẹn đời mình cho dân tộc

23
Việt Nam, Người nói: “ Lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của tôi không bao giờ thay
đổi”. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, một mình Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu
nước và đã thành công, tạo ra bước ngoặt chuyển hướng cho cách mạng Việt Nam, thay đổi
hướng phát triển cho cả dân tộc. Việc lựa chọn, đi theo con đường cách mạng vô sản đã
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và đem lại nhiều thành tựu vĩ đại cho cách
mạng Việt Nam. Cuộc đời - sự nghiệp, tài năng - trí tuệ, đạo đức - phong cách Hồ Chí Minh
luôn là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sĩ, là tấm gương soi, lời dạy cho các nhà lãnh đạo,
quản lý hôm nay, trăn trở, suy tư, xác định trách nhiệm, rèn đức, luyện tài vì sự phát triển
toàn diện con người Việt Nam.

Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành
trình tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. Sau gần mười năm vừa lao
động kiếm sống, vừa học hỏi, vừa tìm hiểu thực tiễn ở nhiều nước, Người đã có những
chuyển biến trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc mà lịch sử đã chứng tỏ là sáng
suốt phi thường.

Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được đến
nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát ở 3
nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Người tranh thủ mọi điều kiện để học
hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Trên cơ sở đó, Người đã rút
ra kết luận có tính chất căn bản đầu tiên: “Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác;
ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề”, và “Dù màu da có khác nhau,
trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Những
nhận biết căn bản đó càng thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm ra
phương hướng giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc.

Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Khi được
hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: Vì đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của
Đại cách mạng Pháp: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Từ yêu cầu thực tiễn đấu tranh, Nguyễn
Ái Quốc thấy cần phải học viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Phong trào công
nhân và chủ nghĩa xã hội ở Pháp đã đưa anh đến với hoạt động báo chí. Trong hai năm
24
1919-1920, Nguyễn Ái Quốc đã viết 5 bài báo. Bài đầu tiên làVấn đề bản xứ, đăng trên báo
Nhân đạo (L’ Humanité),ngày 2-8-1919. Tháng 7 năm 1920 Người đọc “Sơ thảo lần thứ
nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lê-nin đăng trên báo
L’Humanité (Nhân đạo). Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về
con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng
tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô
sản ở chính quốc… Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng
sản của Nguyễn Ái Quốc. Người đọc đi đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu
nước chân chính, Người nhận thấy trong đó con đường giải phóng đất nước khỏi ách thực
dân. Về sau, Người nhớ lại: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng
cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-
nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta!”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp từ ngày 25 đến
ngày 30-12-1920, tại thành phố Tua (Pháp), đã tranh luận gay gắt về việc gia nhập Quốc tế
III hay ở lại Quốc tế II, thành lập Đảng Cộng sản, hay giữ nguyên Đảng Xã hội. Nguyễn Ái
Quốc tham dự đại hội với tư cách là đại biểu chính thức và duy nhất của các nước thuộc địa
Đông Dương. Tại đại hội lịch sử này, cùng với những người cách mạng chân chính của nước
Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở
thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người
cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt
động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta. Nếu như cuộc
đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Vécxây năm 1919 mới là phát pháo hiệu thức
tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì việc Người tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu một bước chuyển biến quyết định,
bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Người

25
Từ thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc theo sát những sự kiện chính trị thế giới đang
diễn ra dồn dập, tác động mạnh đến chính trường nước Pháp, đặc biệt là Đại hội II của Quốc
tế Cộng sản (QTCS) và Đại hội I các dân tộc phương Đông. Người tham dự cuộc mít tinh
lớn của hàng vạn công nhân tại rạp xiếc ở Pa-ri. Tiếp sau đó, tháng 9-1920, Người theo sát
tiến trình Đại hội I các dân tộc phương Đông, nhằm đưa đường lối, chính sách của Đại hội II
QTCS vào cuộc sống, mà trước hết là tư tưởng “đoàn kết phương Tây vô sản và phương
Đông bị áp bức”. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong khẩu hiệu chiến đấu đưa ra trong Đại
hội: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”.

Cuối cùng, từ năm 1911 đến năm 1920, là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc khảo sát, nghiên
cứu để tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của bọn thực dân,
phong kiến. Người đã vượt qua ba đại dương, bốn châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ. Trải qua những
tháng năm lao động kiếm sống, thâm nhập đời sống thực tế của những người lao động nhiều
nước trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc thấy rõ cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản, anh vô
cùng xúc động trước đời sống khổ cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các
nước. Đến một số nước thuộc địa châu Phi, Người thấy rõ ở đâu người dân mất nước cũng
khổ cực như nhau. Bước đầu anh rút ra kết luận quan trọng là: ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng
tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất dã man; các dân
tộc thuộc địa đều có một kẻ thù chung là bọn đế quốc thực dân. Anh nhận rõ giai cấp công
nhân và nhân dân lao động các nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù.
Cũng từ thực tế lao động, học tập, thâm nhập đời sống những người lao động, phân tích tình
hình chính trị thế giới, tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn
con đường cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản mà sau này Người đã đúc
kết:

“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.

2.3.2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam

Qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Theo chủ
26
nghĩa Mác - Lênin cần phải thành lập một chính đảng của giai cấp vô sản và Nguyễn Ái
Quốc cũng khẳng định: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mệnh. Từ đó, Người
đã tích cực chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng
Cộng sản.

Về tư tưởng: Dưới nhiều phương thức hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bản
chất và tội ác của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tập hợp lực lượng và tuyên truyền con đường
cách mạng vô sản. Người sáng lập tờ báo “Le Paria” (Người Cùng khổ) và viết nhiều bài
trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế...

Về chính trị: Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong
nước. Người đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách
mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”.

Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của
chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ
các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ,
vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng.

2.3.3. Sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản

Trước năm 1925

Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 thường
có quy mô nhỏ hẹp do sự yếu thế của giai cấp công nhân và chưa có chủ trương cách mạng
đúng đắn.

Phong trào công nhân giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế như quy mô nhỏ hẹp
trong các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền. Mục đích chủ yếu tập trung vào nội dung kinh tế và
hầu hết các phong trào đều diễn ra tự phát, chỉ có duy nhất 1/25 cuộc đấu tranh là có lãnh
đạo, tổ chức chặt chẽ, ví dụ phong trào công nhân diễn ra dưới các hình thức bãi công,biểu
tình như cuộc bãi công của công nhân Ba Son ( Sài Gòn ) do Tôn Đức Thắng tổ chức (1925)
và các cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định.

Sau năm 1925


27
Tháng 6 năm 1925, trên cơ sở hạt nhân là Cộng sản Đoàn, Nguyễn Ái Quốc thành
lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thông qua Chính cương, Điều lệ và Chương trình
hành động của Hội, được tổ chức thành 5 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ.
Mục đích của Hội là “Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mệnh dân
tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại được độc lập cho xứ sở) rồi sau làm cách mệnh thế giới
(lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)”. Nhờ vào Đại hội Quốc tế Cộng
sản lần thứ V đã ban hành các nghị quyết quan trọng góp phần lớn trong các phong trào cách
mạng dân tộc và tổ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (06/1925), báo Thanh Niên, tác
phẩm “Đường Kách Mệnh” và phong trào “Vô sản hóa” (1925-1929), lý luận cách mạng
Chủ nghĩa Mác Lê nin đã được truyền bá rộng rãi ở nước ta.

Các phong trào yêu nước chống pháp theo khuynh hướng vô sản ở thời điểm này
phải kể đến như:

Trong năm 1926, hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra mạnh mẽ. Có thể
kể tên các phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản ở giai đoạn này như: cuộc bãi
công của công nhân ở nhà máy sợi Nam Định, xi măng Hải Phòng ,… đặc biệt là 2 cuộc đấu
tranh với quy mô lớn như các đồn điền Cam Tiêm, Phú Riềng ở phía Nam.

Năm 1927, phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản nở rộ khắp cả nước. Số
lượng các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân từ 1926-1927 là 27 cuộc.

Năm 1928-1929 là giai đoạn đỉnh cao của các phong trào yêu nước theo khuynh
hướng vô sản. Với hơn 40 cuộc đấu tranh có quy mô và chất lượng đã đem đến một kết quả
là ba tổ chức cộng sản đầu tiên của Việt nam ra đời trong năm 1929: Đông Dương Cộng sản
Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (07/1929), Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
(9/1929).

28
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, ý chí quyết tâm giành độc lập dân tộc, nhận
thức đầy đủ hiện thực xã hội, vận mệnh lịch sử đặt ra đối với dân tộc Việt Nam và những
nhân tố mới của thời đại, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định bắt đầu cuộc hành trình tìm đường
cứu nước, cứu dân. Người vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để tìm thấy con đường giải
phóng dân tộc đúng đắn, hợp quy luật tất yếu của lịch sử giải phóng dân tộc bằng con đường
cách mạng vô sản.

Cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc, dân chủ nước ta, đặc biệt là
phong trào công nông đi theo con đường cách mạng vô sản phát triển mạnh mẽ. Tuy vậy,
phong trào yêu cầu cần phải có một chính đảng của giai cấp vô sản để kịp thời đưa cách
mạng Việt Nam tiến lên những bước mới. Trước bối cảnh đó, ba tổ chức cộng sản nối tiếp
nhau ra đời trong năm 1929: Đông Dương Cộng sản đảng (6/1929), An Nam Cộng sản đảng
(8/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (9/1929). Ba tổ chức cộng sản ra đời chứng tỏ
29
tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế trong phong trào dân tộc, là các điều kiện cần thiết
để thành lập đảng ở Việt Nam.

CHƯƠNG 3

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên

3.1.1. Bối cảnh tổ chức Hội nghị thành lập Đảng

Trước tình hình không thống nhất giữa các tổ chức cộng sản trong nước và sự tan rã
của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên vào tháng 6/1929, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy sự
cấp bách của việc thống nhất lại các tổ chức cách mạng đang hoạt động thành một tổ chức
thống nhất, qua đó quyết định tổ chức họp tại Hồng Kông để giải quyết các vấn đề cách
mạng. Ngày 23/12/1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông để triệu tập các đại biểu của
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, với tư cách là phái viên của Quốc
tế Cộng sản, họp tại Cửu Long (Hồng Kông) để tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam.

Hội nghị diễn ra từ 6/1 đến ngày 7/2 năm 1930, thành phần tham dự hội nghị gồm 2
đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại
biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu), chủ trì Hội nghị là
đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã hợp các tổ
chức riêng rẽ thành tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào? Để có thể thống nhất các

30
tổ chức và tìm được tiếng nói chung để thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất tại Việt Nam,
Người nhận thấy trước hết phải giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ các Đảng, đồng
thời xóa bỏ thành kiến dẫn đến xung đột, công kích lẫn nhau giữa các đảng bằng cách tự phê
bình và phê bình các khuyết điểm, từ đó mới có thể thành thật hợp tác để thống nhất lại các
tổ chức cộng sản. Trong Hội nghị, hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và
An Nam Cộng sản Đảng đã nhiệt tình tham gia vào quá trình tự phê bình và phê bình, đã chỉ
ra nhiều khuyết điểm của cả hai tổ chức đảng: “Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng
sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã phê bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng
chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm của họ”. Những khuyết điểm đó là gì? Đông Dương Cộng
sản Đảng có những khuyết điểm về điều kiện công nhận đảng viên chính thức và điều kiện
kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ chức, đảng có tính bè phái, xa cách quần
chúng. Đối với An Nam Cộng sản Đảng, tổ chức này có những hạn chế về điều kiện công
nhận đảng viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội, Nông hội, Học sinh hội cũng
quá khắt khe. Nhờ những kết quả phê bình và tự phê bình đó mà đã có được sự thống nhất
về các hạn chế để điều chỉnh lại thái độ thực hiện cách mạng, tạo cơ sở vững chắc dẫn đến
sự thống nhất thành lập một đảng cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam.

Qua những vấn đề đã nêu ra, Hội nghị thảo luận, tán thành sự chỉ đạo của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc thông qua các văn kiện do Người soạn thảo: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôn chỉ
của Đảng cũng được xác định rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần
chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện
xã hội cộng sản”. Không những thế, Hội nghị chủ trương: các đại biểu về nước phải tổ chức
một Trung ương lâm thời để lãnh đạo cách mạng Việt Nam, theo hệ thống tổ chức từ chi bộ,
huyện bộ, thị bộ (khu bộ), tỉnh bộ, thành bộ hoặc đặc biệt bộ và Trung ương. Đồng thời, Hội
nghị quyết định lập các tổ chức công hội, nông hội, cứu tế, tổ chức phản đế và xuất bản các
tạp chí lí luận, các tờ báo tuyên truyền của Đảng.

3.1.2. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên

Về nhiệm vụ chiến lược: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
31
Phân tích????

Những quyết định này nhằm việc giải thoát đời sống nhân dân khỏi sự áp bức của
triều đình phong kiến nhà Nguyễn và thực dân Pháp, đưa cách mạng Việt Nam phát triển
mạnh mẽ. Nhưng theo như quy luật phát triển chung của xã hội thì muốn lên hình thái cộng
sản chủ nghĩa phải bước qua hình thái tư bản chủ nghĩa, xã hội Việt Nam sẽ phải chấp nhận
những khuyết điểm của chế độ tư bản, đồng hành với đó là sự bóc lột sức lao động và hoàn
cảnh đời sống khổ cực của người lao động, vốn chiếm hầu hết bộ phận người Việt Nam bấy
giờ. Nhân dân Việt Nam đã phải chịu áp bức, đói khổ do thực dân Pháp và các chính sách
lạc hậu của triều đình phong kiến gây ra, đồng thời việc phát triển lên hình thái cộng sản do
đó sẽ kéo dài hơn nữa, làm cho nhân dân càng chịu khổ. Đối với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thì
điều này là không thể chấp nhận, do đó Người đã quyết định bỏ qua quá trình phát triển lên
hình thái tư bản mà quá độ lên hình thái xã hội chủ nghĩa, càng sớm xóa bỏ ảnh hưởng của
tư bản chủ nghĩa càng tốt.

Điều này đã giải quyết những vấn đề như thế nào đối với cách mạng Việt Nam ?
Trước hết cần phải hiểu rõ được tình hình Việt Nam sau khi triều đình nhà Nguyễn nhượng
bộ hoàn toàn cho thực dân Pháp và khi thực dân Pháp bắt đầu sử dụng các chính sách đàn áp
nhân dân. Sau khi hiệp ước Patenôtre ngày 6/6/1884 được kí kết giữa triều đình nhà Nguyễn
và thực dân Pháp xâm lược, sự kiện này đã đánh dấu khởi đầu của giai đoạn chính thức nắm
quyền của thực dân Pháp và quyền lực triều đình phong kiến nhà Nguyễn bị vô hiệu hóa, tuy
vậy nhiều bộ phận nhân dân không chịu khuất phục, các phong trào đấu tranh nổ ra liên tục,
buộc thực dân Pháp phải dùng vũ lực để đàn áp các phong trào của nhân dân. Không những
thế, thực dân Pháp ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động của người bản xứ, lập ra
nhiều thuế má nặng nề trong các cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ hai. Nhiều hủ tục lạc hậu còn lưu lại trong lối sống của người dân, là hệ
quả của chế độ phong kiến, gây ra những cản trở trong đời sống nhân dân, những tục lệ này
đã trở nên lạc hậu, không phù hợp với một xã hội bắt đầu chịu sự ảnh hưởng từ các nền văn
hóa Tây phương, và cùng với tình cảnh nhân dân bị bóc lột, đời sống kham khổ do đó nó
càng trở thành gánh nặng. Cùng với sự đè nén từ triều đình phong kiến, thực dân Pháp cho
xây các nhà tù nhiều hơn trường học, du nhập các giá trị phản văn hóa, duy trì và tạo mới

32
các loại tệ nạn xã hội, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam,
tuyên truyền tư tưởng “khai hóa văn minh” của nước “đại Pháp”, dùng chính sách “ngu dân”
để dễ cai trị, văn hóa người Việt bị suy thoái trầm trọng. Với việc cho phép tự do bầu cử,
người dân được hưởng quyền lợi quyết định, thoát khỏi sự áp bức hà khắc từ triều đình
phong kiến và các chính sách thực dân; không những vậy, thoát khỏi những hủ tục phong
kiến lạc hậu, nêu cao vai trò người phụ nữ trong xã hội, cho phép người phụ nữ được quyền
lợi như nam giới; bỏ đi những phương thức giáo dục cũ thời phong kiến và cải tiến phương
cách giáo dục theo hướng công nông hóa.

Về phương diện xã hội, đề ra quyền tự do cho dân được tổ chức, nam nữ bình
quyền, thực hiện phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Về phương diện chính trị, cần phải đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến
tay sai, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, tổ chức chính phủ công nông binh và
quân đội công nông.

Về phương diện kinh tế, phải thủ tiêu hết các thứ quốc trái, thu hết sản nghiệp lớn
của đế quốc Pháp, thu hết ruộng đất chia cho dân nghèo, bỏ sưu thuế cho dân cày mở mang
công nghiệp và nông nghiệp, thi hành luật ngày làm tám giờ.

Trong Sách lược vắn tắt ghi các nội dung sau:

Thứ nhất, “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng phải tập hợp được
đại bộ phận giai cấp và làm cho giai cấp lãnh đạo được quần chúng”. Giai cấp công nhân là
giai cấp quan trọng trong thời đại mới, thời đại mà máy móc, các công cụ công nghiệp dần
chiếm ưu thế, công nhân là những người sử dụng những công cụ mới đó để phát triển xã hội,
là những người có tính kỉ luật cao, hợp tác chặt chẽ với nhau để làm việc. Do đó để đưa đất
nước thoát khỏi tình cảnh đô hộ, giai cấp công nhân cần phải đứng đầu, đoàn kết với các giai
cấp khác. Mặt khác, giai cấp công nhân lại cần một tổ chức lãnh đạo, tìm tiếng nói chung
cho bộ phận chung giai cấp vô sản, đó chỉ có thể là Đảng Cộng sản.

Thứ hai, Đảng phải đoàn kết được đại đa số nông dân, phải dựa vững vào nông dân
nghèo, phải hết sức lãnh đạo nông dân nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ đại địa chủ và
phong kiến. Vì giai cấp công nhân có nguồn gốc từ giai cấp nông dân nên hai giai cấp này

33
vô cùng gần gũi. Trong tình hình kinh tế kĩ thuật lạc hậu, các phương thức sản xuất vẫn chưa
được hỗ trợ bởi máy móc và chỉ được thực hiện thủ công thì giai cấp nông dân vẫn chiếm đa
số lực lượng sản xuất, do đó Đảng chủ trương tận dụng mối liên kết giữa hai giai cấp công
nhân và nông dân để có được lực lượng vững chắc, đồng thời kêu gọi nông dân giành lại
ruộng đất canh tác từ tay đại địa chủ và phong kiến. Không những vậy, Đảng còn phải liên
lạc với các tiểu tư sản, trí thức, trung nông, những bộ phận chịu sự kiểm soát, thiệt thòi, bất
bình với các chính sách của triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp, có chung chí hướng
với các tầng lớp lao động nghèo khổ, kéo họ về phe giai cấp vô sản, làm lực lượng đấu tranh
thêm đông đảo. Bên cạnh đó, đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản nếu chưa rõ mặt
phản cách mạng thì lợi dụng, làm cho họ đứng trung lập, chỉ khi nào đã rõ mặt phản cách
mạng thì mới lật đổ. Vì sao phải làm cho các thành phần này trung lập mà không lật đổ
ngay? Vào thời gian này, tổ chức Đảng còn chưa mạnh về nhiều mặt, đặc biệt là vật chất,
hơn nữa thực dân Pháp và tay sai lại có lợi thế về nhân lực, vật chất, lương thực, về mặt này
ta bị áp đảo, do vậy nếu có thể huy động nguồn lực của phú nông, địa chủ, tư bản thì không
những ta có lợi về lương thực, vật chất, nhân lực để xây dựng, củng cố tổ chức Đảng còn
non trẻ mà còn tiêu giảm nguồn cung hỗ trợ cho các lực lượng của thực dân Pháp, cũng như
tạo điều kiện tích góp nguồn lực cho các tổ chức cách mạng khi không phải hao sức để lật đổ
các thành phần địa chủ, tư bản mà còn tận dụng được những khả năng của các thành phần
này, chỉ đến khi họ đã trực tiếp chống đối, thành hiểm họa của cách mạng thì mới hết lợi
dụng và lật đổ.

3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên

3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975)

Sự ra đời và lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam là một yếu tố quan
trọng quyết định sự thành công của phong trào giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh
giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng
Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam.

34
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có
Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo
phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã
nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng
khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ
XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính
đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn
dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những
thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển,
bước đi của cách mạng Việt Nam.

Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động ngay được cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là
Xô viết Nghệ - Tĩnh. Cao trào đã thu hút đông đảo quần chúng công nông cả nước đấu tranh
chống ách thống trị của bọn đế quốc, phong kiến, khẳng định quyền lãnh đạo duy nhất
thuộc về Đảng; đem lại cho quần chúng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Những năm
1936-1939, một thời kỳ đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp kết hợp chặt chẽ với hoạt động
bí mật, bất hợp pháp diễn ra ở nước ta. Khi Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp, Đảng
coi đây là một cơ hội tốt để đưa cách mạng tiến bước. Đảng đề ra mục tiêu cho thời kỳ này
là “chống phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo
và hòa bình”. Sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ này đánh dấu bước trưởng thành, thể hiện năng
lực lãnh đạo của Đảng ta, chuẩn bị điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu
quyết liệt trong những năm 1940-1945. Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân
Pháp quỳ gối dâng nước ta cho phát xít Nhật, dân ta một cổ hai tròng. Đảng nhận định đây
là thời kỳ mà ách áp bức, bóc lột và chiến tranh đế quốc làm cho nhân dân ngày càng
cách mạng hóa, cách mạng sẽ bùng nổ. Đảng quyết định lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp
rộng rãi các lực lượng dân tộc dân chủ, đồng thời xây dựng các căn cứ địa và những đơn vị
vũ trang đầu tiên, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật sôi nổi, mạnh mẽ. Khi Nhật
hất cẳng Pháp, Đảng đã tranh thủ thời cơ, chuyển hướng mau lẹ, phát động cao trào kháng
Nhật, cứu nước, tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền
nhanh gọn trong cả nước, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa
Đảng ta lên vị trí lãnh đạo, cầm quyền.

35
    Sự lãnh đạo tài ba của Đảng ta còn thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp 1946-1954. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quân và dân ta đã tiến hành
cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính” và đã
giành được thắng lợi vẻ vang, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vang dội
năm châu, chấn động địa cầu, giải phóng miền Bắc, tạo điều kiện cơ bản để hoàn thành
nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Pháp có ý nghĩa không chỉ với nước ta mà còn đối với phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới.

    Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài ba của Đảng, nhân dân cả nước bước vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 với tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng và
quả cảm, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Giải phóng miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc. Với đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
Đảng đã kết hợp sức mạnh của tiền tuyến lớn với hậu phương lớn, động viên đến mức cao
nhất lực lượng của toàn dân vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một cuộc kháng
chiến đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên trình độ cao những truyền thống cách mạng và
năng lực sáng tạo của Đảng ta, dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội trên đất nước
ta.

Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu tranh
oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời
(2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Đất nước ta đã đạt được những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát
triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Vận mệnh của
Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì
mới cho Cách mạng Việt Nam – thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của
36
con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở
thành ngọc cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng
và toàn thể dân tộc.

Cương lĩnh đã nêu những vấn đề cơ bản về đường lối của cách mạng Việt Nam, là
lời tuyên bố về sự lựa chọn con đường phát triển cách mạng Việt Nam của Ðảng ta khi
mới ra đời. Cương lĩnh xác định chiến lược cách mạng của Ðảng là tiến hành cuộc “tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh đã xác
định rõ sự lựa chọn con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam. Ðây là cuộc cách mạng vô
sản do giai cấp công nhân lãnh đạo và là cuộc cách mạng không ngừng. Luận điểm cách
mạng của Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng
Việt Nam dưới ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

3.2.2. Giá trị đối với sự xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay

Đảng luôn nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và trải nghiệm thực tiễn để có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo
làm nên những bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam. Đất nước hoà bình, thống nhất, cả
nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng với mô hình và kinh nghiệm của
các nước xã hội chủ nghĩa áp dụng vào Việt Nam đã nhanh chóng bộc lộ khuyết tật, sai lầm
của nó. Nhưng sau mỗi sai lầm, vấp ngã, Đảng đã dũng cảm "nhìn thẳng vào sự thật, nói
đúng sự thật", kiên quyết sửa chữa, kịp thời tổng kết rút ra những bài học từ những thành
công và cả những sai lầm, thất bại, kiên trì sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.

Với bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức cao đẹp của một Đảng cách mạng cầm quyền dày dạn
kinh nghiệm, luôn biết tự đổi mới, tự chỉnh đốn tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp
đổi mới toàn diện đất nước vươn lên giành nhiều thắng lợi mới. Mô hình, mục tiêu và con
đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn. Giữ
vững nguyên tắc độc lập, sáng tạo, trung thành với lợi ích của nhân dân, bám sát thực tiễn
cuộc sống, xác định đường lối, chính sách đúng đắn và nhanh chóng đưa vào cuộc sống
hướng dẫn hoạt động cách mạng của nhân dân là bí quyết thành công của Đảng ta. Dưới sự

37
lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới của đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
kinh tế tăng trưởng khá; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh; nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành; chính trị - xã hội được
ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; văn hóa, xã hội có bước phát triển mới; đời
sống nhân dân từng bước được nâng lên; dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày
càng mở rộng; đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được
đẩy mạnh. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày
càng mở rộng và phát triển. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực
ngày càng được nâng cao.

Ngay từ đầu, Đảng đã xác định rõ khâu đột phá của sự nghiệp đổi mới là đổi mới tư duy
nhưng trọng tâm lại là đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị làm cơ
sở cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, quyết tâm xây dựng một xã hội "Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc thực
hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.

Thực hiện đường lối chiến lược trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt
Nam từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân Việt Nam từ than phận nô lệ đã trở thành người
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã thoát nghèo, đang đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.

38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Như ta đã biết, Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới. Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát
triển nhảy vọt về sau của cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam. Đảng là sản phẩm của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Sự ra đời và lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là kết quả của quá
trình lựa chọn của chính lịch sử Việt Nam và dân tộc Việt Nam.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng
hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn bám sát thực tiễn cách mạng, phân tích sâu sắc thời
cuộc, nắm vững mâu thuẫn cơ bản, thấy rõ mâu thuẫn chủ yếu trong mỗi thời kỳ, xác định
đúng đắn những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta
đã xác định rõ mối quan hệ khăng khít giữa các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam độc lập dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường đấu
tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc
cho nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời
(2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, cho đến ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc (30/4/1975), đưa cả
nước đi lên Chủ nghĩa Xã hội. Vận mệnh của Đảng gắn liền với vận mệnh của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng
nhân dân là nguồn gốc sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách
mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi
vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc
và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

39
PHẦN KẾT LUẬN

Một là, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là giai đoạn chuyển biến mạnh mẽ trong
nước và thế giới. Thực dân Pháp bóc lột, đàn áp và biến nước ta từ một nước độc lập thành
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) giữa các
nước đế quốc đã để lại cho nhân dân thế giới những hậu quả rất nặng nề, cùng với đó Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917 giành thắng lợi mở ra thời đại cách mạng chống đế quốc
và giải phóng dân tộc. Giai cấp công nông bị đế quốc phong kiến áp bức, thúc đẩy ý chí
giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Giai cấp tư sản, tiểu tư sản Việt Nam bị chèn ép,
thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé. Tính chất của xã hội nước ta lúc này đặt ra các yêu
cầu: đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập tự do cho dân tộc; xóa bỏ chế độ
phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, đặc biệt là ruộng đất. Thực tiễn đặt ra yêu
cầu cần chống thực dân Pháp, giải phóng cho dân tộc và lựa chọn con đường phát triển cho
đất nước.

Hai là, với tinh thần yêu nước và ý chí căm thù giặc, nhân dân ta liên tục đấu tranh
nhưng đều thất bại do chưa có đường lối đúng đắn, rõ ràng. Từ đó, thôi thúc Nguyễn Ái
Quốc rời Tổ quốc ra đi tìm con đường giải phóng dân tộc, đất nước. Tìm ra những cơ hội
học hỏi nghiên cứu học thuyết cách mạng tại nhiều nước, Người quyết tâm tìm ra phương
hướng giải phóng đất nước cho dân tộc và hăng hái hoạt động chính trị. Bên cạnh đó, Luận
cương của V.I. Lênin ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản, đã giúp
Bác Hồ tiếp xúc với những lý luận giải đáp những vấn đề về con đường giành độc lập, tự do
cho dân tộc nhằm tìm ra con đường cứu nước đúng đắn: con đường cách mạng vô sản. Đặc
biệt, sự xuất hiện của tác phẩm Đường cách mệnh góp phần giúp Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị
về lý luận chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa thông qua báo chí và tuyên truyền, chỉ
ra mục tiêu, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đoàn kết giai cấp vô sản.

Ba là, song song với nhiều cuộc đấu tranh của công nhân là sự truyền bá mạnh mẽ
của chủ nghĩa Mác-Lênin nhằm nâng cao ý thức giai cấp, nâng cao khẩu hiệu từ mục đích
kinh tế đến chính trị tạo nên tính tự giác rõ rệt. Bên cạnh phong trào yêu nước, phong trào
công nhân đòi hỏi tất yếu phải có sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, kết 28 quả của các cuộc đấu

40
tranh dẫn đến sự ra đời lần lượt của các tổ chức Cộng sản (Đông Dương Cộng sản Đảng, An
Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn).

Bốn là, tại Hồng Kông, cuộc họp mặt được diễn ra do Nguyễn Ái Quốc chủ trì với
tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, sau khi thấy được sự cấp bách việc thống nhất
các tổ chức thành một Đảng duy nhất và giải quyết các vấn đề cách mạng. Bắt đầu xóa bỏ
xung đột lẫn nhau bằng cách tự phê bình các khuyết điểm nhằm đưa đến sự thống nhất thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong hội nghị đó, hai văn kiện được soạn thảo là Chánh
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt, được tán thành và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng. Cương lĩnh đã giải quyết được nhiều vấn đề trên mọi phương diện khác nhau
đồng thời là kim chỉ nam chỉ đường dẫn lối cho các bộ phận giai cấp đoàn kết để có được
lực lượng vững chắc, quyết định sự thành công của dân tộc về sau.

Năm là, sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử, đóng vai trò
không thể thiếu trong việc xác định đường lối đấu tranh đúng đắn cho Cách mạng tháng
Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp đó, tuy khó khăn về hậu cần
nhưng chính lúc này vai trò lãnh đạo tỏa sáng hơn bao giờ hết thể hiện rõ trong cuộc đấu
tranh vũ trang chống Pháp làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội. Hơn thế nữa, sự
đúng lúc đưa ra các quyết sách của Đảng đã tạo hy vọng và động lực thống nhất đất nước
trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ, chứng minh rằng Đảng Cộng sản là đảng cầm
quyền. Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến những giá trị quan trọng mà Cương lĩnh
chính trị đầu tiên đem lại, là tiền đề vững chắc xây nên đường lối và phương pháp cách
mạng, góp phần định hướng cho Đảng ta mà chưa có một cương lĩnh nào bao quát được. Sau
khi giải phóng và thống nhất đất nước cho đến nay, sự lãnh đạo của tổ chức Đảng Cộng Sản
là một bộ phận quan trọng để đưa đất nước tiến lên CNXH. Đồng thời, tuân theo các Cương
lĩnh đã đề ra nhằm duy trì việc cải thiện các mặt đời sống xã hội, chính trị đối ngoại, kinh tế.

41
TÀI LIỆU THAM KHẢO

42
MỤC LỤC

43

You might also like