You are on page 1of 24

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÀI TẬP NHỎ


LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI
TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TỪ
NĂM 1930 ĐẾN 1945
LÀM RÕ QUÁ TRÌNH ĐẢNG KHẮC PHỤC HẠN CHẾ VÀ HOÀN
CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG
LỚP: Z3KC, NHÓM: 13
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT MSSV HỌ TÊN GHI CHÚ
1 2247835 NGUYỄ THÁI TUẤN
N
2 2247831 VÕ THÁI TRƯỜNG
3 2247834 NGUYỄ MINH TUẤN
N
4 2247842 HỒ TRUNG VIỆT
5 2247841 TRẦN DŨNG VI
6 2247828 NGUYỄ MINH TRUNG
N
7 2247827 LÊ VĂN TRÁNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022

BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA
TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 13

ST Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký


T
1 Nguyễn Thái Tuấn
2 Võ Thái Trường
3 Nguyễn Minh Tuấn
4 Hồ Trung Việt
5 Trần Dũng Vi
6 Nguyễn Minh Trung
7 Lê Văn Tráng

NHÓM TRƯỞNG
MỤC LỤC
I: CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM (1930 -1935).........................

1.1 Luận cương chính trị (10-1930).....................................................


1.2 Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I (1-1935)..............
1.3 Nhận xét chung...............................................................................
1.4 Tiểu kết...........................................................................................
II: CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM (1936 - 1939)......................

2.1 Hoàn cảnh lịch sử............................................................................


2.2 Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7-1936)...........
2.3 Chung quanh vấn đề chiến sách mới(10-1936)...............................
2.4 Tiểu kết............................................................................................
2.5 So sánh giai đoạn 1930-1935 và 1936-1939...................................
III: CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM (1939 - 1945).....................

3.1 Hội nghị ban chấp hành trung ương đảng lần thứ VI (11/1939).....
3.2 Hội nghị ban chấp hànhTrung ương Đảng lần thứ VII (11-1940). .
3.3 Hội nghị Ban Chấp Hành Trung ương lần thứ VII (5/1941)...........
3.4 Tiểu kết............................................................................................
3.5 So sánh giai đoạn 1936-1939 và 1939-1945...................................
IV: KẾT LUẬN..................................................................................................................

4.1 Nhiệm vụ cách mạng.......................................................................


4.2 Tập hợp lực lượng cách mạng, phạm vi giải quyết dân tộc.............
4.3 Tổng kết giai đoạn...........................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................
I. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM (1930 – 1935)
1 Luận cương chính trị (10 – 1930)
1.1.1 Bối cảnh lịch sử
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua Hội nghị thành lập Đảng xác định
nhiều nội dung quan trọng, phù hợp với đặc điểm Việt Nam nêu rõ Đảng là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng nông
dân, liên lạc với tiểu tư sản, tri thức,…đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai
cấp vô sản thế giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh
đuổi bọn đại địa chủ và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập,
người cày có ruộng. Tuy nhiên Cương lĩnh lại không phù hợp với quan điểm của
Quốc tế cộng sản về vấn đề giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa nên bị loại
bỏ. Dựa vào tình hình đó ta đặt ra yêu cầu cần có một đường lối mới cho vấn đề
giải phóng dân tộc ở Đông Dương.
- Kinh tế toàn cầu bị suy sụp do ảnh hưởng của cuộc Đại khủng hoảng suy thoái
kinh tế lớn của thế kỷ 20. Kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa bị suy thoái rõ rệt,
từ đó Pháp tăng cường khai thác Việt Nam, đẩy mạnh thêm nhiều thứ thuế.
Những cuộc đấu tranh, khởi nghĩa của dân ta liên tục diễn ra nhưng đều bị thực
dân đàn áp đẫm máu, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Vì vậy, mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và tay sai càng trở nên gay gắt.
- Tháng 4-1930, đồng chí Trần Phú từ Moskva về nước, đồng chí được bầu bổ
xung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và được phân công cùng Ban
Thường vụ chuẩn bị soạn thảo bản Luận cương chính trị trình Hội nghị lần thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- Từ ngày 14 – 31/10/1930, Hội nghị ban chấp hành Trung ương họp lần thứ 1 tại
Hương Cảng ( Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì. Hội Nghị quyết định đổi tên
Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, thông qua Luận
Cương chình trị của Đảng. Hội nghị cử Ban chấp hành Trung ương chính thức và
cử Trần Phú làm tổng bí thư.
1.1.2 Nội dung của Luận Cương chính trị
Luận cương chính trị đề ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam: “ Tiến hành tư sản dân quyền cách mạng, sau khi thắng lợi tiến tới phát
triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội Chủ nghĩa”.
1.1.3 Nhiệm vụ cách mạng.
- Sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ
các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và thực hành
thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là đấu tranh để đánh đổ đế quốc
Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập
- Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà
có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa
- Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền tại Việt Nam là:
+ Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ
+ Lập chính phủ công nông.
+ Tịch ký hết thảy ruộng đất của bọn địa chủ ngoại quốc, bổn xử và các giáo
hội, giao ruộng đất ấy cho trung và bần nông, quyền sở hữu ruộng đất và chính phủ
công nông
+ Sung công hết thảy các sản nghiệp lớn của bọn tư bổn ngoại quốc
+ Bỏ các sưu thuế hiện thời, lập ra thuế luỹ tiến.
+ Ngày làm công tám giờ, sữa đổi sự sinh hoạt cho thuyền và quần chúng
lao khổ.
+ Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết.
+ Lập quân đội công nông.
+ Nam nữ bình quyền.
+ Ủng hộ Liên bang Xôviết, liên kết cới vô sản giai cấp toàn thế giới và
phong trào cách mạng thuộc địa và bán thuộc địa.

Vậy nhiệm vụ chính đặt ra là Đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp làm cho nước Đông Dương hoàn toàn độc lập ”trong đó vần đề thổ địa là cái
cốt lỗi của CM Tư Sản Dân Quyền”.
1.1.4 Lực lượng cách mạng và phạm vi giải quyết
* Lực lượng cách mạng:
- Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, vừa là giai
cấp lãnh đạo cách mạng.
- Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng.
- Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại CM.
- Tư sản công nghiệp thì đứng về phe quốc gia cải lương và khi cách mạng phát
triển cao thì họ sẽ theo đế quốc.
- Tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự, tiểu tư sản thương gia
thì không tán thành CM, tiểu tư sản tri thức thì chỉ hăng hái chống đế quốc trong
thời kỳ đầu.
- Chỉ có những phần tử lao khổ ở thành thị như những người bán hàng rong, thợ thủ
công nhỏ, tri thức thất nghiệp,…mới đi theo cách mạng mà thôi.

* Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc:


- Toàn đông dương, giải phóng hoàn toàn cho Đông Dương, khẳng định cách mạng
Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới.
1.1.5 Ưu điểm:
- Luận cương đã nêu được những vấn đề chiến lược và sách lược cần thiết của cách
mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Luận cương đã có thể nói là như 1 bước đột phá cho sách lược của cách mạng
Việt Nam tựa như ánh sáng soi đường cho nhân dân ta đấu tranh chống đế quốc,
chống phong kiến giành lại độc lập dân tộc.
- Điều quan trọng nhất là nội dung cơ bản giữa luện cương chính trị (10-1930) và
chính cương vắn tắc, sách lược vắn tắc (2-1930) hoàn toàn thống nhất với
nhau. Các văn kiện này đều khẳng định, để đưa ra các mạng đến thắng lợi, cần có
một đảng cộng sản lãnh đạo.
- Luận cương đã khẳng định mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam cà cách mạng
thế giới, không chỉ vai trò của Đảng, mà cả giai cấp vô sản và quần chúng cách
mạng.
1.1.6 Hạn chế:
- Luận cương chưa nêu được mâu thuẩn chủ yếu của xã hội Đông dương, không
đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng
ruộng đất.
- Đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng
chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của giai cấp tư sản dân tộc, khả
năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất
chống đế quốc và tai sai.
- Do chưa xác định được mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội là mâu thuẫn dân tộc,
trong Luận cương chính trị, đồng chí Trần Phú lại xác định nhiệm vụ chiến lược
là: chống phong kiến và chống đế quốc. Điều này cũng có nghĩa là nhiệm vụ giai
cấp được đặt lên trên nhiệm vụ dân tộc, nặng về đấu tranh giai cấp. Đây là hạn
chế lớn nhất của Luận cương được đảng ta khắc phục trong suốt quá trình sau đó,
đến năm 1941 mới khắc phục được triệt để.
- Không đề ra được mối liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh
dân tộc và bọn tay sai.
- Đánh giá không đúng vai trò vị trí của các giai cấp tầng lớp khác do đó không lôi
kéo được bộ phận có tinh thần yêu nước.

1.2 Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I (3-1935)
1.2.1 Bối cảnh lịch sử ra đời
- Do bị tổn thất nặng nề , cách mạng bước vào một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian
khổ . Tháng 1/1931, Ban Thường vụ trung ương đảng ra thông cáo về việc đế
quốc Pháp buộc dân cày ra đầu thú . Hội nghị trung ương (3/1931) quyết định
nhiều vấn đề thúc đẩy đấu tranh . Năm 1931 các đồng chí trung ương bị địch bắt.
Trong khi thực dân Pháp khủng bố ngày càng dữ dội, tư tưởng hoang mang, dao
động xuất hiện trong quần chúng và cả một số đảng viên , nhưng chỉ là số ít , đa
số đồng chí hết sức trung thành , hiến thân cho Đảng . Ngày 11/4/1931 , Quốc tế
Cộng sản ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng Sản Đông Dương là chi bộ độc
lập . Đó là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong nhà tù đế quốc , các
đảng viên của đảng nêu cao khí tiết người cộng sản. Tổng Bí thư Trần Phú hy
sinh ngày 6/9/1931 tại nhà thương chợ quán (Sài Gòn) , trước khi hy sinh còn căn
dặn các đồng chí của mình : Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!. Nằm trong xà lim
án chém , Nguyễn Đức Cảnh vẫn viết tổng kết công tác vận động công nhân .
Người thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng trước lúc hy sinh , khảng khái nói: Con
đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng.
- Ngày 6/6/1931 , lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt
giam . Đầu năm 1934 , sau khi ra tù người trở lại làm việc ở Quốc tế cộng sản
( Mátxcova – Liên Xô).
- Đầu năm 1932 , theo chỉ thị của quốc tế cộng sản , Lê Hồng Phong cùng một số
đồng chí công bố chương trình hành động của Đảng Cộng Sản Đông Dương và
các chương trình khác ,……
- Chương trình hành động của Đảng Cộng Sản Đông Dương (15/6/1932) vạch ra
nhiệm vụ đấu tranh trước mắt để khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng ,….
- Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của quốc tế cộng sản , ban chỉ huy ở ngoài cỉa
đảng cộng sản đông dương được thành lập để lãnh đạo , chỉ đạo phong troà trong
nước như chức năng, trách nhiệm của Ban chấp hành trung ương.
- Đến đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng được phục hồi . Đó là cơ sở để
tiến tới Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng.
- Tháng 3/1935, Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng họp ở Ma cao (Trung Quốc).

1.2.2 Nội dung của nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I (3-1935)
Phương hướng chiến lược của CMVN: Đại hội cần nhắc cho các đảng
bộ và các đồng chí hiểu rằng trong công tác hằng ngày cần biết rằng nhiệm vụ
nào là chính để tập trung đại lực của mình vào đấy chờ không nên rải rác tan tác,
phân phối sức lực của mình một cách bình quân vào hết các công việc , khiến cho
nhiệm vụ nào cũng mó tay vào , mà kết quả không có nhiệm vụ nào được thực
hiện mỹ mãn cả . Vì lẽ đó mà Đảng Đại Hội bắt buộc tập trung lực lượng của
mình vào ba nhiệm vụ chính.
Nhiệm vụ cách mạng
 Phát triển và củng cố đảng:
- Khoách trương tổ chức của Đảng : Cần củng cố lực lượng cộng sản hiện tại cảu
các đảng bộ , thiết pháp tìm những bộ phận cộng sản và những phần tử cộng sản
lẻ tẻ.
- Đấu tranh trên hai mặt trận :
+ Cần luôn luôn mở rộng cuộc tự chỉ trích bônsơvich trong các cấp đảng bộ
để nghiên cứu các ưu điểm mà học, tìm các khuyết điểm mà tránh.
+ Cần tranh đấu trên hai mặt trận chống "tả" khuynh và hữu phải là nạn
nguy hiểm nhất trong cuộc cách mạng vận động và các xu hướng thoả hiệp,
đồng thời phải gỡ mặt nạ những lý thuyết phản động.
+ Cần giữ kỷ luật sắt cho Đảng, những phần tử đi trái đường chính trị chung
của Đảng, của Quốc tế Cộng sản mà không chịu sửa lỗi, những kẻ không phục
tùng nghị quyết, điều lệ, phá hoại kỷ luật của Đảng thì nhất thiết phải khai trừ.
+ Một điều kiện căn bản để thâu phục quần chúng, để gây dựng một đảng
đích thực bôngơvích là tăng gia sức tranh dấu chống quốc gia cải lương.
 Thâu phục quảng đại quần chúng:
- Bênh vực quyền lợi của quần chúng: Đảng phải tranh đấu chống các xu hướng
đầu cơ, miệt thị cuộc tranh đấu hằng ngày của quần chúng lao động.
- Củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng: không kéo quân chúng ra tranh
đấu bênh vực quyền lợi thiết thực hằng ngày của họ thì tổ chức chậm phát triển,
ảnh hưởng Đảng kém, không tổ chức quần chúng thì tranh đấu không thắng lợi,
nên Đang phải phát triển tổ chức quần chúng.
+ Trước hết là phải lập tức tổ chức và thống nhất Công hội đỏ, mỗi sản nghiệp
phải là một thành trì của công hội vận động, chỉ có làm được như vậy mới giữ
được quyền lãnh dạo cho vô sản giai cấp trong cuộc cách mạng vận động. Phải
lập ra các ban uỷ viên thất nghiệp.
+ Cần phải củng cố và phát triển nông hội, lập ra các ban nông dân uỷ viên,
tranh đấu chống các xu hướng bắt buộc hội viên những điều kiện khó khăn như
đảng viên
+ Cần phải thâu góp ngay các tổ chức lẻ tẻ của Thanh niên Cộng sản Đoàn, lập
thành tổ chức thống nhất toàn tỉnh, toàn xứ, cho tới toàn Đông Dương.
+.Cần phải lợi dụng các hình thức bí mật, công khai và bán công khai mà phát
triển các tổ chức khác của quần chúng, như Cứu tế đỏ
- Mặt trận thống nhất tranh đấu
+ Đối với quần chúng trong các tổ chức quốc gia cải lương và phản động khác:
Đảng dùng đủ phương pháp chen vào trong các tổ chức, các cuộc hội nghị của
quốc gia cai lương, phản động mà gỡ mặt nạ lý thuyết và hành động phản cách
mạng của chúng nó cho quần chúng hay, cần giải thích rằng bọn quốc gia cai
lương là tôi tớ trung thành của đế quốc
+ Đối với quần chúng trong các tổ chức cách mạng tiểu tư sản: Đảng cũng cần
cho người chen vào trong các đoàn thể ấy để giải thích sách lược không triệt để
của bọn lãnh tụ tiểu tư sản.
 Chống đế quốc chiến tranh, ủng hộ xô viết, liên bang và cách
mạng tàu
- Trong các cuộc tranh đấu hằng ngày, trong các cuộc hội họp, diễn thuyết, v.v.,
cần gỡ mặt nạ chính sách "hoà bình" gia dội của đế quốc, nhất là đế quốc Pháp ở
Đông Dương, găng giải những sự dự bị đế quốc chiến tranh (huấn luyện quân sự,
tăng binh bị, thêm khí giới, v.v.). Cần cho lao động toàn chí hiểu công tác của Xô
viết và Hồng quân Tàu, những sự cải thiện của công nông trong các vùng xô viết,
cần phải hiểu rằng cách mạng Tàu là đội tiên phong cách mạng phản đế và điền
địa ở các xứ thuộc địa và bán thuộc địa. Đồng thời Đảng phải bày tỏ cho quần
chúng hay những phương pháp chống đế quốc chiến tranh như: bãi công, thị oai,
biểu tình,.. các cuộc vận động ấy thêm sâu sắc cho tới vũ trang bạo động lập
chính quyền Xô viết. Đảng Đại hội không chủ trương lập ra những hội chống đế
quốc chiến tranh, nhưng Đảng Đại hội quyết định lập ra các ban uỷ viên chống đế
quốc chiến tranh bao hàm những đại biểu đảng phái, đoàn thể và phần tử cá nhân
có tánh chất chống đế quốc chiến tranh. Đại hội hiệu triệu quần chúng lao động
toàn xứ đem các bản chương trình hành động của Đảng Cộng sản, Thanh niên
Cộng sản Đoàn, Tổng Công hội đỏ, Liên hợp Công hội thợ nông nghiệp và bức
thư 1934 của Đảng Cộng sản Tàu gửi cho Đảng Cộng sản Tàu gửi cho Đông
Dương, các nghị quyết của Đại hội ra thảo luận và thực hành..
1.2.3 Lực lượng cách mạng và phạm vi giải quyết:
Lực lượng cách mạng: Chỉ có những người nghèo, giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và các phần tử lao khổ.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc: Toàn khu vực Đông Dương.
1.2.4 Ưu điểm và hạn chế của nghị quyết:
Ưu điểm: Đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức đảng và phong trào cách mạng
quần chúng, tạo điều kiện để bước vào một cao trào cách mạng mới
Hạn chế: Chưa đề ra được chủ trương chiến lược phù hợp với cách mạng Việt
Nam, chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và chưa tập hợp được lực
lượng toàn dân tộc.
1.3 Nhận xét chung:
- Đại hội đã tiến hành thông qua những Nghị quyết chính trị đầu tiên của Đảng:
Các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ;
các nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số; các nghị quyết về đội Tự vệ
đỏ và đội Cứu tế đỏ.
- Đại hội đại biểu lần I của Đảng được xem như là mốc đánh dấu bước phát triển
quan trọng của Đảng. Đảng đã phục hồi được hệ thống tổ chức từ Trung ương
đến địa phương, các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ được lập lại, các tổ
chức quần chúng của Đảng cũng dần được khôi phục và phát triển, chuẩn bị điều
kiện cho Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
- So với Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu
lần thứ nhất của Đảng đã chỉ ra được một trọng những điểm dẫn tới mâu thuẫn,
chỉ ra Việt Nam là một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Đồng thời, Đại hội
cũng đã chỉ rõ được vai trò của từng tầng lớp giai cấp trong xã hội lúc bấy giờ từ
nông dân đến tri thức, hay các thành phần phong kiến yêu nước, cụ thể hóa được
việc đấu tranh trên mặt chống “tả” khuynh và “hữu” khuynh.
- Đại hội đã nêu ra được đường lối sơ khai cho Đảng Cộng sản Việt Nam rằng
không thể gộp chung thành một đảng Cộng Sản Đông Dương mà phải tách ra
riêng thành các Đảng của các nước. Đồng thời, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu
lần thứ nhất của Đảng đã đốc thúc được toàn bộ thành phần yêu nước, đây chính
là mấu chốt vô cùng quan trọng tạo ra sự khác biệt với Luận cương chính trị của
Đảng Cộng sản Đông Dương (10/1930). Vì để cách mạng giải phóng dân tộc đạt
được thành công cần phải có sự tham gia của toàn bộ thành phần yêu nước dưới
sự chỉ huy của một Đảng duy nhất lúc bấy giờ là Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nghị quyết đã khắc phục được một vài hạn chế của Luận cương chính trị (10 –
1930), tuy nhiên, Đại hội Đảng lần thứ nhất vẫn chưa đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu và tập hợp lực lượng dân tộc. Nên con đường cách mạng
duy nhất lúc bây giờ phải có sự gắn bó chặt chẽ giữ cách mạng phản đế và cách
mạng điền địa thì mới mau chóng phát huy được sức mạnh thực sự của phong
trào cách mạng lúc bấy giờ.
1.5 Tiểu kết
- Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10/1930) và Nghị quyết
Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3/1935) đã một lần nữa khẳng định tính
đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước
phát triển quan trọng của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Luận cương chính trị (10/1930) đã phát triển và hoàn thiện hoá “Chính cương và
sách lược vắn tắt” của Nguyễn Ái Quốc, đã khẳng định được tầm quan trọng
trong quan hệ cách mạng vô sản thế giới, lực lượng cách mạng chủ yếu liên minh
công – nông. Tuy nhiên văn kiện này vẫn còn nhiều mặt hạn chế như không nêu
ra được mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, không đánh
giá đúng vai trò của các tầng lớp cách mạng và phủ nhận quan điểm đúng đắn của
Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt.
Với Nghị quyết Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng (3/1935), nó đã khắc phục
được một số hạn chế của Luận cương chính trị như đã chỉ ra được một trọng những
điểm dẫn tới mâu thuẫn, chỉ ra Việt Nam là một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến, chỉ
rõ được vai trò của các tầng lớp xã hội nhưng vẫn còn tồn tại vài điểm hạn chế cố hữu.
II. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM (1936 - 1939)
2.1 Hoàn cảnh lịch sử
Thế giới:
- Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã làm cho mâu thuẫn
nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần
chúng dâng cao.
- Một số nước đi vào con đường phát xít hoá: dùng bạo lực để đàn áp phong trào
đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế giới
mới. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, Ý, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra
phe “Trục”, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản và phát động chiến tranh chia lại
thế giới. Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hoà
bình và an ninh quốc tế.
Quốc tế Cộng sản họp Đại hội VII tại Matxcơva (7-1935) xác định:
- Thứ nhất, kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ
nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.
- Thứ hai, nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế
giới
chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống
phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.
- Thứ ba, đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống
nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt. Những tình hình trên chi phối
vào chủ trương của Đảng.
Trong nước:
- Tình hình chính trị:
+ Đối với Đông Dương, Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình hình, cử Toàn
quyền mới, ân xá tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí... tạo thuận lợi cho
cách mạng Việt Nam.
+ Nhiều đảng phái chính trị hoạt động: đảng cách mạng, đảng theo xu hướng cải
lương, đảng phản động... Tuy nhiên, chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương là
Đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt chẽ, chủ trương rõ ràng.
- Tình hình kinh tế:
+ Chính sách tăng thuế của Pháp:
+ Công nhân: thất nghiệp nhiều, lương giảm.
+ Nông dân: không đủ ruộng cày, chịu mức địa tô cao và bóc lột của địa chủ,
cường
hào...
+ Tư sản dân tộc: ít vốn, chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép.
+ Tiểu tư sản trí thức: thất nghiệp, lương thấp.
+ Các tầng lớp lao động khác: chịu thuế khóa nặng nề, sinh hoạt đắt đỏ

2.2 Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7-1936)
Ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại Thượng Hải
(Trung Quốc), do Lê Hồng Phong chủ trì, có Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên dự, nhằm
“sửa chữa những sai lầm” trước đó và “định lại chính sách mới” dựa theo những
nghị
quyết của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản.
2.2.1 Nhiệm vụ cách mạng:
Nhiệm vụ chiến lược:
- Không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất – “Cách mạng tư sản dân quyền
phản đế và điền địa – lập chính quyền công nông bằng hình thức Xô viết”, “để dự bị
điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Nhiệm vụ trước mắt:
- Hội nghị xác định: “ mục tiêu trực tiếp trước mắt của cách mạng là chống phát
xít,Chống chiến tranh, chống chế độ phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo
và hoà bình. Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn phản động
thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
2.2.2 Lực lượng và phương pháp tổ chức cách mạng
Lực lượng cách mạng:
- Các giai cấp nhân dân, gồm lực lượng chính là công dân, nông dân, đoàn
kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn , đồng minh hoặc trung lập tạm
thời với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ, các Đảng quốc gia
cách mạng. “Vậy nhiệm vụ lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi chính
để bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín
ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau
tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ Tự do hội hiệp, tổ chức, tự do
ngôn luận, xuất bản; tự do đi lại, xuất dương, ân xá hết chính trị phạm,
ngày làm việc 8 giờ; các luật lao động cho thợ thuyền; mở rộng các cơ
quan kinh tế, tài chính, hội đồng quản hạt, các viện dân biểu, v.v. thành cơ
quan tuyển cử theo lối dân chủ, thành chế độ dân chủ hội nghị, người Pháp
và người Nam có quyền kinh tế và chính trị như nhau, v.v..” Mặt trận nhân
dân phản đế là cuộc liên hợp hết các giai cấp trong toàn dân tộc bị áp bức
đang tranh đấu đòi những đều quyền lợi hằng ngày cho toàn dân, chống
chế độ thuộc địa vô nhân đạo, để dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân
tộc giải phóng được phát triển
Phương pháp đấu tranh: Biểu tình, bãi công, đấu tranh một cách ôn hòa chủ
yếu là đấu tranh chính trị.
2.2.3 Hình thức đấu tranh:
- Chuyển hướng hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình
thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp
pháp nhằm làm cho Đảng mở rộng liên hệ với quần chúng, giáo dục và tổ
chức quần chúng đấu tranh bằng các khẩu hiệu đấu tranh thích hợp. Chủ
trương chuyển hướng của Trung ương Đảng đáp ứng yêu cầu cơ bản của
quần chúng nên đã dấy lên một cao trào đấu tranh dân chủ rộng rãi trên
toàn Đông Dương. “Chính vì thế nhiệm vụ cấp thiết nhất là phải từ bỏ
Đảng Lập hiến và các nhóm khác, các tổ chức quần chúng, các hội thể
thao, hợp tác, hội sinh viên, hội nhà báo, hội luật gia và hội các nhà văn,
v.v.. Tóm lại, Mặt trận dân tộc phản đế bao gồm tất cả các đảng phái và tất
cả các tầng lớp nhân dân, không phụ thuộc vào dân tộc nào - dù là người
Pháp, người Việt, người Lào hay các dân tộc thiểu số khác, miễn là họ
nhất trí tranh đấu để thực hiện những yêu sách đã được nêu ra trước đây.
2.2.4 Nhận xét chung
Ưu điểm:
- Tạm gác 2 nhiệm vụ chống chống đế quốc và xóa bỏ chế độ phong kiến
sang đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống, chống khủng bố trắng, đòi
thả tù chính trị thành chống đế quốc phát xít, chống nguy cơ chiến tranh,
chống phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Xác
định đúng nhiệm vụ trước mắt phù hợp với tình hình thời bấy giờ.
- Lực lượng tham gia từ chỉ công nhân, nông dân sang tất cả các giai cấp,
các tầng lớp (công nhân, nông dân, trí thức, dân nghèo thành thị) được tập
hợp trong Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
- Dựa trên cơ sở liên minh công nông là "hai lực lượng chính của cách
mạng" để đoàn kết tất cả các giai cấp các đảng phái, các dân tộc các phần
tử phản đế chĩa mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu là đế quốc và
tay sai của chúng. Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công, nông binh
được thay thế bằng khẩu hiệu lập chính quyền dân chủ cộng hoà
Hạn chế:
- Chưa giải quyết những hạn chế của Đại hội Đảng lần thứ nhất.
- Chưa nêu được những khẩu hiệu thích hợp về dân tộc trong lúc còn tạm
gác khẩu hiệu chiến lược đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc cho
các dân tộc Đông Dương. Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông
Dương mà Hội nghị thành lập chưa thích ứng với hoàn cảnh cụ thể của
Đông Dương thời kỳ này. Bởi vì, yêu cầu lịch sử đặt ra lúc này là cần có
một hình thức Mặt trận rộng rãi hơn để tập hợp quần chúng đấu tranh đòi
quyền dân chủ, chống chiến tranh, chống phát xít, bảo vệ hoà bình. Các
Hội nghị Trung ương Đảng sau đó tiếp tục bổ sung và phát triển thêm.

2.3 Chung quanh vấn đề chiến sách mới(10-1936)


- Ngày 30-10-1936, Đảng Cộng sản Đông Dương công bố văn kiện Chung quanh
vấn đề chính sách mới của Đảng. Về nội dung, lực lượng, phạm vi, và đường lối
không thay đổi so với chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7/1936).
Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới Ban Chấp hành Trung ương
cũng đặt ra vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ,
phản đế và điền địa trong cách mạng Đông Dương: cách mạng giải phóng dân tộc
không nhất thiết phải gắn kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. “Nếu phát triển cuộc
đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc đấu tranh phản đế thì phải chọn vấn đề nào quan
trọng hơn mà giải quyết trước”.
- Văn kiện nêu rõ: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định kết chặt với cuộc
cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải
phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế
quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng. Vì rằng tuỳ hoàn cảnh hiện thực bắt buộc,
nếu việc tranh đấu chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết
điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước đánh đổ
đế quốc rồi sau giải quyết vấn đề điền địa, nhưng cũng có khi vấn đề điền địa và phản
đế liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia làm xong mục đích của cuộc
vận lần thứ năm (3-1938) đã đi sâu về công tác tổ chức của Đảng, quyết định chuyển
mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để tập hợp được đông đảo quần
chúng trong mặt trận chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, cơm áo,
hòa bình
2.4 Tiểu kết
Chủ trương đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7-1936)
- Cách mạng ở Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản dân quyền, tạm gác 2 nhiệm
vụ chống chống đế quốc và xóa bỏ chế độ phong kiến chuyển sang đấu tranh chống
chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống nguy cơ chiến tranh, đòi tự do, dân
sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
- Thành lập Mặt trận nhân dân phản đế bao gồm: các giai cấp, dân tộc. Các đảng
phái, các đoàn thể chính trị xã hội. Các tín ngưỡng tôn giáo.
Văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới” (10-1936)
- Chiến sách mới của Đảng dựa trên vận dụng linh hoạt giữa chủ nghĩa Mác –
Lênin. Dựa vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Chiến sách mới của Đảng là chính
sách theo điều kiện hiện thực ở xứ Đông Dương, kinh nghiệm đấu tranh của Đảng,
kết hợp với việc học thêm kinh nghiệm của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm của
cuộc vận động cộng sản thế giới, không phải đem toàn bộ kinh nghiệm, chiến lược
của nước này sang nước khác hoàn toàn mà dựa theo nền tảng có sẵn cộng những thứ
học tập được để phát triển “Chiến sách mới” cho riêng ta. Song song đó khi thực hiện
chiến sách, Đảng vẫn theo dõi , tổng kết kinh nghiệm của từng địa phương để giúp lý
luận phát triển.
- Về nội dung, lực lượng, phạm vi, và đường lối không thay đổi so với chủ trương
đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh (7-1936).
- Đảng đã có thêm nhận thức mới "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải
kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế
quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần
phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng".
- Tóm lại, trong những năm 1936-1939, bám sát tình hình thực tiễn, Đảng đã phát
động được một cao trào cách mạng rộng lớn trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế,
văn hóa tư tưởng với các hình thức đấu tranh phong phú và linh hoạt. Qua cuộc vận
động dân chủ rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao
trong quần chúng, chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng được tuyên truyền
rộng rãi trong khắp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức Đảng được củng cố và mở rộng.
- văn kiện đã khẳng định: “Nhiệm vụ cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đống
Dương là đuổi đế quốc Pháp ra khỏi xứ, tẩy sạch tàn tích phong kiến, Đông Dương
hoàn toàn độc lập! Chủ trương ấy không bao giờ di dịch, nhưng chưa phải là nhiệm vụ
trực tiếp lập tức của Mặt trận nhân dân phản đế trong lúc hiện tại ở Đông Dương, mà
nó là mục đích cuối cùng của Mặt trận nhân dân phản đế” Mà tập trung làm nhiệm vụ
trước mắt. Đây là điểm tích cực của Đảng trong giai đoạn này
- Nhận thức mới giữa vấn đề cách mạng dân tộc và dân chủ. Cái nào giải quyết
trước cái nào giải quyết sau hay đồng thời cả hai. Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc
tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào
quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất,
để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng. Đây là bước đầu
cho thấy Đảng khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị
2.5 So sánh giai đoạn 1930-1935 và 1936-1939

Giai đoạn 30-35 Giai đoạn 36-39


Về kẻ thù Kẻ thù là Đế quốc Kẻ thù là thực dân pháp,
và phát xít, và bè lũ tay sai
phong kiến của chúng

Về nhiệm vụ Chống đế quốc giành Chống phát xít và chiến


độc lập, xoá bỏ chế độ tranh, chống thực dân
phong kiến giành ruộng phản động và đòi tự do,
đất cho dân cày dân chủ, cơm áo hoà
bình
Về mặt trận Bước đầu thực hiện liên Mặt trận nhân dân phản
minh công nông đế đông dương
Về hình thức phương Bí mật, bất hợp pháp. Hợp pháp và nửa
pháp đấu tranh Bạo hợp
động vũ trang như pháp, công khai và
bãi bán công khai
công, chuyển sang
biểu
tình vũ trang

Về lực lượng tham gia Công nhân, nông dân Mọi lực lượng dân chủ,
kể cả những người pháp
có xu hướng chống phát
xít ở Đông Dương, được
tập hợp trong mặt trận
thống nhất nhân dân
phản đế Đông Dương

- Sự khác nhau giữa phong trào 1930 - 1931 và phong trào dân chủ 1936 - 1939
cho thấy do hoàn cảnh thế giới và trong nước khác nhau, nên chủ trương sách lược,
hình thức tập hợp lực lượng và hình thức đấu tranh phải khác nhau mới phù hợp.
Chủ trương của Đảng trong thời kỳ 1936 - 1939 chỉ có tính chất sách lược nhưng
rất
kịp thời và phù hợp với tình hình mới, tạo ra cao trào đấu tranh sôi nổi. Qua đó
chứng tỏ Đảng ta đã trưởng thành, có khả năng đối phó với mọi tình huống, đưa
cách mạng tiến lên không ngừng.
III CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TRONG NHỮNG NĂM (1939 - 1945)
3.1 Hội nghị ban chấp hành trung ương đảng lần VI (11/1939)
Hoàn cảnh triệu tập Hội nghị:
- Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp ở Đông Dương
tiến hành khủng bố Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể quần chúng.
- Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong ba
ngày 6, 7, 8- 11-1939, nhằm giải quyết vấn đề chuyển hướng đường lối và phương
pháp cách mạng trong tình hình mới.
- Đảng ta đã trưởng thành, khi thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, Đảng ta đã kịp
thời chỉ đạo cho các lực lượng cách mạng kịp thời rút vào hoạt động bí mật (1938),
chuyển trọng tâm công tác về nông thôn. Trước những chuyển biến của tình hình thế
giới và trong nước khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Ban chấp hành Trung ương
Đảng cộng sản Đông Dương đã triệu tập Hội nghị lần thứ VI (11/1939) để chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược.
Nội dung của Hội nghị:
- Nhận định kẻ thù: Kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn đế quốc phát xít Pháp Nhật.
- Xác định nhiệm vụ: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp bách
của cách mạng Đông Dương lúc này.
- Khẩu hiệu đấu tranh: Tạm gát khẩu hiệu “Cách mạng ruộng đất”,thay bằng khẩu
hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc,Việt gian chia cho dân cày.
- Mặt trận: Chủ trương thành lập Mặt trân dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương
nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp giai cấp, các dân tộc đông Dương chỉ mũi nhọn
của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xit.
- Hình thức và phương pháp đấu tranh: Dùng bạo lực cách mạng tức là đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa vũ trang.
Nhận xét:
- Đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Đây là sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược đúng đắn. Đảng ta đã giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc, đoàn kết được rộng rãi mọi tầng lớp giai cấp, dân tộc Đông Dương trong một mặt
trận dân tộc thống nhất để đấu tranh chống kẻ thù chung.
- Sự chuyển hướng này đã mở ra một thời kỳ đấu tranh mới, thời kỳ trực tiếp mở
đường tới thắng lợi cách mạng tháng Tám sau này.

3.2 Hội nghị ban chấp hànhTrung ương Đảng lần VII (11-1940)
3.2.1 Nội dung của hội nghị
- Khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của
Hội nghị trung ương Đảng tháng 11-1939; xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc
này là phát xít Nhật và Pháp.
Hội nghị đã cử ra ban chấp hành trung ương lâm thời, phân công đồng chí Trường
Chinh làm quyền bí thư trung ương Đảng, quyết định chắp nối liên lạc với quốc tế
cộng sản và bộ phận của Đảng ở nước ngoài. Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp bách:
- Vấn đề thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du
kích, dùng hình thức vũ trang công tác, xây dựng cơ sở cách mạng, khi cần thiết thì
chiến đấu chống địch khủng bố, tiến tới thành lập căn cứ du kích, lấy vùng Bắc Sơn,
Võ Nhai làm trung tâm do Trung ương trực tiếp chỉ đạo. Đồng chí Hoàng Văn Thụ
chịu trách nhiệm thực hiện.
- Vấn đề thứ hai, sau khi nghe báo cáo về tình hình Nam Bộ, Hội nghị chỉ thị cho
Xứ Ủy Nam Kỳ đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam Bộ vì chưa đủ điều kiện chủ quan
và khách quan bảo đảm giành thắng lợi (quân địch nhiều và mạnh trong khi lực lượng
quân ta yếu, ít, địa hình đồng bằng sông nước kẻ địch có thể huy động các phương tiện
đề đàn áp như máy bay, tàu chiến, xe tăng,...). Đồng chí Phan Đăng Lưu, Ủy viên
Trung ương Đảng được giao nhiệm vụ truyền đạt trương này của Trung ương đến
Đảng bộ Nam Kỳ.
Nhận xét:
- Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về
“Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh
phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện
thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động
đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng
phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”. Tại Hội
nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng
giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế
và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”
- Tại Hội nghị Trung ương 11/1940, Trung ương Đảng vẫn còn trăn trở, chưa thật
sự dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra
tại hội nghị tháng 11/1939.
3.3 Hội nghị Ban Chấp Hành Trung ương lần VIII (5/1941)
3.1.1 Hoàn cảnh triệu tập hội nghị:
- Đầu năm 1941, cuộc chiến tranh Thế giới thứ hai lan rộng, lôi cuốn nhiều dân tộc
trên thế giới tham gia vào cuộc chiến này. Ở Đông Dương, quân Pháp đầu hàng quân
Nhật, đồng thời cấu kết với nhau, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Đông
Dương.
- Sau khi về nước một thời gian, với tư cách là đại biểu Quốc tế Cộng sản, đồng
chí Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941.
3.1.2 Nội dung hội nghị:
- Hội nghị chỉ rõ: Nhân dân Đông Dương phải chịu những hậu quả nặng nề của
cuộc chiến tranh thế giới, vì vậy thái độ chính trị của các giai cấp có thay đổi khá lớn.
Mâu thuẫn chủ yếu phải được giải quyết cấp bách lúc này là mâu thuẫn giữa các dân
tộc Việt Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Hội nghị tán thành Nghị quyết của
các Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, bảy về chuyển hướng chiến lược và sách lược.
- Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt
trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh).
- Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ giai cấp địa chủ, Hội
nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất
cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia
cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức.
- Hội nghị xác định: phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết
liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo
một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi
mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
- Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước Việt Nam,
Lào, Khơ me, thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ mật thiết,
giúp đỡ nhau giành thắng lợi...
3.4 Tiểu kết
- Phản ánh sự nhạy bén của Đảng trước tình hình mới có nhiều thay đổi
- Kế thừa và phát huy cương lĩnh của Hồ Chí Minh
- Hội nghị phát triển hoàn chỉnh chủ trương của hội nghị trung ương 6 và 7 đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Chuyển hướng mới đề ra quyền tự giải quyết dân tộc
- Như vậy từ hội nghị 6 đến 8 Đảng ta dần hoàn thiện quá trình chuyển hướng
chiến lược nhằm mục tiêu độc lập dân tộc, đây là chủ trương đúng đắn trong tình hình
mới.
- Nhiệm vụ giải phóng dân tộc và tập hợp quần chúng, phương pháp cách mạng từ
khởi nghĩa vũ trang và đã đề ra được quyền dân tộc tự quyết.
- Sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Đảng trong giai đoạn mới là hoàn
toàn đúng đắn và đã dẫn đến thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945.
3.5 So sánh giai đoạn 1936-1939 và 1939-1945
Giai đoạn 1936- 1939 Giai đoạn 1939-1945
Kẻ thù Kẻ thù là thực dân pháp, Chống đế quốc Pháp, Nhật
phát xít, và bè lũ tay sai và bè lũ tay sai
của chúng
Nhiệm vụ Chống phát xít và chiến Giải phóng dân tộc
tranh, chống thực dân phản
động và đòi tự do, dân chủ,
cơm áo hoà bình
Về hình thức phương pháp Bí mật, bất hợp pháp. Bạo Dùng bạo lực cách mạng,
đấu tranh động vũ trang như bãi khởi nghĩa vũ trang giành
công, chuyển sang biểu chính quyền
tình vũ trang

Về lực lượng tham gia Mọi lực lượng dân chủ, kể Toàn dân tộc, không phân
cả những người pháp có xu biệt giai cấp, tầng lớp, dân
hướng chống phát xít ở tộc, tôn giáo, đảng phái,
Đông Dương, được tập các cá nhân yêu nước được
hợp trong mặt trận thống tập hợp trong mặt trận việt
nhất nhân dân phản đế nam độc lập đồng minh
Đông Dương ( mặt trận Việt Minh)

Sự khác nhau giữa hai giai đoạn 1939 – 1945 đã khẳng định sự kế thừa, tiếp thu
và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong
tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927) và cương lĩnh chính trị đầu tiên, là bước trưởng
thành vượt bậc của đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng
đường lối cứu nước và là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ
đại trong CMT8 – 1945, lập nên nước Việt Nam.

IV KẾT LUẬN
4.1 Nhiệm vụ cách mạng
Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng
lợi cách mạng tháng tám. Quá trình hình thành chiến lược giải phóng Chủ nghĩa dân
tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện xã hội cụ thể
Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. dưới ách dưới
ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam đã chuyển mình từ một xã hội
thuần phong kiến thành xã hội thuộc địa, tuy tính chất phong kiến còn được bảo tồn
một phần, các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vận động trong quỹ đạo của xã
hội thuộc địa lý. Xung đột giữa các thế hệ hình thành trong lòng xã hội Việt Nam thời
kỳ này các cấp và các nhóm dân tộc có mối liên hệ rất phức tạp với nhau. Xây dựng
đường lối cách mạng đúng đắn là vận dụng lý luận về đường lối mạng vào điều kiện
lịch sử cụ thể của xã hội Việt Nam thời thuộc địa để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản
của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết nhiệm vụ chiến lược, đường lối,
chính sách tập hợp lực lượng, phương vừa là cách mạng giải phóng dân tộc. Từ năm
1930 đến năm 1945, Đảng ta dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bám sát
tình hình thế giới và trong nước, Người đưa ra nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp
cách mạng đúng đắn, phù hợp, lãnh đạo cả dân tộc kết thành một khối để đứng lên đấu
tranh Chiến thắng.
Ngay sau khởi nghĩa, Đảng ta đã lập tức lãnh đạo quần chúng nổi dậy chống
thực dân Pháp và phong kiến qua cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô
Viết Nghệ - Tĩnh. Mặc dù chưa thành công và thực hiện Nước Pháp chìm trong biển
máu nhưng đỉnh cao cách mạng 1930-1931 đã khẳng định sức mạnh sức mạnh của
quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của đảng. Đây là cuộc họp chung bước đầu
chuẩn bị thế và lực cho tổng khởi nghĩa tháng Tám sau đó. Tình hình thế giới và trong
nước sau buổi tổng duyệt lần thứ nhất biến mới. Tại Hội nghị Trung ương (7-1936),
Đảng ta đã ra quyết định Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông
Dương là đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chống phong kiến; Nhiệm vụ tiếp theo
là chống lại chế độ phiến quân phong trào thực dân, chống phát xít, chống chiến tranh
đòi tự do, mưu sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình.
Để thực hiện nhiệm vụ này, Đảng ta quyết định đổi chủ trương, hình thức và
phương pháp cách mạng, kêu gọi các chính đảng, đoàn thể quần chúng, Họ đã cùng
nhân dân hành động và đấu tranh thông qua phong trào dân chủ 1936-1939. Mục tiêu
của phong trào dân chủ là đòi tự do, sinh kế cho người dân, dân chủ, lương thực và hòa
bình. Phương pháp đấu tranh là sự kết hợp giữa công khai và bí mật, hợp pháp và bất
hợp pháp hợp pháp. Để tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh
của “lòng dân”, Đảng Chúng tôi ủng hộ việc thành lập Mặt trận Nhân dân Thống nhất
chống lại Đông Dương. Trước những thay đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và
trong nước kể từ sau chiến tranh, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ngày 6-11-
1939, tại Đại hội Ban Chấp hành Trung ương Đảng VI được triệu tập.
Trên cơ sở phân tích, nhận định tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị đã đề cập tới
việc tận dụng thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền và đề ra đường lối
đấu tranh vũ trang nhằm lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính quyền
cách mạng. Với đường lối cách mạng được đề ra tại Hội nghị Ban Chấp Hành Trung
ương Đảng lần thứ 6, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới - giai đoạn trực
tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang lật
đổ chính quyền thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc và chính quyền về tay
nhân dân.
Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển
hướngchỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng
11/1939.Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược
phảnđế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực
lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là
đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ
xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp –
Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng
dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi
tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được
tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc
lập Đồng Minh.Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung
ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính
trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự
chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy
móc… Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 (tháng 5/1941) là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho
toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam
Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

4.2 Tập hợp lực lượng cách mạng, phạm vi giải quyết dân tộc

4.3 Tổng kết giai đoạn

You might also like